Professional Documents
Culture Documents
Câu 1 Trong cuốn sách Bức xúc không làm ta vô can (NXB Hội Nhà văn, 8,0
2015, tr.35), tác giả Đặng Hoàng Giang có viết: “Người ta đánh đổi mọi
riêng tư thầm kín để chạy theo một quá trình tự trình diễn vô tận, không
có thời điểm hạ màn, với mục tiêu tạo tối đa sự chú ý của người khác. Sự
chú ý là ôxy, và mỗi cái post là một cố gắng để người ta ngoi lên mặt
nước chốc lát, để rồi lại bị làn sóng mới của newsfeed tràn qua nhấn
chìm. Mỗi lần ngoi lên là một lần chống lại cảm giác bị bỏ rơi, bị nằm
ngoài cuộc. Ý nghĩa và sự thành công của một ngày nghỉ, của một chuyến
đi, rộng hơn là của cả cuộc đời, được đo bởi số lượng like”.
Tiếp đó, trong cuốn Thiện, Ác và Smartphone (NXB Hội Nhà văn,
2018, tr.31), Đặng Hoàng Giang lại tiếp tục chia sẻ: “Chúng ta đang sống
trong một thế giới như thế nào? Đây là cuộc cách mạng công nghệ số mà
chúng ta vẫn mong đợi? Ở nơi công cộng, bất cứ hành vi nào của bạn
cũng có thể được ghi lại rồi tái xuất hiện trên Youtube. Tôi không tránh
khỏi cảm giác là chúng ta đã trở thành con sâu cái kiến trong cuộc bể dâu
mang tên internet mà chính chúng ta đã tạo nên. Cái công lý lãng mạn
trên mạng mà tôi từng hy vọng và hình dung ra, ngày càng mang hình
dạng của một thứ công lý của sự cuồng nộ và sự trả thù của đám đông.”
1
Còn theo em, chỉ vì để “chống lại cảm giác bị bỏ rơi, bị nằm ngoài
cuộc” mà con người sẽ trở thành tội nhân - nạn nhân của “một thứ công lý
của sự cuồng nộ và sự trả thù của đám đông” liệu có xứng đáng? Hãy trả
lời câu hỏi trên bằng một bài văn.
* Giải thích, khái quát thực trạng sử dụng, ứng xử trên mạng xã hội
qua 2 đoạn văn bản 1,0
- Đoạn 1: Sử dụng mạng xã hội, tìm cách thu hút sự chú ý của người khác
qua các bài đăng là cách nhiều mà nhiều người chống lại cảm giác cô đơn,
bị bỏ rơi, bị coi là người ngoài cuộc. Bởi thế, sự buồn vui của họ nằm ở
lượng quan tâm của mọi người trên thế giới ảo.
- Đoạn 2: Trong thế giới đa dạng của thông tin, con người trở nên nhỏ bé;
hành xử nhiều lúc không trong khả năng kiểm soát, có lúc trở thành tội
nhân – nạn nhân của một đám đông hỗn loạn, xô bồ.
=> Hai đoạn văn bản đã chỉ ra thực trạng đáng lo ngại của người dùng trên
internet, trên mạng xã hội hiện nay.
Từ thực trạng đó, chỉ có thể có một câu trả lời cho câu hỏi đặt ra ở đề
bài: Chỉ vì để “chống lại cảm giác bị bỏ rơi, bị nằm ngoài cuộc” mà con
người sẽ trở thành tội nhân - nạn nhân của “một thứ công lý của sự cuồng
nộ và sự trả thù của đám đông” là điều không xứng đáng.
* Thí sinh đưa ra câu trả lời thông qua việc bàn luận thực trạng, hậu 3,5
quả, nguyên nhân để khẳng định cách hành xử đó là không xứng đáng:
Bởi vì:
- Cuộc cách mạng công nghệ số đã khiến cho đời sống của tất cả mọi
người không thể thiếu internet, trong đó có việc sử dụng các trang mạng
xã hội. Với nhiều người, xem việc săn sóc, trang trí cho tài khoản của
2
mình là một phần của cuộc sống.
- Rất nhiều người mong muốn mình luôn được chú ý, được theo dõi, quan
tâm. Với họ, được người khác like, share, follow là một niềm hạnh phúc,
là cách để khẳng định mình không cô đơn, không bị bỏ rơi. Thú vui của
họ đôi khi đơn giản ngồi đếm xem bài mình đăng có bao nhiêu like, ai like
mà không quan lắm điều mình chia sẻ có ý nghĩa gì không. Nếu không
được như kì vọng, họ trở nên chán nản. Dần dần, họ bị lệ thuộc vào thế
giới ảo.
- Cũng bởi sự quan tâm và phụ thuộc thái quá nên có những thời điểm
chúng ta trở thành tội nhân – nạn nhân của cuộc sống trên intetnet:
+ Có lúc chúng ta trở thành tội nhân khi hùa theo đám đông hỗn loạn để
phán xét, phỉ báng, đẩy người khác vào con đường cùng. Nhiều người
thành anh hùng bàn phím, buông những lời phán xét mà không thực sự
hiểu mình đang làm gì, nói gì và mình làm vậy có đúng không? Nhiều
người nhân danh tự do ngôn luận, tự cho mình cầm cân công lý, cho phép
mình cái quyền làm nhục người khác bằng ngôn ngữ trên thế giới mạng và
cả bạo lực vật lý trong đời thực. Và thấy hả hê bởi những điều đó. Thực
chất điều đó là không thể chấp nhận bởi hậu quả để lại vô cùng lớn.
++ Cuốn vào những việc đó, nhiều người đánh mất một phần đạo đức của
mình và quay ra vi phạm một cách tầm trọng nhất các chuẩn mực và quy
ước xã hội lẫn pháp luật.
+ + Chúng ta có quyền lên tiếng trước cái xấu, cái ác nhưng không có
quyền chà đạp, làm nhục người khác. Hơn nữa, ai cũng có thể mắc sai
lầm.
+ Có lúc cũng trở thành nạn nhân, bị mọi người dồn đuổi. Giữa thế giới
đa dạng thông tin như hiện nay, mọi lúc mọi nơi chúng ta đều có thể trở
thành tâm điểm trên thế giới mạng. Đôi khi thấy mình trở nên nổi tiếng
một cách bất đắc dĩ hoặc có lúc mình cũng trở thành tâm điểm của sự phỉ
báng vì những điều không đáng. Trạng thái trầm cảm, cảm xúc tiêu cực
ngay tức khắc sẽ xuất hiện. Tệ hại hơn, cái chết có thể đến.
- Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự thờ ơ của nhiều người và
đôi lúc của cả luật pháp; nhiều giá trị bền vững, giá trị thực của đời sống
bị lãng quên; sự im lặng của những người tử tế; sự tác động của đời sống
kinh tế; sự yếu kém về văn hóa ứng xử của nhiều người; sự dồn nén
những bức xúc về các vấn đề trong đời sống
- Chia sẻ, kết nối, thấu hiểu, tha thứ là điều cần cho cuộc sống trở nên tốt
đẹp hơn. Khi chúng đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, ta tha thứ
cho sai lầm của người khác thì chúng ta bớt cô đơn, chúng ta tìm thấy
niềm vui, tâm tính thiện hơn. Khi nhìn bằng con mắt khác, mỗi người sẽ
tự chữa lành những tổn thương hoặc giúp người khác chữa lành, không
còn cuồng nộ theo đám đông nữa.
- Tuy nhiên, có những hiện tượng, những sự việc sẽ chuyển theo chiều
hướng tích cực khi đám đông – là những người tử tế lên tiếng một cách
3
chừng mực, đúng đắn, khách quan.
* Bài học nhận thức, hành động 1,0
- Cần sự điềm tĩnh, không giận dữ thái quá, không cho mình quyền xúc
phạm nhân phẩm người khác, không a dua theo đám đông; không được
lấy việc làm nhục người khác để mua vui.
- Cần ứng xử văn minh trên mạng xã hội, bày tỏ quan điểm rõ ràng, chân
thực, khách quan, tôn trọng người khác.
- Tôn trọng sự riêng tư của người khác và của chính mình. Không phải
điều gì cũng đưa phơi bày trên mạng xã hội.
- Tìm kiếm sự chia sẻ ở những người xung quanh trong cuộc sống hàng
ngày. Xem mạng xã hội chỉ là một phần nhỏ trong đời sống chứ không
phải là tất cả.
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; dẫn chứng tiêu biểu, phù
hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng (4,5 – 5,5 điểm).
- Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng nhưng không có
dẫn chứng hoặc dẫn chứng không tiêu biểu (2,75 – 4.0 điểm).
- Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục: lí lẽ không xác đáng, không
liên quan đến vấn đề nghị luận, không có dẫn chứng hoặc dẫn chứng
không phù hợp (0,5 – 2,5 điểm).
- Thí sinh không trình bày được: 0 điểm.
Câu 2 Trong Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi đã khẳng định: “Làm thơ, ấy 12,0
là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là chữ - để thể hiện
một trạng thái tâm lý đang rung chuyển khác thường”
(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010, tr. 56)
Bằng trải nghiệm về thơ ca, anh/chị hãy bàn luận ý kiến trên.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,5
4
Mở bài nêu vấn đề, Thân bài triển khai vấn đề, Kết bài khẳng định lại
vấn đề.
- Thí sinh bàn luận đầy đủ, sâu sắc: 1,75 - 2,0 điểm.
- Thí sinh bàn luận không đầy đủ, sâu sắc: 1,0 – 1,5 điểm.
- Thí sinh bàn luận chung chung, chưa rõ các biểu hiện: 0,25 – 0,75 điểm.
- Thí sinh không bàn luận: 0 điểm
* Hướng phân tích, chứng minh 5,5
Thí sinh có thể chọn lựa, phân tích một vài bài thơ đã học/ đã biết
trong/ngoài chương trình Ngữ văn THPT để làm sáng tỏ vấn đề. Thí sinh
có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần làm rõ nội dung sau:
+ Chọn lọc phân tích những chi tiết/nội dung làm sáng tỏ vẻ đẹp ngôn ngữ
của thơ ca.
+ Từ đó thể hiện những trạng thái tâm lí rung chuyển khác thường của nhà
thơ được thể hiện trong thi phẩm.
Hướng dẫn chấm:
- Thí sinh phân tích đầy đủ, sâu sắc: 5,0 – 5,5 điểm.
- Thí sinh phân tích chưa đầy đủ hoặc chưa sâu sắc: 3,0 – 4.75 điểm.
- Thí sinh phân tích chung chung, chưa rõ các biểu hiện: 1,5 - 2,75 điểm.
- Thí sinh phân tích sơ lược, không rõ các biểu hiện: 0,25 – 1,25 điểm.
- Thí sinh không phân tích: 0 điểm.
* Bàn luận mở rộng 1,0
- Khẳng định lại giá trị sâu sắc từ ý kiến của NĐT khi đã nêu bật được đặc
trưng của thơ ca nói riêng, văn học nói chung
- Đặt ra yêu cầu đối với người sáng tác: Cần nâng cao năng lực ngôn ngữ
văn chương, không ngừng bồi dưỡng những rung cảm thẩm mỹ, phải gắn
bó và sống “sâu” với cuộc đời; phải dày công sáng tạo, lựa chọn, trau chốt
ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu để tác phẩm thơ thật sự sâu sắc về nội dung,
tư tưởng và đặc sắc về nghệ thuật. Có như vậy mới tạo nên những thi
phẩm có giá trị và sức sống trong lòng bạn đọc
- Định hướng đối với người tiếp nhận: chiếm lĩnh vẻ đẹp thơ ca với mục
đích cuối cùng là phát hiện những thông điệp, tư tưởng mà tác giả muốn
gửi gắm. Tuy nhiên, cần cảm nhận điều đó qua việc phân tích vẻ đẹp ngôn
từ mới có căn cứ và khách quan nhất.
Hướng dẫn chấm:
- Thí sinh bàn luận đầy đủ, sâu sắc: 1,0 điểm.
6
- Thí sinh bàn luận không đầy đủ, sâu sắc: 0,5 – 0,75 điểm.
- Thí sinh bàn luận chung chung, chưa rõ các biểu hiện: 0,25 điểm.
- Thí sinh không bàn luận: 0 điểm.
d. Chính tả ngữ pháp 0,5
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
Hướng dẫn chấm:
Chấm 0 điểm nếu bài làm mắc quá nhiều lỗi chính tả, ngữ pháp.
e. Sáng tạo
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận, có cách diễn đạt mới mẻ. 1,0
Hướng dẫn chấm: Thí sinh biết vận dụng kiến thức lý luận về lao động
sáng tạo của nhà văn, về đặc trưng, bản chất của quá trình sáng tạo của
thơ ca, kiến thức văn học sử… Thí sinh biết lấy các tác phẩm tiêu biểu để
làm rõ vấn đề;để bàn luận vấn đề; văn viết giàu hình ảnh, cảm xúc…
- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên: 1,0 điểm.
- Đáp ứng được 1 yêu cầu: 0,5 điểm.
- Không đáp ứng yêu cầu: 0 điểm.
-------------------HẾT------------------