You are on page 1of 11

1.

Đặc điểm giao tiếp của lứa tuổi thiếu niên (giao tiếp với người lớn)
* Đặc điểm giao tiếp của học sinh trung học cơ sở
a) Giao tiếp với người lớn:
- Ở tuổi thiếu niên xuất hiện một cảm giác rất độc đáo: “cảm nhận mình đã là người lớn”.
Các em cảm thấy mình không còn là trẻ con nữa, nhưng các em cũng có cảm nhận mình
chưa thực sự là người lớn. Cảm nhận về sự trưởng thành của bản thân là nét đặc trưng
trong nhân cách thiếu niên, được thể hiện rất phong phú về nội dung và hình thức. Các
em quan tâm đến hình thức, tác phong, cử chỉ… và những khả năng của bản thân.
- Ở lứa tuổi này, các em có nhu cầu thiết lập mối quan hệ với người lớn và mong muốn
người lớn quan hệ đối xử với mình bình đẳng, không bị coi là trẻ con và người lớn không
can thiệp quá tỉ mỉ vào một số mặt trong đời sống riêng của các em.
- Các em mong muốn cải tổ mối quan hệ này theo hướng hạn chế quyền của người lớn,
mở rộng quyền của các em và phải đảm bảo sự công bằng.
- Các em mong muốn người lớn phải tôn trọng nhân cách, phẩm giá, tin tưởng và mở
rộng tính độc lập của các em. Nguyện vọng muốn được tin tưởng và độc lập hơn, muốn
có quyền bình đẳng nhất định với người lớn có thể thúc đẩy các em tích cực hoạt động,
chấp nhận những yêu cầu đạo đức của người lớn và phương thức hành vi trong thế giới
người lớn. Nhưng mặt khác nguyện vọng này cũng có thể khiến các em chống cự, không
phục tùng những yêu cầu của người lớn.
- Thiếu niên bắt đầu chống đối những yêu cầu mà trước đây các em vẫn thực hiện một
cách tự nguyện. Các em bảo vệ ý kiến của mình không chỉ trong lời nói mà cả trong hành
động.
- Khi người lớn không chịu thay đổi mối quan hệ với các em, thì các em sẽ trở thành
người trực tiếp thay đổi mối quan hệ đó và như vậy, xung đột sẽ xảy ra. Nếu người lớn
thấy sự phản đối của các em, mà không suy xét về phía mình để thay đổi mối quan hệ với
các em, thì sự xung đột của các em với người lớn còn kéo dài đến hết thời kì của lứa tuổi
này Biểu hiện của xung đột đó là các em tỏ ra bướng bỉnh, bất bình, không vâng lời,
không tin tưởng người lớn… Tác động giáo dục của người lớn đối với các em bị giảm
sút.
Có nhiều lý do làm cho người lớn vẫn giữ nguyên mối quan hệ như trước đây đối với các
em: các em vẫn còn là học sinh, vẫn phụ thuộc vào cha mẹ về kinh tế; cha mẹ và giáo
viên vẫn đang giữ vai trò giáo dục các em; hơn thế nữa, ở các em vẫn còn những nét trẻ
con trên khuôn mặt, trong dáng dấp, trong hành vi và trong tính cách. Mặt khác, nhiều
người lớn còn thấy việc tăng quyền hạn và tính độc lập cho thiếu niên là không hợp lý.
- Sự xung đột sẽ không xảy ra khi người lớn và các em xây dựng được mối quan hệ bạn
bè, dựa trên sự tôn trọng, tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau. Sự hợp tác này cho phép người lớn
đặt các em vào vị trí mới - vị trí của người giúp việc và người bạn trong những công việc
khác nhau, còn bản thân người lớn trở thành người mẫu mực và người bạn tin cậy của các
em.
-Trong gia đình, thiếu niên mong muốn được tôn trọng hơn là chiều chuộng.
-Trong nhà trường, thiếu niên vẫn kính trọng thầy cô nhưng không còn sùng bái như thời
học sinh ở tiểu học. Các em muốn được giáo viên giao cho những công việc trọng trách,
quan trọng và tỏ ra khó chịu khi thầy cô làm thay công việc của mình.
- Do gần gũi với người lớn, các em có khuynh hướng học tập người lớn về vốn hiểu biết
hoặc cách cư xử tốt. Tuy nhiên, còn nhiều em chưa biết tìm những mặt tốt trong hành vi
của người lớn để học tập mà bắt chước cả những mặt xấu của người lớn như nói tục, hút
thuốc, uống rượu…
Do vậy, trong mối quan hệ với thiếu niên, người lớn cần :
- Phải tôn trọng tính độc lập và quyền bình đẳng của thiếu niên.
- Người lớn cần xây dựng mối quan hệ với thiếu niên dựa trên cơ sở tôn trọng, giúp đỡ
lẫn nhau.
- Gương mẫu, khéo léo, tế nhị khi tiếp xúc với thiếu niên.
b) Giao tiếp với bạn bè cùng trang lứa
Nhu cầu giao tiếp với bạn bè phát triển mạnh là một đặc điểm quan trọng của tuổi thiếu
niên
- Quan hệ với bạn bè cùng lứa tuổi phức tạp, đa dạng hơn nhiều so với học sinh tiểu học.
Sự giao tiếp của các em đã vượt ra ngoài phạm vi học tập, phạm vì nhà trường, mở rộng
trong những hứng thú mới, những việc làm mới, những quan hệ mới trong đời sống của
các em. Các em có nhu cầu cao trong giao tiếp với bạn bè vì:
- Một mặt, các em khao khát được giao tiếp và cùng hoạt động chung với nhau, có
nguyện vọng được sống trong tập thể, có những bạn bè thân thiết tin cậy. Mặt khác, các
em cũng biểu hiện nguyện vọng không kém phần quan trọng là được bạn bè công nhận,
thừa nhận, tôn trọng mình.
- Học sinh trung học cơ sở cho rằng quan hệ bạn bè cùng tuổi là quan hệ riêng của cá
nhân, các em có quyển hành động độc lập trong quan hệ này, bảo vệ quyền đó của mình.
Các em không muốn người lớn can thiệp quá sâu vào chuyện bạn bè của mình. Nếu có sự
can thiệp thô bạo của người lớn, các em cảm thấy bị xúc phạm, điều này rất có thể các em
chống đối lại.
- Nếu như mối quan hệ của người lớn và các em không hòa thuận, thì sự giao tiếp với bạn
bè cùng tuổi càng tăng và ảnh hưởng của bạn bè đến với các em càng mạnh mẽ.
Sự bất hòa trong quan hệ bạn bè cùng lớp, sự thiếu thốn bạn thân hoặc tình bạn bị phá vỡ
đều sinh ra những cảm xúc nặng nề. Tình huống khó chịu nhất đối với các em là sự phê
bình thẳng thắn của tập thể, của bạn bè; và hình phạt nặng nề nhất đối với các em là bị
bạn bè tẩy chay, không muốn chơi với mình.
- Tình bạn trong đời sống học sinh trung học cơ sở đã sâu sắc hơn. Các em có nhu cầu
giao tiếp và kết bạn với nhau. Các em chi kết bạn với những bạn được mọi người tôn
trọng, có uy tín và tiến bộ rõ rệt về mặt nào đó.
- Lúc đầu phạm vi giao tiếp của các em thường là rộng, nhưng không được bền vững, có
tính chất tạm thời, là thời kì lựa chọn, tìm kiếm người bạn thân.
Về sau những em có cùng hứng thú, cùng yêu thích một loại hoạt động nào đó, thường
gắn bó với nhau. Trong việc chọn bạn, thiếu niên thường yêu cầu cao ở bạn. Điều quan
trọng để kết bạn là tình bạn phải trung thành, thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng, tin cậy lẫn
nhau, quan hệ bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau...
- Phạm vi giao tiếp của các em hẹp lại, nhưng quan hệ của các em gắn bó với nhau hơn,
chịu ảnh hưởng của nhau, dễ lây hứng thú của bạn (có thể trở thành người tốt hoặc ngược
lại). Vì vậy, giao tiếp với bạn là nguồn nảy sinh hứng thú mới. Bạn bè mà các em yêu
thích có thể trở thành hình mẫu đổi với các em, nhất là các bạn có những ưu điểm.
- Trò chuyện với bạn bè giữ một vị trí có ý nghĩa đối với lứa tuổi này, các em thường kể
cho nhau về mọi mặt sinh hoạt, đời sống và suy nghĩ của mình, kể cả những điều "bí
mật". Vì thế các em yêu cầu bạn phải giữ bí mật, đồng cảm cời mờ, hiểu nhau, tế nhị, vị
tha...
- Lí tưởng tình bạn của lứa tuổi này là "sống chết có nhau", "chia ngọt, sẻ bùi" - đây là
cách để các em thâm nhập vào mọi mặt đời sống của nhau. Càng lớn lên sự thâm nhập về
tâm hồn giữa các em ngày càng được phát triển. Đó là sự giống nhau về đời sống nội tâm,
sự hiểu biết nhau, sự trùng hợp về những giá trị của cá nhân, những hoài bảo, quan điểm
trong cuộc sống.
2. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh THPT
Hoạt động học tập và hướng nghiệp là hoạt động chủ đạo của học sinh ở lứa tuổi này.
Hoạt động học tập của lứa tuổi học sinh trung học phổ thông có những đặc điểm khác
biệt cơ bản so với lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
a) Nội dung, tính chất hoạt động học tập
Nội dung, tính chất hoạt động học tập của học sinh trung học phổ thông khác hơn nhiều
so với những lứa tuổi trước. Nội dung hoạt động học tập của học sinh trung học phổ
thông nhiều hơn, khó hơn, phức tạp hơn; đi sâu vào những tri thức cơ bản, những quy
luật của các bộ môn khoa học. Đặc biệt, hoạt động học tập của học sinh trung học phổ
thông đòi hỏi tính năng động và tính độc lập của học sinh ở mức độ cao hơn và trình độ
tư duy lý luận phát triển mới có thể nắm vững bản chất các khái niệm khoa học. Chính vì
vậy, người học cần có sự thay đổi về phương pháp học tập. Mặt khác, hoạt động học tập
của học sinh trung học phổ thông gắn liền với hoạt động hướng nghiệp, do đó, tính phân
hóa trong hoạt động học tập thể hiện rõ hơn, cao hơn lứa tuổi thiếu niên. Những điều này
kích thích, thúc đẩy sự phát triển trí tuệ mạnh mẽ của các em và cũng gây khó khăn cho
không ít học sinh trong hoạt động học tập.
b) Động cơ học tập
Động cơ học tập của học sinh trung học phổ thông đã được hình thành một cách rõ nét,
phong phú, có cấu trúc phức tạp và phát triển gắn liền với động cơ lựa chọn nghề nghiệp.
Hệ thống động cơ học tập đã được phát triển hoàn thiện và bền vững hơn trước. Ở lứa
tuổi này xuất hiện các loại động cơ học tập, như động cơ hoàn thiện tri thức, động cơ
quan hệ xã hội (học để có địa vị xã hội, học để phục vụ xã hội, học để thi đỗ vào trường
đại học…). Trong đó, có ý nghĩa nhất là động cơ thực tiễn (ý nghĩa thực tiễn của môn học
đối với cá nhân, khả năng tiếp thu môn học của các em...), động cơ nhận thức, sau đó là ý
nghĩa xã hội của môn học...
c) Thái độ học tập
Học sinh càng trưởng thành, kinh nghiệm sống càng phong phú, các em càng ý thức được
rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời. Do vậy, các em tích cực, tự giác
hơn trong học tập. Thái độ học tập của học sinh đối với các môn học trở nên có tính lựa
chọn hơn. Điều này gắn liền với việc lựa chọn nghề nghiệp. Những môn học liên quan
đến việc lựa chọn nghề nghiệp thường được các em tập trung vào nhiều nhất.
Như vậy, một mặt các em rất tích cực học tập những môn mà các em cho là quan trọng
đối với nghề mình đã chọn, mặt khác các em lại sao nhãng các môn học khác hoặc chỉ
học để đạt điểm trung bình. Tất cả những điều đó có thể dẫn đến không chỉ giảm sút kết
quả học tập nói chung mà còn ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách thanh niên.
d) Hứng thú học tập
Hứng thú học tập của học sinh trung học phổ thông mang tính chất rộng, sâu và bền vững
hơn học sinh trung học cơ sở. Ở lứa tuổi này, hứng thú học tập ổn định, đặc thù đối với
một khoa học, một lĩnh vực hoạt động nhất định, vì thế mà nó thường dẫn đến sự hình
thành xu hướng nhận thức nghề nghiệp của cá nhân, quy định việc lựa chọn nghề nghiệp
của các em. Hứng thú học tập đối với các môn học thường liên quan đến việc chọn nghề
nhất định của học sinh. Tuy nhiên, một số thanh niên chưa có biểu hiện hứng thú rõ rệt
với các môn học cụ thể; một số khác hứng thú với thể thao, văn nghệ, hoạt động thực tiễn
hơn là học tập.
3. Động cơ học tập là gì? Các loại động cơ học tập? Làm thế nào hình thành động cơ
học tập cho người học
KN: Động cơ học tập của học sinh là hợp lực giữa sự thúc đẩy bởi động lực học, trong đó
nhu cầu học là cốt lõi với sự hấp dẫn, lôi cuốn của đối tượng học mà học sinh thấy cần
chiếm lĩnh để thỏa mãn nhu cầu học của mình
a) Động cơ hoàn thiện tri thức hay còn gọi là động cơ bên trong
Động cơ này được biểu hiện là học sinh có nhu cầu mở rộng tri thức, có nhu cầu hiểu biết
nên các em say mê giải quyết những nhiệm vụ học tập... Mỗi lần khám phá được tri thức
mới các em cảm thấy nguyện vọng hoàn thiện tri thức của mình được thực hiện một phần.
Nguyện vọng hoàn thiện tri thức được hiện thân ở đối tượng hoạt động học được gọi là
động cơ hoàn thiện tri thức.
Động cơ này bao gồm:
● Động cơ mang tính chất nội dung (gắn liền với mong muốn tìm hiểu điều mới, làm
chủ tri thức, đi sâu vào bản chất của sự vật hiện tượng).
● Động cơ mang tính chất quá trình (gắn liền với quá trình học tập, nảy sinh khi học
sinh có khát vọng thể hiện tính tích cực trí tuệ của mình, cố gắng vượt qua khó
khăn trở ngại)
Hoạt động học được thúc đẩy bởi động cơ hoàn thiện tri thức đòi hỏi học sinh phải có sự
nỗ lực ý chí để khắc phục những khó khăn trở ngại bên ngoài có thể xuất hiện trong tiến
trình học tập.
b) Động cơ quan hệ xã hội hay còn gọi là động cơ bên ngoài
Động cơ này được nảy sinh, liên quan đến hệ thống các mối quan hệ giữa người học với
hiện thực khách quan. Trong trường hợp này những những mối quan hệ xã hội của cá
nhân được hiện thân ở đối tượng học tập nên được gọi là động cơ quan hệ xã hội.
Động cơ này bao gồm:
● Động cơ xã hội rộng lớn ( học để phục vụ đất nước, nghề nghiệp tương lai...)
● Động cơ danh vọng ( đứng đầu lớp, chỉ huy, uy tín...)
● Động cơ cầu thị (muốn nhận được sự khen thưởng của cha mẹ, nhà trường, thầy cô
giáo...)
● Động cơ tiêu cực ( nhằm mục đích tránh sự khó chịu của cha mẹ, thầy cô giáo, nhà
trường...) các em học vì động cơ này thì kết quả, chất lượng học tập không làm các
em quan tâm.
Hoạt động học tập được thúc đẩy bởi động cơ quan hệ xã hội ở mức độ nào đó mang tính
ép buộc và có những lực chống đối nhau. Vì thế, nó gây ra những căng thẳng tâm lý đòi
học sinh phải có sự nỗ lực bên trong, đôi khi có cả sự đấu tranh với chính bản thân mình.
Khi có xung đột gay gắt học sinh thường có những hiện tượng vi phạm nội quy, thờ ơ với
học tập hay bỏ học…
c) Hình thành động cơ học tập
Tóm lại, cả hai loại động cơ học tập trên đều được hình thành ở học sinh, chúng được tạo
thành một hệ thống được sắp xếp theo thứ bậc của hệ thống các động cơ. Động cơ học tập
không có sẵn và ta cũng không thể áp đặt mà nó được hình thành dần trong quá trình học
sinh đi sâu vào chiếm lĩnh đối tượng học tập dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Vì
vậy, muốn hình thành động cơ học tập của học sinh chúng ta cần phải khơi gợi ở các em
nhu cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học tập, đó chính là yếu tố kích thích
tính tích cực hoạt động. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học thì nội dung và phương
pháp dạy học có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành động cơ học tập.
4. Sự phát triển trí tuệ là gì? Các chỉ số sự phát triển trí tuệ. Cho ví dụ
a) Sự phát triển trí tuệ là gì?
- Sự phát triển trí tuệ là sự thay đổi về số lượng và chất lượng trong hoạt động nhận thức.
Sự phát triển trí tuệ được hình thành trong hoạt động nhận thức (sự phát triển trí tuệ tốt
hay không tốt thì nó phụ thuộc vào mức độ của quá trình nhận thức).
Sự thay đổi đó được thể hiện ở hai mặt:
+ Cấu trúc cái được phản ánh ( hệ thống tri thức).
+ Phương thức cái được phản ánh ( cách thức, phương pháp mới).
Hai mặt trên có liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó, sự phát triển trí tuệ cần được hiểu là
sự thống nhất giữa việc vũ trang tri thức và việc phát triển một cách tối đa phương thức
phản ánh chúng - con đường, cách thức giành lấy tri thức đó.
b) Các chỉ số của sự phát triển trí tuệ
Sự phát triển trí tuệ biểu hiện ở các chỉ số sau đây:
- Tốc độ của sự định hướng trí tuệ (sự nhanh trí) khi giải quyết các nhiệm vụ, các bài tập,
tình huống... không giống với bài tập mẫu, nhiệm vụ, tình huống quen thuộc.
- Tốc độ khái quát hóa (chóng hiểu, chóng biết). Tốc độ này được xác định bởi số lần
luyện tập cần thiết theo cùng một kiểu để hình thành một hành động khái quát hóa.
- Tính tiết kiệm của tư duy. Được xác định bởi số lần các lập luận cần và đủ để đi đến kết
quả, đáp số.
- Tính mềm dẻo của trí tuệ, thể hiện ở các kỹ năng như:
+ Kỹ năng biến thiên cách giải quyết vấn đề phù hợp với biến thiên của điều kiện.
+ Kỹ năng xác lập sự phụ thuộc những kiến thức đã có sang một trật tự khác ngược với
hướng và trật tự đã tiếp thu.
+ Kỹ năng đề cập cùng một hiện tượng theo những quan điểm khác nhau
- Tính phê phán của trí tuệ, thể hiện ở chỗ không dễ dàng chấp nhận, không kết luận một
cách không có căn cứ, không đi theo đường mòn, nếp cũ...
- Sự thấm sâu vào tài liệu, sự vật, hiện tượng nghiên cứu thể hiện rõ ở sự phân biệt giữa
cái bản chất và không bản chất, cái cơ bản và cái chủ yếu, cái tổng quát và cái bộ phận….
5. Năng lực sư phạm của người giáo viên
*Năng lực chế biến tài liệu học tập người giáo viên
Năng lực chế biến tài liệu là năng lực gia công về mặt sư phạm của giáo viên đối với tài
liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi, của từng cá
nhân học sinh, phù hợp với trình độ, kinh nghiệm của học sinh và đảm bảo logic sư
phạm.
a) Biểu hiện:
- Trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình,
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức mới và chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa
kiến thức cũ và kiến thức mới, kiến thức bộ môn này với kiến thức bộ môn khác, liên hệ
vận dụng vào thực tế.
- Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn và
giàu cảm xúc và sáng tạo.
- Học tập được kinh nghiệm của giáo viên khác và đúc kết kinh nghiệm cho mình.
b) Yêu cầu:
- Giáo viên phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu dùng để dạy cho học sinh, xác lập được
mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình với trình độ nhận thức của học sinh.
- Giáo viên phải biết chế biến tài liệu cho phù hợp với logic sư phạm và vừa phù hợp với
trình độ nhận thức của học sinh.
- Giáo viên phải có khả năng phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa kiến thức.
- Phải có sự sáng tạo khi chế biến và trình bày tài liệu học tập.
*Năng lực hiểu học sinh
Năng lực hiểu học sinh là khả năng xâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ, là sự hiểu
biết trường tận về nhân cách của chúng cũng như khả năng quan sát tinh tế những biểu
hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục
a) Biểu hiện
- Giáo viên phải biết xác định được khối lượng, mức độ, phạm vi kiến thức đã có ở học
sinh, từ đó xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày cho học sinh.
- Phải dự đoán được những thuận lợi và khó khăn, xác định đúng đắn mức độ căng thẳng
ở học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ học tập
- Giáo viên có khả năng quan sát tinh tế và có thể xây dựng những biểu hiện chính xác về
lời giảng của mình đã được học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào.
- Khả năng hiểu học sinh ở người giáo viên thể hiện ở hai mức độ: Mức độ thấp là thông
qua câu trả lời và làm bài tập của học sinh. Mức độ cao là thông qua những tiếng xì xào,
ánh mắt, sắc mặt…
Vì vậy, muốn hiểu học sinh thì người giáo viên phải luôn quan tâm gần gũi học sinh với
tình thương và trách nhiệm. Giáo viên phải nắm vững kiến thức chuyên môn cũng như sự
hiểu biết đầy đủ về tâm lý của trẻ và kết hợp với những phẩm chất tâm lý cần thiết.

You might also like