You are on page 1of 33

TÂM THẾ

NHÀ TRỊ LIỆU


TLG: LÊ KHOA VÀ ĐỖ KHÁNH
THE PASSION PSYCHOLOGY
Nội dung
1. Thế nào là một nhà tâm lý thực hành tham vấn và trị liệu
2. Tâm thế là gì?
3. Tâm thế của nhà trị liệu
4. Một vài điểm hay về nhà trị liệu của Lacan
THẾ NÀO LÀ MỘT NHÀ TÂM
LÝ THỰC HÀNH THAM VẤN
VÀ TRỊ LIỆU? Tham vấn Trị liệu

Tập trung vấn đề Tập trung cá nhân


Ngắn hạn Dài hạn
Giải quyết vấn đề cá nhân Đi sâu vào các rối loạn tâm lý
Giáo dục, định hướng Xuất phát lâu đời
coaching

 Tạo động lực, đi sâu vào tiềm năng bản


thân
 Giáo dục
 Tham vấn – Counseling: tập trung
vào vấn đề, thời gian ngắn, cấp bách,
thường không dùng để làm việc với
các rối loạn.
 Trị liệu – Therapy: tập trung vào cá
nhân, thời gian dài (có thể tính bằng
năm), thường ứng dụng để làm việc
với các rối loạn.
 Quá trình diễn ra, các kỹ năng (lắng
nghe, đặt câu hỏi, phản hồi,…) giống
nhau, khác nhau về mặt gian.
Tham vấn (trị liệu) là ……
Nhà trị liệu là
2. TÂM THẾ LÀ GÌ?
Theo từ điển tâm lý học của Vũ Dũng:
 Trạng thái sẵn sàng bên trong của chủ thể hướng tới một hoạt động nhất định.
 Tâm thế là cơ sở của tính tích cực, hành vi có lựa chọn của chủ thể.
 Tâm thế là một hình thức phản ánh độc đáo hiện thực, trong đó nhu cầu và hoàn
cảnh thỏa mãn nhu cầu được hòa lẫn và thống nhất với nhau.
 Tâm thế có đặc tính: bền vững, cơ động, ổn định và có tác dụng định hướng các
quá trình tâm lý, sinh lý trong cở thể theo 1 cách nhất định.
 Có các loại: tâm thế ý thức - không ý thức; tâm thế tạm thời – bền vững; tâm thế
tích cực – tiêu cực.
2. TÂM THẾ NHÀ TRỊ LIỆU
Sẵn sàng như thế nào khi các bạn chọn con đương này?
Sẵn sàng như thế nào khi đã trãi nghiệm qua các môn học và các lần thực tập?
Sẵn sàng đồng hành cùng thân chủ
Quan sát những gì nổi lên bên trong tâm trí khi trị liệu
Dũng cảm
Biết nhận lỗi
SẴN SÀNG TRÊN CON ĐƯỜNG TRỞ
THÀNH NHÀ THAM VẤN
 Mục đích bản thân chọn để làm một nhà tham vấn.
 Mong muốn của bản thân trở thành một nhà tham vấn như thế nào?
 Thuận lợi và bất cập của bản thân là gì? Nguồn lực?
SẴN SÀNG QUA CÁC CHƯƠNG
TRÌNH ĐÀO TẠO
 Lý thuyết nào sẽ là nền của bạn của bản thân?
 Kiến thức của bản thân về lý thuyết nền?
 Kiến thức thực tiễn của tôi như thế nào?
 Khả năng tự nghiên cứu của bản thân?
TÂM LÝ LÀ KHOA HỌC
SẴN SÀNG ĐỒNG HÀNH CÙNG
THÂN CHỦ
 Lo lắng trước khi thân chủ tới
 Chuẩn bị như thế nào?
 Nhận xét đầu tiên về thân chủ, những
quan điểm cá nhân trên thân chủ.
 Những cảm nhận của bản thân trong
buổi gặp tiếp theo?
QUAN SÁT BẢN THÂN TRONG
PHIÊN TRỊ LIỆU
 Cảm xúc nào đang có hiện tại?
 Những cơn đau.
 Những lần lỡ lời.
 Sự buồn ngủ.
 Điều gì đụng chạm tới những cảm xúc đó.

 Tư thế làm việc.


 Tác phong làm việc (tóc tai, quần áo)
SẴNG SÀNG LÀM VIỆC VỚI
BẢN THÂN
 Nhà trị liệu là không thể ”sạch”, vì những kích thích đổ dồn bên
ngoài và sự phòng vệ của cái tôi luôn diễn ra để kiềm nén các năng
lượng xung năng.
 Dấn thân vào những buổi trị liệu cá nhân.
 Dũng cảm chấp nhận những dồn nén.
Nên tập ghi lại cảm nhận và kích thích (từ đó dần tìm ra biểu tượng).
 Nhận lỗi sai trong phiên trị liệu và tha thứ cho bản thân.
II. GÓC NHÌN CỦA LACAN VỀ
NHÀ TRỊ LIỆU
”Cần bao nhiêu nhà trị liệu để thay một cái bóng đèn
Chỉ cần một, nhưng bóng đèn phải muốn thay đổi”
_ Đây là quan niệm chung hầu hêt của chúng ta, rằng thân chủ phải
có mong muốn được chữa lành, được thoát khỏi triệu chứng.
_ Và nếu như tiến trình trị liệu không thành công, thì quả nhiên là do
ý chí của thân chủ hầu hết không đủ mạnh và nhiệt thành.

Tạo thành một gánh nặng lên vai thân


chủ
 Một đặc điểm cơ bản của các triệu
chứng: chúng cung cấp sự hài lòng về mặt
này hay mặt khác, mặc dù nó có thể
không rõ ràng đối với những người quan
sát bên ngoài hoặc thậm chí đối với cá
nhân mắc các triệu chứng (SE XVI, 365-
366). 

 Ở một mức độ nào đó, cá nhân thích thú


với các triệu chứng của mình. Thật vậy,
đây là cách duy nhất mà cá nhân biết làm
thế nào để có được sự sự thỏa mãn
(enjoyment). 
 Trong phần lớn các trường hợp, mọi người bắt đầu trị liệu vào
những thời điểm khủng hoảng, vào những thời điểm mà chế độ hoạt
động thông thường của họ đang bị phá vỡ. 
 Như Freud nói, nếu các triệu chứng mang lại sự thỏa mãn thay thế,
thì những thứ thay thế này không phải lúc nào cũng hoạt động mãi
mãi. 
 Họ có thể xung đột với xã hội, với sự khoan dung của những người
thân yêu, với sự nóng nảy của sếp, hoặc với kỳ vọng của chính cá
nhân đó. Mọi người có xu hướng tìm kiếm trị liệu khi sự hài lòng
bởi các triệu chứng của họ mang lại không còn nhiều, khi nó bị đe
dọa bởi những người khác, khi nó suy yếu nhanh chóng hoặc bị các
yếu tố khác lấn át.
 ”Sự hài lòng" có lẽ là một thuật ngữ quá
"sạch sẽ" hoặc ”rõ ràng” để mô tả khi các
triệu chứng khoái cảm mang lại. 
 Tất cả chúng ta đều biết những người
luôn phàn nàn về việc họ không hài lòng
trong cuộc sống, nhưng họ không bao giờ
tìm kiếm liệu pháp. Điều này là do họ đạt
được sự hài lòng nhất định từ chính sự
không hài lòng của họ, và từ việc phàn
nàn rằng lỗi ở người khác.
 Vì vậy, một số người nhất định có được
rất nhiều khoái cảm từ việc tự hành hạ
bản thân, từ việc phục tùng bản thân
trước những trải nghiệm đau đớn, v.v. 
 Người Pháp có một mỹ từ để chỉ loại khoái cảm trong đau đớn, hay
thỏa mãn khi không hài lòng: jouissance. 
 Hầu hết mọi người phủ nhận việc đạt được niềm vui hoặc sự hài lòng
từ các triệu chứng của họ, nhưng người quan sát bên ngoài thường có
thể thấy rằng họ thích thú với các triệu chứng của họ.
 Thuật ngữ" jouissance "thể hiện một cách độc đáo khái niệm về “sự
thỏa mãn” bằng bất kỳ phương tiện nào cần thiết, dù sạch sẽ hay bẩn
thỉu.
 Vậy tại sao họ lại (đủ khả năng) thực sự cố gắng để từ bỏ sự hài lòng
duy nhất của mình trong cuộc sống?
 Theo quan điểm của Freudian /
Lacanian, rõ ràng là nhà trị liệu
không thể dựa vào một số loại "ý chí
để trở nên tốt hơn" của thân chủ hay
một loại "mong muốn thay đổi thực
sự." Không có chuyện đó.
 Thật vậy, thân chủ thường đi trị liệu
vì họ không còn ý chí sống, không
thể làm được gì cả, Libido của họ bị
bóp nghẹt và khô héo, ham muốn
của họ đang chết. 
 Làm thế nào sau đó nó có thể đóng
vai trò là nguồn lực của sự thay đổi?
 Nếu có ”sự mong muốn” như một nguồn lực
trong tiến trình trị liệu, thì nó phải nằm ở nhà trị
liệu.
 Bình thường các nhà trị liệu không tỏ ra mong
muốn của mình với thân chủ, và chúng ta có cụm
từ “Đó là quyền của thân chủ”.
 Hoặc khi thân chủ không tới các buổi trị liệu,
hoặc dừng ngang tiến trình trị liệu, một số tâm lý
gia sẽ cảm thấy bị tổn thương và có xu hướng tự
an ủi “Chúc bạn mau khỏi bệnh”.
 Hoặc cảm thấy có lỗi và tự ti.
 Mong muốn được chũa lành của bệnh nhân là
có, nhưng tại một số thời điểm nó phải được
giảm xuống hoặc biến mât, thì những xung
đột cơ bản hình thành các triệu chứng mới bị
ảnh hưởng.
 Đúng là thân chủ có quyền hợp pháp để
ngừng đến, và đúng là trị liệu viên có thể đã
làm điều gì đó ngu ngốc (stupid) khiến thân
chủ rời bỏ quá trình; nhưng trong phần lớn
các trường hợp, thân chủ tìm lý do để rời đi.
 Thân chủ có xu hướng bỏ qua các buổi điều
trị hoặc thậm chí bỏ dở liệu pháp khi họ cảm
thấy rằng họ đang được yêu cầu từ bỏ hoặc
hy sinh điều gì đó mà họ chưa được chuẩn bị
để thực hiện. (vô thức)
 Mong muốn của nhà trị liệu, không phải của thân chủ, chính là yếu tố cho phép thân chủ ở lại.
(sự ở lại)
 Ngay cả những biểu hiện rất tinh tế về mong muốn của nhà phân tâm cũng có thể đủ để giữ
một số bệnh nhân tiếp tục điều trị khi họ không còn ý chí tiếp tục. 
 Câu nói "Tôi sẽ gặp lại bạn vào ngày mai (buổi kế tiếp)" của nhà phân tâm có thể đủ để đưa
một số bệnh nhân trở lại mặc dù họ tin rằng họ không còn gì để nói và cảm thấy bế tắc hoặc
cảm thấy vô lý khi đến và nghĩ rằng họ làm tâm lý gia nhàm chán, nhưng yêu cầu của nhà tâm
lý giúp họ quay lại và cho phép họ vượt qua vũng lầy của tình trạng dồn nén đầy ắp của các
xung năng.
 Đa số thân chủ yêu cầu (vô thức) một cách mạnh mẽ hơn nhiều
phương thức mà nhà trị liệu thể hiện sự mong muốn của mình để
vượt qua sự thoái lui và né tránh của mình.
 Nhà phân tâm được yêu cầu phải ”đóng vai” mà không nhất thiết
phải bộc lộ cảm xúc thật sự của mình, dù cho họ có chán hoặc ghét
thân chủ. Điều này chỉ làm thân chủ rời khỏi quá trình, hoặc tự tỏ ra
hài lòng và hợp tác cách “gỉa trân” với NTL.
 TLG phải duy trì một vị trí mong
muốn để TC nói chuyện, mơ, tưởng
tượng, liên tưởng và diễn giải - bất kể
họ có thể có bất kỳ sự không thích nào
đối với bệnh nhân. 
 TLG được yêu cầu duy trì cùng một vị
trí, cùng một mong muốn có định
hướng phân tích nghiêm ngặt.
 Trong trường hợp TLG có phản
chuyển cảm, Lacan khuyến nghị nên
tạm gạt nó sang một bên và tập trung
vào thân chủ.
 Mong muốn của TLG là một “mong muôn thuần khiết”, là mong muốn tập
trung vào phân tích và chỉ phân tích.
 "Mong muốn của TLG" không phải là để bệnh nhân khỏe hơn, thành công
trong cuộc sống, hạnh phúc, hiểu bản thân họ, để đi học trở lại, đạt được
những gì họ muốn.
 Đó là một mong muốn ngầm ẩn, mà TLG không nói cho TC biết rằng TLG
muốn TC nói hoặc làm gì. Những người nhiễu tâm thường hăng hái đi tìm
hiểu mong muốn của người khác để đáp ứng hoặc gây cản trở.
 "Mong muốn của TLG"
là một loại mong muốn
thuần túy không tập trung
vào bất kỳ đối tượng cụ
thể nào, không thể hiện
cho thân chủ những gì
nhà phân tích muốn ở họ
- mặc dù TC hầu như
chắc chắn sẽ cố gắng đọc
một mong muốn cụ thể
ngay cả khi sự can thiệp
hoặc giải thích nhỏ nhất.
 Là mong muốn đi đúng hướng, nhấn mạnh mọi biểu hiện của vô
thức (ngay cả khi nó làm gián đoạn điều gì đó mà TLG muốn nghe,
ngay cả khi nó dường như không phù hợp với những gì NTL đã
quản lý để hiểu cho đến nay), và do đó chỉ ra cho TC biết diều mà
họ mong đợi khi trị liệu, mà không cần TLG kiến nghị có một
chương trình làm việc nhất định và cố gắng hướng dẫn thân chủ nói
hoặc làm điều gì đó cụ thể.

You might also like