You are on page 1of 16

Các dân tộc ở VIỆT NAM

DÂN TỘC

BA NA

DOLOR SIT AMET


NỘI DUNG
I.Đặc điểm chung
II.Hoạt động kinh tế
III.Văn hóa vật chất
IV.Văn hóa xã hội
v. Phong tục tập quán
I.ĐẶC ĐIỂM CHUNG
1. Ngôn ngữ, ngữ hệ - Dân tộc
2. LỊCH SỬ
 -Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc
đáo ở đây.
 - Cư trú chủ yếu ở vùng Trung Trung Bộ, ven dải Trường Sơn và Tây Nguyên, các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Bình Định,
Phú Yên… - Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực: văn hóa, xã hội ở các
cao nguyên miền Trung nước ta.

3. DÂN SỐ
-Có dân số 174.456 người đến năm (2003). Và có dân số 227.716 người vào năm 2009.
II. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ

Ngoài ra con có các hoạt động đánh cá, săn bắt hái lượm và trao đổi hàng hóa...
III. VĂN HÓA VẬT CHẤT
1. Nhà ở và công trình kiến trúc.
-Nhà ở: Người Bana ở nhà sàn (hnam). Trước
đây khi chế độ gia đình lớn còn thịnh hành, ở
vùng người Ba Na sinh sống thường có
những căn nhà dài hàng trăm mét, tuy nhiên
hiện nay chế độ gia đình lớn không còn nữa,
mô hình các gia đình nhỏ với những căn nhà
sàn gọn gàng xuất hiện ngày càng nhiều. Nhà
sàn ngắn của các gia đình nhỏ là phổ biến.
Nhà sàn thường dài từ 7m đến 15m, rộng từ
3m-4m, cao từ 4m-5m, sàn cách mặt đất
khoảng 1m đến 1,5m.
-Công trình kiến trúc: Nhà Rông
Ở mỗi làng có một nhà công cộng
là nhà Rông to, đẹp ở giữa làng.
Nhà rông cao lớn và đẹp đứng nổi
bật giữa làng, đó là trụ sở của
làng, nơi các già làng họp bàn việc
công, nơi dân làng hội họp, nơi
trai chưa vợ và góa vợ ngủ đêm,
nơi tiến hành các nghi lễ phong
tục của cộng đồng và cũng là nơi
tiếp khách lạ vào làng.
Quá trình làm nhà Rông:
- Được thực hiện trong vòng 7 ngày:
+ ngày đầu đục cột và đẽo cột
+ ngày 2 đào lỗ, chôn cột, dựng cột, đặt xà ngang và kèo
+ ngày ba và ngày tư làm nóc, mái, phên vách, ván sàn
+ ngày năm dựng các giàn giáo
+ ngày bảy làm sàn nhà, sàn lộ thiên và cầu thang lên xuống
2. Trang phục, ẩm thực, trang sức,
phương tiện di chuyễn:
-Trang phục : Y phục của dân tộc Ba Na
do đồng bào tự túc từ khâu trồng bông
dệt vải đến khâu cắt may. Bộ y phục
truyền thống của nam giới thường có
khố, áo, còn bộ y phục của nữ giới bao
gồm váy dài quá đầu gối, áo chui đầu
(không xẻ trước ngực), cài cúc trên vai.
Mầu nền y phục là mầu chàm. Hoa văn
trên váy, áo, khố chủ yếu là hoa văn dệt
bằng chỉ đỏ, do đó mô típ hoa văn là
những đường chỉ đỏ thẳng nằm ngang
trên váy, áo phụ nữ.

Y Phục dân tộc Ba Na, Bình Định,


1970
- Ngày thường, đàn ông Bana ở trần. Vào
ngày lễ hội hoặc giá lạnh,
đàn ông Bana mặc áo cộc tay, chui đầu,
cổ vuông hay cổ khoét, tạo
thành bởi hai tấm vải khâu ở vai và sườn,
còn gọi là áo pông xô. Toàn
bộ áo màu chàm, chỉ có một đường hoa
văn đỏ-trắng chạy theo gấu
áo.
Trang sức của dân tộc Ba Na có khuyên tai, vòng tay, vòng chân
Ẩm thực của dân tộc Ba Na có nhiều nét chung với các dân tộc Tây Nguyên. Đồng bào thích ăn cơm tẻ, thức ăn
thường là rau xanh. Trong các dịp lễ tiết, lễ hội, lúc nào cũng có thịt lợn, gà, trâu.

Mâm cơm giản dị của người Bana Nấu cơm lam từ thứ gạo ngon nhất, gạo kon
Phương tiện di chuyễn:

Cư dân miền núi nói chung và người dân tộc


Ba Na nói riêng chọn cách vận chuyển hàng
bàng cách dùng chiếc gùi đeo trên lưng. Một
số dân tộc ở Tây Nguyên còn dùng voi để thồ
hàng, kéo gỗ. Chiếc gùi được đan bằng nan lồ
ô (tre).
Dân tộc Ba Na sử dụng voi để giúp người vận
chuyển những hàng nặng như gồ, hoặc vào vụ
mùa thu hoạch dùng voi chuyển thóc từ trên
nương về nhà. Việc sử dụng voi không mang
tính phổ biến, vì nuôi voi tốn kém và mất
nhiều công sức

Chiếc gùi
IV: VĂN HÓA TINH THẦN
 Với quan niệm vạn vật hữu linh, nên từ xa xưa người Ba Na tin rằng họ sống giữa một thế giới có thần linh. Tất cả mọi
việc liên quan đời sống hàng ngày đều được người Ba Na cho rằng đang có thần cai quản, trông nom.Những lực lượng
thiên nhiên và siêu nhiên này đã tác động vào mọi mặt đời sống tâm linh của họ, được họ chia thành hai bậc khác nhau
(Thượng đẳng thần và Hạ đẳng thần) và làm lễ chiêm bái hàng năm.
 Một số vị thần (Yàng) trong tín ngưỡng người Ba Na:

1.Bok Glaih (Thần sấm sét) 2. Yàng Xơri (Thần lúa): 3. Yàng Xatok (Thần ghè)

You might also like