thể và phá vỡ sọ đầu của thai nhi trước khi hút bộ phận thai nhi đó ra khỏi tử cung. KHÁC BIỆT VĂN HÓA = “TƯƠNG ĐỐI ĐẠO ĐỨC”? -bán những cơ phận của những người tù Trung Quốc -cắt âm vật của phái nữ trong các bộ lạc Phi Châu -việc ăn thịt chó và những thú nuôi KHÁC BIỆT VĂN HÓA = “TƯƠNG ĐỐI ĐẠO ĐỨC”? Chúng ta có nên thinh lặng hoặc lên tiếng về những vấn đề này? Sự kiện là các cộng đồng quốc tế đặt vấn đề về những phong tục này: dù tôn trọng các khác biệt về văn hóa, nhưng chúng ta vẫn không nhìn nhận thuyết tương đối như hậu quả tất yếu của khác biệt đó. HÌNH THỨC ĐÚNG ĐẮN CỦA THUYẾT TƯƠNG ĐỐI ĐẠO ĐỨC
Lý luận “đạo đức là tương
đối” phải hội đủ 2 điều kiện: a. Tương đối: có nhiều thực thể khác nhau, không thể bị đồng hóa với nhau, và không thể được giản lược thành một thực thể. b. Các hệ thống đạo đức không tương hợp này đều có giá trị ngang nhau và đều đúng như nhau. Không một luận đề nào ủng hộ cho thuyết tương đối đạo đức sẽ vượt qua cả 2 tiêu chuẩn này. THUYẾT TƯƠNG ĐỐI ĐẠO ĐỨC CỔ ĐIỂN
A. Luận đề Đa dạng: bất đồng về niềm tin đạo đức
- đa dạng trong các niềm tin đạo đức vẫn là điều đang thịnh hành - Xã hội khác nhau có những bộ luật đạo đức khác nhau - Bộ luật đạo đức của chúng ta chỉ là một trong nhiều bộ luật đạo đức khác (đa nguyên) - Logic của luận đề đa dạng có vấn đề: Logic của luận đề này cho rằng vì các xã hội khác nhau có các bộ luật đạo đức khác nhau nên không có cách nào để nói rằng bộ luật này thì tốt hơn bộ luật kia. Do đó, đạo đức là tương đối. Sai lầm ở đây là luận đề này chưa chứng minh được đa dạng sẽ nhất thiết loại trừ sự tương hợp. B. LUẬN ĐỀ TƯƠNG ĐỐI: NIỀM TIN ĐẠO ĐỨC THÌ TƯƠNG ĐỐI TÙY THEO TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
Luận cứ từ truyền thống: điều
gì “đúng” thì được thiết lập bởi truyền thống; điều gì “tốt” thì được tạo ra bởi những thói quen mà xã hội xác chuẩn. Luận cứ từ thuyết hoài nghi: Không có “tiêu chuẩn khách quan” nào cho việc phán xét về một luật thuộc xã hội này thì tốt hớn một luật thuộc xã hội khác; không có “chân lý phổ quát” nào trong đạo đức mà đúng cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại. LÔGIC CỦA LUẬN ĐỀ TƯƠNG ĐỐI CÓ VẤN ĐỀ -Ăn thịt người chết: Người Hy Lạp cho là sai; người Callaians cho là đúng. Vì thế, theo lý luận của thuyết tương đối, việc ăn thịt người chết chỉ là một vấn đề của quan điểm.
-Việc không thể so sánh niềm các tin
đạo đức không có nghĩa là ta rơi vào “thuyết tương đối”.
-Tương đối đúng nghĩa phải cho thấy
những thực hành khác nhau thật sự có giá trị đạo đức ngang nhau, và các giá trị đạo đức này không thể tương hợp, hay đặt lên “bàn cân so sánh” với nhau bằng bất cứ tiêu chuẩn chung nào hết. C. LUẬN ĐỀ KHOAN DUNG: CHÚNG TA NÊN KHOAN DUNG VỀ CÁC HỆ THỐNG NIỀM TIN ĐẠO ĐỨC KHÁC VỚI MÌNH Khi xét đoán những cư xử đạo đức của các xã hội khác, chúng ta có rơi vào trạng thái cao ngạo không? Một nền văn hóa này có quyền áp đặt niềm tin (nhân quyền, môi sinh,…) hoặc tiêu chuẩn đạo đức của mình trên một nền văn hóa khác không? Chúng ta nên khoan dung đối với những thực hành xã hội khác mà còn quá xa lạ với chúng ta ( việc ăn thịt chó, tục ăn thịt người, tục giết trẻ sơ sinh, tục cắt âm vật của phái nữ) III. THUYẾT TƯƠNG ĐỐI CỔ ĐIỂN CÓ VẤN ĐỀ Đạo đức thì sâu xa hơn những thực hành chỉ mang tính văn hóa -Đạo đức xoáy vào chiều sâu của văn hóa và tôn giáo: Đạo đức phải đặt nền cho những gì mà xã hội và văn hóa xét thấy là tốt. Nếu không, chúng ta sẽ không có văn hóa. -Đạo đức là chiều kính tối hậu của những thực hành văn hóa: Đạo đức là một vấn đề phức tạp, điều mà con người sẵn sàng chiến đấu và chết vì nó. -Nếu đạo đức quá lệ thuộc vào một nền văn hóa hoặc một xã hội, nó sẽ trở nên bất cập B. Nếu thuyết tương đối về đạo đức là đúng, thì sẽ không có tiến triển về đạo đức… nhưng thật sự là có đấy! - Con người tìm kiếm sự tiến triển đạo đức, không chỉ với cá nhân, mà còn với xã hội, quốc gia và cộng đồng thế giới. Làm sao biết khi nào chúng ta tiến triển cụ thể về đạo đức? (nô lệ, công bằng, tự do ngôn luận, tôn giáo, kinh tế, nhân quyền) B. Nếu thuyết tương đối về đạo đức là đúng, thì sẽ không có tiến triển về đạo đức… nhưng thật sự là có! - Sự thán phục các anh hùng? Nếu thuyết tương đối về đạo đức là đúng, thì những nhà cải cách đạo đức luôn luôn sai… và ta không cần đấu tranh cho bất cứ điều gì. Phải có điều gì đó có tính phổ quát và đúng cho mọi thời mọi nơi (các nhân đức, nhân quyền, tự do ngôn luận, tôn giáo, luôn là khao khát của mọi người. C. Nếu thuyết tương đối về đạo đức là đúng, thì không có một nguyên tắc phổ quát nào: Cùng một điều kiện, điều gì đúng cho anh, ắt cũng phải đúng cho tôi (không thiên vị) Thuyết tương đối đạo đức sẽ cho phép bất cứ ai, chỉ vì không thích một luật chung nào đó trong xã hội của mình, người ấy có thể tuyên bố thuộc về một nhóm nhỏ khác. Từ đó biện hộ rằng họ mà không bị buộc phải tuân giữ luật chung đó vì họ có đạo D. Nếu thuyết tương đối về đạo đức là đúng, thì sẽ không có đối thoại, cộng đồng thẩm tra, cách nào giải quyết các xung đột Thuyết tương đối về đạo đức không cung cấp nền tảng cho việc giải quyết những xung đột liên văn hóa. - Thiếu tôn trọng hỗ tương, thiếu thông tri và đối thoại, chỉ có thể dẫn đến nghi ngờ và hủy diệt lẫn nhau, mà điều này chỉ phục vụ cho sự phi đạo đức nơi các cộng đồng quốc tế. IV. THUYẾT TƯƠNG ĐỐI ĐẠO ĐỨC ĐƯƠNG THỜI A. Thuyết tương đối đạo đức của Harman 1. Thuyết tương đối đạo đức cổ điển: đúng hoặc sai chỉ có thể được xác định trong tương quan với văn hóa hoặc những truyền thống đạo đức của cá nhân; không bao giờ có thể đánh giá những niềm tin đạo đức khác nhau của các xã hội khác.
2. Điểm giống nhau giữa Harman và
tương đối cổ điển: các phán đoán nội tại cùng chia sẻ sự quy chiếu ngầm đối với những niềm tin của một cộng đồng; đánh giá đạo đức khác nhau có thể thích hợp cho cùng một hành động trong những xã hội khác nhau. B. Phán đoán nội tại và ngoại tại: khác biệt giữa việc phán đoán về một người và về một hành động 1. Phán đoán nội tại: đánh giá cá nhân dựa trên sự hiểu biết của chúng ta về động cơ thúc đẩy, mục đích, ước muốn và nguyên tắc đạo đức của cá nhân đó. 2. Phán đoán ngoại tại: đánh giá hành động dựa trên hành động của cá nhân, dù cá nhân đó có chấp nhận hay không về tiêu chuẩn được dùng để phán đoán. Lý thuyết của Harman có lợi điểm: tránh được vấn đề không thể đưa ra bất cứ phán đoán nào về hành động của nhóm hay cá nhân khi dựa trên hình thức cổ điển. C. VẤN ĐỀ CỦA THUYẾT TƯƠNG ĐỐI CỦA HARMAN 1. Sự phân biệt giữa những phán đoán nội tại và ngoại tại chỉ giúp khi mà những phán đoán đạo đức về một người và hành động của người đó là khác nhau. Nhưng khi cả hai tương thuận với nhau, thì có cách nào để đánh giá. Vd: “Hitler đã muốn chứng tỏ mình ác độc như thế nào khi giết 6 triệu người Do Thái”. Trong trường hợp này, bằng tiêu chuẩn nội tại nào, chúng ta có thể phán đoán rằng không chỉ hành vi của Hitler là ác, mà chính ông ta là người ác xét về khía cạnh đạo đức không? C. VẤN ĐỀ CỦA THUYẾT TƯƠNG ĐỐI CỦA HARMAN
2. Thật không dễ chút nào để phán đoán hành động
của con người dựa trên một tiêu chuẩn “ngoại tại”.
Vd: Tục ăn thịt người là
xấu theo tiêu chuẩn của chúng ta, tuy nhiên nó có thể đúng theo một số tiêu chuẩn đạo đức của bộ lạc, vì giữa hai khả thể chọn lựa sẽ là tàn nhẫn hoặc lãng phí protein. C. VẤN ĐỀ CỦA THUYẾT TƯƠNG ĐỐI CỦA HARMAN 3. Có sự phân biệt giữa “lý luận đạo đức” và “động cơ thúc đẩy” cho người khi chọn thực hiện một hành vi.
Nếu phán đoán “nội
tại” dựa vào động cơ thúc đẩy nơi một người để hành động, vì thế nó sẽ không đủ. V. KẾT LUẬN Chúng ta có thể học được gì từ thuyết tương đối văn hóa? 1. Cảnh báo chúng ta về sự nguy hiểm của chuyên chế đạo đức 2. Giúp chúng ta cởi mở trước những thay đổi và tiến triển trong sự hiểu biết chung về đạo đức.