You are on page 1of 8

BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO

LUẬN ĐỀ CHÍNH NGHĨA

Nhà vua, nhà thơ Lê Thánh Tông từng viết:

Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo

(Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê)

Chẳng phải ngẫu nhiên mà bậc minh quân nhà Lê lại viết về bậc khai quốc công thần -
Nguyễn Trãi như thế. Nhìn lại cuộc đời đầy vinh quang mà thảm khốc của Ức Trai, càng thấy
tấm lòng ấy sáng rực cả non sông, chiếu sáng muôn đời. Từ cuộc sống trần thế đến văn
chương, nhân cách, đức độ và cống hiến của ông luôn trọn vẹn. Mà một trong những điều làm
nên sự toàn đức toàn tài đó chính là tư tưởng cốt lõi cả cuộc đời ông – tư tưởng nhân nghĩa.
Bản Bình Ngô đại cáo, một áng văn chính luận xuất sắc của Nguyễn Trãi đã thể hiện sáng ngời
tư tưởng ấy.

Xuất phát từ một quan niệm đạo đức Nho gia, nhân nghĩa được hiểu là cách ứng xử tốt đẹp
giữa người với người trong xã hội. Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh tới cách hành xử thuộc
về lối sống cá nhân, một trong những điểm rất nhân văn của đạo Nho. Thế nhưng trong Bình
Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi lại viết:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Vẫn là nhân nghĩa ấy, nhưng Ức Trai lại đưa ra cách hành xử không còn ở góc độ cá nhân
nữa, mà là yên dân mang tầm quốc gia, dân tộc. Muốn thực hành nhân nghĩa tức là phải làm
cho nhân dân có được cuộc sống yên ổn, bình an. Cái gốc của nhân nghĩa là ở nhân dân. Đây
là điều hoàn toàn mới mẻ. Vẫn biết Nguyễn Trãi luôn hành động, cống hiến cuộc đời mình cho
dân, tôn thờ dân, nhưng không nghĩ rằng ông lại việc "lấy dân làm gốc" để luận bàn về việc
nhân nghĩa thông thường. Cách hành xử đơn thuần ấy qua thẩm thấu của một trái tim quảng
đại, một nhân cách lớn luôn biết lo cho dân trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý ở đời.
Điều này khiến chúng ta liên tưởng tới Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập viết ở thế kỉ
XX, cũng "suy rộng ra" từ những quyền rất cơ bản của con người, thành quyền chính đáng của
dân tộc. Có lẽ cả Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đều nhìn nhận những vấn đề có tính triết lý thực
ra lại bắt nguồn từ những điều yêu cầu rất đỗi bình thường. Vì vậy khi Nguyễn Trãi đưa ra quan
điểm nhân nghĩa ở tác phẩm này, giá trị của tư tưởng ấy trở nên to lớn, đóng góp rất quan
trọng vào sự phát triển của hệ thống lí luận tư tưởng dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đề cập tới ở đây không hề chung chung, trừu tượng
mà nó là việc nhân nghĩa, tức là phải hành động để luôn luôn duy trì sự yên ổn của nhân dân.
Cứ vậy thì trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, sống dưới cảnh ngang tàng, bạo ngược của kẻ
xâm lăng, nhân nghĩa chính là trừ bạo. Người thực thi nghĩa vụ này là quân điếu phạt, sức
mạnh của quân đội mới đủ sức để đánh đuổi kẻ thù.

Ngay từ mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã hiện lên một cách rõ ràng, cụ thể. Nguyễn
Trãi thể hiện trực tiếp và coi đó là mạch nguồn chi phối toàn bộ bản "tuyên ngôn". Ông khẳng
định, không có nhân nghĩa không có nước Đại Việt hôm nay. Bởi nước Nam dựng xây Tổ quốc
bằng các yếu tố thiết lập trên tinh thần nhân nghĩa. Có nền văn hiến, có lãnh thổ, có phong tục,
có lịch sử, có hào kiệt,… đều từ cái gốc nhân nghĩa mà ra. Dân ta gìn giữ chủ quyền, đấu tranh
không mệt mỏi cũng để cho dân được hưởng độc lập, tự do. Quốc gia nào lớn bé gì có ý đồ
xâm lược đều động chạm vào quyền lợi độc lập của dân, mà chưa kể lịch sử đã ghi nhận
những việc, những chứng cớ đã từng như thế và những kẻ ấy đã bị trừng trị thích đáng. Nhân
nghĩa là đứng lên bảo vệ dân, giữ gìn đất nước cũng được coi là hành động chính nghĩa sáng
ngời. Vì thế ngay khi mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi xác lập được
coi như là một cơ sở đạo lý, pháp lý hùng hồn nhất. Bài cáo từ đây đã có nền móng vững trãi,
sắc bén để đi đến tuyên ngôn độc lập.

Giáo sư Đinh Gia Khánh từng nhận xét: "Tư tưởng nhân nghĩa này không mơ hồ, nó gắn chặt
với chủ nghĩa yêu nước". Đúng vậy, nếu ở phần đầu bài cáo cơ sở lí luận được soi chiếu từ tư
tưởng nhân nghĩa thì đến những phần sau một quá khứ đau thương mà rất đỗi anh hùng cũng
được khơi dậy từ đó. Nhân nghĩa là việc cốt lõi để dân được yên. Vậy mà thời khắc rối ren của
lịch sử năm ấy, dân đâu có được yên. Mượn cớ chính sự phiền hà của nhà Hồ mà quân cuồng
Minh thừa cơ gây họa. Chúng mang theo những luận điệu xảo trá, dối trời lừa dân đủ muôn
nghìn kế suốt hai mươi năm trời để ngang nhiên tiến vào Đại Việt để vơ vét của cải, để ép buộc
dân lành, đến cả côn trùng, cây cỏ cũng chẳng tha. Trong Bài 8 – Quân trung từ mệnh tập,
Nguyễn Trãi viết: "Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc bạo tàn, lấn cướp nước ta,
bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên
ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư?". Đứng trên lập trường của nhân dân, dưới ánh sáng của nhân
nghĩa, Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đầy đau đớn, phẫn uất. Trước tòa án nhân
nghĩa, âm mưu và hành động của giặc Minh không thể dung tha.

Vẫn bằng điểm tựa ấy, nhà văn đã dựng lại bức tranh lịch sử đầy tráng lệ, hào hùng về quá
trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Xuyên suốt phần tái hiện
lại quá trình ấy, nhân nghĩa vẫn là tư tưởng soi đường và nó được đẩy thành:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.


Đại nghĩa – chí nhân được hiện thân qua hình tượng vị chủ tướng Lê Lợi – vị lãnh tụ của
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Cũng bởi nhân nghĩa mà Người đã vượt qua bao gian khổ, nuốt
căm hờn và nung nấu ý chí đấu tranh. Để từ đó ngọn đuốc nhân nghĩa chói ngời làm nên
những trận đánh liên tiếp, rung chuyển cả đất trời. Người đọc cảm nhận được khí thế hừng
hực, ngút ngàn của quân ta được đặt trong thế tương phản đối lập với sự thất bại thảm hại
nhục nhã, ê chề kẻ địch. Ta sĩ khí đã hăng/ quân thanh càng mạnh, càng đánh quân ta đã hăng
lại càng hăng. Địch mới mấy trận đầu mà đã nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân thì rồi
sau này có tiếp thêm quân chi viện cũng cứ thế mà nối tiếp nhau những thất bại. Cảnh thảm hại
của kẻ thù trên chiến trường là minh chứng hùng hồn cho kết cục làm trái với nhân nghĩa luân
thường. Chứng cớ trong quá khứ còn ghi:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Giờ đây lịch sử lặp lại, thậm chí có phần thê thảm hơn:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

Đó là cái giá phải trả cho những kẻ làm việc trái với nhân nghĩa cũng chính là công lao to lớn
của quân điếu phạt Lam Sơn đã thành công trong việc lo trừ bạo để cho đất nước thanh bình,
dân chúng được an yên. Chiến thắng ấy là tất yếu, là chiến thắng của tinh thần nhân nghĩa, của
đội quân nhân nghĩa.

Và quân đội Lam Sơn rất xứng đáng là đội quân nhân nghĩa. Bởi cách hành xử đối với kẻ
thua cuộc của tướng sĩ Lam Sơn đầy tính nhân văn, là việc làm chưa từng thấy xưa nay: Thần
vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh. Vậy hóa ra nhân nghĩa đâu chỉ bởi cho
dân mình yên ổn, mà còn tạo cơ hội sống cho kẻ thù khi chúng thua cuộc. Việc cấp cho
chúng năm trăm chiếc thuyền, vài nghìn cỗ ngựa… khiến giặc chẳng những thua trong đau
đớn, nhục nhã mà còn thêm sợ hãi, nể phục hơn. Nhân nghĩa là cao thượng, bao dung. Mãi
sau này, khi giặc Mĩ thua ta cũng được cấp nơi ăn ở, máy bay để chúng trở về nước. Phải
chăng nó bắt nguồn từ truyền thống sâu xa, giàu tính nhân nghĩa có từ thời Lam Sơn đại
thắng?

Có thể thấy Nhân nghĩa là tư tưởng tiềm ẩn mà có người gọi là "mỏ quặng quý" phải khai
thác, đào sâu, còn cái lộ thiên là lòng yêu nước, thương dân. Thật vậy, nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi gắn chặt với tư tưởng trung quân ái quốc, "dân vi bản" (lấy dân làm gốc). Lòng yêu nước
thương dân là hiện thực hóa, cụ thể hóa cho tinh thần nhân nghĩa sáng ngời của Ức Trai. Bởi
vậy, mới có quân điếu phạt lo cho dân yên, mới có chân lý độc lập chủ quyền để đập tan ý đồ
xâm lăng của kẻ xấu, mới có một bản cáo trạng đanh thép đối với giặc Ngô đã chà đạp, tàn
nhẫn với nhân dân ta và mới có một chặng đường gian nan mà vẻ vang của nhân dân bốn cõi
chống lại kẻ thù. Lòng yêu nước thương dân đã mang tới một tinh thần nhân nghĩa giàu tính
nhân văn, biểu hiện cao cả của chủ nghĩa nhân đạo, vốn là truyền thống đạo lý của dân tộc,
cũng là một trong những nội dung quan trọng của giai đoạn sau trong văn chương trung đại.

Nguyễn Trãi - Ức Trai đã ra đi trong một nỗi oan khiên thảm khốc, đau đớn, xót xa xé lòng…
đó là những cảm xúc của bất kỳ người dân Việt Nam nào khi nhớ đến ông. Chỉ có thể là tư
tưởng nhân nghĩa cả đời mà ông theo đuổi, cả đời ông cống hiến, xả thân đã thấm nhuần non
sông, soi tỏ biết bao thế hệ con cháu Việt Nam thì chúng ta mới có cảm xúc trào dâng nghẹn
ngào đến như vậy. Và mỗi lần như thế, cũng chỉ cần đọc lại Đại cáo bình Ngô để thêm một lần
thấu hiểu giá trị to lớn mà tinh thần nhân nghĩa Ức Trai để lại cho muôn đời.

Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi
phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao
và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê
Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.

Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án tội ác
ghê tởm của quân "cuồng Minh", ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở "bình Ngô", tuyên bố
đất nước Đại Việt bước vào kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.

Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và
những tác phẩm khác cũa Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng "nhân nghĩa’'
trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo, ông viết:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".

Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với
người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn
Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ "yên dân". Vì thương yêu dân, muốn
cho dân được yên ổn làm ăn nên phải "trừ bạo" là trừ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội, một
nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì "tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ
nghĩa yêu nước". Chính vì "nhân nghĩa", vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động
man rợ của quân Minh hành hạ nhân dân ta như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống dân
lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng ta phải trừng phạt. Như
vậy có nghĩa là "việc nhân nghĩa", hành động nhân nghĩa không phải một cái gì đó trừu tượng,
chung chung, mà nó biểu hiện bằng "việc" cụ thể là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi,
tiêu diệt các nguồn phản động chống triều đình để xây dựng xã hội "vua sáng, tôi hiền". Việc ấy
phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc
có thể dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải
có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của "đại nghĩa"-.

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo".

Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. Ớ đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng
Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ".

Tội án "trời không dung, đất không tha" ấy của giặc Minh:

"Trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Nước Đông Hải không rửa sạch mùi".

Tội ác ấy phải trừng phạt. "Quân điểu phạt trước lo trừ bạo". Quân ở đây là nhân dân: tập
hợp thành đội quân "đại nghĩa - chí nhân" để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là, triết
lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Đó chính là chủ
nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ "Cáo bình Ngô", nó là ánh sáng kì diệu để
Nguyễn Trãi nêu lên một quan điển về quyền dân tộc, và do đó ông đã định nghĩa về đất nước
khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đỉnh đạc và tự hào.

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác


Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phương".

Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần độc lập
tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn hiến, nghĩa là có
nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó
thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:

"Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".

Thế mà nay bọn giặc Minh "mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp
đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không
được yên ổn". Nhân nghĩa mà lại thế Lí? Thế đứng của một dân tộc trong nhân nghĩa bằng mọi
giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo "lỗi đạo", ngạo
mạn, xấc xược...

Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta "lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều" đã làm nên
chiến thắng.

"Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn".

Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô mạnh mẽ, hào hùng.
Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kè thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:

"Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận, tan tác chim muông".

Miêu tả cuộc tổng chiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa
bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là
đội quân đã xác định "vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo".
Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. "Chí nhân, đại nghĩa" là nền tảng của chủ nghĩa
nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truvền
thống của con người Việt Nam. ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn nó
với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.

Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên chúng ta
đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Có gì quý hơn sinh mạng con người? "Người, ta là hoa của
đất’’ do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho
"bốn phương biển cả thanh bình"... đối với quân giặc đã bị "cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu
mạng", chúng ta đã "chẳng giết hại" mà cho chúng "đường hiếu sinh". Chúng ta có cái thế để
"xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta
làm điều đó khi bọn giặc đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng". Chúng ta tha tội cho
chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được "an dân" không phải chỉ ngày một ngày
hai mà mãi mãi dân ta được "nghỉ sức" trong thanh bình:

"Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới".

Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục
đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt giặc,
nhưng lại rất thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quôc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn
Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại muốn cùng bỉnh độc vũ,
khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan
ở nơi chốn đồng cỏ" (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).

Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, chứng
minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ
thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân
mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ
quốc và ước vọng "bốn phương biển cả thanh bình". Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô
đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng
của quân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn
lại mãi với thời gian.

Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, nhà
tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng
nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy lừng, như trong chiến tranh
chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với
những phi công Mỹ ngụy. Họ đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước,
tàn phá đất nước ta, gây bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy mà khi bắt sống những
kẻ ấy, ta vẫn đối xử nhân đạo và sau ngày toàn thắng 30-4-1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng
đó là được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lẩy chí nhân để thay cường bạo".

Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc Minh vừa
là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng "thiên cổ hùng văn" khẳng định sức mạnh
nhân nghĩa Đại Việt.

You might also like