You are on page 1of 9

FINTECH VỚI ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

ThS. Trần Hoàng Trúc Linh, TS. Dương Quỳnh Nga


Đại Học Mở TP.Hồ Chí Minh

Tóm tắt:
Theo PWC (2017), kinh phí của các công ty khởi nghiệp fintech tăng với tốc độ tăng
trưởng hàng năm (CAGR) là 41% với đầu tư tích lũy hơn 40 tỷ đô la mỹ. Tốc độ phát triển
của các công ty fintech trong dịch vụ tài chính tăng nhanh và tiềm năng phát triển trong
tương lai vô cùng to lớn, nên các định chế tài chính truyền thống xem xét lại và bắt buộc
phải có giải pháp. Bài viết này nhằm phân tích các cơ hội và thách thức của các công ty
fintech và sau đó là cách thức các định chế tài chính truyền thống phản ứng đối với làn
sóng Fintech này.
Từ khóa: fintech, định chế tài chính truyền thống.

1. Giới thiệu
Fintech là một từ kết hợp giữa từ “Finance” (tài chính) và “Technology” (công nghệ).
Bước vào thời đại công nghiệp 4.0, sự tăng trưởng nhanh chóng của các dịch vụ dựa trên
Internet đã có tác động sâu sắc đến lĩnh vực tài chính truyền thống. Theo báo cáo của PWC
(2017), 82% nhà quản lý dịch vụ tài chính và fintech kỳ vọng tăng đối tác fintech trong
vòng 3 tới 5 năm tới, 77% nhà quản lý và dịch vụ tài chính kỳ vọng sử dụng công nghệ
“chuỗi” – blockchain vào trong hệ thống sản xuất hay quy trình từ năm 2020, 20% nhà
quản lý và dịch vụ tài chính kỳ vọng ROI hàng năm tới từ dự án fintech. Các công ty
Fintech cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng, thanh toán, quản lý tài chính, ví điện
tử, công nghệ sổ cái, mPOS…. Các công ty fintech đang mở rộng hoạt động kinh doanh
của mình không còn giới hạn trong hệ thống thanh toán trực tuyến mà phát triển thêm các
dịch vụ tài chính tiên tiến, các dịch vụ cho vay, các quỹ trực tuyến, các dịch vụ ngân hàng
tư nhân trên internet. Fintech tạo ra làn sóng khởi nghiệp trong ngành tài chính, tạo sự đa
dạng về sản phẩm và đem đến những lợi ích cụ thể như thay đổi kênh phân phối sản phẩm,
cắt giảm chi phí lao động, chi phí thành phẩm, cắt giảm rủi ro, cắt giảm chi phí đầu vào.
Tuy sự phát triển và vai trò đóng góp to lớn của công ty fintech là không thể chối cãi
nhưng lý thuyết nghiên cứu về ngành công nghiệp fintech vẫn chưa được khai thác và tập
trung nhiều. Bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu những cơ hội và thách thức của công ty
Fintech đối với ngành ngân hàng và cách thức của các định chế tài chính đáp ứng lại với
làn sóng mạnh mẽ của các công ty fintech ở Việt Nam.
2. Tổng quan về thị trường các công ty fintech tại việt nam
Theo thông tin từ hội thảo “Fintech – Xu hướng phát triển và khuyến nghị đối với
NHNN” do NHNN tổ chức vào ngày 11/04/2017, hiện nay có trên 40 công ty Fintech hoạt

168 Mã số ISBN: 978-604-922-684-7


động tại Việt Nam cùng với các dịch vụ tài chính đa dạng như: thanh toán, chuyển tiền,
huy động vốn, quản lý tài chính… Tính tới ngày 30/5/2018, có 80 công ty fintech được
thành lập ở Việt Nam. Với sự phát triển không ngừng của công nghệ trong thời kỳ cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực thì sự phát triển sâu
rộng của các công ty công nghệ tài chính Fintech trên thế giới và Việt Nam là điều tất yếu.
Theo báo cáo của PWC, dù có tới 73% các công ty cung cấp dịch vụ thanh toán cho rằng
hoạt động của họ đang bị các công ty fintech đe dọa nhưng con số này vẫn thấp hơn tỷ lệ
87% trong cuộc khảo sát năm ngoái. Điều này phản ánh thực tế rằng các công ty cung cấp
dịch vụ thanh toán đang coi đang xem fintech là cơ hội nhiều hơn là thách thức, đặc biệt
khi tỷ lệ hợp tác giữa hai loại hình doanh nghiệp này đã tăng lên mức 42% (cao hơn mức
35% năm ngoái). Từ phía NHNN, cũng đã có sự hỗ trợ cho sự phát triển của các công ty
fintech thông qua việc cấp giấy phép cho khoảng 20 tổ chức không phải ngân hàng cung
cấp dịch vụ thanh toán điện tử (Vũ Ngà, 2017)
3. Cơ hội và thách thức của fintech
3.1. Cơ hội của công ty fintech
Theo thống kê của Vụ Thanh Toán của Ngân hàng nhà nước thì số lượng giao dịch
qua POS/EFTPOS/EDC còn thấp, các hình thức tiết kiệm truyền thống và vay truyền thống
vẫn giữ vai trò chủ đạo. Lý do vì nhiều người dân ở tỉnh lẻ, vùng nông thôn chưa có cơ hội
tiếp cận các dịch vụ thanh toán điện tử. Hầu hết các phương tiện thanh toán điện tử tập
trung ở các thành phố lớn. Người dân nông thôn vẫn chưa có tài khoản ngân hàng. Cho nên
xu hướng sử dụng dịch vụ trực tiếp, thanh toán online vẫn còn rất nhiều cơ hội cho các
công ty fintech.
Ngoài ra, do Việt Nam có dân số đông, người trẻ am hiểu và yêu thích sử dụng các
dịch vụ, sản phẩm công nghệ, mức độ tiếp cận mạng Internet và điện thoại thông minh khá
lớn, xu hướng tiêu dùng cũng tăng mạnh. Trong khi đó, các dịch vụ tài chính công nghệ
chưa thực sự phát triển mạnh mẽ. Người trẻ tiếp cận với các dịch vụ tài chính như cho vay,
tiết kiệm, mua sắm… còn bị hạn chế, và còn tới 90% khoản thanh toán được thực hiện
bằng tiền mặt.
Theo ước tính của nhiều chuyên gia khoảng 10 – 40% doanh thu và 20 – 60% lợi
nhuận của ngân hàng bán lẻ bị Fintech đe dọa trong vòng 10 năm tới. Khoảng một phần ba
khoảng vay trên thị trường phi chính thức (shadow banking) do các doanh nghiệp fintech
nắm giữ (Đình Vũ, 2018).
Lĩnh vực quản lý tài sản chưa phát triển ở Việt Nam vì những người có thu nhập cao
chưa sẵn sàng sử dụng các dịch vụ chuyên nghiệp để quản lý tài sản, quản lý hoạt động tài
chính cá nhân của mình. Do đó, ở Việt Nam, các sản phẩm về quản lý tài sản, tài chính cá
nhân chưa được phát triển thành ngành công nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ tài chính mới
vào quản lý tài sản là lĩnh vực sôi động ở các thị trường Hồng Kong, Luân Đôn, New York.
Ngay cả trong lĩnh vực cho vay ngân hàng hay huy động vốn, ở Việt Nam, hầu như
chưa có công ty fintech nào hoạt động chính thống. Mà các công ty fintech tập trung nhiều

Mã số ISBN: 978-604-922-684-7 169


vào hoạt động than toán do họ đánh giá là nhu cầu đủ lớn để tạo doanh thu. Thị trường tiêu
dùng Việt Nam ước tính 160 tỷ đô la mỹ là thị trường đủ lớn để phát triển các dịch vụ thanh
toán điện tử. Người dân còn giữ thói quen và sở thích chi tiêu tiền mặt và ít có nhu cầu
thanh toán phi tiền mặt. Đây cũng là cơ hội để các công ty fintech đầu tư vào dịch vụ thanh
toán điện tử.
Hiện tại, nhiều người có nhu cầu vay, trong khi với sự trợ giúp của công nghệ, nhất
là công nghệ blockchain, việc đi vay sẽ trở nên dễ dàng hơn với chi phí rẻ hơn. Đây là một
thị trường rất tiềm năng ở Việt Nam. Tuy nhiên tới thời điểm hiện tại thì thị trường vẫn
chưa phát triển, chưa có 1 sản phẩm cho vay tiêu dùng nào. Vì các công ty fintech vẫn đánh
giá là nhu cầu thị trường chưa đủ lớn, đủ mạnh để có thể tạo ra lợi nhuận. Chưa kể phân
khúc thị trường này còn non trẻ, bấp bênh và đồng thời là phân khúc nhạy cảm vì còn thiếu
khung hành lang pháp lý. Bên cạnh đó, công nghệ bảo mật trong lĩnh vực tín dụng cũng có
những yêu cầu cao hơn và chưa phát triển được ở Việt Nam.
3.2. Thách thức của các công ty fintech:
Khả năng đánh giá chính xác giá trị của dự án sẽ rất quan trọng trong môi trường
cạnh tranh ngày càng gay gắt. Thách thức tìm ra một dự án fintech đầy tiềm năng là vấn
đề cần giải quyết. Vẫn còn sớm để dự đoán tốt nhất danh mục đầu tư của các dự án fintech
sẽ cung cấp kết quả cạnh tranh và có lợi nhất. Các định chế tài chính có thể chọn đầu tư
vào các dự án fintech trong nội bộ của các định chế hơn là đầu tư vào các công ty fintech
mới khởi nghiệp. Ngoài ra, các tổ chức tài chính có thể sử dụng các khoản đầu tư hợp tác
với các công ty mới khởi nghiệp như như một phương tiện để duy trì công nghệ tiên tiến
mà không đòi hỏi sự đổi mới nội bộ. Ví dụ, một công ty fintech khởi nghiệp có thể đầu tư
vào một tư vấn tài chính tự động (robo-advisor). Công ty khởi nghiệp fintech có thể được
hưởng lợi mô hình hóa và phân tích của chuyên gia của các định chế tài chính, trong khi tổ
chức tài chính có thể hiểu rõ loại khách hàng mà công ty fintech đang tìm kiếm, cũng như
cấu trúc chi phí và luồng doanh thu.
Thách thức tiếp theo có thể kể đến là khi việc tiếp cận và giữ chân khách hàng có tính
cạnh tranh cao, việc quản lý khách hàng là rất quan trọng. Nhiều khách hàng sử dụng nhiều
dịch vụ từ các công ty fintech khác nhau cho các nhu cầu khác nhau. Ví dụ: khách hàng có
thể sử dụng PayPal để thanh toán cho các doanh nghiệp trực tuyến, trong khi sử dụng
Venmo để thanh toán cho bạn bè. Công ty Fintech cần phải hiểu được thị trường nơi mà
họ đang ở và cố gắng cung cấp dịch vụ tốt nhất có thể ở thị trường đó. Sự đáp ứng yêu cầu
và chăm sóc tận tình đối với các yêu cầu của khách hàng là tối quan trọng, vì các quảng
cáo truyền miệng rất quan trọng cho sự thành công của công ty khởi nghiệp fintech trong
môi trường có nhịp độ nhanh này. Robot cố vấn được thiết kế để cung cấp dịch vụ 24/7
một cách cá nhân hóa hơn cho một số lượng lớn khách hàng với chi phí thấp. Tuy nhiên,
yếu tố con người vẫn quan trọng trong các dịch vụ đầu tư. Vì khách hàng từ Thế hệ X và
Y có nhiều hiểu biết về công nghệ hơn, nên công ty cần để giải quyết tốt hơn nhu cầu của
khách hàng bằng cách cung cấp khả năng truy cập nâng cao, sự tiện lợi và các sản phẩm
phù hợp. Điều quan trọng hơn là phải quản lý dịch vụ khách hàng tích hợp do việc bổ sung
các kênh dựa trên công nghệ fintech

170 Mã số ISBN: 978-604-922-684-7


Cả hai tổ chức tài chính truyền thống và các công ty khởi nghiệp fintech đều phải đối
mặt với những thách thức về quy định trong các yêu cầu về vốn, chống rửa tiền và bảo mật
và an ninh. Đối với các tổ chức tài chính truyền thống, chi phí để đáp ứng các yêu cầu quy
định và cạnh tranh với các công ty khởi nghiệp có thể là đáng kể.
Thách thức về mặt pháp lý: Các tổ chức tài chính truyền thống và các công ty khởi
nghiệp fintech phải đối mặt với các yêu cầu pháp lý khác nhau dựa trên loại dịch vụ tài
chính mà họ cung cấp. Ví dụ, hầu hết các ngân hàng hoạt động trên một số hình thức của
hệ thống ngân hàng dự trữ phân đoạn. Có những hướng dẫn nghiêm ngặt và phức tạp về
loại cho vay nào được thực hiện dựa trên vốn được tổ chức tài chính truyền thống nắm giữ.
Loại vốn đó có thể không áp dụng cho công ty khởi nghiệp fintech vay (ví dụ: một công ty
cho vay P2P). Khi những thay đổi về quy định bị chậm lại với sự đổi mới của ngành công
nghiệp, các công ty fintech cần phải nhận thức được những thay đổi tiềm ẩn để có thể tác
động đến chúng và tìm cách xử lý những thay đổi đó.
Tích hợp công nghệ là điều cần thiết trong việc cung cấp dịch vụ khách hàng liền
mạch. Nhiều công ty fintech được dựa trên các công nghệ mới và rất khó để tích hợp các
ứng dụng fintech với các hệ thống kế thừa hiện có. Ngoài sự phát triển nội bộ của fintech,
các ngân hàng cần phải tạo ra quan hệ đối tác và liên doanh với các công ty mới khởi
nghiệp thông qua các quỹ liên doanh và các chương trình vườn ươm (Drummer, Jerenz,
Siebelt, & Thaten, 2016). Các quan hệ đối tác và liên doanh này sẽ cho phép các tổ chức
tài chính truyền thống có cổ phần trong một nguồn bên ngoài sẽ tập trung vào công nghệ
mới của fintech. Tuy nhiên, không có kế hoạch và kinh nghiệm tích hợp âm thanh, các quy
trình ngân hàng truyền thống ở nhiều lĩnh vực có thể trở nên không tương thích với các mô
hình kinh doanh và công nghệ mới mà các tổ chức tài chính quan tâm đến việc sử dụng.
Vào tháng 3 năm 2016, Cục Bảo vệ Tài chính Người tiêu dùng (CFPB) đã giải quyết
hành động thực thi an ninh dữ liệu đầu tiên của mình đối với Dwolla, một công ty xử lý
thanh toán trực tuyến dựa trên Des Moines. CFPB đã tìm thấy các đại diện của công ty cho
khách hàng về việc gây nhầm lẫn an ninh mạng của công ty. Dwolla đã đồng ý trả tiền phạt
100.000 đô la và thực hiện các bước nhất định để cải thiện các biện pháp bảo mật dữ liệu
trong 5 năm tới như một phần của lệnh chấp thuận mà CFPB đã ban hành (Hayashi, 2016).
Các nhà quản lý chính phủ khác có liên quan đến quyền riêng tư và hành động an ninh bao
gồm Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC), Bộ Tư pháp (DOJ), Cơ quan Quản lý Công
nghiệp Tài chính (FINRA), Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai (CFTC) và luật sư tiểu
bang. Đối với các ứng dụng fintech, thông tin quan trọng có thể được lưu trữ trên thiết bị
di động mà đôi khi bị mất hoặc bị đánh cắp. Tính bảo mật của thiết bị di động cũng có thể
bị xâm phạm thông qua các ứng dụng thanh toán như Google Wallet và MasterCard
PayPass. Vì người tiêu dùng có thể dễ dàng gửi khiếu nại liên quan đến bảo mật dữ liệu và
vi phạm quyền riêng tư cho các cơ quan quản lý, các công ty fintech cần phát triển các biện
pháp thích hợp để bảo vệ dữ liệu người tiêu dùng nhạy cảm khỏi bị truy cập trái phép. Hơn
nữa, vì niềm tin đóng một vai trò quan trọng trong việc áp dụng các công nghệ mới, nên
lợi ích tốt nhất của fintech là duy trì tính bảo mật và quyền riêng tư là một trong những ưu

Mã số ISBN: 978-604-922-684-7 171


tiên hàng đầu của nó. Dự kiến các cơ quan quản lý, tiêu thụ các tổ chức bảo vệ, và các
fintechs tiếp tục làm việc cùng nhau để làm cho các dịch vụ fintech trở thành một trải
nghiệm an toàn và giá trị gia tăng cho người tiêu dùng.
Có nhiều rủi ro cho các công ty mới khởi nghiệp để giải quyết, bao gồm cả rủi ro tài
chính cũng như rủi ro pháp lý, như đã đề cập ở trên. Ví dụ, một fintech cung cấp các dịch
vụ tài chính cho các khoản vay hoặc thế chấp sinh viên có thể phải đối mặt với rủi ro đối
tác có thể được một tổ chức tài chính hấp thụ với số vốn lớn mà một công ty khởi nghiệp
nhỏ hơn sẽ không có thể trang trải. Việc triển khai các nhà tư vấn robo về quản lý tài sản
trái phiếu, tín phiếu kho bạc và cổ phiếu có thể khiến khách hàng gặp rủi ro tài chính và
các fintech có thể phải chịu trách nhiệm nghiêm trọng về bất kỳ tổn thất nào do thuật toán
thất bại của các robo-cố vấn. Nhìn chung, điều quan trọng là các công ty fintech phải tập
trung vào quản lý rủi ro ngoài việc quản lý công nghệ. Vì nhiều fintech được tạo ra sau
cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, họ cần phải hiểu đầy đủ về rủi ro thanh khoản của
họ, cũng như rủi ro lãi suất của họ. Môi trường cho vay hiện tại rất khác so với trước đây
do môi trường lãi suất cực thấp hiện nay trên thị trường tài chính, vì vậy điều quan trọng
đối với các fintech có liên quan đến việc cho vay để nhận ra môi trường cho vay hiện tại
sẽ tác động như thế nào đến chúng.
Chính phủ ban hành chiến lược thanh toán không dùng tiền mặt tới năm 2020 và
quyết định của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước thành lập ban chỉ đạo fintech để tạo ra
cơ hội các công ty cung ứng dịch vụ thanh toán, cụ thể đó là việc thống đốc Ngân hàng
Nhà nước đã ban hành Quyết định số 328/QĐ-NHNN ngày 16/3/2017 thành lập Ban chỉ
đạo và Tổ giúp việc về lĩnh vực Fintech của Ngân hàng Nhà nước, bao gồm các thành viên
đến từ các Vụ, Cục chức năng thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN, 2017).
Từ năm 2008, NHNN đã triển khai thí điểm cho phép nhiều doanh nghiệp không phải
là ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán trung gian. Hiện tại, hành lang pháp lý cho các
hoạt động trung gian đã khá rõ ràng. Cuộc cách mạng của hệ thống ngân hàng về phát triển
ngân hàng số là xu hướng lan tỏa hiện nay. Đây cũng là dư địa cho các công ty fintech.
4. Các định chế tài chính với làn sóng fintech
Fintech ảnh hưởng sâu rộng tới dịch vụ tài chính và có khả năng lấn lướt các định chế
tài chính truyền thống, các định chế tài chính trên khắp thế giới cũng không ngồi yên mà
tích cực tìm giải pháp linh hoạt để chủ động và đối phó với làn sóng mới này.
PWC trong báo cáo “vẽ lại ranh giới: ảnh hưởng ngày càng lớn của finech lên ngành
dịch vụ tài chính” thì 82% của 1.308 nhà quản lý của dịch vụ tài chính truyền thống và
công ty fintech được phỏng vấn cho rằng sẽ tăng cường hợp tác với nhau trong vòng 3 tới
5 năm tới dù các định chế tài chính truyền thống vẫn luôn cho rằng các công ty fintech là
mối đe dọa tuy tỷ lệ này đã giảm xuống 10%. Các công ty khởi nghiệp thiếu khả năng tiếp
cận nguồn vốn và nguồn khách hàng. Các định chế tài chính truyền thống thì thiếu các giải
pháp về công nghệ và truyền thông. Vì vậy, sự hợp tác giữa các công ty fintech và các định
chế truyền thống là điều tất yếu để bổ sung sự khiếm khuyết của cả 2 bên.

172 Mã số ISBN: 978-604-922-684-7


Bước vào thời đại “Internet of Things” hay nói cách khác là “mạng lưới vạn vật kết
nối internet” và nền công nghiệp 4.0 thì fintech sẽ tác động mạnh tới kết quả kinh doanh
trong tương lai nên các định chế tài chính sẽ chủ động đầu tư vào fintech bằng cách hình
thành các quỹ nghiên cứu phát triển fintech, các công ty khởi nghiệp fintech, cải tiến hệ
thống, hoặc trực tiếp lập công ty fintech của bản thân họ để đối phó lại với các công ty
fintech khác và chiếm lợi thế trước các đối thủ truyền thống.
Các ngân hàng hầu hết đều có các sản phẩm của kỷ nguyên số như mPOS, internet
banking, mobile banking, tablet – banking, công nghệ thẻ chip….. và đầu tư nhiều vào
ngân hàng kỹ thuật số, thanh toán di động, hệ thống quản lý dữ liệu khách hàng, kênh
omnichanel (hệ thống tổng hợp các kênh giao dịch với khách hàng). Ngân sách dành cho
công nghệ tăng trung bình 5 – 6% / năm (PwC, 2017). Tổng chi phí cho công nghệ thông
tin của các ngân hàng trên thế giới đã vượt 430 tỷ đô năm 2016 và dự kiến sẽ tăng hơn trên
500 tỷ vào năm 2020. Các ngân hàng lớn như Goldman Sachs, CItybank, Standard
Chartered, DBS, Commonwealth Bank đề thiết lập và ươm mầm cho các dự án Fintech.
Theo PWC (2017) thì 77% nhà quản lý được phỏng vấn cho biết hy vọng sẽ đạt được suất
sinh lợi 20% từ các dự án ươm mầm hay liên quan tới fintech. Năm 2016, các định chế tài
chính đã đầu tư khoảng 12 tỷ đô la cho các công ty fintech toàn cầu (KPM và CB Insights,
2016).
Các định chế tài chính ở VIệt nam cũng thấy rõ tầm quan trọng và ảnh hưởng của
fintech trong dịch vụ tài chính. Hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều có internet banking,
mobile banking đã và đang dần hoàn thiện. Các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, công ty
bảo hiểm cũng dành ngân sách lớn cho mảng an ninh mạng, quản trị khách hàng.
Các định chế tài chính ở Việt nam hiện vẫn còn tập trung vào khâu nâng cao năng lực
công nghệ trong bản thân định chế tài chính hơn là chủ động phát triển các sản phẩm fintech
hay đầu tư vào các công ty fintech. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Nhà Nước năm 2018
thì 72% công ty fintech lựa chọn việc hợp tác với các ngân hàng trong khi 14% quyết định
chọn cạnh tranh với ngân hàng và 14% lựa chọn phát triển sản phẩm hoàn toàn mới (Duy
Phan, 2018)
Theo báo cáo cáo của PwC (2017), khách hàng sẽ tiếp tục là tâm điểm trong vòng 5
năm tới và các ngân hàng cho rằng các khoản vay cá nhân (64% người trả lời) và tài chính
cá nhân (50%) sẽ chịu nhiều rủi ro nếu như chuyển cho công ty fintech thực hiện. Các ngân
hàng tập trung vào sản phẩm tài chính có thiết kế trực quan, dễ sử dụng, khả năng truy cập
24/7, dịch vụ nhanh chóng để giữ chân khách hàng. Chỉ có 63% ngân hàng được hỏi là
thấy fintech như một cơ hội tăng trưởng để mở rộng sản phẩm, dịch vụ sẵn có của mình.
Tuy vậy, trong thực tế, các ngân hàng ngày càng tăng sự hợp tác với các công ty fintech
(52% năm nay so với 42% năm ngoái) và ngày càng mua nhiều dịch vụ của công ty fintech
(40% năm nay so với 25% năm ngoái).
Do mô hình các công ty fintech ở Việt nam còn rất sơ khai và chưa đủ sức cạnh tranh,
thiếu kinh nghiệm hoạt động tài chính ngân hàng, thiếu vốn, thiếu hệ thống kiểm soát tuân
thủ nội bộ, quản lý rủi ro còn yếu, và thiếu nền tảng khách hàng. Tuy nhiên, các công ty

Mã số ISBN: 978-604-922-684-7 173


fintech sử dụng các công nghệ hiện đại nhất để xây dựng giao diện thân thiện với người sử
dụng, giúp người sử dụng có trải nghiệm tốt hơn với những dịch vụ hiện có của ngân hàng.
Họ cũng nắm bắt các giá trị cốt lõi của khách hàng từ dữ liệu lớn nhằm cung cấp những
dịch vụ tốt hơn và nhanh hơn, nhất là trong lĩnh vực cho vay. Trong khi đó ngân hàng có
thế mạnh về mạng lưới khách hàng, hành lang pháp lý quy định chặt chẽ, hạ tầng công
nghệ thông tin, hệ thống kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro mạnh và có sự kết nối liên thông
với hạ tầng thị trường tài chính trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, theo GS Wong, chi
phí ngân hàng sẽ giảm xuống 80% nếu sử dụng công nghệ fintech.
Các định chế tài chính nhận ra tầm quan trọng của hệ sinh thái nên họ sẽ tích hợp, kết
hợp, phát triển các chiến lược tăng trưởng với các công ty fintech để mang lại sự đổi mới
trong nội bộ của các định chế tài chính. Hợp tác với các công ty fintech tăng từ 32% năm
2016 lên 45% năm 2017 nhưng có sự khác biệt giữa các quốc gia (hình 1). Hợp tác với công
ty fintech cho phép họ được thuê ngoài một phần R&D và có các giải pháp công nghệ thị
trường một cách nhanh chóng. Bản thân công ty fintech cũng được hưởng lợi từ quan hệ đối
tác này. Họ có thể áp dụng, kiểm tra các lý thuyết, mô hình mới với dữ liệu lớn từ khách
hàng và đồng thời cung cấp cho họ quyền truy cập vào cơ sở khách hàng rộng lớn của các
định chế tài chính. Chính vì điều này mà các công ty fintech chuyển từ B2C sang B2B.
Hình 1: Quan hệ đối tác hiện tại và dự kiến cho mỗi quốc gia

% của người trả lời kỳ vọng sẽ tăng hợp tác với công ty Fintech từ 3- 5 năm

% của người trả lời đang hợp tác với công ty Fintech

Do đó, việc hợp tác giữa công ty fintech và ngân hàng là xu thế tất yếu.
Fintech làm ngân hàng thay đổi hoàn toàn theo hướng số hóa và đa kênh đồng nhất
(omnichanel) tuy nhiên cũng khiến rủi ro an ninh mạng trở thành rủi ro chính, thường trực

174 Mã số ISBN: 978-604-922-684-7


và phức tạp. Nó cũng bắt buộc các ngân hàng phải thay đổi hạ tầng trong đó có hệ thống
thanh toán để thích ứng như sử dụng dữ liệu lớn (big data), blockchain ….
Chưa có hành lang pháp lý và sự điều chỉnh của cơ quan quản lý cũng chưa theo kịp
công nghệ dẫn đến nhiều rủi ro pháp lý cho các ngân hàng và công ty fintech khi triển khai
các ứng dụng công nghệ cao.
Hình 2: Các phương thức kết hợp giữa công ty Fintech và ngân hàng.

Nguồn: mediavn.com

5. Kết luận
Với quy mô dân số và lợi thế so sánh về nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, tiềm năng cho các công ty fintech ở Việt nam là rât lớn. Doanh nghiệp khởi
nghiệp và các doanh nghiệp trong nước bắt đầu nhận thấy nhiều cơ hội chưa được khai
thách ở lĩnh vực fintech ở Việt Nam. Quỹ đầu tư 500 startups đã thông báo kế hoạch cấp
vốn cho khoảng 100 – 150 công ty fintech ở VIệt Nam với giá trị hỗ trợ khoảng 100.000 –
150.000 đô la Mỹ. Hiện nay ở Việt Nam, một nữa công ty fintech cung cấp cho người tiêu
dùng công cụ thanh toán trực tuyến như Moca, Payoo, VinaPay, Momo hoặc giải pháp
thanh toán như POS/ mPOS, hoặc các hoạt động gọi vốn như FUndStart, Comicola,
Betado… hay cho vay trực tuyến như LoanVi, quản lý dữ liệu cá nhân như BankGo,
Moneylover, Mobivi hay ngân hàng ảo như Timo… Tuy nhiên khuôn khổ pháp lý cho các
công ty fintech chưa đầy đủ nên các công ty fintech còn mang tính tự phát, tiềm tàng rủi
ro. Ngược lại, các định chế tài chính có truyền thống lâu đời, hành lang pháp lý đầy đủ,
nguồn vốn dồi dào cũng như nguồn khách hàng lớn. Do vậy, trong tương lai, việc hợp tác
giữa các công ty fintech và các định chế tài chính là điều tất yếu và sẽ có tốc độ tăng trưởng
cao. Bên cạnh đó, rất cần thiết cho việc hoàn thiện khung pháp lý một cách minh bạch và
rõ ràng đón đầu cho xu thế phát triển không ngừng của sự hợp tác trên.

Mã số ISBN: 978-604-922-684-7 175


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diemers, D., Lamaa, A., Salamat, J., & Steffens, T. (2015), Developing a FinTech
ecosystem in the GCC. Strategy&.
2. Duy Phan, (6/2018), “72% công ty fintech muốn hợp tác nhưng vẫn có 14% muốn
cạnh tranh với ngân hàng”, Chuyên trang đầu tư tài chính Việt Nam -
VietnamFinance
3. Đình Vũ (2018), “Ngân hàng Nhà nước phân tích rủi ro của fintech với hệ thống
ngân hàng", Chuyên trang điện tử của Tạp chi Nhà Đầu Tư, 04/2018
4. FinTech – Challenges and Opportunities, Daniel Drummer, André Jerenz, Philipp
Siebelt, Mario Thaten, May 2016
5. Hayashi, Y. (2016, March 2), CFPB fines FinTech firm Dwolla over data-security
practices. The Wall Street Journal, p. C4.
6. Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam VNBA (2017), “Fintech - Xu hướng phát triển và
khuyến nghị đối với NHNN Việt Nam”, http://www.vnba.org.vn
7. Hà Văn Dương, Hà Phạm Diễm Trang, Nguyễn Hoàng Mỹ Lệ (2018), FINTECH:
Hệ sinh thái ở các nước và vận dụng tại Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 1
8. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, https://www.sbv.gov.vn
9. Nghiêm Thanh Sơn, (2017), “Hoàn thiện hệ sinh thái để Fintech Việt Nam Phát
triển”, đặc san toàn cảnh ngân hàng VIệt Nam.
10. Nguyễn Văn Tâm, (2018), “Phát triển công nghệ tài chính tại Việt Nam: Cơ hội và
thách thức”, Tạp Chí Tài Chính, 08/2018
11. Pwc (2017), Global Fintech Report;
12. Vũ Ngà, 2017, “Ngân hàng bán lẻ chịu sức ép cạnh tranh từ các công ty FinTech”,
Thời báo kinh tế tài chính.

176 Mã số ISBN: 978-604-922-684-7

You might also like