Professional Documents
Culture Documents
2.1 Thận điều hoà thành phần và nồng độ các chất trong huyết tương được lọc
qua tiểu cầu thận
Phần lớn các chất cần thiết trong cơ thể có trong dịch lọc sẽ được ống thận tái hấp thu, còn
các sản phẩm thải của quá trình chuyển hoá và các chất dư thừa như muối khoáng, nước,
… sẽ được thải qua nước tiểu. Như vậy thông qua sự tạo nước tiểu mà thận duy trì sự ổn
định về thành phần và nồng độ các chất trong huyết tương và dịch kẽ.
Lượng nước và các chất hoà tan trong huyết tương so với trong dịch lọc cần thận và
nước tiểu trong vòng 24 giờ
2.2 Thận điều hoà áp suất thẩm thấu của dịch ngoại bào
2.2.1 Khái niệm về thẩm thấu và áp suất thẩm thấu ( độ thẩm thấu )
Tất cả động vật – bất chấp nguồn gốc phát sinh chủng loại, môi trường hoặc loại chất thải
tạo ra – đều đối mặt với nhu cầu giống nhau về điều hoà thẩm thấu. Qua thời gian, hấp thu
nước và mất nước phải cân bằng. Nếu hấp thu nước quá nhiều, các tế bào động vật sẽ bị
phồng lên và vỡ ra; nếu mất nước nhiều, chúng teo lại và chết.
Nước vào và ra khỏi tế bào nhờ thẩm thấu. Lưu ý thẩm thấu là một trường hợp đặc biệt của
khuếch tán, là sự chuyển động của nước qua một màng có tính thấm chọn lọc. Nó xảy ra
bất kỳ khi nào hai dung dịch ngăn bởi màng có sự khác biệt về áp suất thấu thấu (độ thẩm
thấu).
Áp suất thẩm thấu (độ thẩm thấu): tổng nồng độ chất tan được tính bằng nồng độ
phân tử gam hay số mol chất tan trong một lít dung dịch. Đơn vị đo áp suất thẩm
thấu là miliOsmole trên lít (mOsm/l), 1 mOsm/l = 𝟏𝟎−𝟑 M.
Có ba hệ thống điều hoà áp suất thẩm thấu dịch ngoại bào: (1) Hormon ADH, (2)
Cảm giác khát và (3) Cơ chế thèm ăn muối
Một người khi uống 1 lít nước, 45 phút sau thì lượng nước tiểu tăng lên gấp 8 lần bình
thường và duy trì ở mức đó trong 2 giờ cho đến khi độ thẩm thấu ở dịch ngoại bào trở lại
bình thường, do sự ức chế bài tiết ADH. Còn khi ADH tiết nhiều, nó sẽ làm giảm lượng
nước tiểu và thể tích máu, vì tăng tái hấp thụ nước. Hậu quả là nước tiểu sẽ cô đặc và dịch
ngoại bào thì loãng, vì lượng nước nhiều và nồng độ natri giảm.
Tóm lại: Hormon ADH của vùng dưới đồi hoạt động theo cơ chế sau:
NƯỚC TIỂU LOÃNG
NƯỚC TIỂU ĐẶC DD NGOẠI BÀO ĐẶC
DD NGOẠI BÀO LOÃNG
ADH ↓
ADH ↑
Độ thẩm thấu ↑ Độ thẩm thấu ↓ Tái hấp thu nước ↓
Tái hấp thu nước ↑ ADH
Type equation here. 𝑁𝑎+ , chất thẩm
𝑁𝑎+ , chất thẩm
thấu ↑
thấu ↓
2.2.3 Cảm giác khát và sự điều hoà độ thẩm thấu dịch ngoại bào
Trung tâm cảm giác khát nằm ở vùng dọc theo vách trước bụng của não thất ba và ở vị trí
trước bên, trong vùng trước thị của vùng dưới đồi. Tiêm dung dịch muối ưu trương vào các
vùng trung tâm khát, gây thấm nước từ các tế bào thần kinh ra ngoài và gây cảm giác khát.
Vì vậy chức năng của những tế bào này như là bộ phận thụ cảm thẩm thấu, hoạt hoá cơ chế
khát, có lẽ đó cũng là bộ phận nhận cảm thẩm thấu hoạt hoá hệ thống ADH. Tăng áp suất
thẩm thấu của dịch não tuỷ trong não thất III cũng gây khát nước.
Những kích thích cơ bản gây khát là: (1) sự mất nước trong tế bào, (2) nồng độ thẩm thấu
của dịch ngoại bào tăng, đặc biệt là nồng độ 𝑁𝑎 + tăng gây thấm dịch từ tế bào thần kinh
của trung tâm khát ra ngoài, (3) mất quá nhiều 𝐾 + từ cơ thể, làm giảm 𝐾 + trong các tế bào
của trung tâm khát.
Người khát uống nước vào sẽ làm giảm ngay cảm giác khát, cả khi nước chưa kịp hấp thu
vào máu qua bộ máy tiêu hoá. Sự thực là ở người bị mở thực quản, nước uống không vào
dạ dày, vẫn mất cảm giác khát, nhưng đó chỉ là tạm thời, và cảm giác khát trở lại sau 15
phút hay hơn. Sau khi uống nước, phải từ nửa đến 1 giờ sau, nước mới được hấp thu và
phân phối đều khắp cơ thể. Cảm giác khát nếu không tạm thời mất đi, thì người ta sẽ tiếp
tục uống, và lượng nước sẽ vào quá mức cần thiết, dịch ngoại bào loãng quá mức bình
thường, cơ thể lại phải điều hoà trong vòng luẩn quẩn là thải nước qua thận.
2.2.4 Điều hoà sự thu nhập 𝑵𝒂+ bằng cơ chế thèm ăn muối
Có hai tác nhân chính kích thích thèm ăn muối : (1) Sự giảm nồng độ 𝑁𝑎 + trong dịch ngoại
bào và (2) suy tuần hoàn, gây ra do giảm thể tích máu. Tuy nhiên sự khác nhau giữa khát
và thèm ăn muối là khát thì xảy ra ngay lập tức, còn thèm ăn muối thường chậm sau nhiều
giờ và tăng lên dần dần. Trung tâm thèm ăn muối ở não cũng là trung tâm khát. Cung phản
xạ tuần hoàn tạo bởi áp suất máu thấp, hay thể tích máu giảm đều qua các trung tâm ở não,
để tác dụng đến khát và thèm ăn muối.
2.3 Thận điều hoà thể tích máu và thể tích dịch ngoại bào
2.3.1 Điều hoà thể tích máu
Khi thể tích máu tăng, làm tăng lưu lượng tim và tăng áp suất động mạch. Tăng áp suất
động mạch sẽ làm tăng mức lọc tiểu cầu, và tăng lưu lượng nước tiểu, cơ thể mất bớt nước
và thể tích máu trở về bình thường. Còn khi thể tích máu giảm thì quá trình ngược lại, thận
bài xuất ít nước tiểu, nước được tái hấp thu về cơ thể, và thể tích máu trở về bình thường.
Có nhiều yếu tố thần kinh và nội tiết điều hoà thể tích máu:
- Phản xạ thể tích: Khi thể tích máu tăng làm áp suất động mạch tăng, áp suất động
mạch phổi và áp suất các mạch khác trong lồng ngực tăng. Sức căng thụ thể áp suất động
mạch ở quai động mạch chủ và xoang động mạch cảnh gây phản xạ ức chế thần kinh giao
cảm, làm giãn tiểu động mạch vào tiểu cầu thận, làm tăng lượng nước tiểu và giảm thể tích
máu, phản xạ này được gọi là phản xạ thể tích.
- Tác dụng của yếu tố lợi tiểu 𝐍𝐚+ của tâm nhĩ: Khi hai tâm nhĩ bị căng ra do tăng
thể tích máu, nó giải phóng yếu tố lợi tiểu Na+ của tâm nhĩ ( Atrial Natriuretic Factor: ANF)
vào máu, chất này hoạt động trên thận làm tăng bài xuất Na+ gấp từ 3 đến 10 lần. Tuy
nhiên tác dụng này trên lưu lượng nước tiểu không kéo dài.
- Tác dụng của aldosteron: làm tăng tái hấp thu Na+ , kéo theo nước, làm tăng thể
tích máu lên từ 10%-20%.
- Vai trò của angiotensin: Không làm tăng thể tích máu lên quá 5%-10% mặc dù
angiotensin II có cả hai tác dụng: trực tiếp trên thận, gây ứ natri và nước, và gián tiếp khi
nó kích thích tuyến thượng thận bài tiết aldosteron.
- Tác dụng của ADH: Truyền một lượng lớn ADH cho con vật, làm tăng thể tích
máu lên từ 15%-25% trong ít ngày đầu tiên. Tuy nhiên áp suất động mạch cũng tăng, gây
bài xuất nước, sau đó thể tích máu đo được không quá 5%-10% trên bình thường và áp suất
động mạch cũng trở về bình thường. Như vậy không có sự thay đổi thể tích máu trầm trọng,
nhưng con vật bị giảm nặng Na+ ngoại bào, vì thận vẫn tiếp tục đào thải Na+ , trong khi
nước ứ lại làm pha loãng dịch.
2.3.2 Điều hoà thể tích dịch ngoại bào
Những yếu tố chính gây phù là: (1) tăng áp suất mao mạch, (2) giảm áp suất keo huyết
tương, (3) tăng áp suất keo tổ chức và (4) tăng tính thấm của mao mạch.
Sự phân phối bình thường của thể tích dịch giữa khoảng kẽ và hệ thống mạch là như sau:
khi một lượng lớn dịch tích lại ở khoảng ngoài tế bào, do uống quá nhiều nước hay do giảm
lượng nước tiểu thì khoảng 17%-34% dịch quá mức này ở lại trong máu làm tăng thể tích
máu, phần còn lại dịch ứ vào khoảng kẽ. Tuy nhiên khi thể tích dịch ngoại bào tăng lên từ
30%-50% trên mức bình thường, thì rất ít dịch ở lại trong máu, hầu hết nó sẽ đi vào khoảng
kẽ, làm khoảng kẽ trở nên quá tải, đôi khi thể tích tăng lên từ 10-30 lít, gây phù nặng.
Cơ thể ở người trưởng thành bình thường có khoảng 40 lít dịch được phân bố ở 2 khu vực.
Khoảng 25 lít dịch nằm trong tế bào gọi là dịch nội bào và 15 lít dịch nằm ngoài tế bào gọi
là dịch ngoại bào.
Dịch ngoại bào bao gồm các loại dịch trong các khu vực của cơ thể như dịch kẽ là dịch
xung quanh tế bào, huyết tương là thành phần lỏng của máu lưu thông trong hệ tuần hoàn
có màu vàng chanh, … Dịch ngoại bào luân chuyển thường xuyên khắp cơ thể. Chúng từ
mô kẽ pha lẫn vào dòng máu tuần hoàn rồi lại được thẩm thấu vào dịch mô qua vách mao
mạch.
Dịch ngoại bào chứa các ion và các dưỡng chất cần thiết cho sự sống của tế bào. Do vậy,
có thể nói tất cả mọi tế bào cùng sống trong một môi trường có tên gọi là dịch ngoại bào.
Sự khác nhau giữa dịch ngoại bào và dịch nội bào:
- Dịch ngoại bào chứa lượng lớn 𝑁𝑎 + , 𝐶𝑙 − và các ion carbonat (𝐻𝐶𝑂3 − , 𝐶𝑂3 2− ) cũng
như các dưỡng chất: oxy, glucozo, axit béo, axit amin. Nó cũng chứa 𝐶𝑂2 đưa từ tế bào ra
thải ở phổi, cùng nhiều chất thải khác để bài tiết ở thận. Thành phần của dịch ngoại bào
được điều hoà chặt chẽ bởi những cơ chế khác nhau, đặc biệt là bởi thận.
- Dịch nội bào chứa lượng lớn 𝐾 + , 𝑀𝑔2+ và các ion photphat thay vì 𝑁𝑎+ , 𝐶𝑙 − như
dịch ngoại bào. Có những cơ chế đặc biệt để vận chuyển ion qua màng tế bào giữ cho sự
chênh lệch nồng độ này được duy trì.
3. Các vấn đề liên quan đến thận
3.1 Bệnh đái tháo nhạt:
- Triệu chứng phổ biến: Rất khát nước, bài tiết ra rất nhiều nước tiểu loãng.
- Nguyên nhân: Giảm sản sinh ADH thường do tổn thương ở vùng dứoi đồi. Khi đó nước
tiểu thải ra rất nhiều và rất loãng.
Nguyên tắc cơ bản của máy thận nhân tạo là dựa trên cơ chế trao đổi chất theo bậc thang
nồng độ. Dòng máu từ động mạch người bệnh chảy vào hệ thống ống dẫn. Hệ thống này
ngâm trong dung dịch thẩm tích, và cuối cùng máu trong lòng ống chảy vễ tĩnh mạch người
bệnh.
Hệ thống ống của máy được làm bằng cellophane, thành ống có nhiều lỗ cực nhỏ, để cho
các chất hoà tan trong thuyết tương và dịch thẩm tích qua lại dễ dàng, trừ protein.
Nồng độ các chất trong dịch thẩm tích tuỳ thuộc vào yêu cầu của người bệnh. Chất nào có
nồng độ cao trong máu cần loại bớt thì nồng độ chất đố trong dịch thẩm tích thấp, thậm chí
không có, như photphat, urê, urat, sunfat, hay creatinine. Ngược lại, chất nào cần bổ sung
cho máu thì có nồng độ cao trong dịch thẩm tích. Diện tích thành ống cellophan cần phải
lớn, để có diện tiếp xúc rộng, nhờ đó tốc độ trao đổi nhanh. Bình thường diện tiếp xúc rộng
khoảng 10.000 – 20.000 𝑐𝑚2 . Thể tích máu chứa trong long ống trong bất kỳ một thời điểm
nào là không quá 500mL, và lưu lượng dòng có thể đạt tới nhiều trăm mililit trong một
phút. Để phòng ngừa sự đông máu trong thận nhân tạo, một lượng nhỏ heparin được truyền
vào máu khi nó đi qua hệ thống thận nhân tạo. Mỗi đợt chạy máy chỉ giới hạn trong một
thời gian từ 4-6 giờ, và chạy 3 lần trong một tuần.
Máy thận nhân tạo có thể rút các chất thừa ra khỏi cơ thể và bổ sung các chất cần thiết theo
ý muốn với hiệu suất rất cao.