Professional Documents
Culture Documents
Phân phức hợp chia làm hai loại : phân trộn và phân hỗn hợp .
Phân hỗn hợp là loại phân điều chế bằng phản ứng hoả học giữa các chất đầu .
Chúng thường là phần đậm đặc hoặc phân siêu đậm đặc . Còn phần trộn được điều
chế bằng cách trộn cơ học các loại phân đơn .
Hiện nay , phân phức hợp được sử dụng tương đối rộng rãi , lên tới gần một nửa
nhu cầu phấn khoáng trên thế giới . Nguyên nhân là do phân phức hợp có hiệu quả
kinh tế cao hơn các loại phân đơn . Ngoài ra , phân phức hợp còn cung cấp cho đất
các nguyên tố dinh dưỡng được đồng đều hơn .
4.2.Phân loại
4.2.1. Phân hỗn hợp
Có nhiều loại phân hỗn hợp
- Loại đi từ axit photphoric : amonphôt , diamonphôt , nitriamonphôt , diamônitrophôt
, nitrôamonphotka , diamônitrophotka . .
- Loại đi từ sản phẩm của quá trình phân huỷ photphat bằng axit nitric : nitrophotka ,
nitrophút .
- Các loại phân hỗn hợp khác .
4.2.1.1 Phân amônphột
Phân amôn phối chính là muối amonhiđrophotphat, có lẫn một phân
armonmonohiđrôphotphat , sản phẩm của quá trình trung hoà axit photphoric bằng
amoniac . Ngoài ra , còn có các hợp chất khác như những muối không tan trong
nước : NH4 Fe(HPO4)2 , NH4Al(HPO4 )2 . . . Tỉ lệ giữa P2O5 và N trong amônphôt
tương đối phù hợp với các yêu cầu các nguyên tố dinh dưỡng của đất : P2O5/N =1/4.
Khi trung hòa axit photphoric bằng amonic, thực tế ta thu được 3 muối:
NH4H2PO4 { amôndihiđrophotphat }
(NH4)3PO4 {amonphotphat }
Amonphotphat rất không bền , ở nhiệt độ gần 30°C bị phân huỷ tạo thành
amonmonohiđrophotphat và amoniac :
(NH4)3PO4 = (NH4)2HPO4 + NH3
Amonmonohiđrôphotphat tuy có bền hơn amonphotphat lại có tỉ lệ PON phù hợp
với nhu cầu của cây trồng hơn amondihirophotphat nhưng cũng là loại muối không
bền . Ở nhiệt độ gần 70°C , nó cũng bị phân huỷ thành amond hiđrophotphat và
amoniac :
(NH4)2HPO4 = (NH4)2HPO4 + + NH3
Amondihidrophotphạt là muối bên , là thành phần chủ yếu của phần amôn phốt
( khoảng 80 - 90 % ) . Phần còn lại là amonmonohiđrophotphat .
4.2.1.2.Nitrophôt và nitrophôtka
Nitrophôt là phân đạm - lân , nitrophotka là đạm - lân - kali . Chúng được điều
chế trên cơ sở xử lí dung dịch sản phẩm của phản ứng giữa quặng phosphat và axit
nitric . - Quá trình phân huỷ photphat bằng axit nitric
Đó là một quá trình phức tạp , được mô tả bằng phản ứng tổng quát :
Ca5F(PO4)3 + 10HNO3 = 3H3PO4 + 5Ca(NO3)2 + HF
Trong quá trình này , những tạp chất có trong quặng như cacbonat của canxi và
magie , oxit của sắt và nhôm , canxi florua cũng phản ứng với axit nitric tạo thành các
nitrat tương ứng :
(Ca,Mg)CO3 + 2HNO3 = ( Ca ,Mg )(NO3)2 + CO2 + H2O
CaF2 + 2 HNO3 = Ca(NO3)2 + 2HF
(Fe,Al)2O3 + 6HNO = 2(Fe,Al) (NO3)3 + 3H2O
Các oxit của sắt và nhôm cũng tác dụng với axit photphoric tạo thành trong phản
ứng chính , tạo ra các photphat không tan trong nước , làm mất P2O5:
(Fe,Al)2O3 + 2H3PO4 = 2(Fe,Al)PO4 + 3H2O
Axit HF hình thành trong phản ứng phân huỷ quặng tác dụng với SiO 2 có trong
quặng tạo thành H2SiF6 theo phương trình phản ứng :
6HF + SiO2 = H2SiF6+ 2H2O
Quá trình phân huỷ quặng ít phụ thuộc vào nồng độ axit . Người ta thường dùng
axit nitric 47 - 55 % với lượng dư khoảng 2 – 5 % so với yêu cầu của phản ứng .
Nhiệt độ tiến hành phản ứng thường trong khoảng 45 - 50°C
Do kết quả của phản ứng phân huỷ quặng photphat , ta thu được dung dịch axit
phôtphoric và canxi nitrat có các tạp chất gồm nitrat của sắt , nhồi và axit H2SiF6 .
Ngoài ra , còn có axit nitric tự do . Dung dịch này thường được gọi là phần chiết nitrat
.
4.2 . Phân trộn
Phân trộn được sản xuất bằng cách trộn cơ học các loại phân ( đơn hoặc hỗn hợp )
với nhau và với các bán sản phẩm Có hai phương pháp trồn : trốn khổ và trộn ướt .
4.2.1 . Công nghệ trộn phân khô
Bằng cách trộn , người ta sản xuất được các loại phân có tỉ lệ các chất dinh dưỡng
khác nhau , đáp ứng được các nhu cầu của cây trồng . Tuy nhiên , người ta không thể
trộn các loại phân bất kì với nhau vì giữa một số loại phân có thể xảy ra phản ứng hoá
học làm giảm chất làm thay đổi tính chất vật lí của phân , không có lợi cho cây trồng (
tăng độ hút ẩm , dễ vón cục . . . ) . Phần trộn phải bảo đảm các yêu cầu : nồng độ các
chất dinh dưỡng cao và giữ chủng đạt một tỉ lệ nhất định : đồng đều về thành phần
trong quá trình vận chuyển , tàng trữ trong kho , không bị phân lớp ; có tính chất vật
lý tốt .
Có nhiều phương pháp trộn , một troợng những phương pháp đó là trộn lẫn các
loại phân bột rồi tạo hạt . Ưu điểm của phương pháp này là trong mỗi hạt có đủ các
chất dinh dưỡng của phân trộn .
Phân bột các loại được trộn trong thiết bị trộn thùng quay , sau đó đưa sang thiết
bị tạo hạt kiểu thùng quay hay đĩa .
Ở một số nước , người ta dùng phương pháp trộn phân hạt . Nhược điểm của
phương pháp này là dần dần , phân bón bị phân lớp theo cỡ hạt ; hiện tượng này được
gọi là sự phân tụ hạt . Để khắc phục hiện tượng phân tụ , phải trộn các hạt cùng cỡ ;
ngoài ra phải hạn chế việc vận chuyển .
BẢNG 2. MỘT SỐ LOẠI PHÂN TRỘN PHỔ BIẾN
STT Cấu tử trộn Thành phần chất dinh dưỡng
(%)
N P2O5 K2O
1 NPK, Kali clorua 16 16 16
2 Urê, amônphôt 10 20 20
3 amônphôtnitrit 6 24 24
4 Phụ gia trung hòa, Suppephotphat kép 19.3 19.3 19.3
Nhược điểm của sản phẩm: Các dòng sản phẩm phụ thuộc vào công nghệ và
nguyên liệu, vì vậy hạn chế cho việc đa dạng hóa các công thức sản phẩm. Không
thể sản xuất các sản phẩm có hàm lượng dinh dưỡng thấp.
Hình 1: Băng chuyền
4.3.4. Tính chất đối kháng và không đối kháng của các phân bón đơn trong
thành phần nguyên liệu NPK.
4.3.4.1.Tính đối kháng và không đối kháng:
Khi chế tạo phân hỗn hợp, một số muối ban đầu và những sản phẩm khác không
thể trộn lẫn với nhau được. Bởi vì, có thể xảy ra những quá trình hoá học không mong
muốn. Kết quả của những quá trình hoá học ấy sẽ làm tổn thất các chất dinh dưỡng
(bay hơi hoặc thoái giảm thành dạng không hiệu quả) và làm cho tính chất lý học của
sản phẩm bị xấu đi. Những hiện tượng gây nên như thế được gọi là tính đối kháng.
Ngược lại điều đó, chúng có thể hỗn hợp với nhau mà không nảy sinh quá trình phụ
có hại gọi là tính không đối kháng của các phân bón.
VD: Khi hỗn hợp Super lân với NH4NO3:
2NH4NO3 + Ca(H2PO4)2 = 2NH4H2PO4+ Ca(NO3)2
NH4NO3 + H3PO4 = NH4H2PO4 + HNO3
Do những phản ứng xảy ra đó mà bị tổn thất hàm lượng dinh dưỡng (ở dạng hơi
HNO3 hoặc các Oxit nitơ) và tính chất lí học bị xấu hơn các cấu tử ban đầu (vì xuất
hiện Ca(NO3)2 dễ hút ẩm). Việc tạo thành HNO3 có thể ngăn ngừa được bằng cách
đưa vào hỗn hợp các chất phụ gia trung hoà hoặc amôn hoá bằng NH3 khi đó loại bỏ
được khả năng tổn thất nitơ. Đồng thời nhờ vào việc chuyển một bộ phận mônôcanxi
phốt phát thành đicanxiphôtphat và một phần nước ở dạng ẩm tự do bị liên kết thành
dạng kết tinh làm cho cho tính chất lí học của sản phẩm trở nên tốt hơn và hàm lượng
P2O5 tan trong nước bị giảm do việc tăng hàm lượng P 2O5 tan trong xitrat (axit xitric
2%).
Để giảm sự thoái giảm P2O5, có thể bổ xung một lượng nhỏ các muối Mg và Fe
hoà tan vào phân hỗn hợp chứa supe lân trước khi amôn hoá, Amôn hoá tới pH = 7 ta
được sản phẩm không có sự thoái giảm P 2O5 và đồng thời thu được sản phẩm chứa
5% Nitơ.
Trong một số trường hợp khi hỗn hợp có thể thu được sản phẩm có tính chất lí học
tốt hơn so với các cấu tử ban đầu.
VD: Khi hỗn hợp supe lân với (NH4)2SO4
(NH4)2SO4 + Ca(H2PO4)2H2O + H2O = 2NH4H2PO4 + CaSO4.2H2O
Từ những phản ứng trên ta có nhận xét: Ta sẽ thu được sản phẩm khô ráo và đóng
rắn do sự tạo thành CaSO 4.2H2O (thạch cao) có độ hút ẩm nhỏ. Nhưng để loại trừ khả
năng kết khối của nó phải nghiền và bảo quản một thời gian dài để phản ứng kết thúc.
Những phân bón hỗn hợp có tính chất lí học tốt, độ hút ẩm nhỏ, không bị kết khối khi
bảo quản, thu được bằng cách trộn amôn phôtphát, KCl với Supe lân, (NH 4)2SO4. Khi
hỗn hợp chúng với NH4NO3 hoặc Urê sẽ thu được sản phẩm có độ tơi xốp, nhưng bảo
quản trong không khí ẩm tính lí hoá bị xấu đi.
Để giải quyết những vấn đề về khả năng hỗn hợp loại phân bón này với loại phân
bón kia; người ta đã đưa ra biểu đồ chỉ dẫn sự khác nhau của việc hỗn hợp các phân
bón dựa trên những giải thuyết lí thuyết và các số liệu thực hiện. Tuy nhiên tính đối
kháng của các phân bón chưa được nghiên cứu đầy đủ.
4.3.5.Phụ gia
Chú ý - Nên sử dụng chất phụ gia để ngăn ngừa phân bón khỏi bị vón cục:
Hiện tượng vón cục vủa phân khoáng có ảnh hưởng lớn tới chất lượng của phân,
gây khó khăn cho việc bảo quản, vận chuyển và bón vào đất. Những yếu tố ảnh hưởng
đến vón cục là: Độ ẩm, của không khí, tính hút ẩm của phân bón, độ hoà tan, thành
phần hoá học và độ bền cơ học của hạt, thời gian bảo quản và điều kiện khí hậu.
Để làm giảm hoặc ngăn cản hiện tượng vón cục thì phải sấy triệt để hơn, dùng bao
bì chống ẩm và dùng chất phụ gia. Các chất phụ gia sử dụng được chia làm 3 loại.
1) Các chất hoạt động bề mặt, làm thay đổi tính hút ẩm và các tính chất bề mặt
khác của hạt phân bón.
2) Các chất phụ gia thêm vào trước kết tinh hoặc tạo hạt làm thay đổi cấu tạo vật lí
và tính chất của hạt trong quá trình tạo hạt (thường là các muối vô cơ).
3) Các chất hữu cơ và vô cơ trơ, làm ngăn cách hạt không cho chúng tiếp xúc với
nhau.
Trong số các chất phụ gia hoạt động bề mặt thường dùng là: Những Sunfonat của
những dẫn xuất naflen và ben zen
(VD: Đôđexyl Benzen Sunfonat: HO3S-C6H5(CH2)11CH3)
Nhược điểm: dùng dưới dung dịch loãng nên phải thêm bột trơ để hấp phụ độ ẩm.
Người ta còn dùng các amin béo và muối của chúng, có hiệu quả cao, nhưng làm bẩn
môi trường.
Chống vón cục bằng các muối vô cơ trước khi tạo hạt và kết tinh: Các muối của
kim loại đa hoá trị như nhôm, sắt, canxi...
Các chất hoạt động bề mặt có giá thành cao, nên người ta thường dùng một lượng
rất nhỏ (0,2-0,1%) so với lượng phân.
Những chất phụ gia hữu cơ và vô cơ thường dùng là: CaCO 3, cao lanh, Pôliolêfin,
Closilan.
Có thể dùng chất VHCKK2000 (do Viện hoá học Việt Nam sản xuất - chất này
hiện nhà máy đạm Hà Bắc đang dùng để bọc đạm Ure để chống phân huỷ, chống vón
cục và tạo độ bóng cho hạt) hoặc Tamin để làm lớp bọc bảo vệ hạt phân bón và làm
hạt phân bóng, đẹp.
4.3.6. Một số sản phẩm NPK trên thị trường hiện nay.
Tác dụng: Là loại phân NPK dùng bón thúc cho nhiều loại cây,
trên mọi loại đất, giúp cây trồng sinh trưởng nhanh, tạo năng
Cách sử dụng: