Professional Documents
Culture Documents
Quặng apatit từ mỏ đưa vào nhà máy qua phân loại sơ bộ được băng tải 8,9 hoặc cần cẩu 10 đưa lên boke
chứa 11. Từ đây quặng đổ vào thùng sấy 12 được đốt nóng bằng khói lò đốt than 1 (ở giai đoạn này được
tráng bị các hệ thống lọc bụi). Quặng sau sấy đưa qua máy nghiền 7 bằng hệ thống băng tải. Quặng nghiền
đưa qua bộ phận phân ly hạt 17, những hạt đạt yêu cầu được đưa về thùng chứa 22 cung cấp nguyên liệu cho
thùng trộn 25. Tại thùng trộn bột, apatit được trộn với axit sunphuric có nồng độ từ 65 – 67%. Thùng chứa
23 phối hợp với thùng chứa 24 để điều chỉnh nồng độ axit theo yêu cầu tùy vào chất lượng quặng. Hỗn hợp
apatit và axit ra khỏi thùng trộn đưa vào thùng hóa thành 26 để tiếp tục phản ứng tạo khối super photphat tơi
xốp nhờ bộ phân dao cắt và sau đó tháo ra khỏi thùng hóa thành qua ống trung tâm, sản phẩm được đưa ra
khỏi thùng hóa thành đưa vào kho ủ và đánh tơi 37 tạo khối super photphat xốp và tiến hành trung hòa ở kho
ủ đến khi lượng P2O5 tự do đạt yêu cầu thì xuất xưởng. Khí thoát ra ở thùng trộn và thùng hóa thành được
tập trung đưa vào hệ thống hấp thụ khí flo 29 nhờ quạt hút 34 đế giải phóng không khí sau khi hấp thụ flo.
Dung dịch sau hấp thụ khí flo là axit flosilisic được chuyển về dạng Na2SiF6 nhờ đưa NaCl vào hệ thống xử
lý khí flo.
3. Giải thích hình sau
Hình 3.5 mô tả tốc độ phân hủy của quặng phụ thuộc vào nồng độ acid sunfuric, trục hoành là mức thay đổi
của nồng độ H2SO4, trục tung là mức phân hủy.
Có 2 cực đại và 1 cực tiểu phụ. Khi tăng nồng độ acid thì tốc độ và mức độ phân hủy tăng đến
giá trị cực đại. Nhưng khu vượt qua giới hạn đó thì mức độ phân hủy lại giảm dần cho tới giá trị
cực tiểu. Nguyên nhân là do ở nồng độ đó có hiện tượng làm tăng độ quá baxp hòa của hệ bởi
canxi sunfat, làm giảm tốc độ và mức độ phân hủy. Sau đó nếu tăng nồng độ tiếp ta sẽ tiến tới giá
trị cực đại 2.
Với cực đại đầu, tại nồng độ H2SO4 thấp thì tốc độ và mức độ phân hủy cao. Nhưng không chọn
khoảng này vì nếu nồng độ loãng thì lượng nước mang vào pứ quá lớn, kéo theo khối sản phẩm
không tơi xốp, không khô ráo và dễ bị hút ẩm.
Ta phải tiến tới nồng độ cao hơn. Tuy nhiên nếu lượng acid quá cao, thì lượng CaSO4 sinh ra gđ
1 sẽ bão hòa tạo các hạt mịn bám lên bề mặt của quặng, ngăn cản sự phản ứng tiếp theo của acid
H2SO4 lên quặng phản ứng, cũng như ngăn cản sự phản ứng của H3PO4 lên quặng apatit phía bên
trong CaSO4, làm sản phẩm không tơi xốp, dính bết
Để thu được canxi sunfat kết tinh hạt lớn, xốp cần phải khống chế ở mức quá bão hòa thấp, khi
ấy lỏng sẽ phân bố trong các lỗ xốp chứ không phải trên bề mặt hạt. Tùy theo từng loại quặng mà
nên chọn nồng độ acid từ 60-70% (độ phân hủy quặng phụ thuộc vào nguyên liệu, tỉ lệ lỏng rắn
và thời gian phản ứng)
4. Các tiêu chí để đánh giá tính chất của sản phẩm mà đã đề xuất quy trình ở trên
Các loại phân đơn với kích thước khác nhau phải trải qua công đoạn nghiền sơ bộ để tạo thành bột mịn sau
đó được định lượng bằng thiết bị cân điện tử với thành phần tuân theo kết quả được tính toán ở trên. Sau khi
được định lượng thì các loại phân đơn dang bột mịn đưa vào thiết bị pha trộn. Sau đó được đưa vào thiết bị
nén ép. Tại đây sẽ tác động lực nén ép cơ học đủ lớn lên nguyên liệu để bề mặt nguyên liệu được tiến sát vào
nhau, các lực tương tác liên phân tử cũng như lực hút tĩnh điện gây ra sự liên kết hình thành hạt vật liệu ở
dạng vẩy. Máy ép trục lăn là thành phần chính đảm bảo quá trình này. Nó bao gồm một đơn vị nạp liệu và
hai trục ép song song, quay trên trục ngang, cách nhau một khe hẹp tối đa đến 25 mm. Một trục lăn được gắn
cố định, còn trục kia có thể di chuyển để điều chỉnh độ rộng của khe giữa 2 trục. Sản phẩm ép nén có dạng
vảy với các chiều dày khác nhau (tối đa đến 30 mm)
Sản phẩm sau khi ép được đưa đến thiết bị tạo hạt và sàng. Hạt nào đạt chuẩn yêu cầu thì đem đi xử lý bề
mặt và đóng gói lưu kho. Còn hạt các hạt chưa đạt yêu cầu tiếp tục đi qua rây, nào lớn hơn kích thước chuẩn
thì đưa trở lại thiết bi pha trộn, hạt nhỏ hơn kích thước chuẩn thì đưa về thiết bị tạo hạt. Bụi phát sinh từ các
thiết bị nghiền, sàng pha trộn tạo hạt nén ép được thu hồi về hệ thống xử lý bụi.
4. Tính toán
Xét phân NPK 17-7-17 (17%N-7%P2O5-17%K2O)
Dùng Ure (46%N) sử dụng 10%, DAP (18N-46 P2O5), KCl (60% K2O), AS amonisunfat (21%N-24%S)
Bắt đầu từ Kaki: %KCl=17/0,6=28.3%
%DAP=7/0,46=15.2%
Trong DAP có N: %N=15,2*0,18=2,74%
%N trong ure: %N= 10*0,46=4,6%
Lượng N cần cung cấp thêm N=17 – 2,74 – 4,6=9,66
Vậy lượng cần trộn %SA=9,66/0,21=46%
Chất độn là chất thêm vào để đủ tổng 100% (chất chỉnh tỉ lệ) = 100 - (28,3 + 15,2 + 10 + 46) = 0,5%
Chất này có thể bổ sung các nguyên tố trung lượng hay vi lượng cho cây trồng.
Nếu ko sử dụng độn, tỷ lệ Ure, SA là bao nhiêu?
Cố định hàm lượng DAP, KCl, điều chỉnh Ure và SA theo tỉ lệ. Đã có 43,5% (28,3%KCl là 15,2%DAP)
N còn thiếu là: 17–2,74=14,26
X là %SA, Y là %Ure → X+Y=56,5 và 0,21X + 0,46Y=14,26
X=46,92% Y=9,58%
VI. Lý thuyết về phân bón nhả chậm, phân bón chậm tan có kiểm soát
1. Phân bón chậm tan có kiểm soát (CRF)
Cấu tạo của một hạt phân bón chậm tan có kiểm soát bao gồm có 2 phần: Phần bao bọc bên ngoài là các
lớp polymer, lớp này dày hay mỏng tùy theo yêu cầu về thời gian phân giải); phần nhân bên trong là các
khoáng chất như N, P, K,…
Các hạt phân khi bón vào đất sẽ được nước trong đất thẩm thấu qua lớp bọc, hòa tan các khoáng chất
trong nhân rồi khuếch tán qua lớp bọc ra lại bên ngoài môi trường. Quá trình diễn ra cho đến khi phần nhân
bên trong cạn kiệt, chỉ còn lại lớp vỏ bọc bên ngoài. Lớp vỏ bọc này sẽ tự phân hủy sau 1-2 năm mà không
gây ảnh hưởng tới đất.
Đây là loại phân được sản xuất với công nghệ lý-hóa đặc biệt tạo ra những hạt phân chứa đầy đủ nhất
các chất dinh dưỡng đa lượng, trung lượng và vi lượng và hơn thế là tất cả các dinh dưỡng này điều được
phân giải một cách từ từ, thời gian phân giải hết một hạt phân từ 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng… cho
tới 24 tháng/ 2 năm.
Ưu điểm:
- Tối ưu quá trình phát triển của cây trồng, góp phần tăng năng suất cây trồng
- Bón phân chỉ một lần mỗi mùa vụ: ví dụ phân được sử dụng sẽ là hỗn hợp của urea có thời gian phân
giải tối đa 3 tháng, phân DAP có thời gian phân giải 6 tháng và Kali Sulfat có thời gian phân giải 9
tháng. Nhờ đó chỉ cần bón 1 lần và cây phát triển tốt → tiết kiệm chi phí
- Giải quyết bài toán rửa trôi và bay hơi của phân bón một cách tối ưu và triệt để, từ đó giảm tác động
cơ học đến đất, giảm ô nhiễm mt đất và không khí
- Không cần tưới tiêu quá nhiều, quá trình phân giải vẫn diễn ra dù không cung cấp nước
Nhược điểm:
- Giá thành cao, người dân chưa được phổ biến rộng rãi về loại phân bón này
- Tính toán bón phân 1 lần phức tạp: lượng phân cần bón, mật độ rải, vị trí bón
- Chủng loại chưa đa dạng, do cần quy trình sản xuất rất tiên tiến, phức tạp và đa dạng
2. Phân bón nhả chậm (SRF)
Phân bón nhả chậm là loại phân bón không có vỏ bọc, có tính tan trong nước giới hạn, phần lớn được sản
xuất dưới dạng các hạt kích thước nhỏ, có cấu tạo hóa học đồng nhất cho tất cả các hạt. Thành phần dinh
dưỡng trong phân bón được biến đổi sao cho chúng khó tan hơn trong điều kiện môi trường bình thường
(Ví dụ cũng là chất P nhưng phân super lân thì tan nhanh hơn là phân lân nung chảy, phân lân nung chảy
không tan trong nước ở nhiệt độ thường mà phải tan trong môi trường axit yếu). Trong phân đó các chất
dinh dưỡng vốn tan nhanh sẽ được giải phóng ra từ từ, kéo dài thời gian tan ra trong môi trường lâu hơn
loại phân bình thường, nhưng con đường và thời gian tan không kiểm soát được.
Ưu điểm: tương đối giống phân bón chậm tan ở trên, ngoài ra phân SRF không bọc, do đó mức độ phân
giải không tùy thuộc vào vỏ bọc, cho nên dù các thiết bị canh tác có phá hủy được các hạt phân loại này
cũng không làm thay đổi tốc độ phân giải của chúng.
VII. Phân bón than sinh học
1. Định nghĩa
Than sinh học được định nghĩa là một loại sản phẩm giàu cacbon thu được từ quá trình nhiệt phân
sinh khối. Nó có nguồn gốc từ việc chuyển đổi chất thải nông nghiệp thành chất cải tạo đất có thể
giữ chất dinh dưỡng, tăng chất lượng lương thực và đa dạng sinh học cho đất. Ngày nay, than sinh
học có thể được sản xuất từ hầu hết các loại nguyên liệu bao gồm cả chất thải nông nghiệp (trấu, rơm
rạ, bã mía, phân động vật) và thậm chí cả chất thải xanh đô thị (rác hữu cơ) thông qua quá trình nhiệt
phân điều kiện hiếm khí. Than sinh học có thể là một công cụ quan trọng để làm giàu lương thực và
đa dạng đất trồng trọt ở những khu vực có đất bị cạn kiệt nghiêm trọng, nguồn tài nguyên hữu cơ
khan hiếm và nguồn cung cấp phân bón và nước không đủ.
2. Tính chất
Than sinh học có đặc trưng là không đồng nhất về cấu trúc. Sự chuyển hóa sinh khối thành than sinh
học đã làm thay đổi cấu trúc của vật liệu theo nhiều hướng khác nhau, từ đó làm ảnh hưởng đến tính
chất của chúng. Tuy nhiên, tính chất chung của hầu hết các loại than sinh học có thể được tổng hợp
dựa trên nhiều nghiên cứu lý thuyết:
(1) Hàm lượng Cacbon thơm (trong khoảng 10-90% khối lượng sản phẩm).
(2) Than sinh học là 1 hỗn hợp không đồng nhất giữa cacbon vô định hình và cấu trúc
tinh thể graphite phụ thuộc vào điều kiện nhiệt phân.
(3) Hệ thống cấu trúc với lỗ xốp và diện tích bề mặt riêng lớn
3. Vai trò
- Than sinh học trong sử dụng làm phân hữu cơ có những yếu tố quan trọng đối với đất như sau:
- Có khả năng hấp phụ các nitrate, amoni từ dung dịch đất, cố định đạm lên bề mặt than sinh học
giúp làm giảm lượng đạm bị mất do thấm xuống đất.
- Độ xốp cao và số lượng lớn các nhóm chức trao đổi cation đóng vai trò quan trọng trong việc giữ
lại các chất dinh dưỡng
- Có khả năng hấp phụ kim loại nặng trong các sản phẩm thuốc trừ sâu như: chì, cacdimi, sắt, đồng
và các chất độc hữu cơ khác, góp phần tránh sự phát thải vào môi trường.
- Thúc đẩy việc chuyển hóa chất thải hữu cơ cũng như các chất gây ô nhiễm trong đất. Than sinh học
hấp thu CO2 để lưu giữ tạo ra các dạng năng lượng cho cây trồng, giảm biến đổi
khí hậu
- Ngăn chặn sự nhiễm độc Al3+ cho cây trồng thông qua việc hấp phụ và biến đổi Al3+ về dạng bất
hoạt. Ngoài ra than sinh học có đặc tính điều chỉnh độ chua của đất.