Professional Documents
Culture Documents
Tóm tắt: Nghệ thuật âm nhạc và vũ đạo truyền thống Trung Quốc vốn là mảng kiến thức nằm trong
nội dung giảng dạy của môn Đất nước học dành cho sinh viên năm thứ 3 Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Trung
Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vì vậy, để giúp người học có cái nhìn tổng
quan và hiểu sâu hơn nữa về cội nguồn đất nước, con người và văn hóa Trung Hoa nói chung, mảng nghệ
thuật này nói riêng, trong khuôn khổ bài viết dưới đây, bằng phương pháp tổng hợp và phân tích, chúng tôi
tập trung làm nổi bật mối tương quan giữa âm nhạc và vũ đạo truyền thống Trung Hoa trong dòng chảy lịch
sử phát triển của các triều đại Trung Quốc, từ đó, bài viết chỉ ra những giá trị văn hóa sâu xa, tinh tế hàm
chứa trong nghệ thuật âm nhạc và vũ đạo cổ điển Trung Hoa.
Từ khóa: âm nhạc, vũ đạo, nghệ thuật, giá trị văn hóa, truyền thống
1. Đặt vấn đề 1
học dành cho sinh viên năm thứ 3, Khoa Ngôn
Trong bối cảnh đổi mới chương trình ngữ và Văn hóa Trung Quốc, Trường Đại học
đào tạo và không ngừng nâng cao chất lượng Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây
dạy học, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học là môn học có phạm trù văn hóa rộng, vì
Quốc gia Hà Nội luôn dồn nhiều tâm huyết và vậy, chúng tôi luôn trăn trở tìm tòi, lựa chọn
cố gắng để vừa phát huy được thế mạnh truyền nội dung nào và xử lý nội dung văn hóa đó
thống dạy học ngoại ngữ của trường, vừa tạo ra sao để vừa phù hợp tiêu chí đào tạo của
cơ sở cho việc mở rộng thêm các chuyên ngành Nhà trường đề ra, vừa phát huy cao độ vai trò
đào tạo khác nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp của môn học trong việc cung cấp tri thức văn
nguồn nhân lực có trình độ cao cho đất nước hóa cho sinh viên. Nhận thức được tầm quan
trong xu thế hội nhập quốc tế hóa hiện nay. trọng đó, trong khuôn khổ bài viết này, dựa
Cùng với đó, những cử nhân ngoại ngữ của trên căn cứ ngữ liệu thu thập được từ tư liệu
trường được trang bị không chỉ kiến thức ngôn lịch sử và các tác phẩm kinh điển, chúng tôi
ngữ chuyên ngành mà còn cả kiến thức tổng vận dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để
quan về nhiều lĩnh vực, trong đó có kiến thức làm rõ hơn mối tương quan trong nguồn gốc,
văn hóa, đất nước học Trung Quốc. tiến trình lịch sử ra đời và phát triển của âm
nhạc, vũ đạo truyền thống Trung Quốc, từ đó,
Mảng kiến thức về nghệ thuật âm nhạc
chỉ ra giá trị của nó trong việc thúc đẩy văn
và vũ đạo truyền thống Trung Quốc nằm
hóa truyền thống Trung Quốc phát triển. Qua
trong nội dung giảng dạy của môn Đất nước
đó, chúng tôi mong muốn có thể cung cấp cho
*
ĐT.: 84-984165915 sinh viên các kiến thức chuyên sâu hơn nữa
Email: anhthucspnn@yahoo.com cũng như những giá trị văn hóa cốt lõi ẩn chứa
138 N.A. Thục/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144
trong đó, giúp cho việc lĩnh hội kiến thức của hiện uy phong của quốc gia cường thịnh. Về
người học thêm phong phú hơn. mục đích, “Văn vũ” và “Võ vũ” ngoài việc
phục vụ nhu cầu giải trí của giai cấp thống
2. Nguồn cội và sự phát triển của âm nhạc,
trị, chủ yếu dùng để tuyên truyền cho “lễ chế”
vũ đạo Trung Hoa cổ điển (chế độ lễ giáo) thời Tây Chu và bảo vệ sự
Trong lĩnh vực nghệ thuật, âm nhạc và tôn nghiêm, bất khả xâm phạm của giai cấp
vũ đạo có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vũ thống trị. Đến thời Xuân thu - Chiến quốc, chế
đạo thường phải sử dụng âm nhạc làm nhạc độ lễ nhạc dần mất đi tác dụng khống chế đối
đệm, vì thế âm nhạc được coi là linh hồn của với các thế lực địa chủ phong kiến mới nổi,
vũ đạo. Cũng giống như âm nhạc, vũ đạo khởi đồng thời do sự cứng nhắc về cả nội dung lẫn
nguồn cho những sáng tạo cảm hứng đến từ hình thức nên nhã nhạc không còn đáp ứng
chính cuộc sống lao động của con người. nhu cầu giải trí của giới quý tộc, chư hầu nữa.
Ngay từ xã hội cổ xưa, âm nhạc và vũ đạo đã Khoảng thời gian này xuất hiện cục diện “Lễ
xuất hiện và len lỏi trong mọi lĩnh vực hoạt băng nhạc hoại” (lễ nhạc giáo hóa sụp đổ, quy
động của người nguyên thủy như: cúng tế, trừ phạm đạo đức đổ nát). Nhã nhạc cung đình
tà, săn bắn, hái lượm v.v..., trong đó có thể xuống dốc nhưng ca múa dân gian thời đó do
thấy giá trị sử dụng nhạc vũ cao hơn giá trị có quan hệ mật thiết với đời sống của tầng lớp
thẩm mỹ. bình dân nên vẫn giữ được sức sống mạnh mẽ,
Lịch sử âm nhạc và vũ đạo Trung Quốc, cuối cùng du nhập vào cuộc sống nghệ thuật
từ góc độ vĩ mô, có thể phân thành ba thời của giới quý tộc và quan lại cung đình, thay
kỳ: “Nhạc vũ thượng cổ”, “Ca vũ trung cổ” thế địa vị của nhã nhạc và trở thành xu hướng
và “Hí khúc Tống, Nguyên, Minh, Thanh giai chính của nghệ thuật nhạc vũ thời Xuân thu -
đoạn cận cổ”. Theo tư liệu lịch sử, văn hóa Chiến quốc (陈应时,2006).
âm nhạc Trung Quốc ra đời cách đây khoảng Nếu xét trong cả tiến trình lịch sử phát
8000 năm. Từ sau khi xã hội nguyên thủy triển nhạc vũ Trung Quốc, Xuân thu - Chiến
chuyển sang xã hội nô lệ, vũ đạo phân thành quốc chính là thời kỳ “Nhạc vũ thượng cổ”.
hai hướng phát triển rõ rệt: một là “Vu vũ” vốn Bộ thơ ca ra đời sớm nhất “Kinh Thi”1 có thể
thịnh hành trong thời kỳ nhà Thương, chuyên coi là nằm trong giai đoạn kinh tế xã hội và
phục vụ nghi thức cúng tế để cầu mong sự che văn hóa rực rỡ của Xuân thu - Chiến quốc.
chở, phù hộ của các đấng thần linh, trời, Phật “Kinh Thi” thu thập, tổng hợp các tác phẩm
tiếp tục được phát triển, hai là “Nhạc vũ nhã âm nhạc với chiều dài lịch sử khoảng 500
nhạc” phát triển từ nhu cầu thưởng thức phục năm từ đầu Tây Chu đến cuối Xuân thu, trong
vụ giải trí của giai cấp quý tộc cũng như theo đó loại hình dân ca chiếm đa số. “Kinh Thi”
đuổi cảm quan về đạo đức luân lý. Đến đầu vốn gọi là “Thi” hay chính là ca từ được phối
thời Tây Chu, giai cấp thống trị chỉnh lý bổ
sung nhạc vũ thời kỳ trước để xây dựng nên
hệ thống nhã nhạc cung đình, mục đích nâng “Kinh Thi” là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc ra đời
1
nhạc, mang đậm âm hưởng nhạc lý và tuyệt Ngũ Đại. Giai đoạn này, triều đình nhà Hán
kỹ nghệ thuật, bao gồm 3 phần: Phong, Nhã, không chỉ thiết lập cơ quan chuyên trách về
Tụng. Trong đó, “Phong” là ca khúc trong âm nhạc và múa hát, gọi chung là “Hán Nhạc
dân gian, gồm 15 quốc phong với 160 thiên, phủ”(nhạc phủ thời Hán), mà các gia đình
“Nhã” là âm nhạc trong cung đình dùng cho quý tộc, quan lại cũng đào tạo ra khá nhiều
tầng lớp quý tộc đời Chu và một phần của đội ngũ nghệ nhân giỏi về nhạc vũ. Từ hoàng
quần chúng, gồm 105 thiên, “Tụng” là ca vũ đế quan lại cho đến bá tánh bình dân đều vô
để cúng tế, ngợi ca công đức tổ tiên và dùng ở cùng yêu thích ca vũ, làn gió này lan rộng
nơi tông miếu, gồm 40 thiên (刘生良,2011: khắp nơi trên cả nước. Với tầm vóc lịch sử
13). Nguồn gốc các bài thơ trong “Kinh Thi” lâu dài là 106 năm, nhiệm vụ chính của “Hán
khá phức tạp, gồm cả ca dao, dân ca và nhã Nhạc phủ” là thu thập các ca khúc dân gian
nhạc triều đình, với các tác giả thuộc mọi rồi sáng tác, phối viết ca từ, ca khúc, tiến hành
tầng lớp trong xã hội đương thời. Nội dung diễn xướng và diễn tấu phục vụ cho tầng lớp
“Kinh Thi” chứa đựng rất nhiều những áng quý tộc, quan lại cung đình. Có thể nói, dân
thơ châm biếm, kể chuyện, những trang sử ca do “Hán Nhạc phủ” phụ trách ra đời là các
thi hào nhoáng…Nó được ví như một bức tuyệt phẩm âm nhạc dân gian thời Tây Hán,
tranh miêu tả toàn cảnh về xã hội Trung Hoa ví như “Thượng Tà” thể hiện tình yêu chân
lúc bấy giờ. Khi đọc “Kinh Thi”, rất nhiều thành mãnh liệt, “Mạc Sinh Điệp” với ca từ
bài thơ có thể phổ nhạc. Trong Sử ký, Tư Mã đẹp và rung động lòng người v.v…đều là
Thiên viết rằng: “Cổ giả Thi tam thiên dư những tác phẩm bất hủ gửi gắm nỗi niềm, tình
thiên, chí Khổng Tử khử kỳ trùng, thủ khả thi cảm chất chứa sâu lắng của con người. Hình
vu lễ nghĩa tam bách ngũ thiên, giai huyền thức biểu diễn lưu truyền phổ biến rộng rãi
ca chi, dĩ cầu hợp Thiều, Vũ, Nha, Tụng chi nhất thời Hán là “Bách hí”. Đây là loại hình
âm” (Ngày xưa “Kinh Thi” có tất cả hơn ba nghệ thuật biểu diễn mang tính tổng hợp bởi
nghìn bài. Đến thời Khổng Tử, Khổng Tử bỏ sự pha trộn phức tạp của các hình thái nghệ
bớt những bài trùng lặp, chỉ lấy 305 bài mà thuật đặc sắc như: tạp kỹ, võ thuật, âm nhạc,
Ngài thấy có ích cho lễ nghĩa rồi phổ nhạc và vũ đạo, xướng ca v.v… Vũ đạo thời Hán thiên
cố gắng tìm âm sao cho hợp với nhạc Thiều, về trình diễn và phô trương kỹ xảo điêu luyện
Vũ, Nhã, Tụng). Thế kỷ thứ 4 trước công như điệu múa nổi tiếng “Bàn Cổ Vũ” lưu danh
nguyên, một bộ tác phẩm ưu tú đồ sộ khác khắp chốn lúc bấy giờ.
ra đời tiếp nối “Kinh Thi”, đó là “Sở Từ”. Thời kỳ Tùy Đường, kinh tế phồn vinh,
Các ca khúc trong bộ tác phẩm này do Khuất quốc lực cường thịnh, thể loại nhạc vũ phát
Nguyên sáng tác dựa trên chất liệu của các triển trong giai đoạn này về tính chất không
ca khúc dùng trong hoạt động cúng tế dân chỉ khác với nhạc vũ cổ đại, mà chức năng
gian thuộc miền Nam nước Sở. Nội dung tác giải trí và giá trị thẩm mỹ cũng cao hơn. Lịch
phẩm phần lớn gửi gắm nỗi niềm tình cảm sử thường nói nhiều đến cụm từ “Yến nhạc”,
mãnh liệt cũng như thể hiện sức tưởng tượng thực chất chính là hình thức âm nhạc vũ đạo
phong phú và giàu trí sáng tạo nghệ thuật âm chuyên phục vụ biểu diễn trong các buổi yến
nhạc của “Sở Từ”. tiệc tiếp đãi quan khách cung đình. Khái niệm
Trong sự phát triển hình thái âm nhạc “Đại khúc ca vũ” đời Đường thường là các
Trung Quốc, tiếp nối thời kỳ “Nhạc vũ thượng tác phẩm mang tính nghệ thuật tầm cỡ cả về
cổ” là thời kỳ “Ca vũ trung cổ” được tính quy mô lẫn chất lượng, nó là sự tổng hợp của
từ thời gian nhà Tần, Hán đến Tùy, Đường, nhạc khí, nhạc thơ và vũ đạo, kết cấu phức
140 N.A. Thục/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144
các động tác của diễn viên trên sân khấu thêm vũ đạo xuất hiện sự phục hưng các vũ điệu
phần quyến rũ, giọng hát và lời thoại mang cung đình như “Tơ lụa hoa vũ”, “Biên chung
tính nhạc cao đã cường điệu nét trữ tình của nhạc vũ”. Vũ đạo cổ điển Trung quốc trên cơ
“Hí khúc”. Cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, sở tiếp thu tinh hoa của “Hí kịch” và võ thuật
“Kinh kịch” xuất hiện và trở thành điểm nhấn Trung Quốc, tiếp tục ra đời những tác phẩm
nổi bật nhất của “Hí khúc”. Trải qua hàng vũ đạo cổ điển với trình độ nghệ thuật đỉnh
trăm năm, với sự sáng tạo không ngừng nghỉ cao như “Hà hoa vũ”, “Túy kiếm”, “Trường
của các trường phái nghệ thuật nổi tiếng như châu” …
“Tứ đại danh đán” gồm Mai Lan Phương,
3. Ý nghĩa văn hóa thể hiện trong âm nhạc
Trình Nghiêm Thu, Thượng Tiểu Vân, Tuần
Tuệ Sinh, thành tựu nghệ thuật “Kinh kịch” và vũ đạo cổ điển Trung Quốc
đã đạt đến đỉnh cao “vô tiền khoáng hậu”. Đây Dựa trên luận điểm của người xưa “văn
cũng chính là đỉnh cao thứ ba của nghệ thuật dĩ tải đạo” “nhạc dĩ tải văn” (văn để truyền
“Hí khúc”. tải giá trị đạo đức của con người, nhạc để
truyền tải giá trị nghệ thuật và giá trị nhân
Sau Chiến tranh nha phiến, lịch sử Trung
văn), chúng ta không thể phủ nhận âm nhạc,
quốc bước vào thời kỳ cận hiện đại. Âm nhạc
thơ ca truyền thống Trung Quốc không chỉ có
thời kỳ này chủ yếu thể hiện tư tưởng dân chủ
vai trò thẩm mĩ mà còn là cầu nối liên kết giá
yêu nước, phản ánh “tinh thần Ngũ Tứ”, khí
trị văn hóa lịch sử Trung Hoa. Học giả Dong
khái anh hùng dân tộc hay ý chí đấu tranh và
Huanling (董焕玲) từng nhận định: “Âm nhạc
phản đối chiến tranh của dân chúng. Từ năm
có thể phản ánh trào lưu văn hóa của một niên
1949 đến khi kết thúc cách mạng văn hóa năm
đại, một thời kỳ, thể hiện đặc trưng văn hóa
1976, rất nhiều tác phẩm văn nghệ với trình
và văn minh lịch sử của một dân tộc, một khu
độ nghệ thuật cao, mang đậm hơi thở thời đại,
vực, phản ánh diện mạo tinh thần của con
điển hình như tác phẩm sử thi “Đông phương
người trong điều kiện lịch sử và hoàn cảnh cụ
hồng” đan lồng âm nhạc vũ đạo; vũ kịch cổ
thể.” (董焕玲,2007:4).
điển dân tộc có “Lương Sơn Bá, Chúc Anh
Đài”; đại hợp xướng có “Tổ khúc Trường Vào thời văn minh tiền sử xa xưa, ba
chinh”; “Kinh kịch” có “Hải cảng”; ca kịch có lĩnh vực thơ ca, âm nhạc và vũ đạo là một thể
“Hoàng Hà” v.v… Từ sau năm 1976, các nhà thống nhất tuy ba mà một, trong thơ có nhạc,
sáng tác nghệ thuật vẫn không ngừng hoàn trong nhạc có múa, trong múa có thơ, gọi
thiện và cho ra đời các tác phẩm phản ánh đời chung là “Nhạc”. Zhao Minli (赵敏俐)trong
sống hiện thực và tình cảm chân thành nồng nghiên cứu của mình cũng đúc kết: “Thơ ca
hậu của người dân, bằng triết lý sâu sắc để không phải là nghệ thuật ngôn ngữ đơn thuần
khơi gợi tư tưởng nhân văn của con người. mà là nghệ thuật mang tính tổng hợp trong
Sáng tác âm nhạc đã vượt qua khỏi tư duy mối quan hệ gắn bó mật thiết với âm nhạc”
âm nhạc vốn dĩ đóng khung trong chuẩn tắc (赵敏俐,2002:5). Trước thời Xuân thu, âm
truyền thống, dung hòa tiếp thu và vận dụng nhạc được coi là một loại hình ngôn ngữ văn
kỹ thuật sáng tác âm nhạc cận hiện đại nước hóa dùng để an bang trị quốc và có chức năng
ngoài, theo đuổi và tìm kiếm giá trị thẩm mỹ lễ nghi giáo hóa dân chúng, truyền tải đạo lý
cao hơn, khiến bản sắc văn hóa dân tộc điểm của quân vương, đất trời. Lễ hưng nhạc thịnh
tô thêm hương sắc mới, đậm đà và khởi sắc trong triết lý nhân sinh quan của người xưa
hơn, được thể hiện xuất sắc qua tác phẩm chính là xã hội văn minh lý tưởng mà họ mong
“Sơn chi nữ”, “Tây giang nguyệt” v.v…Còn muốn hướng tới. Thời kỳ đó, khi muốn đem
142 N.A. Thục/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144
thống vũ đạo Trung Hoa hoàn chỉnh ngày nay. nên hào phóng khoáng đạt, vóc dáng tráng kiện,
Với nguồn gốc lịch sử khoảng 5000 năm, vũ khỏe khoắn với nắng gió, mây trời. Do quen với
đạo được lưu truyền trong cung đình, dân gian việc cưỡi ngựa trên thảo nguyên bao la, vai bắp
và nhạc phủ cổ xưa. Nó là hiện thân của ý thức săn chắc phù hợp với những động tác vũ đạo sử
thẩm mỹ truyền thống với các động tác chứa dụng phần vai trên khá nhiều, từ đó hình thành
đựng nội hàm văn hóa độc đáo. Thông qua biểu nên vũ đạo dân gian của dân tộc Mông như điệu
đạt của thần thái, thân pháp và kỹ thuật, người “Túy khiên” với giá trị thẩm mỹ cao, khắc họa
múa mô phỏng và tái hiện cuộc sống hiện thực đậm nét đặc trưng vũ đạo dựa trên động tác phi
đồng thời gửi gắm tâm tư tình cảm của mình. ngựa cùa người Mông. Ngoài ra, dân tộc Mông
Cùng với đó, giá trị quan, khái niệm đạo đức, Trung Quốc còn có vũ điệu nổi tiếng “Rót rượu
tiêu chuẩn được phản ánh và khắc họa rõ nét tư múa đũa”. Điệu múa này bắt nguồn từ đặc trưng
tưởng nội tại qua động tác vũ đạo. Bên cạnh đó, lối sống du mục nay đây mai đó. Để tránh khí
những dấu ấn trong quan niệm văn hóa Nho, hậu giá rét mùa đông nơi thảo nguyên hoang dã,
Phật, Đạo và đặc trưng tính cách con người trong tiệc rượu, người Mông thường dùng bát
Trung Quốc đều ít nhiều thể hiện trong vũ đạo vại uống rượu cho đủ đầy, ấm bụng, đồng thời
truyền thống Trung Quốc. Qua những nguyên để không khí buổi tiệc càng thêm hưng phấn, họ
tắc chuẩn xác cơ bản của vũ đạo như “di chuyển, thường sử dụng đũa ăn gõ nhịp tạo ra giai điệu
vặn, nghiêng, tròn, uốn, xoay người” hay vui tươi, rộn ràng rồi nhảy múa. Và điệu múa
hướng nhìn, cách đặt ngón tay v.v…, đã khắc dân gian “Rót rượu múa đũa” ra đời bắt nguồn
họa khéo léo sự biến hóa nội tâm của trạng thái từ đó. Tựu chung, những vũ đạo truyền thống
tình cảm, toát lên ý nghĩa “trong cương ngoài này đã thể hiện trọn vẹn đặc điểm văn hóa thảo
nhu” hay đặc trưng tính cách mềm dẻo, khiêm nguyên hoang dã và khí chất hào hiệp, phóng
nhường cũng như tinh thần “thiên nhân hài khoáng cởi mở của dân tộc Mông Trung Quốc.
hòa” trong văn hóa truyền thống Trung Hoa.
4. Kết luận
(邓捷,2012:3)
Phân tích trên đây cho thấy âm nhạc và
Bên cạnh đó, vũ đạo dân gian dân tộc được
vũ đạo không chỉ liên quan mật thiết với nhau
phát triển từ những điệu nhảy từ thời rất xa xưa
trong cả tiến trình lịch sử hình thành và phát
trong xã hội nguyên thủy mà mục đích ban đầu triển mà thực sự còn liên quan chặt chẽ đến
dùng để phục vụ các sinh hoạt trong lao động, triết lý, đặc biệt là triết lý của Nho giáo. Trải
sau là nghi lễ truyền thống và nghi lễ tôn giáo. qua bao thăng trầm, biến động đổi thay của
Vì thế, vũ đạo dân gian mang dấu ấn sinh động các triều đại trong xã hội nô lệ và phong kiến
về cuộc sống lao động, tình cảm, cách nghĩ và Trung Quốc, âm nhạc và vũ đạo chứa đựng
những quan điểm thẩm mĩ, chứa đựng những triết lý nhân sinh sâu sắc, luôn được coi trọng
đặc trưng văn hóa của các cộng đồng xuất phát và trở thành một phần không thể thiếu trong
từ những điều kiện địa lí, xã hội, phong tục, tập đời sống văn hóa tinh thần, tín ngưỡng, tâm
quán, tín ngưỡng của các dân tộc khác nhau. linh không những của vua chúa, quý tộc mà
Với hình thức dễ hiểu và gần gũi, nó trở thành còn của quần chúng nhân dân Trung Quốc.
phương thức truyền tải tình cảm hữu hiệu đồng Đó cũng là phương tiện để các thế hệ tu tâm
thời cũng là tiêu chí văn hóa để phân biệt phần dưỡng tính, biểu đạt tư tưởng tình cảm, thể
“hồn”, phần “sắc” riêng biệt của mỗi dân tộc. Ví hiện tài năng của con người.
dụ, dân tộc Mông với lối sống du mục, bầu bạn Trong dòng chảy lịch sử, âm nhạc và vũ
với thiên nhiên bầu trời rộng mở, tôi luyện tháng đạo truyền thống Trung Quốc mang tính kế
năm với cuộc sống gian khổ, tính cách của họ trở thừa và không ngừng phát triển, ngày càng trở
144 N.A. Thục/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144