You are on page 1of 8

CỘI NGUỒN LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA VĂN HÓA

CỦA ÂM NHẠC, VŨ ĐẠO TRUYỀN THỐNG


TRUNG HOA CỔ ĐIỂN

Nguyễn Anh Thục*


Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Trung Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN,
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam

Nhận bài ngày 31 tháng 05 năm 2018


Chỉnh sửa ngày 27 tháng 11 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 11 năm 2018

Tóm tắt: Nghệ thuật âm nhạc và vũ đạo truyền thống Trung Quốc vốn là mảng kiến thức nằm trong
nội dung giảng dạy của môn Đất nước học dành cho sinh viên năm thứ 3 Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Trung
Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vì vậy, để giúp người học có cái nhìn tổng
quan và hiểu sâu hơn nữa về cội nguồn đất nước, con người và văn hóa Trung Hoa nói chung, mảng nghệ
thuật này nói riêng, trong khuôn khổ bài viết dưới đây, bằng phương pháp tổng hợp và phân tích, chúng tôi
tập trung làm nổi bật mối tương quan giữa âm nhạc và vũ đạo truyền thống Trung Hoa trong dòng chảy lịch
sử phát triển của các triều đại Trung Quốc, từ đó, bài viết chỉ ra những giá trị văn hóa sâu xa, tinh tế hàm
chứa trong nghệ thuật âm nhạc và vũ đạo cổ điển Trung Hoa.
Từ khóa: âm nhạc, vũ đạo, nghệ thuật, giá trị văn hóa, truyền thống
1. Đặt vấn đề 1
học dành cho sinh viên năm thứ 3, Khoa Ngôn
Trong bối cảnh đổi mới chương trình ngữ và Văn hóa Trung Quốc, Trường Đại học
đào tạo và không ngừng nâng cao chất lượng Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây
dạy học, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học là môn học có phạm trù văn hóa rộng, vì
Quốc gia Hà Nội luôn dồn nhiều tâm huyết và vậy, chúng tôi luôn trăn trở tìm tòi, lựa chọn
cố gắng để vừa phát huy được thế mạnh truyền nội dung nào và xử lý nội dung văn hóa đó
thống dạy học ngoại ngữ của trường, vừa tạo ra sao để vừa phù hợp tiêu chí đào tạo của
cơ sở cho việc mở rộng thêm các chuyên ngành Nhà trường đề ra, vừa phát huy cao độ vai trò
đào tạo khác nhằm đáp ứng yêu cầu cung cấp của môn học trong việc cung cấp tri thức văn
nguồn nhân lực có trình độ cao cho đất nước hóa cho sinh viên. Nhận thức được tầm quan
trong xu thế hội nhập quốc tế hóa hiện nay. trọng đó, trong khuôn khổ bài viết này, dựa
Cùng với đó, những cử nhân ngoại ngữ của trên căn cứ ngữ liệu thu thập được từ tư liệu
trường được trang bị không chỉ kiến thức ngôn lịch sử và các tác phẩm kinh điển, chúng tôi
ngữ chuyên ngành mà còn cả kiến thức tổng vận dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để
quan về nhiều lĩnh vực, trong đó có kiến thức làm rõ hơn mối tương quan trong nguồn gốc,
văn hóa, đất nước học Trung Quốc. tiến trình lịch sử ra đời và phát triển của âm
nhạc, vũ đạo truyền thống Trung Quốc, từ đó,
Mảng kiến thức về nghệ thuật âm nhạc
chỉ ra giá trị của nó trong việc thúc đẩy văn
và vũ đạo truyền thống Trung Quốc nằm
hóa truyền thống Trung Quốc phát triển. Qua
trong nội dung giảng dạy của môn Đất nước
đó, chúng tôi mong muốn có thể cung cấp cho
*
ĐT.: 84-984165915 sinh viên các kiến thức chuyên sâu hơn nữa
Email: anhthucspnn@yahoo.com cũng như những giá trị văn hóa cốt lõi ẩn chứa
138 N.A. Thục/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144


trong đó, giúp cho việc lĩnh hội kiến thức của hiện uy phong của quốc gia cường thịnh. Về
người học thêm phong phú hơn. mục đích, “Văn vũ” và “Võ vũ” ngoài việc
phục vụ nhu cầu giải trí của giai cấp thống
2. Nguồn cội và sự phát triển của âm nhạc,
trị, chủ yếu dùng để tuyên truyền cho “lễ chế”
vũ đạo Trung Hoa cổ điển (chế độ lễ giáo) thời Tây Chu và bảo vệ sự
Trong lĩnh vực nghệ thuật, âm nhạc và tôn nghiêm, bất khả xâm phạm của giai cấp
vũ đạo có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vũ thống trị. Đến thời Xuân thu - Chiến quốc, chế
đạo thường phải sử dụng âm nhạc làm nhạc độ lễ nhạc dần mất đi tác dụng khống chế đối
đệm, vì thế âm nhạc được coi là linh hồn của với các thế lực địa chủ phong kiến mới nổi,
vũ đạo. Cũng giống như âm nhạc, vũ đạo khởi đồng thời do sự cứng nhắc về cả nội dung lẫn
nguồn cho những sáng tạo cảm hứng đến từ hình thức nên nhã nhạc không còn đáp ứng
chính cuộc sống lao động của con người. nhu cầu giải trí của giới quý tộc, chư hầu nữa.
Ngay từ xã hội cổ xưa, âm nhạc và vũ đạo đã Khoảng thời gian này xuất hiện cục diện “Lễ
xuất hiện và len lỏi trong mọi lĩnh vực hoạt băng nhạc hoại” (lễ nhạc giáo hóa sụp đổ, quy
động của người nguyên thủy như: cúng tế, trừ phạm đạo đức đổ nát). Nhã nhạc cung đình
tà, săn bắn, hái lượm v.v...,   trong đó có thể xuống dốc nhưng ca múa dân gian thời đó do
thấy giá trị sử dụng nhạc vũ cao hơn giá trị có quan hệ mật thiết với đời sống của tầng lớp
thẩm mỹ. bình dân nên vẫn giữ được sức sống mạnh mẽ,
Lịch sử âm nhạc và vũ đạo Trung Quốc, cuối cùng du nhập vào cuộc sống nghệ thuật
từ góc độ vĩ mô, có thể phân thành ba thời của giới quý tộc và quan lại cung đình, thay
kỳ: “Nhạc vũ thượng cổ”, “Ca vũ trung cổ” thế địa vị của nhã nhạc và trở thành xu hướng
và “Hí khúc Tống, Nguyên, Minh, Thanh giai chính của nghệ thuật nhạc vũ thời Xuân thu -
đoạn cận cổ”. Theo tư liệu lịch sử, văn hóa Chiến quốc (陈应时,2006).
âm nhạc Trung Quốc ra đời cách đây khoảng Nếu xét trong cả tiến trình lịch sử phát
8000 năm. Từ sau khi xã hội nguyên thủy triển nhạc vũ Trung Quốc, Xuân thu - Chiến
chuyển sang xã hội nô lệ, vũ đạo phân thành quốc chính là thời kỳ “Nhạc vũ thượng cổ”.
hai hướng phát triển rõ rệt: một là “Vu vũ” vốn Bộ thơ ca ra đời sớm nhất “Kinh Thi”1 có thể
thịnh hành trong thời kỳ nhà Thương, chuyên coi là nằm trong giai đoạn kinh tế xã hội và
phục vụ nghi thức cúng tế để cầu mong sự che văn hóa rực rỡ của Xuân thu - Chiến quốc.
chở, phù hộ của các đấng thần linh, trời, Phật “Kinh Thi” thu thập, tổng hợp các tác phẩm
tiếp tục được phát triển, hai là “Nhạc vũ nhã âm nhạc với chiều dài lịch sử khoảng 500
nhạc” phát triển từ nhu cầu thưởng thức phục năm từ đầu Tây Chu đến cuối Xuân thu, trong
vụ giải trí của giai cấp quý tộc cũng như theo đó loại hình dân ca chiếm đa số. “Kinh Thi”
đuổi cảm quan về đạo đức luân lý. Đến đầu vốn gọi là “Thi” hay chính là ca từ được phối
thời Tây Chu, giai cấp thống trị chỉnh lý bổ
sung nhạc vũ thời kỳ trước để xây dựng nên
hệ thống nhã nhạc cung đình, mục đích nâng “Kinh Thi” là tập thơ đầu tiên của Trung Quốc ra đời
1

từ thế kỷ thứ 6, cách đây 2500 năm, một trong năm


cao trình độ vũ đạo và tăng cường chức năng bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong
giáo dục của nghệ thuật múa. Nhã nhạc cung “Kinh Thi” được sáng tác trong khoảng thời gian 500
đình thời Tây Chu tiếp tục được phân thành năm, từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân thu.
hai loại “Văn vũ” và “Võ vũ”, trong đó “Văn “ Kinh Thi” gồm có 310 thiên, trong đó có 305 thiên
đầy đủ, 6 thiên còn lại gồm “ Nam cai, Hoa thử, Bạch
vũ” chủ yếu thể hiện qua việc nhà vua dùng
hoa, Sùng khâu, Do canh, Do nghi” chỉ có đề mục
đức độ trị vì thiên hạ, còn “Võ vũ” là để thể và nhạc đệm mà không có lời (刘生良,2011: 13).
Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144 139

nhạc, mang đậm âm hưởng nhạc lý và tuyệt Ngũ Đại. Giai đoạn này, triều đình nhà Hán
kỹ nghệ thuật, bao gồm 3 phần: Phong, Nhã, không chỉ thiết lập cơ quan chuyên trách về
Tụng. Trong đó, “Phong” là ca khúc trong âm nhạc và múa hát, gọi chung là “Hán Nhạc
dân gian, gồm 15 quốc phong với 160 thiên, phủ”(nhạc phủ thời Hán), mà các gia đình
“Nhã” là âm nhạc trong cung đình dùng cho quý tộc, quan lại cũng đào tạo ra khá nhiều
tầng lớp quý tộc đời Chu và một phần của đội ngũ nghệ nhân giỏi về nhạc vũ. Từ hoàng
quần chúng, gồm 105 thiên, “Tụng” là ca vũ đế quan lại cho đến bá tánh bình dân đều vô
để cúng tế, ngợi ca công đức tổ tiên và dùng ở cùng yêu thích ca vũ, làn gió này lan rộng
nơi tông miếu, gồm 40 thiên (刘生良,2011: khắp nơi trên cả nước. Với tầm vóc lịch sử
13). Nguồn gốc các bài thơ trong “Kinh Thi” lâu dài là 106 năm, nhiệm vụ chính của “Hán
khá phức tạp, gồm cả ca dao, dân ca và nhã Nhạc phủ” là thu thập các ca khúc dân gian
nhạc triều đình, với các tác giả thuộc mọi rồi sáng tác, phối viết ca từ, ca khúc, tiến hành
tầng lớp trong xã hội đương thời. Nội dung diễn xướng và diễn tấu phục vụ cho tầng lớp
“Kinh Thi”  chứa đựng rất nhiều những áng quý tộc, quan lại cung đình. Có thể nói, dân
thơ châm biếm, kể chuyện, những trang sử ca do “Hán Nhạc phủ” phụ trách ra đời là các
thi hào nhoáng…Nó được ví như một bức tuyệt phẩm âm nhạc dân gian thời Tây Hán,
tranh miêu tả toàn cảnh về xã hội Trung Hoa ví như “Thượng Tà” thể hiện tình yêu chân
lúc bấy giờ. Khi đọc “Kinh Thi”, rất nhiều thành mãnh liệt, “Mạc Sinh Điệp” với ca từ
bài thơ có thể phổ nhạc. Trong Sử ký, Tư Mã đẹp và rung động lòng người v.v…đều là
Thiên viết rằng: “Cổ giả Thi tam thiên dư những tác phẩm bất hủ gửi gắm nỗi niềm, tình
thiên, chí Khổng Tử khử kỳ trùng, thủ khả thi cảm chất chứa sâu lắng của con người. Hình
vu lễ nghĩa tam bách ngũ thiên, giai huyền thức biểu diễn lưu truyền phổ biến rộng rãi
ca chi, dĩ cầu hợp Thiều, Vũ, Nha, Tụng chi nhất thời Hán là “Bách hí”. Đây là loại hình
âm” (Ngày xưa “Kinh Thi” có tất cả hơn ba nghệ thuật biểu diễn mang tính tổng hợp bởi
nghìn bài. Đến thời Khổng Tử, Khổng Tử bỏ sự pha trộn phức tạp của các hình thái nghệ
bớt những bài trùng lặp, chỉ lấy 305 bài mà thuật đặc sắc như: tạp kỹ, võ thuật, âm nhạc,
Ngài thấy có ích cho lễ nghĩa rồi phổ nhạc và vũ đạo, xướng ca v.v… Vũ đạo thời Hán thiên
cố gắng tìm âm sao cho hợp với nhạc Thiều, về trình diễn và phô trương kỹ xảo điêu luyện
Vũ, Nhã, Tụng). Thế kỷ thứ 4 trước công như điệu múa nổi tiếng “Bàn Cổ Vũ” lưu danh
nguyên, một bộ tác phẩm ưu tú đồ sộ khác khắp chốn lúc bấy giờ.
ra đời tiếp nối “Kinh Thi”, đó là “Sở Từ”. Thời kỳ Tùy Đường, kinh tế phồn vinh,
Các ca khúc trong bộ tác phẩm này do Khuất quốc lực cường thịnh, thể loại nhạc vũ phát
Nguyên sáng tác dựa trên chất liệu của các triển trong giai đoạn này về tính chất không
ca khúc dùng trong hoạt động cúng tế dân chỉ khác với nhạc vũ cổ đại, mà chức năng
gian thuộc miền Nam nước Sở. Nội dung tác giải trí và giá trị thẩm mỹ cũng cao hơn. Lịch
phẩm phần lớn gửi gắm nỗi niềm tình cảm sử thường nói nhiều đến cụm từ “Yến nhạc”,
mãnh liệt cũng như thể hiện sức tưởng tượng thực chất chính là hình thức âm nhạc vũ đạo
phong phú và giàu trí sáng tạo nghệ thuật âm chuyên phục vụ biểu diễn trong các buổi yến
nhạc của “Sở Từ”. tiệc tiếp đãi quan khách cung đình. Khái niệm
Trong sự phát triển hình thái âm nhạc “Đại khúc ca vũ” đời Đường thường là các
Trung Quốc, tiếp nối thời kỳ “Nhạc vũ thượng tác phẩm mang tính nghệ thuật tầm cỡ cả về
cổ” là thời kỳ “Ca vũ trung cổ” được tính quy mô lẫn chất lượng, nó là sự tổng hợp của
từ thời gian nhà Tần, Hán đến Tùy, Đường, nhạc khí, nhạc thơ và vũ đạo, kết cấu phức
140 N.A. Thục/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144

kỹ thuật cao siêu, kỹ nghệ biểu diễn tinh


tạp, Tây Chu trở nên giàu chất thơ, giàu hình ảnh
xảo, đội nhạc hoành tráng, hiện thân cho đỉnh và tràn đầy sức trẻ thanh xuân.
cao của sự phát triển âm nhạc vũ đạo cổ điển, Thời nhà Tống, giao lưu buôn bán mậu
là hình thức cao nhất của âm nhạc cung đình. dịch trong và ngoài nước nhộn nhịp, kinh tế
Bởi lẽ nó có sự pha trộn tinh tế yếu tố ngoại lai thành thị phồn thịnh. Cùng với sự phát triển
nhưng lại dung hòa với âm nhạc truyền thống của kinh tế hàng hóa và sự mở rộng các tầng
dân tộc nên đã tạo ra dấu ấn chuyển mình mới lớp cư dân thành thị, hoạt động âm nhạc vũ
mẻ. Điển hình là tác phẩm “Tần Vương phá đạo vô cùng sôi nổi, tính chất văn hóa nghệ
trận”, “Nghê thường vũ y vũ” được coi là thuật của nó chuyển từ ca vũ cung đình thời
những “Đại khúc ca vũ” điển hình đã đạt được Hán Đường sang thích ứng với thẩm mỹ và
thành tựu nghệ thuật to lớn, trở thành kiệt tác nhu cầu âm nhạc bình dân của số đông tầng
trong lịch sử nghệ thuật múa Trung Hoa. Điều lớp dân chúng. Sự phát triển âm nhạc vũ đạo
đặc biệt là làn điệu “Nghê thường vũ y vũ” Trung Quốc bước vào thời kỳ cận cổ. Các
đích thân do vua Đường Minh Hoàng sáng loại hình nghệ thuật đa dạng như “Hí khúc”,
tác và được độc vũ bởi nàng Dương Quý Phi. “Thuyết thư”, đặc biệt sự phát triển mạnh của
Sức sáng tạo đặc sắc ở điệu múa này chính bởi “Hí khúc” thời nhà Nguyên đã làm lung lay
sự hòa quyện tự nhiên giữa nghệ thuật múa vị trí bậc nhất của ca múa. Quan niệm lấy âm
truyền thống với sắc thái nghệ thuật múa du nhạc làm chủ thể để phát triển nghệ thuật dần
nhập từ phương Tây, sự mô phỏng ước lệ hoàn dần hình thành. Trong khoảng thời gian 200
hảo trong cấu trúc nội dung, hình thức của làn năm từ nhà Tống đến Minh Thanh, sự phát
điệu và tính biểu cảm tâm lý phong phú phản triển âm nhạc “Hí khúc” Trung Quốc trải qua
ánh qua cấu trúc động tác mềm mại, uyển ba giai đoạn đỉnh cao. Thời kỳ đỉnh cao thứ
chuyển của người múa, cộng hưởng thêm giai nhất, “Tạp kịch” nhà Nguyên đúc rút những
điệu âm nhạc tuyệt mỹ đã tái hiện sinh động kinh nghiệm thành công của “Hí khúc”, “Ca
hình tượng tiên nữ chốn bồng lai tiên cảnh. Về vũ”, “Hát xướng” của nhà Tống tạo nên hệ
phong cách, vũ đạo được phân thành hai thể thống âm nhạc “Hí khúc” và nghệ thuật biểu
loại lớn: “Kiến vũ” và “Nhuyễn vũ”. “Kiến diễn “Hí khúc” hoàn chỉnh. Thời kỳ đỉnh cao
vũ” vốn là những điệu múa nổi tiếng bắt nguồn thứ hai là “Hí khúc” phía Nam phát triển mạnh
từ Tây Vực với động tác mạnh mẽ, dứt khoát, mẽ thời nhà Minh, qua quá trình đại cách tân
tiết tấu nhanh như điệu “Hồ hoàn” - tên điệu nên dần hoàn thiện cả về âm nhạc lẫn trình độ
múa nghĩa là “cơn gió xoáy”, mạnh mẽ trôi biểu diễn, đồng thời trong sáng tác kịch bản
chảy, tự do xoay lượn, đẹp huyền bí đến nao đã đạt được những thành tựu văn học xuất sắc,
lòng, khiến vua chúa, quan lại đều đắm say tiêu biểu có “Mẫu đơn đình” do tác giả Thanh
hòa cùng điệu nhảy. Trong khi đó “Nhuyễn Hiển Tổ sáng tác, hay “Đào hoa quạt” của tác
vũ” lại mềm mại, lả lướt, phong cách hoa mĩ giả Khổng Đường Nhiệm. Trên cơ sở nền tảng
bay bổng, tiết tấu chậm rãi. Trong “Nhuyễn “Hí khúc” thời nhà Minh, nghệ thuật vũ đạo
vũ”, điệu múa có sức cuốn hút nhất là điệu “Hí khúc” cũng phát triển nhanh chóng đồng
“Lục yêu” và “Xuân oanh chuyển”. Người thời là sự tổng hòa của bốn hình thức biểu
biểu diễn những điệu múa này phải là nữ giới diễn cơ bản “xướng, niệm, tác, đả” vốn được
với dáng điệu mềm mại, uyển chuyển, thướt hình thành trên cơ sở kết tinh những tinh hoa
tha. Phong cách nghệ thuật của “Kiến vũ” nghệ thuật qua các triều đại lịch sử. Những
và “Nhuyễn vũ” khiến cho khái niệm truyền hình thức biểu diễn này dựa trên nguyên tắc
thống “Văn vũ”và “Võ vũ” vốn ra đời từ thời hư cấu, với sự biến hóa có chọn lọc làm cho
Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144 141

các động tác của diễn viên trên sân khấu thêm vũ đạo xuất hiện sự phục hưng các vũ điệu
phần quyến rũ, giọng hát và lời thoại mang cung đình như “Tơ lụa hoa vũ”, “Biên chung
tính nhạc cao đã cường điệu nét trữ tình của nhạc vũ”. Vũ đạo cổ điển Trung quốc trên cơ
“Hí khúc”. Cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, sở tiếp thu tinh hoa của “Hí kịch” và võ thuật
“Kinh kịch” xuất hiện và trở thành điểm nhấn Trung Quốc, tiếp tục ra đời những tác phẩm
nổi bật nhất của “Hí khúc”. Trải qua hàng vũ đạo cổ điển với trình độ nghệ thuật đỉnh
trăm năm, với sự sáng tạo không ngừng nghỉ cao như “Hà hoa vũ”, “Túy kiếm”, “Trường
của các trường phái nghệ thuật nổi tiếng như châu” …
“Tứ đại danh đán” gồm Mai Lan Phương,
3. Ý nghĩa văn hóa thể hiện trong âm nhạc
Trình Nghiêm Thu, Thượng Tiểu Vân, Tuần
Tuệ Sinh, thành tựu nghệ thuật “Kinh kịch” và vũ đạo cổ điển Trung Quốc
đã đạt đến đỉnh cao “vô tiền khoáng hậu”. Đây Dựa trên luận điểm của người xưa “văn
cũng chính là đỉnh cao thứ ba của nghệ thuật dĩ tải đạo” “nhạc dĩ tải văn” (văn để truyền
“Hí khúc”. tải giá trị đạo đức của con người, nhạc để
truyền tải giá trị nghệ thuật và giá trị nhân
Sau Chiến tranh nha phiến, lịch sử Trung
văn), chúng ta không thể phủ nhận âm nhạc,
quốc bước vào thời kỳ cận hiện đại. Âm nhạc
thơ ca truyền thống Trung Quốc không chỉ có
thời kỳ này chủ yếu thể hiện tư tưởng dân chủ
vai trò thẩm mĩ mà còn là cầu nối liên kết giá
yêu nước, phản ánh “tinh thần Ngũ Tứ”, khí
trị văn hóa lịch sử Trung Hoa. Học giả Dong
khái anh hùng dân tộc hay ý chí đấu tranh và
Huanling (董焕玲) từng nhận định: “Âm nhạc
phản đối chiến tranh của dân chúng. Từ năm
có thể phản ánh trào lưu văn hóa của một niên
1949 đến khi kết thúc cách mạng văn hóa năm
đại, một thời kỳ, thể hiện đặc trưng văn hóa
1976, rất nhiều tác phẩm văn nghệ với trình
và văn minh lịch sử của một dân tộc, một khu
độ nghệ thuật cao, mang đậm hơi thở thời đại,
vực, phản ánh diện mạo tinh thần của con
điển hình như tác phẩm sử thi “Đông phương
người trong điều kiện lịch sử và hoàn cảnh cụ
hồng” đan lồng âm nhạc vũ đạo; vũ kịch cổ
thể.” (董焕玲,2007:4).
điển dân tộc có “Lương Sơn Bá, Chúc Anh
Đài”; đại hợp xướng có “Tổ khúc Trường Vào thời văn minh tiền sử xa xưa, ba
chinh”; “Kinh kịch” có “Hải cảng”; ca kịch có lĩnh vực thơ ca, âm nhạc và vũ đạo là một thể
“Hoàng Hà” v.v… Từ sau năm 1976, các nhà thống nhất tuy ba mà một, trong thơ có nhạc,
sáng tác nghệ thuật vẫn không ngừng hoàn trong nhạc có múa, trong múa có thơ, gọi
thiện và cho ra đời các tác phẩm phản ánh đời chung là “Nhạc”. Zhao Minli (赵敏俐)trong
sống hiện thực và tình cảm chân thành nồng nghiên cứu của mình cũng đúc kết: “Thơ ca
hậu của người dân, bằng triết lý sâu sắc để không phải là nghệ thuật ngôn ngữ đơn thuần
khơi gợi tư tưởng nhân văn của con người. mà là nghệ thuật mang tính tổng hợp trong
Sáng tác âm nhạc đã vượt qua khỏi tư duy mối quan hệ gắn bó mật thiết với âm nhạc”
âm nhạc vốn dĩ đóng khung trong chuẩn tắc (赵敏俐,2002:5). Trước thời Xuân thu, âm
truyền thống, dung hòa tiếp thu và vận dụng nhạc được coi là một loại hình ngôn ngữ văn
kỹ thuật sáng tác âm nhạc cận hiện đại nước hóa dùng để an bang trị quốc và có chức năng
ngoài, theo đuổi và tìm kiếm giá trị thẩm mỹ lễ nghi giáo hóa dân chúng, truyền tải đạo lý
cao hơn, khiến bản sắc văn hóa dân tộc điểm của quân vương, đất trời. Lễ hưng nhạc thịnh
tô thêm hương sắc mới, đậm đà và khởi sắc trong triết lý nhân sinh quan của người xưa
hơn, được thể hiện xuất sắc qua tác phẩm chính là xã hội văn minh lý tưởng mà họ mong
“Sơn chi nữ”, “Tây giang nguyệt” v.v…Còn muốn hướng tới. Thời kỳ đó, khi muốn đem
142 N.A. Thục/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144

hóa truyền tải đến thiên hạ, triều đình đã


giáo tự thân của nó, ẩn chứa sự giao hòa giữa con
phổ chúng thành nhạc vũ, sau đó truyền bá người với thiên nhiên khoáng đạt, quan niệm
xuống muôn dân. Bách tính, bình dân khi hát về sinh mệnh và quan niệm về đạo đức. Trong
múa đã đồng hóa với giáo hóa của triều đình, sách “Nhạc ký”  có viết:  “Đức giả, tính chi
thật là “nhuận vật vô thanh” (không cần nói gì đoan dã, nhạc giả, đức chi hoa giả” (Đức là
mà lại có lợi cho vạn vật). thiên tính của con người, nhạc là vầng hào
Nhạc với nội hàm văn hóa sâu xa, tinh tế quang rọi sáng của tâm đức). Âm nhạc tầng
được cổ nhân coi như chức năng quan trọng để thứ cao là thể hiện “thiên đạo”, giúp con người
tu dưỡng nhân cách con người. Các văn nhân trong khi thưởng thức vẻ đẹp âm nhạc đồng
và quan lại xưa xem “lễ nhạc” như phát ngôn thời cũng được đạo đức ấy cảm hóa, khiến cho
chính thống của lý tưởng Nho gia “tu thân, tề cảnh giới tư tưởng được thăng hoa, hòa nhịp
gia, trị quốc, bình thiên hạ”, thậm chí họ coi đó với đất trời, tạo nên vũ trụ quan “thiên nhân
như một biểu tượng của đấng văn nhân, quân hợp nhất”.
tử (刘佳媛,2016:6). Khổng Tử xưa có viết: Trong âm nhạc truyền thống Trung Quốc
“Hưng vu thi, lập vu lễ, thành vu nhạc” (muốn không thể không nói đến giá trị văn hóa tiêu
tu tâm dưỡng tính phải học thi thư, muốn có ý biểu được thể hiện phần nhiều trong “Cổ cầm
chí kiên định phải học lễ nghĩa, muốn đạt đến học”. Cổ nhân có nói “cầm, kỳ, thi, họa” là
trạng thái hoàn hảo của nhân cách phải học “tứ nghệ” của văn nhân, trong đó “cầm” với
nhạc)(张辉,2006:6); hay ở thời Tiên Tần, thứ bậc hạng đầu bởi chính phong cách âm
âm nhạc được coi là một trong “lục nghệ”2 bắt 1
nhạc độc đáo tự thân và nội hàm văn hóa thâm
buộc của Nho gia. Âm nhạc chân chính mang sâu của nó (吕净植,2009:11). Người xưa
đến nguồn năng lượng tích cực giúp con người thưởng thức nghệ thuật cầm nhạc thường “đốt
tránh xa được nhiều hệ lụy của trần thế, rửa hương gảy đàn” rũ bỏ những sân si nơi cõi
được lòng tục và cải thiện tâm thân con người. trần, để tâm hồn thật thanh tao, yên tịnh, dùng
Điều đó cũng lý giải cho việc các bậc minh chính tâm, chính niệm mà đàn nhạc mới có
quân, thánh hiền thời cổ vì sao lại coi trọng thể đạt tới cảnh giới  “thiên nhân hợp nhất”.
nghi thức lễ nhạc đến vậy. Từ ý nghĩa này cho thấy, Cổ cầm có tác dụng
Âm nhạc thâm nhập vào tư tưởng của truyền tải ý nghĩa văn hóa sâu sắc. Trong lịch
người nghe khiến họ tìm thấy sự đồng điệu, sử, các danh sỹ, văn nhân chơi đàn thường là
gắn kết tâm hồn, thấy được nội hàm đạo đức người có phẩm hạnh đức độ, tâm sáng, “thuần
của âm nhạc cũng như cảm thụ được phong thiện, thuần mỹ”. Tác phẩm “Lưu thủy” được
cách và tâm tư nỗi niềm của người chơi nhạc. coi là chuẩn mực cao nhất của khúc Cổ cầm,
Giá trị văn hóa của âm nhạc vượt xa giá trị nó thể hiện trọn vẹn tư tưởng phẩm đức triết
học của Đạo gia, ý nghĩa chân thật của đời
Theo tác giả Zhidong Hao Intellectuals at a Crossroads:
2
người và tìm kiếm đạo trời cũng như thể hiện
The Changing Politics of China’s Knowledge Workers: sự theo đuổi thẩm mỹ, giá trị nhân sinh quan
Khái niệm “Lục nghệ” được hình thành và phát triển
trong văn hóa Trung Quốc.
trong thời kỳ tiền phong kiến, từ triều đại nhà Chu.
Người quân tử thời đó phải thành thạo sáu môn nghệ Cùng với giá trị trường tồn của văn hóa âm
thuật bao gồm: lễ (lễ nghĩa), nhạc (âm nhạc), xạ (bắn nhạc truyền thống, vũ đạo Trung Hoa cổ điển
cung), ngự (cưỡi ngựa), thư (thư pháp) và số (toán học).
cũng có giá trị văn hóa đặc sắc riêng. Vũ đạo
Thời kỳ hậu phong kiến, “Lục nghệ”giảm thành “Tứ
nghệ” gồm: cầm, kỳ, thi, họa. Giai đoạn này, nó được cổ điển giàu sức biểu đạt, kết tinh trí tuệ uyên
xem là một thú vui tao nhã mang tính giải trí hơn là học thâm của người xưa, là nền tảng cơ bản cho hệ
thuật như những thời đại trước.
Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144 143

thống vũ đạo Trung Hoa hoàn chỉnh ngày nay. nên hào phóng khoáng đạt, vóc dáng tráng kiện,
Với nguồn gốc lịch sử khoảng 5000 năm, vũ khỏe khoắn với nắng gió, mây trời. Do quen với
đạo được lưu truyền trong cung đình, dân gian việc cưỡi ngựa trên thảo nguyên bao la, vai bắp
và nhạc phủ cổ xưa. Nó là hiện thân của ý thức săn chắc phù hợp với những động tác vũ đạo sử
thẩm mỹ truyền thống với các động tác chứa dụng phần vai trên khá nhiều, từ đó hình thành
đựng nội hàm văn hóa độc đáo. Thông qua biểu nên vũ đạo dân gian của dân tộc Mông như điệu
đạt của thần thái, thân pháp và kỹ thuật, người “Túy khiên” với giá trị thẩm mỹ cao, khắc họa
múa mô phỏng và tái hiện cuộc sống hiện thực đậm nét đặc trưng vũ đạo dựa trên động tác phi
đồng thời gửi gắm tâm tư tình cảm của mình. ngựa cùa người Mông. Ngoài ra, dân tộc Mông
Cùng với đó, giá trị quan, khái niệm đạo đức, Trung Quốc còn có vũ điệu nổi tiếng “Rót rượu
tiêu chuẩn được phản ánh và khắc họa rõ nét tư múa đũa”. Điệu múa này bắt nguồn từ đặc trưng
tưởng nội tại qua động tác vũ đạo. Bên cạnh đó, lối sống du mục nay đây mai đó. Để tránh khí
những dấu ấn trong quan niệm văn hóa Nho, hậu giá rét mùa đông nơi thảo nguyên hoang dã,
Phật, Đạo và đặc trưng tính cách con người trong tiệc rượu, người Mông thường dùng bát
Trung Quốc đều ít nhiều thể hiện trong vũ đạo vại uống rượu cho đủ đầy, ấm bụng, đồng thời
truyền thống Trung Quốc. Qua những nguyên để không khí buổi tiệc càng thêm hưng phấn, họ
tắc chuẩn xác cơ bản của vũ đạo như “di chuyển, thường sử dụng đũa ăn gõ nhịp tạo ra giai điệu
vặn, nghiêng, tròn, uốn, xoay người” hay vui tươi, rộn ràng rồi nhảy múa. Và điệu múa
hướng nhìn, cách đặt ngón tay v.v…, đã khắc dân gian “Rót rượu múa đũa” ra đời bắt nguồn
họa khéo léo sự biến hóa nội tâm của trạng thái từ đó. Tựu chung, những vũ đạo truyền thống
tình cảm, toát lên ý nghĩa “trong cương ngoài này đã thể hiện trọn vẹn đặc điểm văn hóa thảo
nhu” hay đặc trưng tính cách mềm dẻo, khiêm nguyên hoang dã và khí chất hào hiệp, phóng
nhường cũng như tinh thần “thiên nhân hài khoáng cởi mở của dân tộc Mông Trung Quốc.
hòa” trong văn hóa truyền thống Trung Hoa.
4. Kết luận
(邓捷,2012:3)
Phân tích trên đây cho thấy âm nhạc và
Bên cạnh đó, vũ đạo dân gian dân tộc được
vũ đạo không chỉ liên quan mật thiết với nhau
phát triển từ những điệu nhảy từ thời rất xa xưa
trong cả tiến trình lịch sử hình thành và phát
trong xã hội nguyên thủy mà mục đích ban đầu triển mà thực sự còn liên quan chặt chẽ đến
dùng để phục vụ các sinh hoạt trong lao động, triết lý, đặc biệt là triết lý của Nho giáo. Trải
sau là nghi lễ truyền thống và nghi lễ tôn giáo. qua bao thăng trầm, biến động đổi thay của
Vì thế, vũ đạo dân gian mang dấu ấn sinh động các triều đại trong xã hội nô lệ và phong kiến
về cuộc sống lao động, tình cảm, cách nghĩ và Trung Quốc, âm nhạc và vũ đạo chứa đựng
những quan điểm thẩm mĩ, chứa đựng những triết lý nhân sinh sâu sắc, luôn được coi trọng
đặc trưng văn hóa của các cộng đồng xuất phát và trở thành một phần không thể thiếu trong
từ những điều kiện địa lí, xã hội, phong tục, tập đời sống văn hóa tinh thần, tín ngưỡng, tâm
quán, tín ngưỡng của các dân tộc khác nhau. linh không những của vua chúa, quý tộc mà
Với hình thức dễ hiểu và gần gũi, nó trở thành còn của quần chúng nhân dân Trung Quốc.
phương thức truyền tải tình cảm hữu hiệu đồng Đó cũng là phương tiện để các thế hệ tu tâm
thời cũng là tiêu chí văn hóa để phân biệt phần dưỡng tính, biểu đạt tư tưởng tình cảm, thể
“hồn”, phần “sắc”  riêng biệt của mỗi dân tộc. Ví hiện tài năng của con người.
dụ, dân tộc Mông với lối sống du mục, bầu bạn Trong dòng chảy lịch sử, âm nhạc và vũ
với thiên nhiên bầu trời rộng mở, tôi luyện tháng đạo truyền thống Trung Quốc mang tính kế
năm với cuộc sống gian khổ, tính cách của họ trở thừa và không ngừng phát triển, ngày càng trở
144 N.A. Thục/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 6 (2018) 137-144

phong phú. Người xưa có thể tu dưỡng


nên Tài liệu tham khảo
đạo đức và nâng cao phẩm giá bản thân thông
qua nhạc vũ của các bậc thánh hiền. Giá trị 陈应时 (2006).《中国音乐简史》高等教育出版
社.
văn hóa của nhạc vũ vượt xa giá trị tự thân 邓捷 (2012).《中国古典舞蹈艺术精神探究》文艺
của nó, ẩn chứa sự hài hòa giữa con người và 评论,第3期.
tự nhiên, khiến cho cảnh giới tư tưởng được 董焕玲 (2007).《跨文化交际中的中外音乐文化交
流》中国音乐,第4期.
thăng hoa, hòa nhịp với đất trời. Âm nhạc và
刘生良 (2011).《风雅颂分类依据之我见》诗经研
vũ đạo truyền thống Trung Quốc mang đậm 究丛刊,第13期.
giá trị nhân văn, là không gian chứa đựng văn 刘佳媛 (2016).《周代音乐的贵族教育与人格修
hóa cổ hết sức đa dạng và quý giá, đáng để 养》文学_穆旦与百年中国新诗,第6期.
吕净植 (2009).《中国古琴域外传播研究》吉林艺
các thế hệ nghiên cứu, học tập và giảng dạy 术学院学报,第11期.
ngôn ngữ văn hóa Trung Quốc trên thế giới, 赵敏俐 (2002). 《音乐与诗歌关系笔谈(五篇)》社
trong đó có Việt Nam, dành nhiều tâm sức 会科学战线,第5期.
nghiên cứu, nhằm hiểu sâu hơn về cội nguồn 张辉(2006).《追慕孔子的音乐思想一提升音乐
的心灵净化作用》美与时代下,第6期.
đất nước, con người và văn hóa Trung Hoa.

ORIGIN AND CULTURAL MEANING OF


CLASSICAL CHINESE MUSIC AND DANCE
Nguyen Anh Thuc
Faculty of Chinese Language and Culture, VNU University of Languages and International Studies,
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Abstract: Classical Chinese dance and music are an integral part of the course “An
Introduction to Chinese Studies 2” for third-year students of the Faculty of Chinese Language and
Culture, University of Languages and International Studies, Vietnam National University, Hanoi.
Therefore, in order to provide an overview and better understanding of Chinese history, people
and culture in general as well as Chinese arts in particular, this paper synthesizes and analyzes
the relationship between classical Chinese music and dance through all Chinese dynasties.
Accordingly, the great cultural values of classical Chinese dance and music will be highlighted.
Keywords: music, dance, art, cultural value, classical

You might also like