Professional Documents
Culture Documents
4 – Phân tích quy trình thi công để rút ra các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tường vây
a – Công tác hào dẫn : hai vấn đề nhỏ
- Một là, hào dẫn đặt trên nền đất yếu dễ sạt lở và nguy hiểm khi thi công : thực tế không xẩy ra
- Hai là, chiều cao hào dẫn thông thường khoảng 1,2m nên mực bentonite trong quá trình đào thường
nằm dưới cao độ đáy hào dẫn khi rút gầu cạp lên (vì khối tích gầu cạp lớn hơn khối tích ben trong phạm vi
hào dẫn). Điều này làm sạt lở đất dưới chân hào dẫn nên bê tông tường vây luôn phình tại đây và buộc phải
đục bỏ khi đào hầm.
b – Công tác đào :
- Chiều sâu đào : luôn được đảm bảo thông qua công tác nghiệm thu chiều sâu. Hơn nữa, chiều sâu
cần đảm bảo thì các công tác khác như lồng thép và ống đổ mới thực hiện được.
- Độ xiên : phụ thuộc vào tay nghề thợ tuy nhiên nguyên lý chung thường là xiên sau khi đào ngập
gầu dưới chân hào dẫn ( gầu cao 8m). Với chiều sâu tường là 15m thì độ xiên ảnh hưởng không đáng kể. Độ
xiên nếu có sẽ ảnh hưởng đến khớp nối giữa hai tấm liền nhau, gây gật cấp và jion chống thấm có thể bị
hỏng. Thực tế có thể kiểm chứng cho từng trường hợp để xử lý.
- Sạt lở thành trong khi đào (có thể do bentonite hoặc rung động mạnh) : làm hố rộng phình ra gây
hao hụt bê tông, tường bị phình và phải đục bỏ. Tuy không ảnh hưởng đến chất lượng nhưng gây tốn kém chi
phí xử lý.
c – Công tác hạ lồng thép :
- Hạ lồng thép nói chung thường gây sạt lở đất cát trong quá trình hạ đặc biệt đối với tường nhỏ như
tường 600. Vì vậy sau khi hạ lồng vẫn phải thổi rửa lại để đảm bảo đủ chiều sâu thiết kế.
- Do lồng thép không hoàn toàn cứng nên trong quá trình hạ lồng, lồng thép và ống siêu âm thường
bị va quệt với thành hố dẫn đến biến dạng hoặc đất sét bám vào. Vì ở phạm vi nhỏ và hay nằm ở giao điểm
các nút giao nhau của thép, thép chờ, v.v nên bê tông vữa dâng không đẩy lên được. Kết quả siêu âm thường
cho thấy các vị trí bị mất sóng trong phạm vi rất nhỏ (10 đên 20cm).
- Việc lồng thép tương đối mềm nên đa phần khi hạ xuống hố nó không thẳng tuyệt đối mà có độ
cong nhất định. Trong khi lớp bảo vệ có 7,5cm nên nhiều trường hợp bị lộ ra ngoài. Điều này là hoàn toàn
bình thường và có thể xử lý sau khi đào hầm.
- Mối nối lồng thép thường gây hở ống siêu âm làm cho ben nhiễm vào gây tắc ống. Việc này căn cứ
thực tế từng ống để xử lý.
- Các mối nối lồng, thép chờ, xốp thường cản trở quá trình dâng của bê tông. Chính vì vậy, bê tông
tại các vị trí này thường là có khuyết tật nhỏ, siêu âm nếu qua vị trí này sẽ cho kết quả kém. Tuy nhiên các vị
trí này thường sẽ đục ra khi làm sàn hầm nên có thể vệ sinh và làm lại được. Để tránh hiện tượng này, các
thiết kế thường thay thế thép chờ bằng phương pháp khoan neo.
d – Công tác đổ bê tông :
- Công tác nghiệm thu trước khi đổ bê tông là để bỏ qua các rủi ro sau :
+ Chiều sâu thiết kế nếu không đủ sẽ không hạ được ống đổ hoặc nếu hạ được thì thường sẽ
bị tắc ống ngay khi đổ xe đầu. Công nhân cũng có thể hạ không hết ống đổ nhưng siêu âm sẽ bị mất
đáy.
+ Các thông số bentonite để đảm bảo chất lượng bê tông không bị ảnh hưởng về lý hóa bởi
tính chất bentonite. Hàm lượng cát cao cũng là nguyên nhân gây tắc ống đổ ở thời điểm khi đổ các
xe cuối cùng.
- Đối với tường 600, công tác đổ bê tông khó hơn rất nhiều so với các tường khác vì khoảng cách lọt
lòng trong lồng thép chỉ là 400mm, trong khi ống đổ đường kính 260 (ống nhỏ). Trong quá trình đổ rất dễ
mắc ống vào lồng thép. Điều này thường là nguyên nhân gây tắc ống đổ, tắc ống siêu âm hoặc làm cho lồng
thép xê dịch mất lớp bảo vệ. Một số vị trí siêu âm không đạt cũng có thể do nguyên nhân này.
- Kỹ thuật đổ bê tông : cần kiểm chứng trên thực tế, tuy nhiên nguyên tắc là không được rút ống lên
khỏi mặt bê tông, nếu có sẽ phải cắt cầu bê tông lại. Thông thường các trường hợp như vậy đều được lập
biên bản và các kết quả siêu âm thường cho biểu đồ sóng giảm hoặc mất hẳn tại vị trí rút ống.
- Bơm hồi bentonite trong quá trình đổ : nếu bơm quá lượng đổ vào thì sẽ sạt chân hào dẫn. Thực tế
thường là bơm không kịp.
- Sạt thành trong khi đổ (thường do rung động trong khi nhồi bê tông và cung thường xẩy ra đối với
tường 600) : thường là đất sạt nằm ở trên mặt bê tông với khối lượng bằng khối lượng sạt. Một số tình huống
sẽ xẩy ra :
+ Nếu bê tông có độ linh hoạt tốt và khối lượng sạt không quá lớn thì bê tông sẽ đẩy được
phần đất sạt này lên trên đỉnh
+ Nếu khối lượng sạt là lớn hoặc bê tông linh hoạt kém, nó sẽ không đẩy được phần đất này
mà sẽ vượt qua nó để dâng lên. Siêu âm trong trường hợp này sẽ cho sóng mất hoàn toàn ở vị trí này.
+ Nêu khối lượng bê tông rất lớn hoặc bê tông cực kém, bê tông sẽ không lên được nữa dẫn
đến tắc ống đổ đồng thời cũng không thể cắt cầu đổ lại được. Trên thực tế đã xẩy ra ở nhiều công
trường nhưng ở Mỗ Lao thì không xẩy ra.
- Chất lượng bê tông : do đổ bằng phương pháp vữa dâng nên ngoài mác và độ sụt thiết kế, bê tông
thương phẩm phải đảm bảo các yếu tố sau đây để đảm bảo độ linh hoạt :
+ Hàm lượng xi măng trong cấp phối : theo tiêu chuẩn là 410kg/m3 bất kể là mác bao nhiêu.
Nếu không đảm bảo, bê tông không đảm bảo độ sụt cần thiết trong phạm vi kỹ thuật cho phép.
+ Hàm lượng nước trên xi măng : hàm lượng xi măng không đảm bảo buộc làm tăng hàm
lượng nước để đảm bảo độ sụt nên bê tông có độ sụt nhưng không lấy được mẫu đúng tiêu chuẩn. thực tế là
ko đảm bảo độ dẻo.
+ Hàm lượng và chủng loại phụ gia hóa dẻo bắt buộc phải có trong bê tông cọc nhồi và
tường vây.
+ Quy cách cốt liệu cát và xi măng : biểu đồ kích cỡ hạt và hàm lượng thoi dẹt trong phạm
vi cho phép. Yếu tố này không đảm bảo sẽ làm bê tông dễ bị phân tầng trong quá trình đổ, dễ tắc ống.
- Thời gian cung cấp bê tông :
+ Thời gian chờ trong xe không quá 2 giờ
+ Thời gian chờ trong ống đổ khống nên quá 30 phút
Trên thực tế bê tông cấp tại Mỗ Lao quá chậm. thường phải đợi hàng giờ mới có xe tiếp theo dẫn đến
:
+ Phụ gia hóa dẻo phản tác dụng trở thành phụ gia đông cứng nhanh
+ Bê tông trong tường (đã đổ) khô không đổ được. Để kết thúc tấm tường thường phải nhồi
dẫn đến bê tông phân tầng, tắc ống, biến dạng lồng thép. Chất lượng bê tông bị ảnh hưởng nhiều nhất trong
trường hợp này. Kết quả siêu âm thường cho kết quả yếu kém (khoảng 1800 đến 2400)nhưng lại không rõ
ràng như trường hợp bị sạt đất hay đất chiếm chỗ toàn bộ (sóng bằng 0 hoặc dưới 1000).
Hiếu!
Em đi hop thay anh, căn cứ trên nội dung này để trả lời theo từng điểm
Nhớ là phải căn cứ trên tình hình thực tế, bàn với Phú trước :
1 - nếu tình hình TVGS không quá căng và có xu hướng giải quyết ổn thỏa, thậm chí không kết luận
ngay tại cuộc họp thì em chỉ nên nói các vấn đề kỹ thuật thôi
2 - Các điều liên quan đến công tác TVGS mà anh gi trong đó vê cơ bản là ko nên nêu ra. Chỉ khi
nào thấy TVGS ép mình quá và chắc chắn bắt buộc mình phải chịu trách nhiệm nặng nề ngay tại
chỗ thì mới đưa các vấn đè này ra.
Nói chung, chủ yếu nên nói phần "phân tích qui trình thi công để tìm các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng" vì :
- dùng phân tích khoa học dễ làm CĐT yên tâm
- đánh lạc hướng chú ý của cuộc họp
Cần nhất là phải nhấn mạnh các ý kiến cuối cùng của mình về chất lượng tường vây :
- Dùng các phân tích đẩy các khiếm khuyết vào lỗi bê tông : phân tích kỹ vấn đề cấp phối mà anh
nêu ra
- Chịu lực trên thực tế khi đào hầm và khoan neo đã chứng minh khả năng của tường
- Vấn đề chống thấm : phải để nguyên hiện trạng để theo dõi, nếu phủ tường khác sẽ v?n thấm
mà ko biết nguyên nhân.
Có gì không hiểu thì gọi anh.
Khoa