You are on page 1of 7

BẢN CHẤT NGHỆ THUẬT

Chúng ta sống: ăn, uống, thở và yêu đương. Ta có nhà, trong nhà có bàn ghế, giường
tủ. có vườn. ngoài vườn có cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây lấy hoa, có ghế đá ngồi nghỉ…Một
cái áo mặc ngày thường hay ngày lễ, một cuốn sách đọc lúc sáng dậy hay đi ngủ, một cái
bát đôi đũa khi ăn, một cái chén sành gan gà khi uống trà, một cái xe đạp khi ta đi làm,
bánh xe có tua thun đẹp, cho vợ hay con gái, tất cả, đâu đâu, lúc nào cũng muốn “đẹp”.
người thời Đông Sơn cần một cái rìu để chặt, bổ, chẻ, bửa…cái rìu bằng đồng thay thế cho
cái rìu đá mà tổ tiên Phùng Nguyên của họ đã dùng vài nghìn năm. Và hơn thế nữa, họ cần
cái rìu “đẹp” có hoa văn mĩ lệ. Họ có hơn tổ Phùng Nguyên của họ không? Hoàn toàn
không. Tổ tiên họ thường mài cái rìu đá theo dáng đẹp, láng bóng. Ngoài việc dùng để
kiếm ăn, họ đã từng thích thú sờ lên mặt đá nhẵn. Xa hơn nữa, khi con người bắt đầu dùng
đá làm công cụ, họ thấy nhiều hòn đá lắm, thế mà họ chọn một hòn đá có cạnh sắc, cầm
vừa tay, dễ sử dụng- có ích cho đời sống, cho sự sinh tồn- là sản phẩm đầu tiên của cái rìu
đá. Họ thấy nó đẹp- vậy cái “đẹp” thoạt kì thủy gắn với cái có ích. Ích lợi ở đây là ích lợi
cụ thể dễ cầm, đễ bửa, chẻ, chặt. Song sự gắn làm một của cái “đẹp” và cái “có ích” chỉ là
một tích tắc. Họ ngạc nhiên rằng khi hai hòn đá ích lợi như nhau, họ chọn hòn đá “dễ coi”
hơn là đá đẹp hơn. Cái đẹp thị giác ở đây gắn với cái “dễ coi” và đi bước đầu tiên xa lìa cái
có ích cụ thể. Tại sao vậy? Tại sao một hòn đá này lại đẹp hơn một hòn đá kia, dù ích lợi
của nó như nhau? Chắc chắn bên cạnh sự xét đoán lô gích sơ khai của họ, cảm xúc đã có
vai trò nhất định trong sự lựa chọn này. Họ đã “sáng tạo” khi quyết định lấy hòn đá đẹp
hơn. Họ đã lồng cảm xúc vào đó. Có thể nó có dáng dài dài, bầu bầu như trái vú đàn bà, có
làn da đá nhẵn mát như cơ thể người đàn bà họ ham muốn. Hòn đá khác lại có vẻ như cái
cây che mát cho họ. Hòn đá khác nữa gần như con voi, con hươu mà họ săn bắn được. Sự
liên tưởng : tức sự đồng nhất trong tinh thần một đối tượng cụ thể (hòn đá) với những cái
mình đã sống qua, tức những kỉ niệm lẽ ra đã bị lãng quên - tạo cho họ sự khoái thú. Cái
khoái thú này khác hẳn cảm giác khoái thú của bàn tay sờ lên bộ ngực ấm áp, của cái lưỡi
nếm vị ngọt bùi, của cái mũi ngửi hương thơm hoa dại, của con mắt nhìn cảnh trăng lên…
Nó khác hẳn cảm giác khoan khoái, thỏa mãn cụ thể khi ăn, uống, hít thở và âu yếm nhau.
Và họ có nhu cầu hưởng cái khoái thú “tinh thần” đó. Và thoạt đầu nó không phân biệt với
các khoái thú ngũ quan cụ thể là bao. Họ chưa phân biệt được điều đó vì họ tin giấc mơ là
một phần có thật của đời sống hàng ngày (khoa học hiện đại đã chứng minh họ có lí còn
người văn minh của chúng ta đã nhầm lẫn thô bạo). Họ đã thay thế những khoái thú ngũ
quan cụ thể bằng những khoái thú ngũ quan được chuyển dịch sang dạng tinh thần - tức

1
không gắn với một đối tượng vật chất cụ thể. Sự liên tưởng mang lại cho họ khoái cảm đó.
Sau này chúng ta tách bạch ra, ta biết rằng hai người hôn nhau trên một trang giấy in, trên
một tấm vải vẽ, trên một khối đá cẩm thạch của A.Rodin không phải là cái hôn thật, tin
rằng dù trên đá, dù trên vải, dù chỉ có chữ in họ cũng đã hôn nhau. Họ nói chuyện với đá,
gỗ và cỏ cây, nói chuyện và đồng cảm với chim muông, cầm thú mà không thấy đó là lạ.
Ai làm chúng quên tiếng người đi như hiện nay - chính là nền văn minh. Đứa con gái ba
tuổi của tôi khi nhìn một tờ báo ảnh in bánh ngọt nó nói thèm ăn. Bảo nó ăn đi thì nó trả lời
: muốn ăn nhưng sợ giấy dính vào mồm. như vậy nó vừa thấy cái bánh trên giấy là bánh
thật vừa thấy tờ báo là giấy thật mà không ý thức được cái bánh trên giấy như người lớn.
Nhưng sự đồng nhất cảm giác tinh thần với những khoái cảm ngũ quan cụ thể không
những không sai, khoái cảm ngũ quan cụ thể không không ấu trĩ mà nó còn sâu sắc và vĩnh
cửu. chính ở tâm lí trần trụi, “thô thiển” đó nghệ thuật đã ra đời. Khi bắt đầu biết liên
tưởng như vậy thì sự khoái thú của người nguyên thủy được nâng lên gấp đôi. Sự liên
tưởng một mặt làm cho họ “sống lại”những cảm giác khoái thú cụ thể. Họ đã ăn một miếng
ngon, nằm bên một người đẹp - nay nhờ một hòn đá mà họ được ăn, ngủ một lần nữa. Sự
liên tưởng làm cho cảm giác ngũ quan thô sơ trở nên bất tử và cao siêu. Sự liên tưởng lúc
đó như một vật thay thế cho cảm giác thực. Nó thay thế được vì nó cũng thực không kém
việc ăn và ngủ thực. Hơn thế nữa khoái cảm đó không mất đi, không nguội lạnh khi nhu
cầu ăn và ngủ cụ thể được thỏa mãn cụ thể. Chính đây là sự hấp dẫn của liên tưởng. Một
khoái cảm sẽ không còn là khoái cảm nữa khi nó được thỏa mãn. Liên tưởng gây cho ta
một khoái cảm không được thỏa mãn cụ thể và trực tiếp do vậy vẫn mãi mãi là một khoái
cảm. Khi nói từ mãi mãi ta đã kéo trục thời gian theo một hướng tới tương lai.Ta khoái thú
mãi, tức là sau bây giờ ta còn khoái thú. Như vậy sự liên tưởng nêu trên, gây ra bởi một
hòn đá ngẫu nhiên nào đó không chỉ có chức năng gợi nhớ lại cái đã qua mà nó còn nuôi
cái đã qua đó, cấy trồng nó vào tương lai. Chỉ có như vậy một hòn đá đẹp mới gợi nhớ một
miếng thịt ngon, một tấm lưng đẹp – đồng thời làm cho tấm lưng và miếng thịt kia không
tiêu tán đi trong hiện tại như miếng thịt thú rừng và tấm lưng trai tráng cụ thể. Nuôi dưỡng
khoái cảm, dành cho nó tương lai là một chức năng quan trọng bậc nhất của liên tưởng.
Quả núi giống con voi, đám mây giống bông hoa, hay thân người thiếu nữ. Điều đó có
nghĩa là con voi, đóa hoa, thân người đàn bà không mất đi trong ta. Nuôi dưỡng khoái cảm
vốn là cụ thể đã qua của ngũ quan là một chức năng cao cả của nghệ thuật. Con người cần
điều đó vì họ vốn hay lo cho ngày mai như đã nêu ở phần trên.
Đến đây những hoa văn trên rìu đồng Đông Sơn đã xa lìa lợi ích cụ thể của cái rìu
dùng để chặt, bửa, chẻ v.v…Chúng trở nên thừa trên thân rìu, chúng trở nên không cần

2
thiết cho cái rìu. Điều đó làm cho cái rìu không còn đơn thuần là cái rìu - một công cụ để
chặt, bửa, chẻ nữa. Chúng - các hoa văn - trở nên vô ích! Ích lợi cụ thể như đứa con địu sau
lưng mẹ. Đứa con đó cần cho tương lai, gợi nhớ lại quá khứ của ta. Ích lợi cụ thể được tách
ra một thứ lợi ích “trừu tượng” vốn sinh ra từ những ích lợi cụ thể và xa lạ với cái rìu
nhưng lại gắn bó thân thiết với người dùng cái rìu. Các hoa văn gây những liên tưởng.
Thoạt đầu nghệ thuật bám trên lưng các công cụ sản xuất, các vật dụng hàng ngày như con
bám trên lưng mẹ. Mĩ thuật nguyên thủy đã chứng mi nh điều đó.
Thế rồi ngoài các công cụ lao động cụ thể, ngoài lao động sản xuất con gnười vẫn làm
những việc khác - Thí dụ như tế lễ trời đất - phục vụ việc này cũng có các “hoa văn”. Và
xa hơn nữa ngay cả lúc không tế lễ, không lao động sản xuất họ cũng cần những khoái thú
kia. Con người bắt đầu tạo ra những vật - không phải cong cụ lao động sản xuất hay công
cụ lao động tinh thần. họ làm ra những vật chỉ có một chức năng duy nhất là tạo ra cái
khoái thú ngũ quan qua con đường liên tưởng. Họ cần một hình vẽ hoa để gợi nhớ và vĩnh
cửu hóa cảm giác về hoa, về một cuộc tình tự trên đồng hoa, về đám mây trời khi mùa hoa
nở v.v…và v.v…Và thế là họ vẽ một bông hoa. Và họ có một tác phẩm nghệ thuật. Phải
nói lâu lắm con người mới đi tới bước này. Song thực tế không khi nào nghệ thuạt chỉ có
một chức năng phục vụ một cái gì đó (dù đó là công cụ lao động cụ thể hay hoạt động tinh
thần). ngay từ đầu khi con người thành người họ đã biết liên tưởng một cách có ý thức. Tác
phẩm nghệ thuật thuần túy là tranh, tượng để thờ cúng, đồ trang sức làm đẹp cho thân thể.
Nó không chỉ có giá trị nhờ sự thờ cúng. Vì ngoài buổi tế lễ ra, người ta vẫn thấy chúng
đẹp và gây khoái cảm. Tôn giáo là một cách lo cho ngày mai. Nghệ thuật là cách làm sống
lại quá khứ và nuôi dưỡng ngày mai. Là sản phẩm tối cao của cảm xúc ngũ quan. Khoái
thú thẩm mĩ - tức khát vọng về cái đẹp trở thành khoái thú của một giác quan thứ sáu, tổng
hòa các khoái thú cụ thể của ngũ quan.
Và khi đã là một nhu cầu “khách quan”, tác phẩm không cần một cái cớ tồn tại nào khác.
Cùng với sự phát triển của nhân loại - khoái thú thẩm mĩ có cơ sở cốt tử từ nhu cầu ăn,
mặc, ở, và tình dục, rất tự nhiên. Nghệ thuật nghiễm nhiên có một vị trí không tranh cãi
được từ khi con người thành người.
Ta hãy trở lại ý kiến trên để định nghĩa cái đẹp là gì?
Cái đẹp như Cái đẹp là cái gây khoái thú - liên tưởng về những cái đã qua có ích thiết
thực - và kéo dài cái khoái thú về sự thiết thực ban đầu được tích lũy từ từ, cẩn trọng và
kín đáo qua một thời gian dài, của một con người, một thế hệ hay một giống nòi. vậy
không gắn liền với cái sung sướng, cái khoái cảm theo nghĩa bình thường. Một người thân
chết, ta không khoái thú mà ta đau khổ. Vì ta đau khổ mà ta là người. Một tác phẩm nghệ

3
thuật gợi nhớ nuôi dưỡng cái cảm giác đau - khổ - để - trở - thành - người. Đó là một cái
đẹp. Vậy sự liên tưởng - gợi nhớ cái đã qua - nuôi dưỡng cái đó cho ngày mai - ở đây là sự
nuôi dưỡng cảm giác khổ đau khi một người than yêu qua đời. Chính hành vi tâm lí - hành
vi đau khổ để trở thành người này là hệ quả của tác phẩm nghệ thuật. Nó là cốt lõi của tác
phẩm. Không lạ khi bức tranh về người mẹ chết bi thảm có thể gây ra một khoái cảm thẩm
mĩ lớn hơn bức tranh vẽ một đóa hoa hồng. Tại sao vậy? Vì chất bi kịch ở đây gợi nhớ và
nuôi dưỡng một cảm giác thực sự con người - chỉ có con người mới có và cần có. Không
ngẫu nhiên nhiều nhà mĩ học coi cái bi kịch là mẹ đẻ của nghệ thuật. Buồn là gốc của cảm
xúc thẩm mĩ. Một lí do là : vì biết buồn mà con người cao hơn hẳn các sinh vật khác. Biết
buồn - tức biết thành người, biết nuôi dưỡng cảm giác cao quý. Tại sao tôi cần phải xúc
động trước một cái chết của người khác. Vì tôi ý thức được cái chết của chính mình - vì tôi
lo cho ngày mai - sợ cái đích cuối cùng sẽ tới - tức cái chết. Song tôi không vì vậy mà
không hoan hỉ và sung sướng bởi khoái cảm ngũ quan. Tôi vượt thắng cái chết nhờ những
khoái cảm đó cụ thể còn hàng ngày. Nghệ thuật giúp tôi gợi nhớ và nuôi dưỡng cái khoái
cảm này. Nghệ thuật giúp tôi vượt thắng cái chết. Do vậy, nghệ thuật buộc vào tài sản di
truyền của con người. Ngôi nhà có thể đổ, tòa nhà có thể lở, cái rìu đồng có thể hoen rỉ…
Chỉ có cái sự gợi nhớ và nuôi dưỡng khoái cảm, là vẫn còn đó. Nghệ thuật tự nó sinh ra nó
cùng với con người, sinh ra con người.
Ở đây ta chú ý đến hai điểm. Như vậy khoái thú nghệ thuật nuôi dưỡng ý muốn làm
người cùng với nỗi lo âu và niềm vui của con người. Chỉ có con người mới có khoái thú
thẩm mĩ này. Do vậy nhân đạo là bản chất của nghệ thuật. Cái gì phản con người, phủ
nhận con người không thể là nghệ thuật. cái gì xa lạ với niềm vui sống và nỗi lo sợ
trước cái chết của con người đều phi nghệ thuật.
Mặt khác các liên tưởng - gợi nhớ và nuôi dưỡng xúc cảm ngũ quan không những bất
tử và không bị triệt tiêu cụ thể mà mãi mãi là một hoài vọng có tác dụng làm mới mọi cảm
xúc. Chúng được nâng canh bay xa khỏi tầng phản xạ có điều kiện thuần túy sinh vật. Con
người muốn ăn ngon không phải chỉ vì đói - không phải chỉ vì muốn ghi nhớ hay kéo dài
cảm giác mà là vì nó biết vượt khỏi cảm giác khoái thú sinh học. Do vậy nghệ thuật khác
với khoái cảm ngũ quan nhưng lại hoạt động theo một hệ thống tinh thần phức tạp thăng
hoa từ đời sống ngũ quan. Nghệ thuật là vật chất và tinh thần giống như con người là tự
nhiên và xã hội vậy.
Nghệ thuật gợi nhớ những khoái cảm ngũ quan và nuôi dưỡng nó. Nhưng nếu chỉ như
vậy nghệ thuật sẽ trở thành một thứ “thủ dâm” thỏa mãn một nhu cầu thực tại bằng một sự
thỏa mãn ngụy tạo. Cao hơn nữa nghệ thuật đã sinh ra một nhu cầu nghệ thuật thực sống

4
như cái hoa văn trên chiếc rìu đồng Đông Sơn bám trên lưng cái rìu. Rồi sau đó nó tách
hẳn ra. Bước một là : cái rìu đồng vẫn là rìu – cộng với hoa văn nó trở nên một nghi
trượng, một đồ tế lễ, một cái rìu đặc biệt, không còn dùng để chặt, bửa, chẻ nữa. Song vẫn
là cái rìu. Bước thứ hai là : hoa văn trưởng thành không cần bám vào lưng cái rìu – dù là
rìu ước lệ, rìu nghi trượng, mà trở thành một đối tượng độc lập. Tự có vị trí trong đời sống.
Tự đời sống cần những “hoa văn vô tích sự” kia.
Khoái cảm thẩm mĩ sinh ra từ khoái cảm ngũ quan. Bước một của liên tưởng là gợi
nhớ cái khoái cảm ngũ quan kia. Bước hai là quên lãng khoái cảm ngũ quan đó đi. Tự trở
thành một nhu cầu độc lập. Cái đẹp tách ra khỏi cái có ích và nó tồn tại trong đời sống ở
chỗ đời sống cần sự dư thừa, cần tính trò chơi, cần tính trường cửu và mọi cái cụ thể đều
không trường cửu, đều không có mục đích, có lợi ích trực tiếp. Văn minh lìa xa cái ích lợi
cốt lõi nhưng văn minh đẻ ra cái ích lợi cao cả, siêu việt khác – tưởng như không liên quan
gì đến cái ích lợi cốt lõi ban đầu sinh ra nó. Càng văn minh càng nhiều cái vô ích, cái
không có mục tiêu - bởi vì càng văn minh con người ta càng sợ chết, càng yêu đời sống,
càng yêu đời sống càng làm cho đời sống phức tạp, hay ho, thú vị và đáng sống. Đời sống
cần sự dư thừa. Sự dư thừa về tinh thần, về khoái cảm là sự dư thừa cao quý nhất, mang lại
hạnh phúc cao cả nhất vì nó nhắc nhở con người là người và con người bất diệt. Đó là đất
sống và bản chất của nghệ thuật.
“Đáng tiếc” là nghệ thuật lại là sản phẩm muốn hay không cũng có tinh thần xã hội và
đã có tính xã hội, của mọi người, thì nó cũng hay bị gán cho một tính mục đích. Gán như
vậy không chủ quan mà là sự “gán ghép” khách quan. Nó bị cột vào với kinh tế, chính trị,
đạo đức và tôn giáo. Nhưng không khi nào nó là đồ trang sức cho ba con ngựa kia. Mà
nghệ thuật tự nó là con ngựa nữa trong cỗ xe tứ mã của văn minh. Nghệ thuật thường được
gán vào mục tiêu chính trị, đạo đức, tôn giáo. Song đó là một thực thể nhị nguyên : một
mặt nó không thể tách khỏi các thứ kia, mặt khác nó không nhập làm một với chúng. Tuy
nhiên, cái mục tiêu của nghệ thuật là gì thực khó tưởng tượng. Nó như không khí rất cần
mà không cầm nắm được. Nó len lỏi, không lời mà không ai không thấy nó cụ thể. Chỉ khi
thiếu nó thì người ta mới ngỡ ngàng như rơi vào chân không.
Nếu nghệ thuật là vũ khí đơn thuần - điều này đúng khi xu thế xã hội cần cách mạng thì
nó chỉ là công cụ và khi mục tiêu chính trị, tôn giáo đạt được rồi thì pho tượng đáng đập đi,
tranh đáng đốt đi. Lí tưởng tư sản đã được thực hiện, thậm chí đi vào suy đồi thì tranh
Raphael, Leonardo, tượng Donatello, Michelangelo đáng bị tiêu hủy nếu chúng chỉ là
phương tiện. Như vậy nghệ thuật có hiệu quả của một phương tiện nhưng không đơn thuần
là phương tiện mà có sự tồn tại tự thân.

5
Nếu nghệ thuật rao giảng đạo đức - “văn dĩ tải đạo”- thì khi đạo đến bến rồi, mục đích
đạo đức đã thực thi trong đời sống - trong cách ứng xử của mọi người, thì tranh tượng…
đáng bị tiêu hủy. Các tác phẩm thời kì nào cũng tồn tại thực và có thể có giá trị thời sự và
không khi nào có cái cũ, cái lạc hậu, cái đáng bị xóa bỏ nếu nó là nghệ thuật chân chính.
Vậy nghệ thuật tự nó có đời sống. đời sống tinh thần và tình cảm của con người phải
chăng là “sự phản ánh” đời sống vật chất và cảm giác ngũ quan? Hay nó là sản phẩm phái
sinh của đời sống đó? Nó xuất phát từ đời sống đó bởi nếu không nó xuất phát từ đâu?
Song nó không phải là tấm gương đơn thuần phản ánh mà cũng không phải sản phẩm phái
sinh. Nó tạo ra một đời sống riêng biệt. Một đời sống cần thiết, nuôi dưỡng, huyền ảo và bí
hiểm, hấp dẫn không kém đời sống vật chất và khoái cảm ngũ quan cụ thể. Nghệ thuật
không phải là kết tinh của trực giác mặc dù nó xuất phát từ trực giác. Nó cũng không là kết
tinh của lí trí mặc dù nó cần lí trí. Một bức tranh không phải chỉ để người xem có khoái
cảm thị giác, hoặc những liên tưởng do kỉ niệm thị giác đó gây ra. Vạt cỏ xanh trong tranh
không chỉ làm nhiệm vụ gợi nhớ một bãi cỏ, một cảm giác về bãi cỏ hay gợi nhớ một tình
tự trên bãi cỏ xưa kia. Tự nó mang lại cho người xem một bãi cỏ mới. Với nó người ta
không sống một đời sống khác bổ sung cho đời sống thực, không rộng cẳng mà đi dạo mọi
thế giới tìm một thực tế đời sống muốn tới mà không tới được, đã mất đi mà muốn có lại.
nó cho ta một thế giới mới. Nó trở thành một bộ phận của đời sống thực. Do vậy cái đẹp,
cái có ích, cái nhân đạo gắn bó với nhau, nhưng không đồng nhất với nhau. Chúng có
những khu vực giao nhau, luôn vẫn cần tới nhau và giữa chúng có những dây tơ đằm thắm
ban đầu.
Nghệ thuật sinh ra từ đời sống cụ thể, từ cảm thức ngũ quan, từ khoái cảm trực giác,
từ nhu cầu tinh thần (tức bộ phận sản phẩm của vật chất được tổ chức cao độ, như đứa con
sinh ra từ cha mẹ. Nhưng đứa con đó có số phận và đời sống riêng vừa phụ thuộc vừa độc
lập với cha mẹ nó. Nó không chỉ giống cha mẹ và kế thừa trực tiếp mà còn có khả năng
giống tổ tiên xa xưa của nó và qua nó có cái dây chuuõi dọc thời gian được hình thành).
Nếu hỏi rằng nghệ thuật là gì? Thì chỉ có thể nói nghệ thuật là sự dưỡng sinh nòi
giống, dưỡng sinh dân tộc, dưỡng sinh đời sống thực tại đã sản sinh ra nó. Nó có tác dụng
vũ khí, có tác dụng phương thuốc (Lỗ Tấn có lí, song chỉ có lí một phần) nhưng nó không
thể chỉ là vũ khí, là thuốc quăng đi khi chiến trận đã xong, căn bệnh đã hết, và cũng không
chỉ là thứ thức ăn khoái khẩu không có ích lợi gì. Văn minh vật chất trên nền tảng sản xuất
và tiêu thụ, với kĩ thuật và sự tham gia của khoa học tự nhiên chịu một quy luật tiến bộ
phủ định trực tiếp – theo cách kế thừa. Những kiến thức thời nguyên thủy, thời Newton trở
nên lạc hậu và sau này Einstein cũng sẽ lạc hậu. Cái khung cửi và máy hơi nước tiến bộ

6
hơn lưỡi rìu đá và đã lạc hậu so với máy tính điện tử và máy bay phản lực. Đời sống vật
chất - ở khía cạnh tiêu dùng cũng vậy : tiện nghi của chúng ta hơn hẳn vua chúa thời cổ.
sản phẩm văn hóa không tuân thủ theo quy luật đó. Ở đây chỉ có sự “tiến bộ” nếu ta gắn nó
vào với lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội. Bản thân nghệ thuật gắn bó với từng giai cấp, tùy
thuộc vào các giai đoạn tiến bộ hay suy đồi của giai cấp đó. Xét ở khía cạnh giai cấp, tức
từ góc độ chính trị hay kinh tế thì nghệ thuật của giai cấp công nhân phải tiến bộ hơn nghệ
thuật của giai cấp tư sản. Song chắc chắn không có tác phẩm nào của nghệ thuật Xô-Viết
sánh nổi với các tác phẩm xuất sắc thời Phục Hưng. Thời Phục Hưng phủ nhận nghệ thuật
Trung cổ có cái siêu việt hiếm có. Nghệ thuật của các dân tộc Tây Âu hay Bắc Mĩ không
tiến bộ hay đẹp hơn nghệ thuật cổ Mĩ da đỏ hay nghệ thuật của thổ dân da đen. Ngay
những hình vẽ trên hang động cổ đại ở Pháp và Tây Ban Nha vẫn mang lại cho ta khoái
cảm thẩm mĩ thực sự. Và chúng không kém Picasso, Dali Salvador hay Orozco Jose tí nào.
Như vậy nghệ thuật có số phận riêng - nó như con người. Khó nói được về mặt nhân bản,
con người thời cổ đại “tốt” hơn hay giờ đây con người “tốt” hơn, bởi đó là điều không thể
so sánh. Đời sống có sự phủ nhận nhưng giá trị của đời sống thì không bị phủ nhận. Nghệ
thuật thuộc vào cái phần thăng hoa đó. Tác phẩm nghệ thuật là cái nhằm đi tới bản chất
người. Và mỗi thời có con đường do thời đó sinh ra và quy định để đi tới hạt nhân đó.
Nghệ thuật cũng như đời sống của ta luôn tồn tại, tìm mới bản tính người của giống nòi và
nhân loại – mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm. Tác phẩm đó luôn chứa cái hạt nhân đó vì vậy
luôn đồng đẳng với nhau dù chúng được sinh ra ở thời đại nào. Bằng chứng của sự đồng
đẳng đó là sự xúc cảm của ta với tác phẩm của mọi thời đại. Nghệ thuật bộc lộ nỗi đau và
niềm vui của con người – sự lo sợ cho ngày mai một cách cay đắng, hoan hỉ hay cuồng
nhiệt tùy từng thời kì – Mà nỗi đau, nguồn vui… đó là trường cửu không bao giờ xưa cũ,
xa lạ với mỗi người chúng ta.
Mỗi người là một nhân loại. Đó là cái gốc làm cho nghệ thuật có cớ tồn tại mãi. Ở tác
phẩm nghệ thuật, loài người có một đời sống khác, họ hiện diện ở một dạng đặc biệt và trở
nên trường cửu. Nghệ thuật do vậy cũng giống như bản năng sinh sản, nam yêu nữ, nó là
một hạt nhân di truyền văn minh cao cả của con người. Chính ở chỗ giống như bản năng
sinh sản, nghệ thuật bộc lộ nghĩa vụ cao cả của con người tức nghĩa vụ đối với giống nòi.
(Chương 2, Nguyễn Quân, Ghi chú về nghệ thuật, NXB Trẻ, 2008)

You might also like