Professional Documents
Culture Documents
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ấn Độ là một quốc gia rộng lớn và đông dân nhất thế giới với bề dày lịch sử và
nền văn minh vượt bậc trong quá khứ. Ấn Độ hiện nay lại có vị thế vô cùng quan trọng
trong bức tranh chính trị, xã hội và kinh tế toàn cầu. Kinh tế Ấn Độ là một trong những
nền kinh tế lớn trên thế giới, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến các mối quan hệ kinh tế
khác. Trong khi đó, Đông Nam Á là một khu vực có vị trí địa lý vô cùng quan trọng
trong con đường giao thương giữa Ấn Độ và các nước Đông Á như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản và các nước phương Tây. Từ khi thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) năm 1967, một số nước Đông Nam Á đã tận dụng được sức mạnh
liên kết khu vực để khai thác hiệu quả tiềm năng về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa.
Từ năm 1947 đến nay, quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á tương đối ổn định. Ấn Độ
đã tích cực ủng hộ hoạt động giành độc lập, tự chủ của các quốc gia Đông Nam Á. Có
thể kể đến như Hội nghị Liên Á (3/1947), Hội nghị Bandung (5/1955), là nước sáng lập
ra “Con đường không liên kết” và tham gia tích cực vào phong trào không liên kết (ra
đời năm 1961). (Đào, 2012)
Chính sách hướng Đông của Ấn Độ được công bố năm 1991 và được chú trọng
thực hiện dù trải qua một số quá trình đổi tên và các mục tiêu, đối tượng mà nó hướng
tới. Ban đầu, chính sách này không nêu cụ thể bằng văn bản, kế hoạch nào chính thức,
mà được thể hiện qua báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao. Chính vì thế, mãi đến sự
kiện Ấn Độ trở thành đối tác đối thoại từng phần của ASEAN, Bộ Ngoại giao Ấn Độ
mới khẳng định chính sách hướng Đông ra đời năm 1992 trong Báo cáo thường niên
2006 – 2007. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu vẫn cho rằng chính sách này gắn liền với
cuộc cải cách toàn diện đất nước năm 1991.
Trong các giai đoạn của việc triển khai chính sách hướng Đông, Ấn Độ đã tập
trung tăng cường quan hệ trên mọi lĩnh vực với khu vực Đông Nam Á. Các quốc gia
Đông Nam Á đã có nhiều cơ hội hợp tác trên mọi lĩnh vực với Ấn Độ từ rất sớm. Đến
thế kỷ XXI, cùng với xu hướng phát triển của thế giới, các mục tiêu mà ASEAN hướng
đến đã đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng cho các quốc gia thành viên. Trong bối cảnh
hướng đến thành lập các cộng đồng kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh - chính trị, các
quốc gia Đông Nam Á tích cực mở rộng hợp tác với các nước khác, trong đó có Ấn Độ
2
- một đối tác tiềm năng. Ấn Độ cũng đã tận dụng thời cơ này để thúc đẩy cơ chế hợp tác
về nhiều lĩnh vực như là một phần của chính sách hướng Đông của mình.
Thập niên đầu thế kỷ XXI có thể được xem là bước ngoặt lịch sử của thế giới nói
chung và ASEAN nói riêng khi cơ chế hợp tác song phương, đa phương được đẩy mạnh.
Mối quan hệ giữa Ấn Độ và ASEAN cũng được tăng cường trên mọi lĩnh vực, trong đó
có lĩnh vực kinh tế. Đây cũng là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam có bước phát triển mới,
tạo điều kiện thuận lợi trong cơ chế hợp tác Ấn Độ - Việt Nam, Ấn Độ - ASEAN. Chính
vì thế, vấn đề nghiên cứu về mối quan hệ về kinh tế giữa Ấn Độ và một số nước Đông
Nam Á cần được chú trọng. Nó góp phần vào việc phác họa bức tranh quan hệ hợp tác
của Ấn Độ trong chính sách “Hành động ở phía Đông” của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ hợp tác về mặt kinh tế của chủ
thể nghiên cứu là Ấn Độ và một số quốc gia Đông Nam Á. Trong đó, đề tài tập trung
vào mối quan hệ song phương giữa Ấn Độ với một số nước thành viên ASEAN.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu, đề tài nghiên cứu dựa trên mối quan hệ giữa Ấn Độ
và một số nước Đông Nam Á bao gồm: Singapore, Myanmar, Việt Nam và Thái Lan.
Về thời gian nghiên cứu, đề tài tổng hợp và phân tích mối quan hệ này trong bối
cảnh thập niên đầu thế kỷ XXI, giai đoạn 2000 – 2010.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN hay Ấn Độ và các nước Đông Nam Á đã có
nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu, từ đó nguồn tài liệu
tham khảo về vấn đề rất phong phú và đa dạng. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng
nguồn tài liệu phong phú đó như một cơ sở dữ liệu rộng lớn nhằm tổng hợp, phân tích
và so sánh các mối quan hệ của Ấn Độ với các nước Đông Nam Á trong lĩnh vực kinh
tế thập niên đầu thế kỷ XXI.
Trong các công trình nghiên cứu gần với chủ đề nhất là công trình nghiên cứu
của tác giả Bùi Thị Đào (2012) với Luận văn Thạc sĩ “Quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong
thập niên đầu của thế kỷ XXI”. Trong công trình này, tác giả tiếp cận và phân tích mối
quan hệ Ấn Độ và các nước ASEAN dưới các lĩnh vực kinh tế, văn hóa giáo dục và khoa
3
học cộng nghệ, chính trị - ngoại giao. Đây là nguồn tài liệu quan trọng để khai thác mối
quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong phương diện kinh tế.
Tác giả Lê Nguyễn Hương Trinh (2005) với “Chính sách ngoại thương Ấn Độ
thời kỳ cải cách” đã đề cập đến sự chuyển hướng của chính sách ngoại thương Ấn Độ
thời kỳ cải cách. Trong đó, chính sách hướng Đông của Ấn Độ và sự chuyển hướng
trong quan hệ thương mại Ấn Độ - ASEAN được phân tích cụ thể.
Công trình nghiên cứu “Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ đầu thế kỷ XXI đến nay”
của tác giả Đỗ Thanh Hà (2020) cũng là một nguồn tài liệu quan trọng trong việc phân
tích mối quan hệ giữa Ấn Độ - Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Đặc biệt, đây còn là
nguồn tài liệu cung cấp dữ liệu rất mới. Tác giả Đỗ Thanh Hà đã phân tích sâu các nhân
tố tác động đến mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đầu thế kỷ XXI, những cơ chế hợp tác
giữa hai bên, kết quả và kiến nghị.
Ngoài ra, trong giới hạn nội dung của bài tiểu luận, tác giả nghiên cứu còn tham
khảo một số nguồn tài liệu khác trong các bài báo khoa học, báo cáo thường niên của
chính phủ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản trong
việc hệ thống tư liệu dựa trên việc tái hiện bức tranh tổng thể chính sách hướng Đông
của Ấn Độ với ASEAN, bao gồm phương pháp lịch sử, phương pháp logic và phương
pháp thống kê.
Phương pháp lịch sử là tái hiện trung thực bức tranh quá khứ của sự vật, hiện
tượng dựa trên các nguồn cứ liệu. Trong đó, đề tài trình bày tái hiện các chính sách
hướng Đông của Ấn Độ đối với chính sách song phương giữa Ấn Độ và ASEAN nói
chung và đa phương giữa Ấn Độ và các nước thuộc ASEAN. Theo đó, dựa trên các
nguồn tài liệu có sẵn, các chính sách của Ấn Độ từ trước đến nay trong mối quan hệ với
ASEAN và đặc biệt là đầu thế kỷ XXI.
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu hiện tượng trong hình thức tổng
quát nhằm vạch ra quy luật, khuynh hướng của sự vận động khách quan. Vì thế, đề tài
phân tích các sự kiện tổng quát của Ấn Độ và các nước ASEAN để tìm ra quy luật và
khuynh hướng chính sách hướng Đông của Ấn Độ trong thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Phương pháp thống kê là phương pháp thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu và
tính toán các đặc trưng của đối tượng. Trong đề tài, nhóm nghiên cứu thu thập và tổng
4
hợp số liệu thống kê các hoạt động và thành tựu kinh tế giữa Ấn Độ với các nước trong
ASEAN nhằm biểu thị rõ mối quan hệ và chính sách đa phương giữa Ấn Độ với các
nước trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
5. Bố cục đề tài
Đề tài được chia thành hai chương cụ thể:
Chương 1: Chính sách hướng Đông của Ấn Độ và bối cảnh quan hệ Ấn Độ -
ASEAN thập niên đầu thế kỷ XXI. Trong chương này, đề tài giới thiệu khái quát chính
sách hướng Đông và chính sách Hành động ở phía Đông của Ấn Độ. Đây được xem như
tiền đề và nguyên nhân thúc đẩy quá trình hợp tác của Ấn Độ với các nước ASEAN.
Đồng thời chương này còn khái quát bối cảnh thế giới và bối cảnh khu vực tác động đến
quan hệ Ấn Độ và ASEAN thập niên đầu thế kỷ XXI.
Chương 2: Quan hệ kinh tế Ấn Độ - ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
Chương này khái quát kết quả hợp tác giữa Ấn Độ và ASEAN, giữa Ấn Độ và các nước
thành viên ASEAN trong lĩnh vực kinh tế.
5
các nước Đông Nam Á và Đông Á. Đồng thời nhắc lại cam kết của Ấn Độ trong việc
cùng ASEAN và các nước Đông Á biến thế kỷ XXI thực sự là thế kỷ của châu Á”.
1.1.2. Các giai đoạn của chính sách hướng Đông
Chính sách hướng Đông chia làm hai giai đoạn, tập trung vào ba lĩnh vực: chính
trị, kinh tế và quân sự.
Giai đoạn 1 được xác định từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến năm 2002.
Trong giai đoạn này, Ấn Độ tập trung mối quan hệ với Đông Nam Á trên mọi lĩnh vực,
trong đó chú trọng về thương mại và đầu tư, lấy chính sách ngoại giao kinh tế làm trụ
cột.
Giai đoạn 2 được tính từ năm 2002, dấu mốc là Hội nghị cấp cao Ấn Độ - ASEAN
tại Phnôm Pênh (Campuchia). Như vậy, thập niên đầu thế kỷ XXI rơi vào giai đoạn 2
của chính sách hướng Đông của Ấn Độ. Giai đoạn này còn mở rộng mối quan hệ vượt
ra ngoài ASEAN để bao hàm cả Đông Á và Nam Thái Bình Dương. Ấn Độ cam kết với
khối ASEAN là yếu tố then chốt của việc tạo ra viễn cảnh cộng đồng kinh tế châu Á.
1.1.3. Chính sách Hành động ở phía Đông
Từ khi thực hiện chính sách hướng Đông, New Delhi đã có những tiến bộ trong
tái kết nối với châu Á từ thập niên 1990. Tuy nhiên, sự kỳ vọng về gia tăng vai trò của
Ấn Độ và ảnh hưởng chính trị của New Delhi còn khá khiêm tốn.
Sau đó, Ấn Độ đã chuyển “Chính sách hướng Đông” thành “Hành động ở phía
Đông”. Điều này thể hiện sự chủ động của Ấn Độ nhằm tăng cường quan hệ giữa hai
cực tăng trưởng trong châu Á. Những mục tiêu của chính sách hướng Đông tiếp tục
được hoàn thiện bằng những hành động thiết thực để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Nếu trước đây, New Delhi thường đóng vai người quan sát trong các vấn đề, tranh
chấp quốc tế, đặc biệt ở những nơi nằm ngoài khu vực “lợi ích cốt lõi” truyền thống của
mình là khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương, thì nay mọi chuyện đã thay đổi. Kể từ khi
Biển Đông trở thành một vấn đề mang tầm quốc tế, thành vũ đài trung tâm của những
tranh cãi và các diễn đàn về an ninh ở khu vực CA - TBD do sự trỗi dậy của Trung Quốc
với những hành xử ngày càng cứng rắn, mang tính đe dọa, thách thức tự do hàng hải và
luật pháp quốc tế của Bắc Kinh, phớt lờ cảnh báo của các cường quốc bên ngoài như
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ cho nên New Delhi cũng đã bộc lộ thái độ khá rõ
ràng. (Thảo, 2015)
7
1.2. Bối cảnh tác động đến quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong lĩnh vực kinh tế
1.2.1. Bối cảnh thế giới
Trong bối cảnh đầu thế kỷ XXI, các nền kinh tế phát triển luôn muốn mở rộng
thị trường, nguồn vốn đầu tư, địa bàn chuyển nhượng kỹ thuật truyền thống và hình
thanh phân công lao động quốc tế thì phải mở rộng những mối quan hệ quốc tế cùng có
lợi. Bản chất của nền kinh tế thị trường là sự trao đổi kinh tế vượt ra ngoài biên giới,
không thể khép kín, tự cấp tự túc như nền kinh tế xã hội chủ nghĩa truyền thống ban đầu.
Trong giai đoạn này, hầu hết các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng đã chuyển sang cơ
chế thị trường, phá bỏ chế độ cô lập. Đồng thời yêu cầu mở rộng một khối kinh tế lớn
khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) hoạt động mạnh mẽ, các nước có nền kinh tế
lớn đã đẩy mạnh liên kết và mối quan hệ song phương, đa phương. Thế giới trở thành
thị trường toàn cầu và sự xuất hiện của toàn cầu hóa nền kinh tế.
Toàn cầu hóa nền kinh tế mang đặc trưng của giao lưu, trao đổi hàng hóa, dịch
vụ, lao động và tư bản trên phạm vị toàn cầu. Nó mang lại cơ hội vô cùng lớn cho các
nền kinh tế biết nắm bắt thời cơ để mở rộng quy mô nền kinh tế, biến nền kinh tế quốc
gia mang yếu tố toàn cầu. Tuy nhiên, để tự do trong thương mại, được sự hỗ trợ trong
các hoạt động kinh tế quốc tế, sự thúc đẩy quan hệ về kinh tế với các nước quan trọng
là cần thiết.
1.2.2. Bối cảnh khu vực
Ở khu vực Đông Nam Á, sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết, môi trường
hòa bình, ổn định được lập lại. Các mục tiêu của ASEAN được đẩy mạnh. Đông Nam
Á trở thành khu vực phát triển năng động với các nền kinh tế trẻ, phát triển vượt bậc
như Singapore, Thái Lan, Indonesia,… Đặc biệt, hướng đến mục tiêu hình thành cộng
đồng kinh tế ASEAN năm 2015, ASEAN càng thúc đẩy cơ hội phát triển kinh tế và mở
rộng hợp tác về mặt kinh tế của các quốc gia thành viên. Đặc biệt, nền kinh tế - chính
trị của Việt Nam giai đoạn này có sự thay đổi đặc biệt, mở đường cho chính sách thực
thi hóa các mối quan hệ về kinh tế với các nước khác.
1.3. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN trước thế kỷ XXI
1.3.1. Quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á giai đoạn 1947 - 1967
Sau khi giành độc lập năm 1947, Ấn Độ chính thức tuyên bố chính sách “chung
sống hòa bình”, ban hành “5 nguyên tắc cơ bản”: chủ quyền, không gây hấn, không can
thiệp, bình đẳng và chung sống hòa bình. (Đào, 2012)
8
Để tăng cường vai trò của mình ở châu Á, Ấn Độ đã triệu tập “Hội nghị châu Á
về tình hình Indonesia”. Hội nghị có 18 nước tham gia, 4 nước là quan sát viên với nội
dung lên án hành động xâm lược của thực dân Hà Lan, đòi phải trao trả ngay độc lập
cho Indonesia, đồng thời đã lên án liên minh phương Tây ủng hộ và viện trợ cho Hà Lan
xâm lược Indonesia.
Sau đó, tại Hội nghị Á – Phi họp tại Bandung (Indonesia) vào tháng 4/1955, các
nước đã nhất trí đổi “5 nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” thành “10 nguyên tắc
Bandung”, trong đó có Ấn Độ góp một phần vô cùng quan trọng. Đến thập niên 60, tình
hình thế giới và khu vực chuyển biến phức tạp. Quan hệ Trung - Ấn chuyển từ hữu nghị
sang thù địch. Ấn Độ cùng các nước, trong đó có Indonesia đã sáng lập phong trào
“không liên kết” trong khóa họp thứ 15 năm 1960 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc và
Hội nghị cấp cao lần thứ nhất các nước không liên kết năm 1961.
1.3.2. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN giai đoạn 1967 – 1991
Năm 1954, Thái Lan và Philippines đã tham gia tổ chức chống cộng “Hiệp ước
Đông Nam Á” do Mỹ bảo trợ. Đến năm 1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) được thành lập gồm 5 thành viên: Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore,
Philippines. Trong thời gian này, ASEAN tích cực hướng về phương Tây với định hướng
phương Tây. Trong khi đó, Ấn Độ lại ủng hộ các nước Đông Dương trong phong trào
chống Mỹ. Chính vì lẽ đó, Ấn Độ thực hiện chính sách được xem là nước đôi trong mối
quan hệ với ASEAN.
Năm 1979, trong sự kiện diệt chủng của Pol Pot, Việt Nam đưa quân đội vào
Campuchia. Trong khi nhiều nước trong khu vực và trên thế giới lên án, coi đó là hành
vi “xâm lược” thì Ấn Độ đã ủng hộ hành động đó. Chính vì bất đồng quan điểm này
giữa Ấn Độ cà các nước ASEAN lúc bấy giờ, điển hình là Singapore, mối quan hệ
ASEAN - Ấn Độ trở nên tồi tệ. Có thể kể đến sự kiện Thủ tướng Singapore Lý Quang
Diệu từ chối tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Phong trào Không liên kết tại New Delhi
năm 1983.
Trong những năm 70, thương mại Ấn Độ - ASEAN tăng nhanh chóng nhưng
không có trọng điểm. Trao đổi mậu dịch của Ấn Độ với các nước ASEAN chiếm tỷ lệ
nhỏ: chiếm 1,5% tổng xuất khẩu và 0,39% tổng nhập khẩu năm 1970 – 1971. Đến năm
1978 – 1979, giá trị trên đã tăng tương ứng là 4,2% và 5,2%. (Đào, 2012)
9
Để mở rộng và đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế, Ấn Độ và ASEAN đã thành
lập các cơ chế thể chế khác nhau để thông qua đó các cuộc thương lượng được thực thi
và hai bên đang nỗ lực vượt qua các rào cản để làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác.
Các hoạt động được thông qua bao gồm Hội nghị thượng đỉnh kinh doanh Ấn Độ -
ASEAN được tổ chức tại New Delhi tháng 10 năm 2002. Tại Hội nghị thượng đỉnh Ấn
Độ - ASEAN lần thứ hai năm 2003, hai bên đã ký một hiệp định khung về Hợp tác toàn
diện và các cuộc đàm phán được dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2005. Hiệp định khung
này đã tạo nền móng vững chắc cho sự thành lập khu vực Thương mại và Đầu tư ASEAN
- Ấn Độ (RTIA). Hiệp định này bao gồm một Khu vực đầu tư, thương mại Ấn Độ -
ASEAN trong đó có khu vực mậu dịch tự do (FTA) Ấn Độ - ASEAN về hàng hóa, dịch
vụ và đầu tư. Hiệp định cũng đề ra Chương trình thu hoạch sớm về buôn bán hàng hóa
tiến tới giảm thuế quan đối với 105 mặt hàng đã được nhất trí.
Tháng 8 năm 2009, ASEAN và Ấn Độ đã ký kết Hiệp định về Thương mại hàng
hóa (TIG) tại Bangkok. Hiệp định này mở đường cho việc thành lập một trong những
khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới. Đàm phán mậu dịch tự do Ấn Độ - ASEAN
đã thu được tiến triển quan trọng. Hiệp định Mậu dịch tự do hàng hóa đã chính thức có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Với việc khởi động FTA giữa Ấn Độ và
ASEAN, Ấn Độ đã chính thức tham gia vào làn sóng thiết lập khu vực mậu dịch tự do
giữa các nước lớn Đông Á. FTA giữa Ấn Độ và ASEAN mang lại những thuận lợi nhất
định cho Ấn Độ trong quá trình tăng cường hợp tác sâu rộng với khu vực kinh tế châu
Á – Thái Bình Dương.
Ngày 02 tháng 03 năm 2010, 10 lãnh đạo Bộ Công thương của các nước ASEAN
đã có mặt tại New Delhi trong khuôn khổ Hội chợ thương mại và Hội đàm Ấn Độ -
ASEAN nhằm thắt chặt quan hệ, tăng cường hợp tác và thúc đẩy phát triển kinh tế.
FDI của ASEAN sang Ấn Độ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực viễn thông, dầu khí
và các ngành công nghiệp nặng, với nguồn vốn chính từ các nước Singapore, Malaysia
và Thái Lan. Tính đến năm 2006, Singapore có vốn đầu tư vào Ấn Độ là 1,5 tỷ USD
trong lĩnh vực viễn thông và 2 tỷ USD trong công nghệ và lĩnh vực dịch vụ tài chính.
Malaysia là nhà đầu tư lớn thứ 10 vào Ấn Độ, đã hoàn thành 21 dự án ước tính trị giá
1,2 tỷ USD. Đến tháng 12 năm 2004, Ấn Độ đã đầu tư 144 dự án trị giá khoảng 420
triệu USD tại Malaysia, chủ yếu là trong lĩnh vực sản xuất. Từ năm 1995 đến năm 2003,
12
sự tích lũy vốn đầu tư nước ngoài của Ấn Độ trong ASEAN đạt 0,67 tỷ USD, chiếm
0,4% tổng số dòng FDI vào ASEAN trong thời gian này.
Nhìn chung, quan hệ kinh tế hai bên từ năm 2000 đến 2010 đã đạt được nhiều
thành tựu vượt bậc so với trước năm 2000 nhưng vẫn chưa tương xứng với mối quan hệ
chính trị tốt đẹp, với tiềm năng mong muốn của hai bên. Để đẩy mạnh sự hợp tác toàn
diện, hai bên cần tích cực tìm ra nguyên nhân cản trở mối quan hệ này và đề ra những
giải pháp tháo dỡ thiết thực, hiệu quả.
2.2. Quan hệ Ấn Độ - Singapore trong lĩnh vực kinh tế
Năm 2000, kinh tế Ấn Độ tăng trưởng ở mức 7% và tiếp tục tăng trong những
năm tới. Điều đó tạo điều kiện thương mại và đầu tư giữa Ấn Độ và Singapore ngày
càng phát triển. Trong thời gian này, Singapore tuy chưa phải là nhà đầu tư chính tại Ấn
Độ, tuy nhiên Singapore đủ khả năng tiếp thị cho tiềm năng Ấn Độ. Sự hiện diện của
các công ty đa quốc gia ở Singapore đã giúp họ định hình một nền kinh tế mới. Ngoài
ra, sự hiểu biết về Đông Á và châu Á – Thái Bình Dương biến Singapore thành đối tác
lý tưởng mà qua đó Ấn Độ có thể thu hút đầu tư hay tiến ra khu vực.
Ngoài quan hệ thương mại, hai nước cũng thúc đẩy luồng đầu tư. Trong khi chiếm
tới 95% số vốn đầu tư của các nước ASEAN vào Ấn Độ trong năm 2005, Singapore trở
thành một trong những nước đầu tư lớn nhất vào Ấn Độ, với tổng giá trị đầu tư lên tới 3
tỷ USD trong năm 2006. Tính đến năm 2007, Singapore trở thành nước đầu tư lớn thứ
hai vào Ấn Độ. Năm 2008, FDI của Singapore vào Ấn Độ tăng lên 3,3 tỷ USD, cao hơn
nhiều so với năm 2005. Các công ty Singapore đã quan tâm nhiều tới thị trường Ấn Độ
và đang tăng cường đầu tư vào thị trường to lớn này.
Tuy nhiên, những nỗ lực của Singapore trong việc làm ăn với Ấn Độ vẫn còn cấp
phải những khó khăn do vấn đề thủ tục, tình trạng quan liêu bao cấp, thiếu sự minh bạch
và sự khác biệt về hành chính – chính trị. Các chính sách bảo hộ của chính phủ Ấn Độ
không chỉ làm chậm nhịp độ đầu tư và hoạt động kinh doanh của Singapore tại Ấn Độ
mà còn gây ra nỗi thất vọng to lớn trong giới kinh doanh Singapore.
2.3. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong lĩnh vực kinh tế
Năm 1998, Sáng kiến Hợp tác kinh tế BIMSTEC được thành lập, đóng vai trò to
lớn trong khu vực. Myanmar lúc này không chỉ trở thành khu vực đệm giữa hai đối thủ
Ấn Độ - Trung Quốc mà còn là cửa ngõ cho Ấn Độ thâm nhập vào ASEAN. Năm 2001,
13
tuyến đường bộ Moreh – Tamu -Kalemyo khánh thành nhằm tạo điều kiện cho hoạt
động buôn bán qua biên giới Ấn Độ - Myanmar được dễ dàng.
Từ năm 2004, Myanmar đã nổi lên là chiếc cầu nối về cả kinh tế lẫn địa lý trong
mục tiêu nối khu vực Đông Bắc của Ấn Độ với khu vực Đông Nam Á và tỉnh Vân Nam
của Trung Quốc. Ấn Độ đã thực thi các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng khác nhau
cả trong lĩnh vực song phương lẫn đa phương, tại các khu vực khác nhau của Myanmar.
Bên cạnh đó, Ấn Độ và Myanmar đã ký dự án Kalanda vốn tạo điều kiện cho các hoạt
động buôn bán trên biển của khu vực Đông Bắc Ấn Độ với các nước Đông Nam Á.
Đồng thời, Ấn Độ cũng nâng cấp và mở lại “con đường Myanmar cũ”. Kể từ giữa thập
niên 90 của thế kỷ XX đến 2008, Ấn Độ đã cấp cho Myanmar hơn 100 triệu USD tín
dụng bao gồm cả việc nâng cấp tuyến đường sắt Ranggun – Mandalay. Thêm vào đó,
Ấn Độ đã đóng góp 27 triệu USD để nâng cấp các tuyến đường nối với thị trấn Tamu
nằm trên biên giới với bang Mazoram của Ấn Độ.
Sáng thế kỷ XXI, trong sự bùng nổ của công nghiệp năng lượng, năng lượng đã
trở thành lĩnh vực quan trọng trong chính sách đối với Myanmar của Ấn Độ. Myanmar
nổi lên như một nguồn cung cấp quan trọng nguyên liệu khí đốt cho Ấn Độ. Ấn Độ cũng
đã có kế hoạch mua một khối lượng lớn khí đốt ngoài khơi của Myanmar và đặt đường
ống dẫn vào khu vực Đông Bắc để cải thiện cơ sở hạ tầng năng lượng. Hợp đồng này
đem lại thu nhập hàng triệu đô mỗi năm cho chế độ quân sự Myanmar.
Giai đoạn sau đó, quan hệ thương mại giữa Ấn Độ và Myanmar vẫn tăng trưởng.
Ấn Độ là đối tác thương mại lớn thứ tư của Myanmar, chỉ sau Singapore, Trung Quốc
và Thái Lan. Kim ngạch thương mại song phương Ấn Độ - Myanmar đã tăng từ 227,23
triệu USD năm 2000 lên tới 750 triệu USD năm 2006, trong đó Ấn Độ nhập khẩu một
khối lượng hàng hóa từ Myanmar trị giá 612 triệu USD và xuất khẩu sang Myanmar 138
triệu USD hàng hóa. Như vậy, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ Myanmar của Ấn Độ
cao gấp nhiều lần so với kim ngạch xuất khẩu của Ấn Độ sang Myanmar. Mặc dù thương
mại giữa hai nước chỉ tăng nhẹ, song Ấn Độ đặc biệt hy vọng vào thị trường Myanmar,
nhất là lĩnh vực dược phẩm, bất chấp sự hiện diện của Trung Quốc. Ấn Độ nhập chủ
yếu các nguyên liệu thô từ Myanmar như đỗ, gỗ và các sản phẩm từ gỗ. So với nhập
khẩu thì hàng xuất khẩu của Ấn Độ sang Myanmar đa dạng hơn, phần lớn là dược phẩm,
sắt thép, máy điện, phụ tùng ô tô, sợi bông và thiết bị. Ấn Độ đã trở thành thị trường
xuất khẩu hàng hóa lớn thứ hai của Myanmar, chỉ sau Thái Lan.
14
Ngược lại, Ấn Độ xuất khẩu sang Việt Nam chủ yếu là dược phẩm, các loại hóa
chất, chất dẻo, các sản phẩm sơn, máy móc. Mặc dù không có mặt hàng xuất khẩu chủ
lực như dầu thô, máy móc thiết bị có giá trị lớn và cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của 2
nước tương đối giống nhau, thế mạnh của ta cũng là thế mạnh của bạn như các mặt hàng
nông, thủy sản, dệt may…nhưng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã tìm được chỗ
đứng trên thị trường Ấn Độ. Năm 2008, Ấn Độ trở thành nước xuất khẩu lớn thứ 10 vào
Việt Nam. Ấn Độ có ngành chế biến gia vị số một trên thế giới, là một trong những sáng
lập viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO và Hiệp định chung về thuế quan và
Thương mại GATT. Doanh nghiệp hai nước đã ký nhiều hợp đồng và thỏa thuận hợp
tác kinh doanh với tổng trị giá lên đến gần 4,5 tỷ USD (2007), trong đó đáng lưu ý là
Thỏa thuận hợp tác giữa Tổng Cty Thép Việt Nam và Tập đoàn thép Tata của Ấn Độ,
được ký dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Manmohan Singh và Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng để nghiên cứu xây dựng nhà máy thép liên hợp Hà Tĩnh, khai thác mỏ sắt
Thạch Khê với công suất 4,5 triệu tấn thép/năm. Hiệp hội các doanh nghiệp Ấn Độ đã
được thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm thúc đẩy các mối quan hệ thương mại
và kinh tế giữa hai bên.
Về đầu tư, các chính sách kinh tế của Việt Nam đã mở ra những cơ hội to lớn cho
đầu tư của Ấn Độ, cả về tiếp cận thị trường trong nước đang ngày càng gia tăng và về
xuất khẩu. Việc Việt Nam là thành viên của ASEAN là một nhân tố lý tưởng cho Ấn
Độ. Đầu tư của Ấn Độ vào Việt Nam năm 2003 là khoảng 125 triệu USD, chủ yếu là
vào các nhà máy sản xuất đường, phát điện, khu vực chất dẻo và dầu ăn. Hai nước cũng
đã nhất trí tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và tư vấn của hai bên, mở rộng
buôn bán và quản lý đầu tư trong các lĩnh vực như dầu mỏ, khí đốt, hóa chất, hóa dầu,
phân bón, điện, dược phẩm, công nghệ thông tin, chế biến nông sản và công nghiệp nhẹ,
đường sắt, khai thác mỏ. Nhiều tập đoàn hàng đầu của Ấn Độ như ONGC, TATA,
ESSAR… đã thành lập văn phòng, đang và sẽ có những kế hoạch đầu tư hiệu quả vào
Việt Nam ở nhiều lĩnh vực như khai thác khoáng sản, công nghiệp ô tô, thép, dầu khí,
năng lượng... Các dự án đầu tư trị giá hàng tỷ USD góp phần đưa Ấn Độ vào nhóm 10
nước có đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Trong ASEAN, Việt Nam trở thành nước thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất từ Ấn Độ.
Tính đến cuối năm 2006, Ấn Độ có 12 dự án FDI còn hiệu lực với tổng số vốn
đầu tư đăng ký 46,4 triệu USD, đầu tư thực hiện hơn 580 triệu USD. Năm 2007 đã đánh
16
dấu một bước chuyển lớn trong đầu tư của Ấn Độ vào Việt Nam. Tháng 02 năm 2007,
Tập đoàn ESSAR đã ký thỏa thuận đầu tư một dự án thép cán nóng tại Bà Rịa - Vũng
Tàu trị giá 527 triệu. Năm 2010 đã có nhiều đoàn của Ấn Độ sang Việt Nam tìm kiếm
cơ hội kinh doanh và đầu tư: Đoàn của Phòng Thương mại Ấn Độ và 8 doanh nghiệp
hàng đầu của Kolkata, Đoàn của Hội đồng Xúc tiến Xuất khẩu sản phẩm dệt, sợi bông
Ấn Độ và 16 doanh nghiệp hội viên, Đoàn của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam - Ấn Độ, Đoàn của Liên đoàn các Phòng Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ,
Đoàn của Liên đoàn Công nghiệp Ấn Độ,… Trên thực tế, Việt Nam đang dành nhiều cơ
hội lớn cho các công ty Ấn Độ đầu tư vào các lĩnh vực như nông nghiệp, nông lâm
nghiệp và chế biến thực phẩm. Các thành phẩm có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng không chỉ ở Việt Nam và Ấn Độ mà còn ở các nước thứ ba, trong
và ngoài ASEAN. Việc ký kết Hiệp định tự do thương mại Ấn Độ - ASEAN và việc Ấn
Độ công nhận nền kinh tế thị trường của Việt Nam sẽ giúp mở rộng khung pháp lý cho
cộng đồng doanh nghiệp của cả hai nước xâm nhập vào thị trường của nhau mạnh mẽ
hơn, và giúp tăng lợi thế cạnh tranh về các mặt hàng với các nước khác.
Về tín dụng: Từ năm 1976, Ấn Độ dành cho Việt Nam nhiều khoản tín dụng ưu
đãi và Chính phủ Việt Nam ngày càng sử dụng có hiệu quả. Hai bên bày tỏ hài lòng về
các khoản tín dụng hiệu quả thiết thực của Ấn Độ dành cho Việt Nam như tín dụng
ODA, tín dụng ưu đãi, một số khoản viện trợ không hoàn lại. Năm 2007, Ấn Độ công
bố dành cho Việt Nam một khoản tín dụng ưu đãi trị giá 45 triệu USD cho Dự án Thủy
điện Nậm Chiến, hiệp định vay tín dụng này đã được ký vào tháng 01 năm 2008. Sau
đó, Ấn Độ tiếp tục công bố một khoản tín dụng mới cho Việt Nam trị giá 19,5 triệu
USD.
2.5. Quan hệ Ấn Độ - Thái Lan trong lĩnh vực kinh tế
Tổng thương mại giữa Ấn Độ và Thái Lan tăng từ 1,05 tỷ USD trong giai đoạn
2001 – 2002 lên 2,28 tỷ USD trong giai đoạn 2005 – 2006 và đạt mức 3,4 tỷ USD năm
2006, 4 tỷ USD vào năm 2007. Các mặt hàng xuất khẩu của Ấn Độ sang Thái Lan bao
gồm đá quý (chủ yếu là kim cương và ngọc lục bảo), quặng, chất thải phế liệu kim loại,
hóa chất sắt và thép, rau quả, máy móc và phụ tùng, thuốc và dược phẩm, sợi, các bộ
phận và các phụ kiện xe. Ấn Độ nhập khẩu từ Thái Lan chủ yếu là chất polyme, dịch vụ
phát thanh phát sóng, dịch vụ truyền hình, sản phẩm sắt và thép, động cơ xe ô tô, phụ
17
kiện xe hơi, máy xử lý dữ liệu tự động, sản phẩm hóa chất, máy điều hòa không khí và
các bộ phận của máy.
Ấn Độ và Thái Lan đã ký một khuôn khổ thỏa thuận thành lập một FTA trong
năm 2003. Cả hai bên đã đồng ý rằng thuế quan của 82 mặt hàng trên một danh sách lựa
chọn sẽ được giảm 50% trong năm 2004 - 2005, giảm 75% trong năm 2005 - 2006 và
loại bỏ hoàn toàn sau đó để đi đến ký hiệp định thành lập FTA vào năm 2010. Tuy nhiên,
các cuộc đàm phán sau đó về FTA đã không thu được kết quả khả quan vì hai bên không
thỏa thuận được danh sách các mặt hàng nhạy cảm. Ấn Độ có một ngàn mặt hàng nhạy
cảm trong danh sách của nó trong khi số mặt hàng nhạy cảm của Thái Lan có chứa một
trăm.
Trong khi đó, các nhà sản xuất trong nước ở Ấn Độ trong ba lĩnh vực: tranh vẽ,
truyền hình và máy móc tự động đang phải đối mặt với các vấn đề do giá nhập khẩu rẻ
hơn từ Thái Lan. Hội đồng Quốc gia về nghiên cứu kinh tế ứng dụng (NCAER) cho biết
khi FTA được ký kết, Thái Lan chỉ chiếm 1,4% tổng số hàng hóa xuất khẩu của Ấn Độ
và 0,7% của hàng hóa nhập khẩu. Cũng theo NCAER, Ấn Độ đã có quan hệ thương mại
tốt với Thái Lan trong ba năm 2000 – 2003, trước khi kí Hiệp định khung FTA. Ấn Độ
xuất khẩu sang Thái Lan với mức tăng trưởng trung bình 16,6% từ 2000 – 2001 đến
2002 – 2003, so với 13,3% mức xuất khẩu của Ấn Độ với phần còn lại của thế giới.
Nhập khẩu từ Thái Lan trong cùng giai đoạn tăng trưởng chỉ có 6,8%, thấp hơn hơn tốc
độ tăng trưởng 7,6% trong mức nhập khẩu của Ấn Độ từ các nước khác trên thế giới.
Từ năm 2005, quan hệ thương mại Ấn Độ - Thái Lan suy giảm, từ đó dẫn đến bế
tắc trong việc ký kết hiệp định FTA Ấn Độ - Thái Lan. Tuy nhiên đến năm 2007, hai
bên đã nối lại đàm phán FTA hàng hóa. Cả hai đã đồng ý bắt đầu thảo luận về một FTA
dịch vụ và đầu tư. FTA Ấn Độ - ASEAN được ký kết trong cuộc họp lãnh đạo ASEAN
tại Bangkok trong năm 2009, đã cung cấp cho Thái Lan cơ hội lớn hơn trong việc tiếp
cận thị trường Ấn Độ. Các cuộc hội đàm về quan hệ thương mại hiện tại của Thái Lan
với Ấn Độ đã bàn về sự giảm thuế quan không chỉ đối với 82 mặt hàng xuất khẩu sang
Ấn Độ. Khoảng 80% thương mại trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp sẽ dần dần
được đưa xuống mức không đánh thuế quan vào năm 2010, trong khi thuế quan đối với
10% mặt hàng khác sẽ được loại bỏ vào năm 2015, 10% còn lại bao gồm các mặt hàng
nhạy cảm sẽ cần phải được đàm phán lại.
18
Thái Lan là nước lớn thứ hai của Đông Nam Á đã thành công trong việc thu hút
FDI trị giá 7,9 tỷ USD trong năm 2006. Theo Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại
và Phát triển (UNCTAD) nhận định, vị trí chiến lược của Thái Lan là cửa ngõ vào Đông
Nam Á, tiểu vùng sông Mekong mở rộng, và Ấn Độ đã giúp quốc gia này trở thành
trung tâm sản xuất trong khu vực ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực may mặc. Theo “Báo
cáo Đầu tư Thế giới năm 2011” cho biết "việc dịch chuyển sản xuất hàng may mặc từ
các quốc gia Đông Nam Á khác như Malaysia đến Thái Lan có thể xảy ra do Thái Lan
có nguồn nguyên vật liệu phong phú, trình độ lao động có tay nghề cao và công nghệ
hiện đại".
19
KẾT LUẬN
Kể từ lúc triển khai chính sách hướng Đông, sau này là chính sách Hành động ở
phía Đông, Ấn Độ luôn xem ASEAN là một trong những đối tác hướng đến toàn diện
trong mọi lĩnh vực. Trải qua rất nhiều giai đoạn, chịu sự tác động của bối cảnh thế giới
và khu vực, mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN vẫn được duy trì tốt đẹp như là một mục tiêu
cho việc chung tay vì sự thịnh vượng của quốc gia và góp phần tạo nên thế kỷ châu Á.
Đến đầu thế kỷ XXI, những chuyển biến phức tạp của tình hình thế giới và sự vươn lên
của các nền kinh tế trẻ ở ASEAN đã thúc đẩy quá trình hợp tác giữa Ấn Độ và ASEAN,
trong đó lĩnh vực kinh tế được ưu tiên đầu tư và phát triển.
Trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, cơ chế hợp tác của Ấn Độ và các nước
ASEAN được triển khai mạnh mẽ trên các phương diện kể cả song phương và đa phương
trong lĩnh vực kinh tế. Trong đó, sự hợp tác với các nền kinh tế đang phát triển như
Singapore, Myanmar, Việt Nam, Thái Lan góp phần mở rộng nền kinh tế của Ấn Độ và
sức ảnh hưởng của nó trên trường quốc tế. Cũng trong thập niên này, tỷ trọng xuất nhập
khẩu của các quốc gia, hoạt động thương mai, tiền tệ đều đạt được nhiều thành tựu rực
rỡ.
Trong bối cảnh năm 2015, cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) hình thành và
hướng đến mục tiêu phát triển và tầm nhìn 2025, mối quan hệ hợp tác giữa ASEAN và
Ấn Độ cần được khai thác triệt để và xem xét cải thiện các yếu tố tác động nhằm tạo ra
giá trị cao nhất trong các mối quan hệ này.
20