You are on page 1of 51

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ SÀI GÒN


---oOo---

BÀI BÁO CÁO CUỐI KỲ


MÔN “QUAN HỆ QUỐC TẾ” HỌC KỲ I (2021-2022)
Mã lớp học: 20DTM

QUAN HỆ KHOA HỌC - KĨ THUẬT - CÔNG


NGHỆ VIỆT NAM - NHẬT BẢN
TỪ 1991-2021

Sinh viên: Nguyễn Tuấn Kiệt


MSSV: 84012002034
Ngày sinh: 27/02/2002

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 1 năm 2021


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên cho phép em được cảm ơn các giảng viên khoa Kinh tế -
Luật trường Đại học Quốc tế Sài Gòn đã đưa môn Quan hệ quốc tế vào
chương trình giảng dạy nhằm tạo điều kiện thuận lợi để học tập và phát triển
toàn diện. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn đến giảng viên bộ môn - TS.
Nguyễn Thị Mộng Tuyền, đã truyền đạt những kiến thức rất bổ ích cho đề tài
tiểu luận này của em. Khoảng thời gian tham dự lớp học đã cho em thêm
nhiều điều mới mẻ. Đây thật sự là cầu nối giúp em có thể hiểu và có cái nhìn
bao quát về thế giới xung quanh vẫn đang phát triển theo từng ngày.

Dù rằng môn Quan hệ quốc tế rất bổ ích nhưng với kiến thức còn hạn chế,
cùng với sự thiếu kinh nghiệm thực tế qua những trải nghiệm bản thân, dẫn
đến bài tiểu luận của em không thể tránh khỏi thiếu sót. Mong quý thầy cô có
thể xem xét và góp ý giúp em có thể hoàn thiện hơn trong những đề tài tiểu
luận sau.

Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô từ khoa Kinh tế - Luật trường Đại
học Quốc tế Sài Gòn và đặc biệt là TS. Nguyễn Thị Mộng Tuyền đã tạo điều
kiện thuận lợi nhất để em có thể hoàn thành tốt đề tài tiểu luận này.

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 1


LỜI CAM ĐOAN

Với đề tài tiểu luận “ Mối quan hệ Khoa học - Kỹ Thuật - Công nghệ giữ
Việt Nam và Nhật Bản từ 1991-2021” , em xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu độc lập của bản thân với sự giúp đỡ của giảng viên bộ môn. Mọi
số liệu và hình ảnh được sử dụng trong bài tiểu luận đều là trung thực. Ngoài
ra còn sử dụng một số tài liệu tham khảo.

Em xin chịu toàn bộ trách nhiệm nếu có bất kì sai sót nào trong bài tiểu
luận của mình.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 6 tháng 11 năm 2021

Sinh viên

Nguyễn Tuấn Kiệt

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 2


MỤC LỤC

Mở đầu...................................................................................................5

Nội dung tiểu luận................................................................................ 7

Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ Khoa học - Kỹ thuật -


Công nghệ giữa Việt Nam - Nhật Bản............................................... 7

1. Một số lý luận chung .......................................................................7

1.1 Khái niệm về mối quan hệ giữa khoa học - công nghệ .................. 7

1.2 Lý thuyết chung về quan hệ quốc tế trên lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và
công nghệ .............................................................................................. 7

2 Mối quan hệ quốc tế về lĩnh vực khoa học - công nghệ ............. 11

2.1.Vai trò ............................................................................................11

2.2 Đặc điểm ....................................................................................... 12

2.3 Bản chất của mối quan hệ ............................................................. 17

Chương 2. Thực trạng quan hệ Khoa học - Kỹ thuật - Công nghệ Việt
Nam - Nhật Bản từ năm 1991 - 2021 ...............................................17

2.1 Lĩnh vực GTVT ........................................................................... 17

2.1.1 Một số thành tựu nổi bật trong thế XX - XXI ........................... 17

2.1.2 Hợp tác Việt - Nhật từ những côn trình giao thông ................. 18

2.1.3 Dự án Phát triển CSHT giao thông của Nhật Bản để cải thiện lưu thông
hàng hóa ở miền Bắc (Năm 1992 đến nay) ........................................ 20

2.1.4 Triển vọng mới ......................................................................... 21

2.2 Lĩnh vực Môi trường .................................................................. 22

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 3


2.2.1 Bảo vệ môi trường tự nhiên và phát triển môi trường đô thị ..22

2.2.2 Dự án đầu tư của Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường nước tại Hà
Nội ....................................................................................................... 23

2.3 Lĩnh vực Năng lượng .................................................................. 23

2.3.1 Phát triển hạ tầng điện lực và sử dụng hiệu quả năng lượng 23

2.3.2 Dự án của Nhật Bản nhằm hỗ trợ xây dựng Nhà máy thủy điện Đa
Nhim .................................................................................................... 24

2.3.3 Dự án của Nhật nhằm hỗ trợ, nâng cấp, mở rộng Nhà máy nhiệt điện
Phả Lại................................................................................................. 25

2.4.4 Đào tạo nhân lực, chia sẻ kiến thức chuyên môn về năng lượng điện
hạt nhân ...............................................................................................25

2.4 Lĩnh vực Khoa học - Công nghệ ................................................ 26

2.4.1 Hợp tác phát triển công nghệ Vũ trụ ......................................26

2.4.2 Giao lưu KH&CN Vũ trụ giữa Nhật Bản và Việt Nam. ......... 28

2.4.3 Ứng dụng công nghệ Nhật Bản vào nông nghiệp hữu cơ ...... 29

2.4.4 "Thép Nhật" tại cầu đường sắt Bắc Nam ............................... 30

Chương 3. Một số giải pháp chính sách đẩy mạnh quan hệ Khoa học - Kỹ
thuật - Công nghệ giữa Việt Nam - Nhật Bản.................................32

3.1 Xác định vai trò đột phá của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo
đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới ......................32

3.2 Đổi mới công nghệ .....................................................................34

Kết luận - kiến nghị chung................................................................ 36

Tài liệu tham khảo............................................................................. 36


Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 4
MỞ ĐẦU

Lời dẫn:

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được hình thành và phát triển cùng
với sự phát triển của quá trình tự do hóa thương mại và xu hướng mở cửa nền
kinh tế của các quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề
chủ yếu như: Đàm phán cắt giảm các hàng rào thuế quan; Đàm phán cắt giảm
các hàng rào phi thuế quan; Giảm thiểu các hạn chế đối với hoạt động dịch vụ;
Giảm thiểu các trở ngại đối với hoạt động đầu tư quốc tế; Giảm thiểu các trở
ngại đối với hoạt động dĩ chuyển sức lao động quốc tế; Điều chỉnh các công
cụ, quy định của chính sách thương mại quốc tế khác.

Hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng trong thành tựu to lớn về phát
triển kinh tế , giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị xã hội, đồng
thời chủ động hội nhập, thu hút thêm nguồn lực bên ngoài, cùng với nội lực
bên trong tạo nên động lực phát triển kinh tế mạnh mẽ, đạt được nhiều thành
tựu to lớn.

Xu thế hội nhập đang nắm giữ vai trò chủ đạo trong đời sống kinh tế
quốc tế, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng rõ nét thì chủ động hội nhập, giao
lưu văn hóa ngày càng trở nên quan trọng và được quan tâm hơn bao giờ hết.
Quảng bá văn hoá nhằm tăng cường “sức mạnh mềm” ngày càng được các
nước khai thác triệt để nhằm tạo dựng nền móng và điều kiện để thể hiện uy
lực trên trường quốc tế. Trong thời đại ngày nay, văn hóa ngày càng khẳng
định vai trò cầu nối giữa các dân tộc, nâng cao hiểu biết lẫn nhau, góp phần
hoà giải các xung đột, mâu thuẫn, tạo tiền đề thúc đẩy hợp tác phát triển.

Nhật Bản từ lâu được xem là cường quốc về khoa học - kỹ thuật - công
nghệ. Trình độ của họ đã đưa Nhật trở thành một cường quốc kinh tế trong
lĩnh vực công nghệ. Việc có thể giao lưu, học hỏi, được Nhật Bản giúp đỡ
phát triển về những lĩnh vực này thật sự là một điều cần thiết nhằm đưa Việt

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 5


Nam tiến gần với các tiến bộ về công nghệ, kỹ thuật, nâng cao hiệu suất đặc
biệt, thúc đẩy kinh tế, tạo ra một thế hệ thông minh, tư duy, hiện đại cũng như
thắt chặt mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Lý do chọn đề tài:

Trong những năm gần đây, cùng với xu thế toàn cầu hóa, các nước trên
thế giới đang nỗ lực tăng cường quan hệ hợp tác, liên kết với nhau nhằm duy
trì hòa bình, ổn định và cùng nhau phát triển, Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu thế chung ấy mà mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và
Nhật Bản là một điển hình.

Nói đến Nhật Bản, chúng ta đều nghĩ đến một đất nước hùng mạnh về
kinh tế, đa dạng về văn hóa với nhiều danh lam thắng cảnh và người dân thân
thiện, là một trong những nước viện trợ vốn ODA và là nhà đầu tư lớn nhất
cho Việt Nam trong những năm gần đây là cường quốc luôn ủng hộ Việt nam
trên các diễn đàn chính trị, kinh tế thế giới…, đã góp phần không nhỏ trong
việc giúp Việt Nam trên bước đường hội nhập và phát triển kinh tế, tái hòa
nhập với cộng đồng quốc tế. Việc phát triển và giao lưu các thành tựu khoa
học công nghệ thật sự đã giúp đời sống người dân Việt Nam cải thiện hơn rất
nhiều.

Đây chính là lí do em chọn đề tài này, để thấy được rằng Nhật Bản đã
góp công không nhỏ trong việc giúp đỡ và đưa Việt Nam ngày càng tiến bộ
hơn.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu là phân tích thực trạng, chỉ rõ những thành tựu
của mối quan hệ Khoa học - Kỹ thuật - Công nghệ giữa Việt Nam - Nhật Bản .
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ trong
các lĩnh vực này giữa hai nước. Nhiệm vụ nghiên cứu chính của luận văn là

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 6


tổng hợp, thống kê số liệu, so sánh và phân tích nhằm làm rõ thực trạng quan
hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong thời kỳ nói trên.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ Khoa học - Kỹ thuật -
Công nghệ giữa Việt Nam và Nhật Bản (thời kỳ 1991 – 2021).

Phương pháp nghiên cứu:

Bài tiểu luận sử dụng hệ phương pháp kết hợp logic và lịch sử, khái
quát hoá và cụ thể hoá, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh trên cơ
sở phân tích và tổng hợp số liệu. Ngoài ra còn dựa trên các lý thuyết về
thương mại quốc tế và chính sách thương mại.

Ý nghĩa đề tài:

Tìm hiểu, nghiên cứu về mối quan hệ Việt- Nhật tuy không phải là đề
tài mới vì đã có rất nhiều học giả nghiên cứu về đề tài này, tuy vậy với sự
bùng nổ về mối quan hệ của hai nước trong tất cả các lĩnh vực thời gian gần
đây, đặc biệt từ mối quan hệ hợp tác toàn diện đã trở thành đối tác chiến lược.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu về giai đọan này trong mối quan hệ Việt - Nhật là
điều rất quan trọng nhằm thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ tốt đẹp vốn có giữa
hai nước trên mọi lĩnh vực. Ngòai ra, nó cũng là tài liệu tham khảo hữu ích
cho những giáo viên quan tâm đến đề tài này.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC -


KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ .

1. Một số lý luận chung

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 7


1.1 Khái niệm về mối quan hệ giữa khoa học - công nghệ

Khoa học và công nghệ là điều tốt nhất mà xã hội có thể yêu cầu. Kể từ
cuộc cách mạng công nghiệp vào thế kỷ 18, khoa học đã được tiến hành. Một
số ngành được khoa học và công nghệ đẩy mạnh là năng lượng, khoa học vật
lý, thông tin và truyền thông. Xã hội đã đạt được rất nhiều với việc phát minh
ra công nghệ.

Cơ sở hạ tầng trong xã hội ngày càng phát triển với sự trợ giúp của
khoa học và công nghệ. Các phương thức vận tải như các tuyến đường sắt
điện tử đã được hiện thực hóa và những phương thức này thực sự mang lại lợi
ích cho xã hội bằng cách cung cấp cho họ một phương tiện giao thông tốt hơn.
Trước đây, hầu hết mọi thứ đều là analog nhưng nhờ vào khoa học và công
nghệ mà chúng ta đang được số hóa từng ngày. Việc phát minh ra các dịch vụ
điện thoại và vô tuyến đã mở rộng khả năng giao tiếp của con người.

Nếu không có xã hội thì sẽ không có khoa học và công nghệ và đó là lý


do tại sao việc phát minh ra một số công cụ và thiết bị đã giúp đạt được những
điều to lớn. Xã hội không thể làm mà không có các ngành công nghiệp chúng
ta có ngày hôm nay. Xã hội cần khoa học và công nghệ. Việc tạo ra máy tính
là tác phẩm nghệ thuật của các cá nhân là một cột mốc sẽ giúp ích cho xã hội
một chặng đường dài. Máy tính giúp chúng ta tận dụng lợi thế của mình bằng
cách thu thập thông tin có giá trị mà chúng ta có thể sử dụng để làm phong
phú thêm cuộc sống của mình. Có thể nhận ra tác động của khoa học và công
nghệ một cách nghiêm túc. Nhiều người trên thế giới lấy ví dụ như các học
giả ở các trường cao đẳng và đại học đã đi đầu trong việc kiểm tra mối quan
hệ giữa khoa học và công nghệ.

Việc đánh giá mối quan hệ này đã nổi lên như một lĩnh vực nghiên cứu
quan trọng. Các nhóm lợi ích công cộng và các tổ chức học thuật trên khắp
thế giới đang nhận ra tầm quan trọng của STS. Truoc do, nguoi ta phai biet

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 8


den nhung nguoi dan ong do khoa hoc va lam viec. Những tranh cãi như thực
phẩm biến đổi, nghiên cứu tế bào gốc là những vấn đề đã khiến các nhà hoạch
định chính sách và các nhà khoa học xích lại gần nhau để có hướng giải quyết
cho vấn đề này.

Khoa học và công nghệ thực sự đã đóng góp phần lớn vào tầm nhìn của
con người về chính mình. Khoa học đã sửa đổi quan điểm về nguồn gốc của
con người và cả nơi xuất xứ. Thông qua các kết quả khám phá khoa học, nhận
thức của con người về hành vi và nguồn gốc của anh ta đã được thay đổi một
cách đa dạng. Các thí nghiệm trong khoa học ngày nay bằng cách này hay
cách khác ảnh hưởng đến xã hội, ví dụ thí nghiệm về nhân bản một con người.
Thí nghiệm đã gây ra rất nhiều tranh cãi kể từ khi xã hội hoài nghi về nó.

Khoa học và công nghệ liên quan đến xã hội như thế nào: Các thế giới
đang phát triển có truyền thống lâu đời về nghiên cứu hành động có sự tham
gia, giáo dục phổ biến và tổ chức cộng đồng cùng tham gia giải quyết một số
vấn đề khoa học và công nghệ có ảnh hưởng đến xã hội. Khoa học và công
nghệ liên quan đến xã hội như thế nào là điều đang kêu gọi sự can thiệp của
chính phủ. Các vấn đề liên quan đến khoa học và công nghệ thực sự đã được
thảo luận trên toàn thế giới ngày nay. Tiến bộ trong việc này đã dẫn đến khả
năng sản xuất các loại vật liệu đa dạng. Trả lời câu hỏi khoa học và công nghệ
có quan hệ như thế nào với xã hội.

1.2 Lý thuyết chung về quan hệ quốc tế trên lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và
công nghệ

Để hoàn thiện hệ quan điểm định hướng cho chính sách hội nhập quốc tế
về KH và CN trước hết cần đổi mới tư duy về phát triển, định vị vai trò của
KHCN trong chiến lược phát triển đất nước trong bối cảnh phát triển mới. Như
vậy, định hướng về phát triển và hội nhập quốc tế KHCN gắn với vai trò, vị

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 9


thế của KHCN trong tầm nhìn, chiến lược, mô hình, phương thức phát triển của
đất nước nói chung, và gắn kết chặt chẽ với chiến lược hội nhập quốc tế trong
bối cảnh mới của Việt Nam. Báo cáo này đưa ra một số điểm nhấn cần ưu tiên
trong giai đoạn tới và một số khuyến nghị từ những nghiên cứu kinh nghiệm
hội nhập và phát triển khoa học công nghệ của châu Âu và thế giới.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định: “Phát triển mạnh mẽ khoa
học, công nghệ, làm cho khoa học, công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là
động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri
thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng an ninh.

Như vậy so với Nghị quyết Đại hội XI, vai trò của khoa học và công
nghệ đã được nhấn mạnh hơn trong Đại hội XII như “phát triển mạnh mẽ”, “là
động lực quan trọng nhất” để đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Văn kiện đã nêu lên 12 mục tiêu trong nhiệm vụ tổng
quát như: Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; Hoàn thiện thể chế, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Quản lý tốt sự phát triển xã hội, đảm
bảo an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; Bảo vệ môi trường ứng phó biến
đổi khí hậu; Bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa, chủ động tích cực hội nhập quốc tế; Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân; Hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; xây dựng đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo; Quán
triệt và xử lý tốt các mối quan hệ lớn trong chiến lược phát triển.

Định hướng mục tiêu tổng thể chiến lược phát triển đất nước của Đại hội
XII là hết sức đúng đắn, gắn bó hữu cơ, biện chứng với nhau, không tách rời

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 10


nhau và sẽ tiếp tục được cụ thể hóa thành những chính sách cụ thể, có lộ trình
triển khai cụ thể. Rõ ràng với vai trò là “động lực quan trọng nhất”, khoa học
và công nghệ và đặc biệt là khoa học xã hội sẽ góp phần quan trọng trong việc
triển khai và thực hiện thắng lợi các mục tiêu này.

Mặt khác với vai trò, nhiệm vụ quan trọng như vậy, để phát huy vai trò
của khoa học công nghệ trong phát triển đất nước, cần phải đầu tư phát triển
cho “động lực quan trọng nhất” này. Trong bối cảnh “khoa học và công nghệ
phát triển rất nhanh cùng với toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia”.
Các mục tiêu tổng thể này, như chỉ rõ trong văn kiện, phải được đặt trong bối
cảnh “Hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh
tế. Việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do đã có và tham gia các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới, cùng với việc hình thành Cộng đồng
ASEAN trong năm 2015 mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển nhưng
cũng đặt ra không ít khó khăn thách thức”.

Như vậy, cần gắn phát triển KHCN với nền kinh tế thị trường, hội nhập
với quốc tế và khu vực, đưa khoa học công nghệ trở thành động lực nâng cao
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế thị trường hiện đại trong bối cảnh toàn cầu
hóa khu vực hóa gia tăng, trong xu thế cách mạng khoa học công nghệ phát
triển như vũ bão, trong ứng phó với những nguy cơ và thách thức mới.

Luận giải cụ thể hơn, để thực hiện hài hòa đồng bộ các mục tiêu của phát
triển trên, tư duy về phát triển khoa học công nghệ nói chung trong đó có khoa
học xã hội cần gắn với:

- Nhận thức về thời đại hay môi trường phát triển: Toàn cầu hóa, sự hình thành
các mạng sản xuất toàn cầu, chuỗi giá trị toàn cầu, các phương thức quản trị,

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 11


hợp tác, cạnh tranh kinh tế thương mại, tài chính đầu tư toàn cầu, việc hình
thành các trung tâm quyền lực mới, các mô hình liên kết, vai trò của các định
chế toàn cầu, khu vực, của các công ty xuyên quốc gia, v.v..

- Nhận thức về cơ hội và thách thức cho phát triển: tác động tích cực và tiêu
cực của toàn cầu hóa, khu vực hóa, an ninh truyền thống, phi truyền thống,
v.v…

- Nhận thức về kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội công dân là
những giá trị phổ quát cần áp dụng ở tầm quốc gia, khu vực cũng như toàn cầu.

- Gắn kết khoa học công nghệ với phát huy sức mạnh tổng thể của quốc gia,
trong đó hết sức quan trọng và cấp thiết là nâng cao năng lực nội sinh, tự chủ
trong an ninh quốc phòng, đáp ứng được các yêu cầu bảo vệ độc lập thống nhất,
chủ quyền quốc gia. Tiếp đó là nhận diện và có những đối sách phù hợp ứng
phó với các mối đe dọa tới hệ thống chính trị xã hội, diễn biến hòa bình, xâm
hại về văn hóa, truyền thống, hệ giá trị của dân tộc, các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống từ môi trường, biến đổi khí hậu tới di dân, thảm họa tự nhiên, an
ninh năng lượng, an ninh lương thực v.v..

- Nhận thức về kinh tế tri thức, kinh tế xanh, vừa là động lực vừa là mục tiêu
của phát triển, tri thức trở thành bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất, và
cần thiết phải định hình quan hệ mới, cơ chế mới cho phát triển “lực lượng”
này.

- Nhận thức về cách mạng khoa học công nghệ với những thành tựu mới, xu thế
của cách mạng công nghiệp lần thứ 4 như những động lực quan trọng giúp cho
nước ta có thể vượt lên rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vượt

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 12


qua bẫy “thu nhập trung bình”, phát triển bền vững về kinh tế, môi trường và xã
hội.

- Nhận thức và đánh giá khách quan theo quan điểm Macxit, tư tưởng Hồ Chí
Minh, duy vật lịch sử và duy vật biện chứng về sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại, đánh giá phân tích những điểm trội và những điểm cần khắc phục để
có thể kết hợp hài hòa nhất, hiệu quả nhất bền vững nhất các động lực phát
triển.

- Cần làm gì và làm như thế nào theo các kịch bản, lộ trình tốt nhất để “lấy
ngoài phục vụ trong”, tăng cường tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực
của quá trình hội nhập, của toàn cầu hóa và khu vực hóa.

- Phát triển ngành khoa học gì, sử dụng công nghệ nào để đạt được các mục
đích trên.

- Bằng cách nào để có được những thành tựu, sản phẩm khoa học công nghệ đó,
nội lực hay ngoại lực, quan hệ song phương hay đa phương, chú trọng quan hệ
đối tác chiến lược với những nước nào, theo cơ chế nào, tham gia thị trường
khoa học công nghệ toàn cầu ra sao…

- Gắn kết giữa phát triển khoa học và công nghệ với phát triển nguồn nhân lực,
với phát triển kinh tế thị trường như thế nào nhằm tạo nguồn lực cho phát triển,
thu hút các nguồn lực từ trong nước và quốc tế, đưa khoa học công nghệ vừa là
động lực vừa là mục tiêu cho phát triển hay nói cách khác chính là hình thành
nền kinh tế tri thức.

- Mối quan hệ biện chứng giữa hội nhập, hợp tác quốc tế về khoa học công
nghệ với quan hệ về chính trị ngoại giao, về kinh tế thương mại với các nước và

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 13


khu vực trên thế giới, liên quan tới xây dựng “lòng tin”, liên quan tới mức độ
hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện v.v..

- Luận giải sâu sắc, có lộ trình cụ thể để giải quyết mối quan hệ biện chứng
giữa các cặp phạm trù cần dựa trên những nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu
ứng dụng về các lý thuyết, chủ thuyết, về xu thế về mô hình, về kinh nghiệm
của quốc tế và khu vực, trên cơ sở kế thừa và phát huy, chắt lọc những bài học
tốt, nắm bắt được, phát huy tác động tích cực và giảm thiểu những tác động tiêu
cực …

2 Mối quan hệ quốc tế về lĩnh vực khoa học - công nghệ

2.1.Vai trò

Thứ nhất, khoa học công nghệ thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế

Sự ra đời của công nghệ mới kéo theo sự phát triển kinh tế theo chiều
sau. Việc tăng trưởng kinh tế này dựa trên hiệu quả sản xuất. Khoa học công
nghệ chính là công cụ hữu hiệu giúp chuyển nền kinh tế Việt Nam từ kinh tế
nông nghiệp sang công nghiệp. Phát triển các ngành công nghệ cao với việc
sử dụng phần lớn các lao động tri thức.

Thứ hai, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Khoa học công nghệ phát triển giúp các ngành phát triển nhanh kéo
theo phân công xã hội ngày càng đa dạng. Các ngành kinh tế được chia thành
những ngành nhỏ với các lĩnh vực kinh tế mới. Điều này dẫn tới sự chuyển
dịch kinh tế theo hướng hiện đại, tích cực.

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 14


Tỷ trọng GDP các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng trong khi tỷ trọng
ngành nông nghiệp có xu hướng giảm.

Cơ cấu kinh tế từng ngành có sự thay đổi theo hướng mở rộng các
ngành công nghệ cao, lượng lao động có trình độ và tri thức ngày càng chiếm
tỷ trọng cao hơn.

Thứ ba, thúc đẩy nâng cao chất lượng, sự cạnh tranh của hàng hóa

Áp dụng công nghệ hiện đại là yếu tố giúp nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Công nghệ khoa học hiện đại đã tác động tới
nguồn nguyên vật liệu sản xuất thêm đồng bộ, cải tiến. Quy mô sản xuất cũng
được mở rộng thêm với sự ra đời, phát triển của các loại hình doanh nghiệp
mới. Trước sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp buộc có chiến lược kinh
doanh mới.

2.2 Đặc điểm

Từ kinh nghiệm của các nước phát triển về phát huy vai trò đầu tàu, dẫn
dắt, động lực của KHCN, cũng như phát huy các nguồn lực để phát triển khoa
học công nghệ, thực sự biến khoa học và công nghệ gắn kết với phát triển kinh
tế tri thức, phát triền nguồn nhân lực, thực sự thành động lực sáng tạo và cạnh
tranh của các doanh nghiệp, đưa “khoa học và công nghệ thực sự trở thành
động lực quan trọng nhất” cho phát triển, cần xác định vai trò tiên phong, dẫn
dắt của khoa học công nghệ trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực. Tăng
cường hội nhập quốc tế về KHCN, cần triển khai đồng bộ các nội dung sau:
Thứ nhất, cải cách thể chế, đổi mới hệ thống khoa học công nghệ quốc
gia
Đổi mới là mối quan tâm then chốt của nhiều quốc gia mà đang tìm cách
duy trì khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Ngay cả những quốc gia
có truyền thống từ lâu về những thành tích khoa học cũng đang ý thức được sự
cần thiết phải củng cố các khung khổ đổi mới của mình để đem lại lợi ích kinh

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 15


tế cao hơn từ các công trình nghiên cứu. Còn ở các quốc gia mới nổi thì nhiệm
vụ đổi mới hệ thống khoa học công nghệ luôn được đặt lên hàng đầu.

Cải cách thể chế và đổi mới hệ thống khoa học công nghệ quốc gia là giải
pháp quan trọng để các nước đang phát triển đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển
và hội nhập khoa học công nghệ. Chẳng hạn, hệ thống đổi mới quốc gia của
Singapore thể hiện rõ mục đích khuyến khích hợp tác chặt chẽ giữa Chính phủ-
công nghiệp-đại học-viện nghiên cứu; lấy nghiên cứu, đổi mới làm chủ lực, tạo
môi trường R&D tốt, cung cấp mặt bằng đổi mới có sẵn. Dưới sự chỉ đạo của lý
luận đổi mới, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Chính phủ Singapore đã đề xuất
lựa chọn chiến lược của quốc gia lấy tri thức làm cơ sở, đổi mới làm động lực,
đã hoàn thiện hệ thống đổi mới quốc gia và giải thích tóm tắt là chiến lược 3C,
tức là vốn nhân tài: đào tạo nhân tài bản địa, thu hút nhân tài nước ngoài, nhận
thức KH&CN của công chúng; vốn tri thức: tiếp tục đầu tư R&D cao tạo ra
quyền sở hữu trí tuệ tự chủ, do đó dẫn xuất cơ chế khuyến khích công ty công
nghệ cao, đầu tư cho R&D của doanh nghiệp; vốn công nghiệp: xây dựng cơ
sở hạ tầng nghiên cứu khoa học phục vụ doanh nghiệp (bao gồm công viên
khoa học, công viên công nghiệp, v.v...), chính sách ủng hộ doanh nghiệp (pro-
business) khuyến khích bản địa đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài, biện pháp
chính sách đồng bộ khuyến khích đầu tư cho R&D công nghiệp.

Thứ hai, xây dựng tầm nhìn, xác định công nghệ then chốt, hoạch định lộ
trình công nghệ

Tuy có sự rất khác nhau giữa các nước trong việc sử dụng các công cụ
định hướng chiến lược phát triển KH&CN nhưng cũng có thể thấy được một số
điểm chung là: Hoạch định chiến lược không thể không bao gồm việc đưa ra
các tầm nhìn về tương lai, qua đó thể hiện năng lực và thái độ chủ động lựa

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 16


chọn mục tiêu, đồng thời, lý giải tại sao các mục tiêu chiến lược đó lại được lựa
chọn. Tiếp theo, các mục tiêu chiến lược một khi được lựa chọn thì phải được
cụ thể hóa và minh chứng tính khả thi bằng cách xác định các công nghệ then
chốt và lộ trình công nghệ đi kèm, trong đó có tính đến cả nhu cầu thị trường,
năng lực KH&CN và các yếu tố tổ chức khác cần có để hiện thực hóa các công
nghệ then chốt đã lựa chọn. Tóm lại, xây dựng tầm nhìn, xác định công nghệ
then chốt và các lộ trình công nghệ là 3 công cụ quan trọng trong quá trình định
hướng chiến lược phát triển KH&CN mà nhiều nước đã và đang chú trọng áp
dụng.

Nhìn chung, kinh nghiệm các nước có khác nhau nhưng đều thể hiện 3
lớp mục tiêu chủ yếu: 1) Các mục tiêu chung theo cách tiếp cận hệ thống đổi
mới đặt ra chung cho cả phát triển kinh tế - xã hội và KH&CN; 2) Các mục tiêu
cho nghiên cứu cơ bản và các lĩnh vực công nghệ ưu tiên; 3) Các mục tiêu ứng
dụng công nghệ trong một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm trọng điểm quốc gia.
Thứ ba, hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ hướng vào hệ thống đổi mới
quốc gia, giải quyết những vấn đề cụ thể của Hệ thống đổi mới quốc gia

“Hệ thống Đổi mới Quốc gia” NIS là một công cụ hàng đầu để liên tục
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm KH&CN nói riêng và của toàn nền kinh
tế quốc gia nói chung, chủ yếu thông qua việc đổi mới công nghệ. Đó là một
mạng lưới bao gồm tất cả các cơ sở KH&CN, các tổ chức quy hoạch chiến lược,
các doanh nghiệp lớn, các tổ chức quản lý KH&CN nối mạng với nhau, cũng là
tổng hợp các hệ thống đổi mới của vùng, ngành, doanh nghiệp với sự phối hợp
ngang, dọc, trong phạm vi toàn quốc gia. Chỉ có hệ thống đổi mới quốc gia như
vậy, mới có điều kiện để các nhà lãnh đạo quốc gia biết được danh mục các mặt
hàng chủ yếu, các công nghệ cần phát triển, các bước đi về kinh tế đối ngoại
cần tiến hành, sẽ đảm bảo thắng lợi trong thời gian trung hạn trước mắt và về
lâu dài. Có thể nói NIS là động lực phát triển thị trường KH&CN, là kim chỉ

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 17


nam dẫn dắt sự phát triển của KHCN và quá trình hội nhập quốc tế về KHCN
cũng là một bộ phận cấu thành hữu cơ của NIS. Phạm vi của mạng lưới này
không chỉ giới hạn trong một quốc gia mà mang tính toàn cầu, tương tự như
chuỗi sản xuất hay chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, và các nước cần có chiến
lược của riêng mình để hội nhập NIS với mạng toàn cầu, trong đó đi tiên phong
là hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ, và mối quan hệ giữa hội nhập
KHCN, hội nhập NIS và chiến lược hội nhập quốc gia là biện chứng, vừa là
mục tiêu vừa là động lực của nhau.

Toàn cầu hóa trong kinh tế và phát triển tất yếu dẫn đến hình thành
những chuẩn mực, quy tắc chung chi phối các quan hệ hợp tác, cạnh tranh giữa
các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và KH&CN
nói riêng, gián tiếp liên quan đến cả việc hình thành một số chuẩn mực chung
trong tư duy, quan niệm và cách tiếp cận hoạch định chiến lược phát triển.
Cuộc họp cấp bộ trưởng của các nước thành viên Tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) đầu năm 2007 tại Paris (Pháp) đã khuyến cáo các nước thành
viên sử dụng cách tiếp cận tổng thể và sử dụng một khung khổ chiến lược,
chính sách rộng lớn hơn thay cho các cách tiếp cận bộ phận với từng chính sách
riêng rẽ cho từng lĩnh vực trong hoạch định chính sách và chiến lược phát triển.
Đây là hệ quả tất yếu của một thực tế là, hầu hết các quốc gia thuộc OECD đã
từ bỏ cách tiếp cận bộ phận, chuyển sang áp dụng cách tiếp cận mới ở tầm tổng
thể, mang tính chuẩn mực trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả
trong hoạt động KH&CN. Sự chuyển đổi này cũng là một xu thế tất yếu xuất
phát từ sự hạn chế bởi cách tiếp cận bộ phận khi hoạch định các chiến lược và
chính sách phát triển trong khi hiện thực phát triển ngày càng phức tạp. Đồng
thời, cũng xuất phát từ nhu cầu khẳng định quyền tự chủ và khai thác khả năng
tự liên kết, tự tổ chức, tự quản lý của các chủ thể phát triển trên phạm vi toàn
cầu. Việc duy trì luận điểm “kết hợp, gắn kết các chiến lược và chính sách phát
triển bộ phận trong những khuôn khổ tư duy và tiếp cận từng phần, hạn hẹp”

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 18


không phải là một sự đổi mới thực sự, đủ tầm vóc để có thể giải quyết được
những bất cập vốn rất nan giải trong năng lực điều phối các chính sách của bất
kỳ một chính phủ nào trên thế giới. Trong khi đó, cách tiếp cận và khuôn khổ
hệ thống đổi mới đã cho thấy khả năng khắc phục những khuyết tật của các
chính phủ và của các hệ thống quản lý phân cấp hành chính theo thứ bậc trong
nền kinh tế thị trường.

Thứ tư, hội nhập quốc tế về KH&CN gắn liền với phương diện an ninh
quốc gia
Cần gắn đổi mới và hội nhập khoa học công nghệ với phương diện an
ninh quốc gia. Đổi mới trong công nghệ lĩnh vực hàng không vũ trụ, quân sự
giúp các nước không những bảo vệ tốt chủ quyền an ninh quốc gia mà còn
khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Đổi mới trong lĩnh vực. Khoa
học công nghệ gắn chặt với an ninh quốc gia được thể hiện rõ trong chiến lược
phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới của Nga. Do đó các công nghệ ứng
dụng liên quan đến quân sự được đặc biệt chú ý. Điều này cũng biến nước Nga
thành quốc gia có tiếng nói có tầm ảnh hưởng rõ ràng trên trường quốc tế.
Thứ năm, hợp tác quốc tế trong KHCN gắn với tăng cường đào tạo nhân lực
KHCN

Đây là cách tạo ra đội ngũ lao động chất lượng cao, bền vững phục vụ
cho nền kinh tế nói chung và cho hội nhập hiệu quả về KHCN. Ở Mỹ người ta
đưa ra nhiều biện pháp cụ thể phục vụ nhiệm vụ này bao gồm: Thiết lập Uỷ ban
Giáo dục Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học (science, technology,
engineering, and mathematics - STEM) trong Văn phòng KH&CN Nhà trắng,
tăng cường lãnh đạo và hỗ trợ Chính phủ Liên bang; tăng số lượng nghiên cứu
sinh và sinh viên đại học trong STEM, nâng cao mức học bổng; tăng mức đầu
tư cho nghiên cứu phát triển trong khoa học giáo dục, nghiên cứu và mở rộng
phương thức thiết lập và giảng dạy giáo trình có hiệu quả; cải cách chính sách

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 19


nhập cư, thu hút nhân tài ưu tú nhất trên toàn thế giới đến Mỹ định cư. Điều
này cũng đang được thực hiện ở Singapo, Nhật Bản.

+ Xây dựng viện nghiên cứu sinh hàng đầu trong lĩnh vực học thuật có lợi thế,
đào tạo nhân tài tiến sĩ hàng đầu thế giới;
+ Tăng cường đổi mới từ nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng thực tế; thực hiện
ứng dụng toàn diện công nghệ thông tin liên lạc, xây dựng mặt bằng thông tin
liên lạc tin cậy, sử dụng công nghệ thông tin liên lạc trong các lĩnh vực hành
chính, chữa bệnh, giáo dục, xây dựng xã hội “trí tuệ hoá”, như đã triển khai ở
nước Anh.

Thứ năm, định vị lại vai trò của khoa học xã hội, tăng cường hội nhập
quốc tế về khoa học xã hội

Trong quá trình hội nhập về kinh tế cũng như về khoa học công nghệ có
nhiều nguồn lực có thể “nhập khẩu” như vốn, công nghệ, bí quyết, thậm chí cả
nguồn nhân lực, tuy nhiên việc thiết lập sự đồng bộ như thế nào giữa kinh tế và
chính trị, thiết kế thể chế tạo nên sự “phù hợp” giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất là việc mỗi nước phải tự thiết kế tự vận hành, thông qua sự định
hướng, dẫn dắt của khoa học xã hội. Thực tiễn cho thấy đây là một quá trình dài
và thường trả giá hơn theo chủ nghĩa kinh nghiệm “learning by doing” ở các
nước chuyển đổi, nhưng cũng có thể rút ngắn quá trình này bằng cách mạnh
dạn đổi mới tư duy. Bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới cho thấy khoa
học xã hội chưa đáp ứng được các yêu cầu về lý luận và thực tiễn của phát triển,
nguyên nhân chính là không xác định đúng vị trí của khoa học xã hội trong
chiến lược phát triển, dẫn tới sự “không đồng bộ” giữa đổi mới hệ thống chính
trị và đổi mới kinh tế, mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền, kinh tế thị
trường và xã hội công dân cần được xác lập nhưng dường như còn né tránh vì
nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân đến từ chính môi trường hội nhập

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 20


quốc tế thường được gọi là “diễn biến hòa bình”. Chính không có tư duy khoa
học về thực tiễn khách quan nên chúng ta bị xơ cứng, tự mình làm khó mình
trong nhiều quan điểm phát triển. Mặc dù đây là lĩnh vực rộng lớn, phức tạp,
nhưng cần khẳng định một điểm nhấn trong đổi mới tư duy về phát triển khoa
học công nghệ là coi trọng khoa học xã hội, khẳng định vai trò dẫn dắt của
khoa học xã hội, nếu không thì vai trò của khoa học công nghệ như là động lực
của phát triển, sự gắn kết khoa học công nghệ với đời sống kinh tế sẽ kém hiệu
quả, thiếu lan tỏa, không hội nhập hiệu quả được với khu vực và thế giới.

Cuối cùng, Việt Nam cần tăng tốc đổi mới đáp ứng những yêu cầu mới
của phát triển dựa trên động lực khoa học công nghệ

Việt Nam đã đạt được thành tích ấn tượng về phát triển kinh tế và xã hội.
Thành tích phát triển kinh tế đã giúp nâng cao thu nhập và giảm nghèo, mang
lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho nhiều người. Nhưng hiện nay Việt Nam đang
đứng trước ngã rẽ quan trọng. Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng GDP đã giảm trong
bối cảnh quốc tế bớt sôi động hơn; Thứ hai, động lực tăng trưởng trước đây
đang suy giảm làm tăng nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Việt Nam
sẽ phải dựa nhiều hơn vào việc tăng năng suất lao động thông qua đổi mới sáng
tạo. Thứ ba, Việt Nam đang trong quá trình tăng tốc lần hai gia tăng mức độ hội
nhập sâu rộng hơn với khu vực và toàn cầu thông qua hàng loạt các Hiệp định
tự do hóa thương mại, sẽ tác động to lớn tới việc điều chỉnh chiến lược phát
triển, đòi hỏi phải gia tăng tiềm lực, gia tăng khả năng cạnh tranh, đổi mới thể
chế, năng lực quản trị v.v...đòi hỏi vai trò động lực quan trọng và dẫn dắt trong
cả “phần cứng” và “phần mềm” của tiến trình này. Việc hội nhập quốc tế về
khoa học và công nghệ phải đáp ứng tốt các mục tiêu này, và hàm mục tiêu này
muốn xác định tốt, lại phải dựa vào khoa học và công nghệ, nói một cách khác,
cần thực sự chú trọng hội nhập quốc tế để phát triển KHCN và đến lượt mình
KHCN sẽ đóng góp cho quá trình phát triển và hội nhập của đất nước.

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 21


Để hội nhập tốt phải phát triển bên trong tốt đáp ứng những yêu cầu của
hội nhập và ngược lại, hội nhập tốt sẽ tạo điều kiện để phát triển tốt.

Xây dựng chính sách hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ trên cơ
sở gắn kết chặt chẽ giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên để nghiên cứu
định hướng, xây dựng thể chế, cơ chế hình thành thị trường khoa học và công
nghệ trong nước mạnh, hoàn thiện hệ thống đổi mới quốc gia, hội nhập sâu vào
thị trường khoa học và công nghệ toàn cầu, với một nguồn nhân lực trẻ, thông
minh, cần cù học tập, Việt Nam có nhiều lợi thế thu hút các FDI về công nghệ,
trở thành vườn ươm công nghệ, công viên khoa học của khu vực và giúp cho
Việt Nam vượt lên rút ngắn quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nếu có được
những chính sách tốt.

Văn kiện Đại hội XII đã trình bày một cách toàn diện, đồng bộ các chiến
lược, các giải pháp vĩ mô, trong triển khai cần chú trọng tới hội nhập quốc tế về
khoa học công nghệ trong đó khoa học xã hội cần đi tiên phong là một tiền đề
quan trọng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển mà Đại hội đề ra cũng
như đưa Việt Nam tiếp tục phát triển nhanh và bền vững sớm trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.

2.3 Bản chất của mối quan hệ

Nội dung của khoa học và công nghệ tuy khác biệt khác nhau nhưng
chúng có mối liên hệ mật thiết. Khoa học sẽ tác động tới công nghệ, kéo theo
sự phát triển của công nghệ. Từ đó chúng có những tác động mạnh mẽ và trực
tiếp nhất tới hoạt động sản xuất của con người. Khoa học và công nghệ hình
thành do sự vận dụng tri thức con người sáng tạo nên các công cụ, phương
tiện phục vụ sản xuất cũng như các hoạt động khác trong đời sống con người.

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 22


Theo dòng lịch sử, mối quan hệ khoa học – công nghệ thể hiện qua
những giai đoạn khác nhau như:

Thế kỷ 17-18: khoa học công nghệ bắt đầu phát triển mạnh. Lúc này
công nghệ được nhận định là đi trước khoa học.

Thế kỷ 19: giai đoạn này chứng kiến khoa học công nghệ có sự tiếp cận
mới. Công nghệ giúp nghiên cứu khoa học phát triển và ngược lại các phát
minh khoa học hiện đại tạo điều kiện để con người nghiên cứu.

Sang thế kỷ 20: khoa học dẫn dắt công nghệ. Công nghệ đổi mới giúp
nghiên cứu khoa học được hoàn thiện và tiếp tục phát triển.

Đầu thế kỷ 21: khoa học công nghệ song hành với nhau và trở thành
nguồn lực quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ KHOA HỌC -


KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ VIỆT NAM - NHẬT BẢN TỪ
NĂM 1991 - 2021.

2.1 Lĩnh vực GTVT

2.1.1 Một số thành tựu nổi bật trong thế XX - XXI

Tính đến nay, kể cả những công trình đang thi công, Nhật Bản đã hỗ trợ
Việt Nam cải tạo và xây dựng tổng cộng 3.309 km đường bộ và 287 cây cầu.
Đặc biệt, Nhật Bản đã hỗ trợ Việt Nam cải tạo và xây dựng 650 km quốc lộ,
tương đương 70% trong hệ thống đường cao tốc quốc gia của Việt Nam. (Jica,
2021)

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 23


Từ những năm 2000, những kế hoạch đẩy mạnh công nghiệp hóa, tăng
cường khả năng cạnh tranh quốc tế, khắc phục yếu kém, xây dựng xã hội
công bằng:

Tháng 5 năm 1997: hội thảo về dự án công trình vượt sông Sài Gòn qua
Thủ Thiêm.

Ngày 21 tháng 11, hầm Thủ Thiêm chính thức được thông xe.

1998-2005 : Dự án xây dựng cầu Thanh Trì

1999-2012 : Dự án xây dựng Đại lộ Đông-Tây Sài Gòn

2000-2010 : Dự án xây dựng cầu Cần Thơ

2001 đến nay : Triển khai chương trình Cử Tình nguyện viên cao cấp
(SV)

2001-2004 : Quy hoạch tổng thể và nghiên cứu khả thi về giao thông
vận tải đô thị khu vực TP.HCM

2002-2013 : Dự án phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ cho người


nghèo

2003-2006 : Dự án xây dựng Nhà máy sản xuất vắc xin sởi

2004-2006 : Chương trình Phát triển Đô thị Tổng thể thủ đô Hà Nội

2004-2007 : Dự án Đào tạo cán bộ thuế đáp ứng công cuộc hiện đại hóa
hệ thống quản lý hành chính Thuế

2004-2012 : Dự án xây dựng đường tránh quốc lộ số 1

2005-2009 : Dự án Chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin sởi

2007-2011 : Dự án Tăng cường năng lực thực thi Luật Cạnh tranh

2007-2011 : Dự án xây dựng đường vành đai 3 TP. Hà Nội

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 24


2007-2015 : Cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp

2007 đến nay : xây dựng tuyến đường sắt nội đô TP.HCM

Năm 2007: dự án Metro Bến Thành - Suối Tiên được phê duyệt với tên
gọi Tuyến Metro số 1 (tên khác Tuyến Sài Gòn hay Tuyến số 1 Bến Thành -
Suối Tiên).

2017 đến nay: Tuyến Metro số 1 đang được xây dựng và dự kiến sẽ đưa
vào vận hành thương mại vào năm 2022 (một số trang ghi là hoạt động 2024).

Ngày 30/9/2020: đoàn tàu đầu tiên thuộc tuyến Metro số 1 (Bến Thành
- Suối Tiên) đã chính thức rời cảng Kasado (Nhật Bản).

Ngày 8/10/2020, đoàn tàu đầu tiên của metro số 1 sẽ cập cảng TP.HCM
và sau đó được vận chuyển về depot Long Bình (quận 9 cũ, nay là thành phố
Thủ Đức) ngày 10/10/2020.

2008-2009 : Nghiên cứu Chiến lược phát triển liên kết TP.Đà Nẵng và
vùng phụ cận

2.1.2 Hợp tác Việt - Nhật từ những côn trình giao thông

Khẳng định trong những năm qua, Chính phủ Nhật Bản luôn là nhà
cung cấp vốn vay ODA lớn nhất cho ngành giao thông vận tải Việt Nam, Thứ
trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Hồng Trường cho biết, tính từ năm
1994 đến nay, phía Nhật Bản đã tài trợ vốn ODA lên tới hơn 884,5 tỷ yên để
thực hiện các dự án hạ tầng giao thông tại Việt Nam. “Các dự án đã hoàn
thành đưa vào khai thác rất hiệu quả, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam. Tiêu biểu như các dự án: Hầm Hải Vân, cầu Cần Thơ,
cầu Thanh Trì, đường Vành đai 3 Hà Nội, nhà ga hành khách quốc tế Tân Sơn
Nhất, cảng Cái Lân, Hải Phòng, Tiên Sa, Cái Mép - Thị Vải”, Thứ trưởng
Nguyễn Hồng Trường dẫn chứng. (Jica, 2021)

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 25


Gần đây nhất, theo Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường, ba dự án hạ tầng
lớn ở Thủ đô Hà Nội gồm: Cầu Nhật Tân, đường nối cầu Nhật Tân với Sân
bay quốc tế Nội Bài và nhà ga T2 - Cảng hàng không quốc tế Nội Bài đều
được đầu tư bằng nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản và vốn đối ứng
trong nước, với tổng mức đầu tư 34.721 tỷ đồng. “Ba công trình trên được
khánh thành và đưa vào sử dụng đầu năm 2015 tạo thành đường trục kết nối
trung tâm chính trị Ba Đình với Sân bay quốc tế Nội Bài, đóng vai trò quan
trọng trong phát triển KT-XH văn hóa, du lịch của Thủ đô Hà Nội và của
quốc gia”, Thứ trưởng Trường nhấn mạnh và không quên nhắc tới dự án
thành lập Trung tâm Đào tạo Logistic Tiểu vùng sông Mê Công tại Việt Nam,
có tổng giá trị tài trợ là 2,3 triệu USD với nguồn vốn từ Qũy Hội nhập Nhật
Bản - ASEAN. Tính đến thời điểm hiện tại, toàn bộ các hạng mục chính đã
hoàn thành và đưa vào khai thác, tổng giá trị giải ngân đạt hơn 2,1 triệu USD.
(Jica, 2021)

Ngoài ra, hiện Chính phủ Nhật Bản đang cung cấp vốn vay ODA cho
Việt Nam triển khai một số dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải
quan trọng như: Tín dụng ngành giao thông vận tải để cải tạo mạng
lưới đường quốc gia lần thứ 2 (Dự án cầu yếu giai đoạn 2); Xây dựng đường
sắt đô thị Hà Nội (tuyến số 1); Hệ thống thu soát vé tự động các tuyến
đường sắt đô thị; Nâng cao an toàn cầu đường sắt trên tuyến Hà Nội - TP
HCM; Cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện; Đường cao tốc Đà Nẵng - Quảng
Ngãi; Đường Hồ Chí Minh đoạn Cam Lộ - Túy Loan theo hình thức BT…

Nói về hiệu quả các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản
tại Việt Nam, ông Mori Mutsuya, Trưởng Đại diện Văn phòng Cơ quan Hợp
tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam cho biết, đặc điểm nổi bật của viện
trợ ODA Nhật Bản là luôn liên kết chặt chẽ hai hình thức hợp tác: Hợp tác kỹ
thuật và hỗ trợ kinh phí. Các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế quy
mô lớn trong lĩnh vực giao thông đã góp phần nâng cao thu nhập của người

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 26


dân thông qua tăng trưởng kinh tế và điều này đã minh chứng cho các thành
quả ODA Nhật Bản trong hơn 20 năm qua.

Trên thực tế, ngoài những dự án hạ tầng giao thông lớn, JICA còn hỗ
trợ vốn ở những dự án hạ tầng mang ý nghĩa dân sinh, trong đó có dự án tín
dụng ngành GTVT để cải tạo cầu yếu. Theo ông Phạm Tuấn Anh, Tổng giám
đốc Ban QLDA 6, đây là dự án có ý nghĩa xã hội lớn. “Hàng chục cây cầu
mới được đưa vào sử dụng, từng bước xóa sổ những cây cầu cũ đang tiềm ẩn
nguy cơ mất ATGT. Dự án cũng tạo việc làm cho hàng nghìn lao động”, ông
Tuấn Anh nói và chia sẻ, các công trình hoàn thành giúp cải thiện đáng kể
mạng lưới đường bộ quốc gia, tăng cường kết nối, trao đổi thông thương hàng
hóa giữa Việt Nam với các nước trong khu vực ASEAN, phát triển KT-XH
đất nước.

Hai nước Việt Nam - Nhật Bản đã ký Hiệp định Hàng không dân dụng
vào ngày 23/5/1994 và Hiệp định sửa đổi vào năm 2001. Ngoài ra, Bộ GTVT
Việt Nam và Bộ Đất đai, Hạ tầng, Giao thông và Du lịch (MLIT) Nhật Bản
cũng đã ký thỏa thuận hợp tác toàn diện vào năm 2010, tạo tiền đề để tăng
cường hợp tác giữa hai Bộ trong tất cả các lĩnh vực như: Đường bộ, Đường
sắt, Hàng không, Hàng hải.

2.1.3 Dự án Phát triển CSHT giao thông của Nhật Bản để cải thiện
lưu thông hàng hóa ở miền Bắc (Năm 1992 đến nay)

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 27


Một loạt các dự án phát triển hạ tầng GTVT nhằm cải thiện lưu thông
hàng hóa ở miền Bắc đã được triển khai để hỗ trợ kịp thời chính phủ Việt
Nam lúc này đang khẩn trương khôi phục kinh tế.

Những dự án này là những hỗ trợ mang tính chiến lược, thực hiện phát
triển mạng lưới đường bộ kết nối giữa thủ đô Hà Nội và cảng Hải Phòng,
cảng Cái Lân để thu hút đầu tư xây dựng KCN và hệ thống kho bãi tại khu
vực dọc đường quốc lộ và phía sau cảng . Các dự án nâng cấp các tuyến
đường huyết mạch như Quốc lộ số 5, Quốc lộ số 18; và phát triển cảng
biển,…cũng đã được tập trung thực hiện.

Nhờ phát triển CSHT kinh tế như vậy, nên các KCN liên tục được xây
dựng (vd: KCN Nomura Hải Phòng), môi trường đầu tư được cải thiện. Hiện
nay, nhiều doanh nghiệp nước ngoài trong đó có doanh nghiệp Nhật Bản đã
đầu tư vào thị trường Việt Nam khiến cơ hội việc làm được mở rộng.

Mạng lưới đường bộ được cải thiện đã tạo điều kiện để việc vận chuyển
khối lượng lớn nông sản từ nông thôn đến Hà Nội trở nên dễ dàng hơn và
giảm bớt chi phí vận chuyển. Ngoài ra, việc xe buýt cũng đến được tận vùng
nông thôn mang lại hiệu quả cải thiện sinh hoạt và nâng cao sinh kế của người
dân trong vùng như giúp người dân đi đến cơ sở GD và y tế dễ dàng hơn,v.v...

2.1.4 Triển vọng mới


Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 28
Trên thực tế, hiệu quả trong sử dụng nguồn vốn ODA đối với các dự án
hạ tầng giao thông đã triển khai chính là cơ sở để có thêm nhiều dự án mới sử
dụng nguồn vốn vay ODA Nhật Bản được triển khai trong thời gian tới.

Nói về các dự án đầu tư, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng có khả năng
hợp tác với phía Nhật Bản trong thời gian tới, đại diện Vụ Hợp tác quốc tế Bộ
GTVT đề cập ngay tới hai dự án đặc biệt quan trọng là cảng hàng không quốc
tế Long Thành và dự án Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Trong khuôn khổ
chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng từ 2 - 4/7/2015, tại cuộc Hội đàm giữa hai Thủ tướng Việt Nam - Nhật
Bản, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã bày tỏ mong muốn để các DN Nhật
Bản tham gia dự án này. Tại buổi làm việc với Bộ trưởng Đinh La Thăng mới
đây, Đại sứ Nhật Bản Hiroshi Fukada cũng bày tỏ, Nhật Bản dành sự quan
tâm lớn đến cảng hàng không quốc tế Long Thành. Phía Nhật Bản sẽ xem xét
viện trợ ODA, đồng thời tạo điều kiện và cho phép JICA tiến hành nghiên cứu
khả thi của dự án.

Đối với dự án Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, dự án đã được Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe thống nhất xem
xét hợp tác, ông Hiroshi Fukada cho biết, hiện JICA đang chuẩn bị nghiên
cứu khả thi cho dự án trên cơ sở kế hoạch mới mà phía Việt Nam đưa ra.

2.2 Lĩnh vực Môi trường:

2.2.1 Bảo vệ môi trường tự nhiên và phát triển môi trường đô thị

Năm 1992 khi Nhật Bản nối lại viện trợ ODA, chính phủ Việt Nam
phải tập trung vào việc phục hồi hệ thống CSHT bị phá hủy nặng nề trong
chiến tranh, vì vậy chưa thể quan tâm đúng mức tới việc quản lý môi trường
và xây dựng chính sách quản lý môi trường. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế
quá nhanh đã khiến môi trường ngày càng ô nhiễm trầm trọng.

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 29


Nhật Bản đã triển khai hỗ trợ Việt Nam cải thiện môi trường đô thị một
cách có hệ thống như cải thiện hệ thống cấp thoát nước, xử lý nước thải đô thị
và rác thải tại Hà Nội và TP. HCM.

Năm 1998, dự báo môi trường của khu thắng cảnh vịnh Hạ Long có
nguy cơ bị hủy hoại do sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, Nhật Bản
đã hỗ trợ Việt Nam lập Kế hoạch quản lý môi trường kết hợp hài hòa với phát
triển kinh tế ở khu vực vịnh Hạ Long.

Để giúp chính phủ Việt Nam nâng cao năng lực hành chính về quản lý
môi trường, một số dự án như “Dự án nâng cao năng lực quản lý môi trường
nước trên toàn quốc” được thực hiện.

Trong lĩnh vực biến đổi khí hậu, từ năm 2010, Nhật Bản kết hợp thực
hiện chương trình vốn vay “Hỗ trợ Ứng phó với biến đổi khí hậu” và hợp tác
kỹ thuật để chính phủ Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua đối
thoại chính sách và tài trợ vốn.

Bên cạnh các hoạt động trên, các dự án như xử lý chất thải rắn, bảo vệ
rừng, phòng chống thiên tai được triển khai. Sự hỗ trợ dựa trên kỹ thuật và
kinh nghiệm của Nhật Bản được kỳ vọng sẽ tiếp tục mang lại nhiều kết quả.

2.2.2 Dự án của Nhật Bản nhằm cải thiện môi trường nước Hà Nội

Ở Hà Nội, mỗi khi có mưa lớn là lại xảy ra úng ngập trầm trọng. Năm
1994, Nhật Bản đã hỗ trợ Việt Nam lập “Kế hoạch cải thiện hệ thống thoát
nước và xử lý nước thải ở Hà Nội”, và từ năm 1995, tiến hành hỗ trợ thực
hiện dự án phòng chống úng ngập quy mô lớn ở trung tâm thành phố Hà Nội.
Nội dung của dự án này bao gồm xây dựng trạm bơm Yên Sở và 2 nhà máy
xử lý nước thải mẫu,v.v…

Năm 2006, việc nâng công suất của trạm bơm Yên Sở, cải tạo và xây
dựng mới ao hồ, v.v…đã được thực hiện. Liên quan đến dự án này tỉnh Chiba
ở Nhật thực hiện một dự án từ năm 2008, hỗ trợ cho việc củng cố hệ thống
quản lý vận hành, bảo dưỡng nhà máy xử lý nước thải v.v..
Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 30
Vào thời điểm xảy ra trận mưa lớn lịch sử tại Hà Nội năm 2008, trạm
bơm Yên Sở mới được triển khai ở giai đoạn I của dự án, có công suất chỉ
bằng một nửa hiện nay. Mặc dù vậy, nếu trước đây ở Hà Nội với lượng mưa
như vậy phải mất 2 tháng nước mới thoát hết, thì sau khi trạm bơm được đưa
vào vận hành, chỉ mất khoảng 5 ngày là nước thoát hết.

Kết quả đánh giá cuối kỳ dự án của JICA cho thấy 70% người dân Hà
Nội công nhận dự án đã góp phần hạn chế thiệt hại do úng ngập gây ra. Thiệt
hại về nhà cửa, xe cộ, nạn dịch bệnh do lụt lội đã giảm. Tình trạng ô nhiễm
môi trường vì rác thải cũng được cải thiện.

Dự án Cải thiện môi trường nước Hà Nội đã thực sự mang lại thành quả,
góp phần hạn chế thiệt hại do úng ngập gây ra tại Hà Nội.

2.3 Lĩnh vực Năng lượng:

2.3.1 Phát triển hạ tầng điện lực và sử dụng hiệu quả năng lượng

Việc cung cấp điện ổn định rất quan trọng, không chỉ làm ổn định đời
sống sinh hoạt của người dân mà còn góp phần phát triển nền công nghiệp
trong nước và thúc đẩy đầu tư nước ngoài.

Vào những năm 60, sau khi hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy thủy
điện Đa Nhim, Nhật Bản luôn dành sự ưu tiên đặc biệt cho phát triển năng
lượng điện. Nhật Bản đã phát huy khả năng kỹ thuật của mình để hỗ trợ Việt
Nam phát triển nguồn điện lực như xây dựng các nhà máy điện, công trình
truyền tải phân phối điện; và xây dựng mạng lưới trạm biến áp ở các
KCN,v.v...

Từ năm 1992 đến năm 2011, số vốn mà Nhật Bản đã tài trợ cho ngành
năng lượng (số cam kết) là 493,9 tỷ Yên, chiếm tỷ trọng lớn thứ hai trên tổng
nguồn vốn (23,8%), chỉ sau lĩnh vực giao thông. (Jica, 2021)

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 31


Trong 10 năm cho đến năm 2010, lượng tiêu thụ điện năng của Việt
Nam mỗi năm tăng trung bình khoảng 14%. Năm 2009, tỷ lệ điện khí hóa
toàn quốc lên đến 97,6%. Tính đến cuối năm 2011, công suất của các nhà máy
điện đã và đang được xây dựng bằng nguồn vốn ODA Nhật Bản đạt 4.500
MW, tương đương 14% tổng công suất phát điện cả nước. (Jica, 2021)

Nhật Bản hiện đang tiến hành Một số dự án như dự án hoạch định QH
tổng thể phát triển điện lực và tiết kiệm năng lượng, đào tạo nhân viên kỹ
thuật điện, và phổ cập tiêu chuẩn kỹ thuật điện.

2.3.2 Dự án của Nhật Bản nhằm hỗ trợ xây dựng Nhà máy thủy điện
Đa Nhim

Nhà máy thủy điện Đa Nhim được xây dựng tại tỉnh Lâm Đồng vào
những năm 1960 với sự hỗ trợ của Nhật Bản. Với tổng công suất 160MW,
đây là nhà máy điện quy mô lớn thời đó. Công trình được xây dựng vào thời
kỳ Việt Nam đang có chiến tranh khiến các bên liên bày tỏ quan ngại về khả
năng thi công nhà máy. Tuy vậy, với nỗ lực của Nhật Bản và quyết tâm của
Việt Nam, công trình xây dựng nhà máy thủy điện đã được hoàn thành vào
tháng 1/1964, sớm hơn một năm so với thời gian thi công dự kiến.

Hệ thống truyền tải điện đến Sài Gòn cũng đã được xây dựng, nhưng
liền bị chiến tranh phá hủy chỉ ba tháng sau khi hoàn thành. Nhà máy được
đại tu vào những năm 1990, và đến nay vẫn hoạt động tốt. Bên cạnh đó, Công
trình thủy lợi Phan Rang sử dụng nguồn nước xả từ Nhà máy thủy điện Đa
Nhim cũng mang lại nhiều lợi ích to lớn cho các vùng lân cận.

Đây cũng là lần đầu tiên 2 bên hợp tác, kể từ sau nhà máy thủy điện Đa
Nhim, Phan Rang, từ năm 1994 đến 2016 Nhật Bản cũng đã hỗ trợ Việt Nam
xây dựng thêm 7 nhà máy thủy điện. Dưới đây là bảng thống kê số liệu của 8
nhà máy được xây dựng từ nguồn vốn ODA của Nhật Bản:

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 32


2.3.3 Dự án của Nhật nhằm hỗ trợ, nâng cấp, mở rộng Nhà máy
nhiệt điện Phả Lại

Ở Việt Nam, cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhu cầu tiêu thụ điện năng
cũng gia tăng. Trong vòng 10 năm kể từ 1985 đến 1995, lượng tiêu thụ điện
trên toàn quốc đã tăng 2,9 lần, lượng tiêu thụ điện của miền Bắc tăng khoảng
2,3 lần. (Jica, 2021)

Ở miền Bắc thời đó, vào mùa khô, sản lượng điện của các nhà máy thủy
điện giảm mạnh, khiến việc cung cấp điện vào mùa này phải dựa vào nhà máy
nhiệt điện Phả Lại ở tỉnh Hải Dương gần Hà Nội.

Để đảm bảo cung cấp điện ổn định, một nhà máy nhiệt điện mới, hai
trạm biến áp, hệ thống đường dây truyền tải điện đã được xây dựng và lắp đặt
ở bên cạnh nhà máy nhiệt điện Phả Lại 1, với tổng kinh phí 65,1 tỷ Yên.

Nhà máy điện mới này cung cấp khoảng 19% sản lượng điện cho miền
Bắc, 7% sản lượng điện cho cả nước (năm 2006). Những dự án xây dựng nhà
máy điện cùng loại thường lấy Nhà máy nhiệt điện Phả Lại làm mẫu tham
khảo về thiết kế, kế hoạch xây dựng. Ước tính khoảng 6,47 triệu người được
hưởng lợi từ công trình này. (Jica, 2021)

Sau năm 2000, sự tăng trưởng nhanh chóng của thương mại và ngành
công nghiệp chế tạo ở miền Bắc khiến lượng điện tiêu thụ cũng tăng gấp đôi.
Dự án mở rộng Nhà máy nhiệt điện Phả Lại đã và đang đóng góp to lớn vào
việc đáp ứng nhu cầu điện năng này

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 33


2.3.4 Đào tạo nhân lực, chia sẻ kiến thức chuyên môn về năng lượng
điện hạt nhân

VINATOM đã tổ chức một tọa đàm, trong đó các chuyên gia trong
nhiều lĩnh vực của công nghệ hạt nhân đã chia sẻ với các học viên những
thông tin về tình hình phát triển điện hạt nhân trên thế giới và tương lai tại
Việt Nam, cập nhật các thông tin về Dự án Trung tâm Nghiên cứu KH&CN
hạt nhân mà VINATOM đang triển khai, đồng thời giúp các bạn học viên
định hướng mục tiêu công việc sau khi ra trường. Trong buổi tọa đàm, các
chuyên gia đều khẳng định, VINATOM luôn sẵn sàng chào đón các bạn sinh
viên mới ra trường có mong muốn làm việc và cống hiến trong lĩnh vực năng
lượng hạt nhân.

Trong Kỳ họp thứ 76 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc tháng 9 vừa qua,
vấn đề biến đổi khí hậu với những biểu hiện của nó là sự nóng lên toàn cầu,
thiên tai xảy ra ngày một khó lường đã là chủ đề được đề cập đến nhiều nhất.
Nhiều quốc gia cam kết bắt đầu dừng phát triển nhiệt điện than, vốn là nguồn
điện phát thải CO2 lớn nhất hiện nay, đồng thời đẩy mạnh các nguồn điện
phát thải thấp như năng lượng tái tạo, điện hạt nhân. Việc kết hợp sử dụng
điện từ năng lượng tái tạo và năng lượng hạt nhân vận hành phụ tải nền trong
hệ thống điện hiện đang là xu thế đang được nhiều nước áp dụng. Tại Việt
Nam, chính phủ cũng đang nỗ lực xây dựng một Chiến lược phát triển năng
lượng bền vững, phù hợp với xu thế hiện nay, giảm phát thải CO2.

Trong bối cảnh đó, những kiến thức về vật lý hạt nhân, vật lý lò cơ bản,
công nghệ, thiết bị, các vấn đề an toàn của điện hạt nhân… là những kiến thức
vô cùng bổ ích, giúp các học viên tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu, để trở
thành các chuyên gia giỏi về lĩnh vực điện hạt nhân, lĩnh vực an toàn hạt nhân.

2.4 Lĩnh vực Khoa học - Công nghệ

2.4.1 Hợp tác phát triển công nghệ Vũ trụ

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 34


Trong quan hệ hợp tác KH&CN giữa Việt Nam và Nhật Bản, còn có
một điểm sáng là mối quan hệ giữa Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam với các
tổ chức KHCN của Nhật Bản.
Trong những năm qua, các đơn vị nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm
KH&CN Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật
Bản (JICA), Viện KH&CN tiên tiến Nhật Bản, Cơ quan Hàng không vũ trụ
Nhật Bản, Đại học Osaka… về đào tạo cán bộ, tổ chức các hội thảo khoa học
và thực hiện một số đề tài nghiên cứu chung.
Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam Phạm Anh Tuấn cho biết
trong triển khai Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ của
Việt Nam đến năm 2020, Chính phủ Nhật Bản đã hỗ trợ nguồn vốn ODA lên
đến 26,2 tỷ yên để xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam. Ngày 19/9/2012, tại
Hòa Lạc (Hà Nội), dự án đã chính thức được khởi công xây dựng trên diện
tích hơn 9 ha.
Đây là một trong những dự án lớn về KH&CN của Việt Nam trong hơn
30 năm qua, không chỉ khởi đầu cho bước tiến mới trong lịch sử ngành công
nghệ vũ trụ Việt Nam mà còn khởi đầu cho hợp tác chiến lược Việt Nam và
Nhật Bản trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ.
Dự án này giúp Việt Nam tự nghiên cứu và chế tạo vệ tinh nhỏ quan sát
Trái đất. Với nguồn ảnh viễn thám chụp từ vệ tinh radar cảm biến (có thể
chụp trong mọi điều kiện thời tiết) và từ các vệ tinh quan sát Trái đất khác,
chúng ta sẽ có những cơ sở cụ thể góp phần quan trọng vào hoạt động quản lý
tài nguyên thiên nhiên, phòng chống giảm nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu;
phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc gia… Dự kiến, dự án
Trung tâm Vũ trụ Việt Nam sẽ hoàn thành toàn bộ và phóng vệ tinh quan sát
trái đất LOTUSat-1, vệ tinh công nghệ radar đầu tiên của Việt Nam, vào cuối
năm 2023.
Ngoài ra, trong thời gian qua, Cơ quan Vũ trụ Nhật Bản (JAXA) cũng
hợp tác với Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam phóng thành công 3 vệ tinh của
Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 35
Việt Nam lên quỹ đạo, cấp ảnh vệ tinh của Nhật Bản cho Việt Nam khi có bão
lũ hay cháy rừng ở Việt Nam và đào tạo cán bộ trong lĩnh vực công nghệ vũ
trụ.
Theo đánh giá chung của Bộ KH&CN và Viện Hàn lâm KH&CN Việt
Nam, hợp tác về KH&CN giữa nước ta với Nhật Bản trong những năm qua đã
được triển khai trên nhiều bình diện và đạt được những bước phát triển quan
trọng. Thông qua các chương trình, dự án hợp tác KH&CN giữa hai nước,
nhiều vấn đề KH&CN mà hai nước cùng quan tâm đã từng bước được giải
quyết, góp phần đáng kể vào việc nâng cao năng lực và tiềm lực KH&CN của
Việt Nam. Trong thời gian tới, cần có sự quan tâm hơn nữa của hai Chính phủ,
sự nỗ lực của các nhà KH&CN nhằm thúc đẩy hợp tác KHCN mạnh mẽ cho
tương xứng với tiềm năng hợp tác giữa hai nước.
Trong triển khai chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ
(CNVT) của Việt Nam đến năm 2020, Nhật Bản đã hỗ trợ nguồn vốn ODA
lên tới 54,4 tỷ yên (hơn 12 nghìn 363 tỷ đồng). Theo đó, ngày 19-9-2012, tại
Hòa Lạc (Hà Nội), dự án Trung tâm vũ trụ Việt Nam đã được khởi công xây
dựng trên diện tích hơn 9 ha. Dự kiến đến năm 2020, Trung tâm vũ trụ Việt
Nam sẽ đi vào hoạt động. Dự án này sẽ giúp Việt Nam tự nghiên cứu và chế
tạo vệ tinh nhỏ quan sát Trái đất bằng công nghệ ra-đa cảm biến. Với nguồn
ảnh viễn thám chụp từ vệ tinh ra-đa cảm biến (có thể chụp trong mọi điều
kiện thời tiết) và từ các vệ tinh quan sát Trái đất khác, chúng ta sẽ có những
cơ sở cụ thể góp phần quan trọng vào hoạt động quản lý tài nguyên thiên
nhiên, phòng chống giảm nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế -
xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng đất nước…

2.4.2 Giao lưu KH&CN Vũ trụ giữa Nhật Bản và Việt Nam.
Giám đốc Trung tâm vệ tinh quốc gia (Viện HLKHCNVN) PGS-TS
Phạm Anh Tuấn cho biết: trong chuyến thăm Nhật Bản vào trung tuần tháng
10-2014, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Ðoàn cấp cao Chính phủ Việt
Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 36
Nam đã đến thăm Cơ quan Hàng không vũ trụ Nhật Bản (JAXA) và Trung
tâm vũ trụ Tsukuba thuộc tỉnh Ibaraki. Tại đây, Phó Thủ tướng đánh giá cao
sự hợp tác có hiệu quả giữa Viện HLKHCNVN và JAXA từ năm 2006 đến
nay trong nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu công nghệ vũ trụ. Bên cạnh
việc giúp Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về công nghệ vũ
trụ (36 thạc sĩ, tính đến năm 2016), Nhật Bản còn tạo điều kiện cho Viện
HLKHCNVN thực hiện một số thử nghiệm khoa học tại phòng thí nghiệm
KIBO của trạm vũ trụ quốc tế, góp phần giúp Việt Nam phóng thành công vệ
tinh Pico Dragon năm 2013 (hoạt động tốt trong không gian).
Ðồng thời, Nhật Bản phối hợp Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị
"Diễn đàn các cơ quan hàng không khu vực châu Á - Thái Bình Dương lần
thứ 20 (APRSAF - 20) vào tháng 12-2013 tại Hà Nội. Cũng trong chuyến
thăm này, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chứng kiến lễ ký tuyên bố
chung về tăng cường quan hệ đối tác giữa Viện HLKHCNVN và JAXA đến
năm 2020. Theo đó, hai bên tiến hành cụ thể hóa các tiềm năng, lợi thế hợp
tác trong tương lai như: vệ tinh viễn thám và các ứng dụng; phát triển vệ tinh
nhỏ và các ứng dụng; nghiên cứu chung hướng tới việc sử dụng mô-đun thử
nghiệm KIBO của Nhật Bản; ứng dụng của hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu...
Ðặc biệt sẽ triển khai, thực hiện dự án Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại Hòa Lạc
đúng tiến độ, bởi đây là hợp phần quan trọng nhất trong "Chiến lược nghiên
cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020" của Việt Nam. Khởi công
từ tháng 9-2012, đến nay, dự án đã hoàn thành một số bước đi ban đầu, cơ
bản san lấp mặt bằng và tổ chức đấu thầu các gói thầu để xây dựng các hạng
mục công trình.
Dự án Trung tâm vũ trụ Việt Nam là dự án đặc biệt quan trọng, có tổng
mức đầu tư 54 tỷ yên từ nguồn vốn ODA ưu đãi của Chính phủ Nhật Bản và
vốn đối ứng Việt Nam. Dự án được đầu tư đồng bộ thành ba phần: hạ tầng kỹ
thuật và trang thiết bị; tiếp nhận và chuyển giao công nghệ; đào tạo nguồn
nhân lực công nghệ vũ trụ. Về hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị, dự án sẽ đầu

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 37


tư xây dựng trung tâm lắp ráp tích hợp và thử nghiệm vệ tinh nhỏ; trạm thu
nhận tín hiệu vệ tinh; trung tâm nghiên cứu và triển khai công nghệ: trung tâm
giáo dục và đào tạo; khu điều hành, bảo tàng vũ trụ và đài thiên văn. Về tiếp
nhận chuyển giao công nghệ, các chuyên gia Nhật Bản sẽ chuyển giao và hỗ
trợ Việt Nam tự chế tạo hai vệ tinh nhỏ quan sát trái đất với công nghệ ra-đa
hiện đại có độ phân giải cao, cũng như công tác ứng dụng dữ liệu ảnh chụp từ
vệ tinh.

Theo đó, đến năm 2020, khi Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đi vào hoạt
động chính thức, sẽ có 350 cán bộ khoa học, chuyên gia các lĩnh vực và nhà
quản lý trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ được đào tạo. Trong hai năm 2013 và
2014, Trung tâm vệ tinh quốc gia (nơi tiếp nhận và thực hiện dự án) đã cử 22
cán bộ đi học thạc sĩ tại năm trường đại học ở Nhật Bản. Hoàn thành việc xây
dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, chúng ta có khả năng làm chủ công nghệ
và tự chế tạo vệ tinh nhỏ quan sát trái đất, có thể chụp ảnh toàn lãnh thổ Việt
Nam trong mọi điều kiện thời tiết bằng công nghệ ra-đa cảm biến. Mặt khác,
điều quan trọng hơn là Việt Nam chủ động xây dựng và xử lý các dữ liệu ảnh
vệ tinh, phục vụ hoạt động giám sát và cảnh báo sớm các thảm họa, thiên tai;
dự báo sớm sản lượng nông nghiệp, cập nhật hệ thống bản đồ điện tử cho
công tác quản lý và quy hoạch đất đai, cũng như nghiên cứu và cảnh báo
phòng tránh biến đổi khí hậu toàn cầu đang đe dọa...

Qua các lần thăm và làm việc với Viện HLKHCNVN, Chủ tịch JAXA
Okumura cũng như Giám đốc Hợp tác quốc tế của JAXA T.Tanaka nhận định
rằng, mặc dù ngành khoa học - công nghệ vũ trụ Việt Nam còn non trẻ, nhưng
với việc tăng cường quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam từ năm 2006
đến nay và việc triển khai các hướng nghiên cứu trong những năm gần đây,
Việt Nam đã có những chuyển biến đáng khích lệ trong lĩnh vực này. Việc ký
tuyên bố chung về tăng cường quan hệ đối tác giữa Viện HLKHCNVN và
JAXA năm 2014 mở ra tiềm năng, triển vọng hợp tác lâu dài giữa Việt Nam
và Nhật Bản trong công cuộc chinh phục khoảng không vũ trụ. Trong đó, hai
Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 38
bên đang nỗ lực bảo đảm tiến độ xây dựng các hạng mục công trình, đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao để đến năm 2020, Việt Nam có một trung tâm
vũ trụ vào loại hàng đầu khu vực Ðông Nam Á...

2.4.3 Ứng dụng công nghệ Nhật Bản vào nông nghiệp hữu cơ

Từ năm 2010, Quảng Ninh chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng
kinh tế từ "nâu" sang "xanh". Góp sức vào xu thế tăng trưởng xanh, ông Lê
Quang Thắng, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phẩn Đầu tư và Xây dựng Việt
Long (Công ty Việt Long) đã chuyển hướng sang lĩnh vực nông nghiệp, môi
trường.

Ý tưởng về một vùng chuyên canh rau an toàn mang thương hiệu "Việt
Long" đã nhen nhóm trong đầu ông Lê Quang Thắng từ những chuyến tham
quan, tìm hiểu thị trường tại Đà Lạt và một số địa phương khác. Sau đó, ý
tưởng đã được hiện thực hóa thành dự án quy hoạch rau an toàn tại phường
Cộng Hoà, Thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) với diện tích trên 31 ha, tổng
kinh phí thực hiện khoảng 40 tỷ đồng.

Cuối năm 2012, Công ty Việt Long trở thành doanh nghiệp đầu tiên của
Quảng Ninh đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp với mô hình trồng rau an toàn
trong môi trường tự nhiên để phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai, phong
tục tập quán của người dân.

Đến tháng 11/2015, Công ty Greentex Nhật Bản đã ký kết biên bản ghi
nhớ về việc thực hiện nông nghiệp thân thiện môi trường với Sở NN-PTNT
tỉnh Quảng Ninh. Theo đó, Công ty Việt Long là doanh nghiệp được lựa chọn
làm đối tác trực tiếp để thực hiện dự án sản xuất rau hữu cơ trong môi trường
tự nhiên.

Ông Lê Quang Thắng, Tổng Giám đốc Công ty Việt Long cho biết,
ngay sau biên bản ghi nhớ, Công ty đã tích cực chuẩn bị các điều kiện cần

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 39


thiết cho việc triển khai dự án như mời các chuyên gia Nhật Bản về kiểm tra,
phân tích toàn diện mẫu đất, tính toán lượng phân bón và vật liệu cải tạo đất,
tiến hành trồng thử nghiệm xác minh trên cây trồng.

Năm 2016, Công ty Greentex đã tiến hành thử nghiệm trồng cà rốt bằng
các chế phẩm hữu cơ tại khu vực sản xuất rau của Công ty Việt Long. Kết quả
thử nghiệm cho thấy, sản phẩm đầu ra đã cải thiện đáng kể từ 20 - 30% về cả
năng suất và chất lượng so với loại không sử dụng chế phẩm.

Ông Thắng chia sẻ, từ năm 2016, ông cùng các cộng sự đã có các
chuyến bay sang Nhật Bản để trực tiếp làm việc, trao đổi các nội dung liên
quan đến dự án. Sau gần 2 năm nghiên cứu, tiến hành thử nghiệm và xác
minh, dự án đã cho hiệu quả rất tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu của Quảng
Ninh.

2.4.4 "Thép Nhật" tại cầu đường sắt Bắc Nam

Cầu Chợ Thượng - cây cầu đường sắt đầu tiên tại Việt Nam sử dụng kết
cấu bằng vật liệu thép chịu thời tiết chế tạo từ Nhật Bản sau 15 năm xây dựng
vẫn đang bền bỉ cõng những chuyến tàu xuôi ngược mỗi ngày trên tuyến
đường sắt Bắc Nam.

Là cây cầu đầu tiên được chọn dùng thí điểm kết cấu thép chịu thời tiết
do Tập đoàn Nippon Steel & Sumitomo Metal (Nhật Bản) cung cấp, những
hư hỏng do sự xâm hại của thời tiết đối với cầu Chợ Thượng - Hà Tĩnh (hoàn
thành vào năm 1999) được các chuyên gia đầu ngành của Bộ Giao thông vận
tải ghi nhận là không đáng kể.

Theo khảo sát của PGS.TS. Nguyễn Thị Tuyết Trinh, Trường Đại học
Giao thông vận tải, sau 15 năm được đưa vào khai thác, hầu hết các vị trí liên
kết của cầu Chợ Thượng có trạng thái gỉ thấp, mức độ gỉ "3","4","5".

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 40


"Đây là mức độ thể hiện thép có tính năng chống ăn mòn tốt. Mặt khác,
lượng mất mát do bị ăn mòn sau 100 năm cho thép chịu thời tiết trong điều
kiện môi trường khu vực cầu Chợ Thượng chỉ là là 0,298mm, thấp hơn rất
nhiều so với Tiêu chuẩn thiết kế cầu đường bộ của Nhật Bản là 0,5 mm. Điều
này cho thấy thép chịu thời tiết của cầu này đang có xu hướng ăn mòn theo độ
ăn mòn cho phép của thép chịu thời tiết", PGS.TS. Nguyễn Thị Tuyết Trinh
đánh giá.

Đây là khu vực thuộc vành đai nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của
khí hậu chuyển tiếp của miền Nam và miền Bắc, nên có các đặc điểm của khu
vực khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và mùa đông lạnh khô của
miền Bắc. Hàm lượng muối trong không khí trong khu vực vào khoảng
0,04mg/dm2/ngày.

Có thể nói, đây là một vị trí rất "nhạy cảm" đối với các công trình cầu
vượt sông sử dụng kết cấu thép. Tuy nhiên, với những kết quả thực tế tại cầu
Chợ Thượng đã khẳng định sự lựa chọn là chính xác. Nhật Bản đã đưa những
kết cấu thép chịu thời tiết đạt tiêu chuẩn cao nhất vào công trình.

Được biết, từ những kinh nghiệm tại cầu Chợ Thượng, kết cấu thép
chịu thời tiết do Tập đoàn Nippon Steel & Sumitomo Metal cung cấp đã xuất
hiện tại 43/44 cầu đường sắt thuộc Dự án nâng cao an toàn cầu đường sắt trên
tuyến Hà Nội – Tp Hồ Chí Minh (giai đoạn III).

Tuy nhiên, khác với cầu Chợ Thượng, tại 43 cầu ở giai đoạn III, kết cấu
thép chịu thời tiết chỉ được sử dụng cho phần phía dưới của kết cấu nhịp cầu.

Theo Tập đoàn Nippon Steel & Sumitomo Metal, chủ đầu tư muốn sơn
phần phía trên cầu, do đó sử dụng thép thông thường có sơn. Phần dưới cầu
gặp khó khăn trong việc bảo trì nên được ưu tiên sử dụng thép chịu thời tiết.

Được biết, "thép chịu thời tiết dùng cho cầu" cũng giống thép thông
thường, sau 1 thời gian sẽ bị gỉ, tuy nhiên, nhờ vào hoạt động của thành phần

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 41


hợp kim, lớp gỉ bảo vệ vững chắc sẽ được hình thành trên bề mặt, giúp kiềm
chế quá trình gỉ sau đó. Công nghệ này vốn được phát triển tại Mỹ, song Nhật
Bản đã phát triển vật liệu làm giảm giá thành, chính vì thế sản phẩm "thép
chịu thời tiết dùng cho cầu" sử dụng công nghệ này của Nhật Bản đã được sử
dụng ở Indonesia, Philippines và Việt Nam.

Mặt khác, Chính phủ Việt Nam yêu cầu các công trình cầu cần được
bảo trì thích hợp sau khi xây dựng xong dù không còn lo ngại về an toàn. Về
điểm này, "thép chịu thời tiết dùng cho cầu" có tuổi thọ lớn, làm giảm các chi
phí liên quan đến bảo trì.

Sau khi đưa các công trình vào khai thác, Dự án góp phần nâng cao an
toàn chạy tàu của ngành đường sắt, nâng cao tải trọng và tốc độ chạy tàu (tốc
độ thiết kế 120km/h cho tàu khách, 80km/h cho tàu hàng) và rút ngắn hành
trình các đoàn tàu trên tuyến. Đồng thời, một số nút giao đồng mức cũng được
xoá bỏ, đảm bảo an toàn trong quá trình đi lại hai bên đường sắt của người
dân địa phương.

Bên cạnh đó, các Nhà thầu Việt Nam đã có cơ hội hợp tác, học hỏi kinh
nghiệm quản lý và công nghệ thi công của các Nhà thầu Nhật Bản, đồng thời
tạo mối quan hệ lâu dài và mở ra cơ hội hợp tác cho các dự án khác trong
tương lai. Đó thực sự là những dấu son thắm tình hữu nghị Việt - Nhật in đậm
trên tuyến đường sắt Bắc - Nam trong suốt 20 năm qua.

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐẨY


MẠNH QUAN HỆ KHOA HỌC - KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ
GIỮA VIỆT NAM - NHẬT BẢN.

Các nhà khoa học cho rằng, để phát triển quan hệ Việt Nam - Nhật Bản
đi vào chiều sâu hơn nữa, hai nước cần vượt qua những thách thức đang được
đặt ra trong bối cảnh mới của quốc tế và khu vực, nhất là sự thay đổi cục diện

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 42


chính trị - an ninh khu vực Đông Á do sự điều chỉnh chính sách của các nước
lớn. Đồng thời, tăng cường đẩy mạnh hợp tác sâu rộng, định hình mối quan hệ
Đối tác chiến lược trên cơ sở củng cố lòng tin, cùng gánh vác trách nhiệm
chung với các vấn đề khu vực và toàn cầu.

3.1 Xác định vai trò đột phá của khoa học - công nghệ và đổi mới
sáng tạo đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới

Để hiện thực hóa yêu cầu cao về vai trò của khoa học - công nghệ trong
giai đoạn mới, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII khẳng định, phải đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trên nền tảng của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tạo động lực mới cho
phát triển nhanh và bền vững đất nước. Điểm mới về nhận thức trong Dự thảo
Văn kiện Đại hội XIII về vai trò của khoa học  - công nghệ là không chỉ nhấn
mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, mà còn đề cao yêu
cầu đổi mới sáng tạo như một định hướng trung tâm của phát triển trong bối
cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII cũng nêu rõ phải phát triển hệ thống
sáng tạo quốc gia, hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy
doanh nghiệp là trung tâm ứng dụng công nghệ và phát triển sản phẩm, các
trường đại học và các viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu và phát triển; tạo
cơ chế liên kết hữu cơ giữa các cơ sở nghiên cứu với các doanh nghiệp trên cơ
sở chia sẻ về trách nhiệm và lợi ích tương hỗ. Nội dung dự thảo cũng cho thấy,
lần đầu tiên, Đảng chính thức xác định phải xây dựng và hoàn thiện đồng bộ
thể chế phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Xây
dựng môi trường hoạt động khoa học - công nghệ dân chủ, công khai, minh
bạch; khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, hành chính hóa
trong hoạt động khoa học - công nghệ; tạo động lực nền tảng, quan trọng nhất
cho phát triển đất nước nhanh, bền vững trong giai đoạn mới.

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 43


Hiện nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ta đang đứng trước bối
cảnh mới. Trên thế giới, cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước, nhất là
giữa các nước lớn, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao,
văn hóa, an ninh, quốc phòng,... và được quy tụ thành cạnh tranh vị thế quốc
gia, cạnh tranh năng lực tự chủ và phát triển của đất nước trong bối cảnh toàn
cầu hóa. Ẩn sâu bên trong các cuộc cạnh tranh chiến lược là cạnh tranh về sở
hữu trí tuệ nhân tạo, về công nghệ cao; ai sở hữu trí tuệ nhân tạo, công nghệ
cao là người đó nắm được vận mệnh của sự phát triển; đối với các nước lớn
đó là khả năng chi phối và “cầm chịch” các thể chế phát triển và “luật chơi”
trên thế giới; đối với các nước nhỏ và đang phát triển thì đó là khả năng vươn
lên, không bị tụt hậu, không bị lệ thuộc, thụ động trong quá trình phát triển.
Quá trình đổi mới sáng tạo đang diễn ra mạnh mẽ ở rất nhiều nước trên thế
giới với những cấp độ khác nhau, đặt ra những cơ hội lớn và những thách
thức không nhỏ.

Việt Nam cũng đang đứng trước cơ hội và thách thức này. Định hướng
chiến lược là phải đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng sang phát triển theo
chiều sâu, chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo; tăng trưởng kinh tế sẽ phải dựa chủ yếu vào năng suất các
nhân tố tổng hợp, khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động lớn đến mọi mặt, tất cả lĩnh
vực của nước ta. Vì thế, cần có chiến lược và chính sách phù hợp để khai thác,
tận dụng thành công những cơ hội và ứng phó hiệu quả với các khó khăn,
thách thức.

Chính yêu cầu này đặt đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển và ứng
dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhất là công nghệ cao vào vai
trò đột phá đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 44


Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đổi mới sáng tạo giữ vai trò then chốt đối
với phát triển mọi mặt của xã hội, nhất là tăng trưởng kinh tế. Động lực tăng
năng suất lao động quan trọng nhất chính là đổi mới sáng tạo, trọng tâm là
phát triển và ứng dụng công nghệ cao. Đổi mới sáng tạo được xác định với
năm trụ cột đầu vào là thể chế vĩ mô, nguồn nhân lực và nghiên cứu, kết cấu
hạ tầng, thị trường và môi trường kinh doanh và hai trụ cột đầu ra là sản phẩm
tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo(5). Tùy theo điều kiện cụ thể, mỗi
nước có thể lựa chọn con đường và mô hình cụ thể cho mình. Sự thành công
tùy thuộc vào khả năng nhận biết, nắm bắt, ứng dụng và phát triển tiến bộ
công nghệ của mỗi nước. Hiện nay, các nước trong khối ASEAN cũng đã
nhận thức rõ vấn đề này. Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN năm
2018 tại Hà Nội (ngày 13-9-2018) đã đưa ra thông điệp nổi bật là mỗi nước
cần chủ động phát huy tinh thần doanh nghiệp, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo với
tầm nhìn đa chiều, dài hạn để phát triển bền vững trong thời đại cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.

Việc chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế
tri thức, kinh tế số, sáng tạo đã trở thành động lực quan trọng nhất, với bản
chất cốt lõi là sự tăng trưởng và phát triển phải là kết quả chủ yếu của tăng
năng suất lao động, tăng giá trị gia tăng dựa trên nền tảng ứng dụng khoa học
- công nghệ, nhất là công nghệ cao. Có thể nói đây là con đường bắt buộc
Việt Nam phải đi qua nếu muốn phát triển nhanh và bền vững.

Việt Nam xác định đổi mới sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa học -
công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ cao là một nội dung cốt lõi của quá
trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, gắn với xây dựng quốc gia khởi
nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp, thúc đẩy phát triển nhanh - bền vững đất
nước. Đây cũng là nhân tố cốt lõi để đất nước không rơi vào “bẫy thu nhập
trung bình”. Nếu nước ta vẫn tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng theo chiều rộng,
dựa vào tăng vốn và lao động giá rẻ, tăng FDI, thiếu sự lựa chọn mang tính

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 45


chiến lược với quá nhiều ưu đãi không phù hợp, thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
chất lượng không cao, thúc đẩy tham gia vào chuỗi sản xuất - chuỗi giá trị gia
tăng toàn cầu ở những phân khúc công nghệ thấp, chủ yếu là gia công, lắp
ráp... thì hiệu quả tăng trưởng sẽ thấp và tiếp tục suy giảm(6). Sự chênh lệch
lớn về trình độ đổi mới sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ,
nhất là công nghệ cao trong một môi trường quốc tế có sự cạnh tranh gay gắt
khiến cho sự thua thiệt và yếu thế luôn nằm về phía không làm chủ được công
nghệ tiên tiến. Đây là một thách thức rất lớn đối với nước ta.

Do đó, con đường duy nhất là phải coi đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát
triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao là một đột phá
chiến lược; phải hiện thực hóa nhất quán chủ trương phát triển khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; phải cụ thể hóa bằng
các cơ chế, chính sách cụ thể đối với sự phát triển của đất nước. Đặc biệt, phải
hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi
mới sáng tạo gồm ba cơ chế: cơ chế phát triển khoa học - công nghệ hướng
vào ứng dụng (tạo cung), cơ chế phát triển kinh tế - xã hội dựa trên đổi mới
sáng tạo (tạo cầu) và cơ chế liên kết phát triển khoa học - công nghệ với phát
triển kinh tế - xã hội (liên kết cung - cầu); phải ưu tiên, tập trung đầu tư trước
một bước cho phát triển khoa học và đổi mới công nghệ. Thực hiện trên thực
tế: phát triển khoa học - công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực
quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần xác định đúng và tích cực thực
hiện đổi mới sáng tạo, thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ,
nhất là công nghệ cao, coi đây là một đột phá chiến lược. Đặc biệt, cần đặt
nhân tố con người - nguồn nhân lực chất lượng cao vào trung tâm của sự phát
triển, tạo thành “tam giác vàng: Con người  - Thể chế - Công nghệ”, bảo đảm

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 46


đồng bộ tính khả thi về khoa học - công nghệ, về kinh tế, xã hội và bảo vệ
môi trường; để khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực nền tảng, quan trọng nhất của quá
trình phát triển đất nước.

3.2 Đổi mới công nghệ

Kết quả khảo sát của VCCI năm 2016 tại 10 ngành, trong đó có 7 ngành
thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo cho thấy, có đến gần 60% doanh
nghiệp đang sử dụng các công nghệ có tuổi đời trên 6 năm.

Các công nghệ của doanh nghiệp chủ yếu từ các nước đang phát triển
(chiếm khoảng 65%), trong đó có tới 26,6% công nghệ xuất xứ từ Trung
Quốc.

Tỷ lệ các công nghệ có xuất xứ từ các nước phát triển như Mỹ, Hàn
Quốc, Nhật Bản hay EU chỉ chiếm khoảng 32%, trong đó có trên 18% là công
nghệ trước năm 2005.

Đổi mới công nghệ là đòi hỏi cấp thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế
và đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để nâng cao năng lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Rất nhiều doanh nghiệp nhận thức được vấn đề này nên đã và đang
triển khai các hoạt động đổi mới công nghệ. Để hỗ trợ các doanh nghiệp đổi
mới công nghệ, Bộ KH&CN đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ nghiên
cứu khoa học công nghệ. Tuy nhiên, một thực tế là hiện nay thị trường khoa
học công nghệ ở Việt Nam chưa thực sự phát triển để giúp doanh nghiệp có
thể tìm kiếm và mua các công nghệ hay bí quyết mà họ cần.

Theo kết quả của cuộc khảo sát đổi mới gần đây tại các công ty thuộc
dự án FIRSTNASATI, gần 85% công ty thực hiện các hoạt động nghiên cứu
và phát triển nhằm tạo ra sản phẩm mới, chỉ khoảng 14% làm việc với các
đơn vị bên ngoài để thực hiện nghiên cứu và đổi mới sản phẩm.
Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 47
Đối với đổi mới quy trình, các doanh nghiệp thực hiện chủ yếu bằng
cách đầu tư vào công nghệ mới hoặc cập nhật / xử lý công nghệ hiện tại, trong
khi hoạt động chuyển giao từ tổ chức KH&CN sang công ty rất thấp (dưới
1%).

Điều này cho thấy sự kết nối giữa các công ty (phía cầu của thị trường
KH&CN) và các viện: Trong lĩnh vực này, các nhà khoa học (phía cung) còn
rất hạn chế. Mặc dù câu chuyện “kết nối nhà khoa học với doanh nghiệp” đã
được đề cập rất nhiều trong các diễn đàn, hội thảo, nhưng dường như vẫn còn
một khoảng cách đáng kể giữa nhu cầu đổi mới công nghệ phục vụ sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và kết quả nghiên cứu khoa học của các doanh
nghiệp. . Vì vậy, vấn đề liên kết chuyển giao tri thức và kết quả nghiên cứu
giữa các nhà khoa học, viện, trường đại học cho các công ty dường như là một
yếu tố quyết định trong việc phát triển thị trường khoa học và công nghệ
nhằm nâng cao trình độ khoa học và công nghệ ở Việt Nam.

Hiện nay các mô hình tổ chức trung gian tạo cơ hội cho các nhà đầu tư
tìm kiếm các phát minh, kết quả nghiên cứu có tiềm năng thương mại trong
mọi lĩnh vực nhằm thúc đẩy chúng phục vụ mục đích phát triển.

Tuy nhiên, người đứng đầu Bộ Khoa học và Công nghệ cũng nói về
thực trạng, môi trường pháp lý cho thị trường khoa học và công nghệ hiện nay
tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đầy đủ và đạt yêu cầu như mong muốn.
Mong muốn của các bên khi tham gia vào thị trường khoa học và công nghệ,
sự kết nối giữa các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, trường đại học, các
công ty khoa học và công nghệ với nền kinh tế từ sản xuất, kinh doanh và
thương mại vẫn sẽ được duy trì.

KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ CHUNG

Qua đề tài này, vẫn còn nhiều điều phải khám phá, phát triển nói chung
và trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ giữa hai quốc gia Việt Nam

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 48


và Nhật Bản, đã có vô số thành tựu và đóng góp của Nhật Bản trong hơn hai
thập kỷ qua. Nhật Bản đối với Việt Nam, đất nước đưa Việt Nam đi vào công
cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa và nhanh chóng bắt kịp xu hướng khoa
học công nghệ toàn cầu. Hy vọng trong tương lai không chỉ gặt hái được
những thành công, Việt Nam và Nhật Bản, hai quốc gia sẽ còn tiến xa. Cùng
nhau, hai nước sẽ ngày càng tiến gần hơn đến tiến bộ về khoa học công nghệ,
đạt được nhiều thành tựu và mở ra một trang mới cho nền khoa học không chỉ
của hai nước mà trên toàn thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo Giao Thông, Hợp tác Việt - Nhật, 2015. https://mt.gov.vn/tk/tin-


tuc/37990/hop-tac-viet---nhat-tu-nhung-cong-trinh-giao-thong.aspx

2. Dự án Hầm vượt sông Sài Gòn, Wikipedia, truy cập ngày 28/11/2021.
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_h%E1%B
A%A7m_s%C3%B4ng_S%C3%A0i_G%C3%B2n

3. Tuyến Metro số 1, Wkipedia,truy cập ngày 28/11/2021.


https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%E1%BA%BFn_s%E1%BB%91_1_(%C4
%90%C6%B0%E1%BB%9Dng_s%E1%BA%AFt_%C4%91%C3%B4_th%
E1%BB%8B_Th%C3%A0nh_ph%E1%BB%91_H%E1%BB%93_Ch%C3%
AD_Minh)

4. Trần Anh Tuấn, 2021, Khái quát chung về hội nhập quốc tế trong giai
đoạn hiện nay.https://moj.gov.vn/tttp/tintuc/Pages/thuong-mai-tai
chinh.aspx?ItemID=5

5. Nguyễn Khôi, 2015, Phát triển quan hệ hợp tác khoa học và công nghệ
Việt Nam - Nhật Bản. https://nhandan.vn/tin-tuc-the-gioi/phat-trien-quan-he-
hop-tac-khoa-hoc-va-cong-nghe-viet-nam-nhat-ban-242625/
6. V. Hương, 2020, Khoa học công nghệ - “chìa khóa” bảo vệ môi trường
https://dangcongsan.vn/khoa-hoc-va-cong-nghe-voi-su-nghiep-cong-nghiep-

Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 49


hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc/diem-nhan-khoa-hoc-va-cong-nghe/khoa-hoc-
cong-nghe-chia-khoa-bao-ve-moi-truong-569884.html
7. Jica, 2021, Japan Vietnam Partnership To Date and From Now On
https://www.jica.go.jp/vietnam/office/others/pamphlet/ku57pq0000221kma-
att/Japan_Vietnam_Partnership_To_Date_and_From_Now_On_vie.pdf

KẾT THÚC



Nguyễn Tuấn Kiệt - 84012002034 50

You might also like