You are on page 1of 15

Bài 1 : bộ 144 quân

CƠ BẢN VỀ MẶT CỜ

– Loại Tứ Phong : Đông, Nam, Tây, Bắc

– Loại Tam Nguyên : Bạch Bản (hình chữ nhật rỗng viền xanh dương), Lục Phát (1 chữ Phát màu xanh
lá), Hồng Trung (chữ Trung màu đỏ).

– Loại số : gồm có 9 con Vạn, 9 con Sách, 9 con Văn (9 con tức là đếm từ 1 đến 9). Trong đó loại Vạn
thì bên dưới có 1 chữ Vạn; loại Sọc(Sách) là các gạch thẳng và con 1 Sọc là hình 1 con chim, loại Văn
là các hình tròn. Mỗi mặt cờ trong từng loại trên đều có 4 con

– Ngoài ra còn có loại Hoa mỗi bộ chỉ có chỉ có bốn quân. Thường người gọi là Hoa Xanh, Hoa Đỏ do
con số ở góc màu xanh hay màu đỏ. Điểm lý thú của hai bộ Hoa của cổ mạt chược này là bộ Hoa Xanh
tượng trưng cho Xuân Hạ Thu Đông, còn bộ Hoa Đỏ lại là Mai Lan Cúc Trúc. Các quân bài Hoa, mỗi
quân chỉ có một, vậy hai bộ Hoa có tổng cộng là 8 quân.

Như vậy trọn bộ mạt chược kiểu Hồng Kông có tổng số là 144 quân chia ra như sau:
– 36 quân hàng Vạn,
– 36 quân hàng Văn,
– 36 quân hàng Sách,
– 16 quân cho bốn gió Đông Tây Nam Bắc,
– 12 quân cho Trung Phát Bạch,
– 8 quân cho hai bộ Hoa Xanh và Hoa Đỏ.

1) Mục tiêu: Trò chơi mạt chược khi thắng, hay tới được gọi là Ù (win). Thường là bốn người ngồi
đánh với nhau, kẹt lắm thì ba người, dĩ nhiên là phải bỏ bớt một số quân cờ.
Mục tiêu khi đánh mạt chược là sắp xếp các quân cờ sao cho thành bốn Nhóm và một Đôi (tròn bài).
Mỗi người có trong tay là 13 quân cộng với quân bài Ù là 14.
Cứ hai quân bài giống y nhau là một Đôi
Nhóm có thể tạo thành do:
a) ba quân cùng hàng Vạn, hay hàng Văn, hay hàng Sách đi liền nhau như Nhất Nhị Tam VẠN, hay Nhị
Tam Tứ VẠN, hay Tứ Ngũ Lục SÁCH chẳng hạn, không được đem hàng này kết với hàng khác. Ba quân

bài đi liền nhau được gọi là XUYÊN  . Quân bài thứ ba lập thành Xuyên chỉ có thể ăn từ
Nhà Trên đánh xuống, hoặc tự bốc lấy.

b) hoặc do ba quân bài giống y nhau, còn được gọi là PHỖNG  như ba quân TỨ VẠN, ba
quân gió Đông, bà quân Hồng Trung chẳng hạn. Phỗng có thể tự bốc lấy, hoặc ăn từ bất kỳ ai đánh ra.
c) nếu đã có sẳn ba quân giống nhau trong tay (phỗng), nếu người nào đánh ra quân thứ tư, hay tự

bốc, thì có thể lập thành nhóm bốn quân CHIẾU  . Khi ấy, chớ quên phải bốc thêm
một quân bài, nơi phần bài chết – dùng để đổi khi bốc nhằm các quân Hoa. Giá trị của Chiếu chẳng
khác chi Phỗng lúc bình thường, sẽ nói thêm sau phần tính điểm.

2) Ưu tiên: khi gặp một quân bài đánh ra,


– ưu tiên thứ nhất là người có thể dùng quân bài ấy để Ù. Nếu có hai hay ba người đều cùng chờ một
quân bài để Ù, người ngôi ngay dưới được ưu tiên hơn
– ưu tiên thứ hai là người muốn dùng quân bài ấy để làm thành Phỗng hay Chiếu.
– ưu tiên để dùng quân bài làm thành Xuyên chỉ dành cho người ngồi cửa dưới mà thôi

3) Cách Tính Điểm: Đơn vị tính điểm trong mạt chược được gọi là Phán, dĩ nhiên là một ván càng
khó xảy ra lại càng được nhiều Phán. Cứ có nhiều đặc tính thì cộng chung lại.

0 Phán: một ván bài vừa tròn để Ù không có gì đặc biệt.

1 Phán: được cộng cho những đặc điểm sau:


– có 4 Xuyên trong ván bài của bạn
– đến phiên tự bốc lấy mà Ù
– bài ù do mình tự bốc lấy nhưng bài bốc là 1 trong những con bài chết
– có Hoa cùng số thứ tự với chổ ngồi (1 cho của Đông, 2 Nam, 3 Tây, Bắc 4)
– có phỗng hay chiếu cùng gió (phỗng quân Nam lúc đang ở gió Nam chẳng hạn),
– có phỗng hay chiếu cùng cửa đang ngồi, như phỏng quân Đông lúc đang ngồi cửa Đông,
– có phỗng của bất cứ cây lọai Tam Nguyên nào (Trung Phát Bạch)
– không có cây Hoa nào cũng được cộng thêm một chi,
– toàn quân bài ăn của người khác mà ù (cầu nhần),
– tất cả quân bài đều do tự bốc lấy (bất cầu nhần = concealed hand),
– bạn hoặc ai đó đang có ba quân “phỗng” trên bàn, nay bốc được quân thứ tư, nếu bạn lật lên để
thêm vào phỗng thành “chiếu” rồi bốc thêm một quân thay thế và nếu được ù thì thêm được một chi
nữa. Nhưng nếu có người nào chờ đúng quân bài thứ tư mà bạn ké theo phỗng đó, họ có quyền ù và
được thêm một chi, ngoài số điểm khác có sẳn trên tay. Cho nên khi ăn ké phỗng nên cẩn thận.

2 Phán được cộng thêm khi bài ù có :


– phỗng hay chiếu quân bài cùng gió và cùng cửa, ví dụ quân bài Đông lúc đang ngồi cửa Đông, đang
lúc ván bài ở gió Đông chẳng hạn,
– bốc lên quân bài để ù là quân bài cuối cùng (nhớ là 14 quân cuối cùng không được sử dụng),
– có bốn cây hoa cùng loại (4 hoa xanh hoặc 4 hoa đỏ).

3 Phán được cộng thêm khi bài ù :


– gồm toàn phỗng và một đôi (4 nhóm ba quân giống nhau, và một đôi),
– gồm một hàng Vạn, hay Văn, hay Sách và những cây danh dự như gió và rồng

4 Phán:
Tiểu Tam Nguyên : có hai phỗng rồng, và một đôi rồng khác, ví dụ như ba quân Trung, ba quân Phát,
hai quân Bạch và các quân bài khác
Seven pairs: 7 đôi

6 Phán được cộng thêm khi bài ù :


– bài ù gồm cùng một lọai hàng, như toàn hàng Văn chẳng hạn

Điểm tối đa(64 điểm) được cộng thêm khi bài ù:


Thiên hòa: người làm cái tròn bài với 14 quân đầu tiên, do vậy mà người ta thích làm cái, trước giờ tôi
chưa gặp lần nào. (400%: tức là điểm tối đa nhân thêm 4)
Địa hòa: ù với quân bài đầu tiên do nhà cái đánh ra (400%)
Tứ Ám Khắc: Có toàn phỗng trên tay và tự bốc ù (400%)
Đại Tam Nguyên: Bạch Bản, Lục Phát, Hồng Trung (Tam Nguyên) mỗi loại 3 con (400%)

Đại Tứ Hỉ: có đủ bốn phỗng gió Đông Nam Tây Bắc (400%)

Tiểu Tứ Hỉ: bài ù có ba phỗng gió, một đôi gió và những cây khác (400%)
Tự Nhất Sắc: Chỉ gồm có quân bài danh dự như gió và rồng (600%)
Thanh Lão Đầu: gồm toàn phỗng 1, 9 của loại nào cũng được (400%)
Cửu Liên Bảo Đăng: : trong bài quân cùng 1 loại 1->9 + 1 cặp 1 cùng loại + 1 cặp 9 cùng loại + 1 con
cùng loại bất kì (400%)

+ 1 con bất kì giống 13 con đã có trong bài


Thập Tam Chiêu: chỉ gồm quân Nhất và Cữu của mỗi hàng, cộng với một cây mỗi loại gió và rồng,
quân bài ù là một trong mười ba quân đó, tự mình bốc hay người khác đánh ra cũng được (400%)

+ 1 con bất kì giống 13 con đã có trong bài

Rồng Xanh: bài gồm 1 phỗng Lục Phát + 3 phỗng, 1 đôi của loại Sách (400%)
Rồng Đỏ: bài gồm 1 phỗng Hồng Trung + 3 phỗng, 1 đôi của loại Vạn (400%)
Rồng Trắng: bài gồm 1 phỗng Bạch Bản + 3 phỗng, 1 đôi của loại Văn (400%)

4) Chung Tiền: Trong mạt chược và các trò chơi khác, người tham dự thường qui ra thành tiền để
cuộc vui được hào hứng, có sự cố gắng tranh đấu. Vấn đề của chúng ta là giữ làm sao cho cuộc chơi
nằm trong tinh thần giải trí, đấu trí, vui đùa với nhau, thay vì biến nó thành sự sát phạt lẫn nhau.
Đúng không các bạn?!
Sau đây là thang tính từ Chi ra Điểm thông thường trong trò chơi mạt chược.

Phán
0: 1 điểm
1: 2 điểm
2: 4 điểm
3: 8 điểm
4–>6: 16 điểm
7–>9: 32 điểm
10++: 64 điểm

Thông thường, người nào tự bốc Ù, sẽ được mọi người chung gấp đôi. Còn người nào đánh ra và bị
người khác Ù sẽ phải chung gấp đôi, hai người kia chung bình thường (có nơi lại bắt người đánh ra
phải chung hết cho hai người kia, thường thấy ở Nhật). Các bạn thấy không, tự mình bốc lên Ù, bao
giờ cũng được nhiều hơn.

4. Luật Phạt: Trò chơi nào cũng có lề luật phải theo, nghĩa là ai vi phạm luật thì phải chịu phạt.

– Ù nhầm: để tránh tình trạng phá bài người khác, thường đặt ra mức phạt chung 16 điểm cho mỗi
nhà
– Chín quân báo: nếu ai ăn ra mặt chín quân cùng hàng (Vạn, Văn hay Sách) thì phải báo cho mọi
người biết mà lưu ý. Sau đó, nếu bạn mạo hiểm mà đánh ra quân bài cùng hàng, lỡ người báo ù “toàn
hàng” quân bài bạn đánh ra, bạn sẽ phải chung luôn cho hai người kia. Có một điểm đặc biệt chổ này
là lỡ có hai người báo hai hàng khác nhau, và bạn chỉ có một trong hai loại hàng đó thì sao. Luật cho
phép bạn được quyền đánh cùng hàng của người báo thứ nhì mà không bị phạt, nhưng đánh vào hàng
của người báo thứ nhất vẫn bị phạt như thường, nếu người thứ nhất ù toàn hàng. Có một điểm ly kỳ
nữa, nếu bạn đánh ra cùng hàng, người báo lại Chiếu với ba con khác trên tay, và bốc ù “toàn hàng”.
Lúc đó bạn chỉ có từ chết đến bị thương, vì phải chung tổng cộng là 6 lần số điểm tính được, chứ
không phải chỉ 4 lần như đánh ra mà người ta ù ngay.
– có một luật nữa, đôi khi áp dụng tùy thỏa thuận, là khi còn 5 quân bài để bốc cuối cùng (last five
tiles penalty), ngoài 14 quân không đụng đến ở chót, ai đánh ra quân bài lạ, không có trên bàn, nếu
có ai ù thì phải chung cho cả làng.

– đôi lúc để tránh tình trạng “Ù chạy”, sợ người khác ù ván lớn, người chơi có thể thỏa thuận là chỉ
được ù từ 1 hay 2, 3 Phán trở lên mà thôi. Nếu bài của mình dưới số Phán ấn định thì mình không
được quyền Ù, cho dù bài mình đã sẳn sàng.

– nếu lỡ đang đánh nữa chừng, mình mới khám phá ra là mình thiếu hay dư bài, thường không bị
phạt, nhưng bắt buộc phải ngồi đánh luôn, dù không được ù. Trong trường hợp này, bạn phải cố gắng
đánh sao cho không ai ù, để tránh bị chung tiền gấp đôi thế thôi.

***Đây là cách tính điểm, cách chơi theo kiểu Hong Kong.

Bài 2: bộ 160 quân


1. Thông thường, như cách đây một hai thập niên, người ta chỉ chơi một bộ khung,
nên bộ bài Mạt Chược có tất cả 160 quân bài hay 80 đôi gồm: 
Hoa và Khung,
4 bộ Hoa (mỗi bộ đánh số 1, 2, 3,4         = 16 quân
          1 bộ là Mai 梅, Lan 蘭, Cúc 菊, Trúc 竹
          1 bộ là Xuân 春, Hạ 夏, Thu 秋, Đông 冬
          1 bộ Tinh  (Vương )星
          1 bộ Hậu 后
1 bộ khung Xanh
(Tổng 縂, Văn 筒, Sách 索, Vạn 萬)          =   4 quân
                  hay Tổng, Thùng, Sọc, Màn 
1 bộ khung Đỏ
(Hoa 花, Hợp 合, Nguyên 元, Hỉ 喜)           =   4 quân 
 

 
Hàng Văn,
mỗi thứ 4 quân
(đánh số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9)             = 36 quân
hay Nhất, Nhị, Tam, Tứ, Ngũ, Lục, Thất, Bát, Cửu.. Văn 筒 
 
 
Hàng Sách,
mỗi thứ 4 quân
(đánh số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 )          = 36 quân
hay Nhất, Nhị, Tam, Tứ, Ngũ, Lục, Thất, Bát, Cửu.. Sách 索 
 

Hàng Vạn,
mỗi thứ 4 quân
(đánh số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 )         = 36 quân
hay Nhất, Nhị, Tam, Tứ, Ngũ, Lục, Thất, Bát, Cửu.. Vạn 萬 
 
Tài Phao, mỗi thứ 4 quân
(Đông, Nam, Tây, Bắc)
 

                    = 16 quân


                    hay gió, cửa, thuộc bộ Hỉ 喜

(Trung, Phát, Bạch)    = 12 quân   


 

               
                                   thuộc bộ Nguyên 元
 
2.   Chiều đánh bài là chiều ngược với kim đồng hồ, theo thứ tự Đông, Nam, Tây,
Bắc.
Chiều đánh bài
 
 
3.  Một hội gồm bốn gió, hay là gió Đông, Nam, Tây, Bắc. Hết một vòng là hết một
gió.
 
4.  Gieo súc sắc để biết ai ngồi cửa nào, ai làm cái, theo chiều đánh bài Đông, Nam,
Tây, Bắc. Nếu người làm cái ù thì lại tiếp tục làm cái nữa (thượng trương), nếu không
thì người kế tiếp làm cái. Theo thứ tự, người làm cái là cửa Đông hay cửa 1, rồi đến
cửa Nam hay cửa 2, rồi đến cửa Tây hay cửa 3, rồi đến cửa Bắc hay cửa 4. Nếu trong
một gió mà không ai thượng trương thì chỉ có 4 ván.
 
5. Bàn Mạt chược có 4 người chơi, xoa quân bài đã úp sấp cho quân được trải đều, rồi
mỗi người xếp 160/4=40 quân thành 20 đôi, bầy ngang trước mặt.
 
Như có thể xếp thành 6 hàng 7, 7, 7, 7, 6, 6 quân, rồi chồng lên thành 3 hàng 7, 7, 6
đôi, rồi nối 3 hàng này thành 20 đôi. Hoặc có thể xếp 8, 8, 8, 8, 4, 4 quân, chồng đôi
rồi nối lại, hay xếp 20, 20 quân rồi chồng đôi v..v...
 
6. Nhà Cái bao giờ cũng tính là cửa Đông, gieo súc sắc để biết lấy bài từ chỗ nào. Rồi
lấy theo thứ tự từ nhà Cái tới nhà Con mỗi người 2 đôi, rồi 2 đôi, rồi lại 2 đôi, rồi 1
quân, tất cả là 13 quân. Nhà Cái phải lấy dư 1 quân để đánh ra trước, nên thay vì lấy 1
quân cuối cùng thì lấy luôn 2 quân liền nên gọi là nhẩy cóc.
 
7. Sau khi lấy bài rồi thì chồng bài còn lại sẽ có hai đầu, đầu bên tay mặt để bốc bài
lúc bình thường, đầu phía bên kia hay tay trái để bốc bài khi có hoa hay khung dựng
lên.
 
Chiều lấy bài hay bốc bài là chiều thuận với kim đồng hồ, ngược với chiều lấy bài hay
đổi bài khi dựng hoa, hay khung, hay coong! 
 
Chiều lấy bài
 
 
 
8. Khi người bên trái mình đánh ra 1 quân, mình có thể ăn thành một phu phình nếu
có 2 quân cùng hàng, để xếp theo thứ tự liên tiếp như 1, 2, 3 hay 4, 5, 6 v..v... Thí
dụ Nhất, Nhị, Tam Vạn, hay Tứ, Ngũ, Lục Sách...
 
9. Bất cứ người nào đánh ra 1 quân, nếu mình có 2 quân giống hệt thì mình có quyền
phỗng thành một phu phỗng. Thí dụ Nhất Vạn, Nhất Vạn, Nhất Vạn, hay Đông,
Đông, Đông. Phỗng được ưu tiên với ăn, và đôi thật được ưu tiên với đôi phải dùng
khung.
 
10. Bài 13 quân chờ rồi thì ai đánh ra 1 quân, hoặc tự bốc lấy, có thể ù được nếu bài
có thể xếp như sau:
 
2 quân giống nhau làm mắt               =    2 quân
4 phu, mỗi phu có 3 quân                 =  12 quân
 
 
Các cách ù
 
11. Bài ù muỗi, nhỏ nhất không có phán nào, nếu 4 phu có cả phình lẫn phỗng:
 

 
12. Nếu 4 phu đều là phình thì ù một phán (ù phình) như bài dưới đây, khi mà Đông
không phải là cửa! Nếu Đông là cửa thì chỉ ù muỗi.
 
 
13. Nếu 4 phu toàn là phỗng thì ù ba phán (ù tui tui):
 

 
14.  Nếu 14 quân toàn là một hàng, thí dụ Vạn, thì ù toàn hàng, được 6 phán (gọi
là mủn cun) như bài dưới đây:
 

 
15.  Nếu 14 quân toàn là chữ, thí dụ Đông, Nam, Tây, Bắc, Trung, Phát, Bạch thì
ù toàn chữ, được 18 phán (ba mủn cun):
 

16.  Nếu không ăn của ai, mà tự ù lấy thì gọi là bất cầu nhần, được tính thêm 1 phán.
 
17.  Nếu chỉ chờ có 1 quân trong 1 phu hay 1 mắt mà bốc lấy được thì là ù xuyên,
thêm 1 phán.
 
18.  Bài sau đây không ăn của ai rồi khi bốc lấy được con thất Vạn, là ù xuyên (1
phán), phình (1 phán), bất cầu nhần (1 phán) : ba phán tất cả.
 
19.  Nếu không ăn của ai mà bốc được 4 phu toàn là phỗng thì ù khản khản (ba mủn,
lớn hơn rất nhiều so với cách tính ù tui tui bất cầu nhần!).
 

 
20.   Nếu có đủ 13 quân gồm  yêu (1, nhất), cửu (9) và tài phao (Trung, Phát, Bạch,
Đông, Tây, Nam, Bắc) thì chờ 13 tiếng: Con bài ? có thể là 1 trong 13 quân để thành
mắt, và như vậy là ù Thập Tam Thái Bảo (13 phán).
 

 
21.  Nếu 3 phu là 3 phỗng Trung, Phát, Bạch thì ù Đại Tam Nguyên (9 phán).
 

 
22.   Nếu 2 phu là 2 phỗng có Trung, Phát, hay Bạch, còn lại một đôi Trung, Phát, hay
Bạch làm mắt thì ù Tiểu Tam Nguyên, tính là 1 mủn (6 phán).
 
 
 
23.  Nếu 4 phu toàn là phỗng Đông, Nam, Tây, Bắc là ù Đại Tứ Hỉ, 6 mủn (36 phán):
 

 
24.  Nếu 3 phu là phỗng của 3 trong 4 con Đông, Nam, Tây, Bắc và con còn lại là môt
đôi mắt thì ùTiểu Tứ Hỉ, 4 mủn (24 phán):
 

 
Phụ Chú  
 
I. Giá trị của các khung xanh 
 
 
Tổng
縂 Tổng thay được tất cả các quân  
   
Văn (Thùng) thay được tất cả các quân
Văn 筒 Văn  
 
Sách Sách (Sọc) thay được tất cả các quân
索 Sách  
Vạn 萬 Vạn (Màn) thay được tất cả các quân Vạn  
 
 
II. Giá trị của các khung đỏ
 
 
Hoa (Đại Hoa) để dựng được thêm 2
Hoa 花 phán
Hỉ thay được các quân Đông,
Hỉ  喜 Nam,Tây, Bắc
Nguyên Nguyên thay được các quân Trung,
元 Phát, Bạch
Hợp thay được tất cả các quân Văn,
Hợp 合 Sách, Vạn
 

III. Giá trị của các bộ Hoa 


 
 
Hoa đúng cửa, như Hoa 1 cửa 1 được 1
phán
Hoa
Có 2, 3, 4 Hoa đúng cửa được thêm 2, 3,
4 phán
Bộ Hoa 
1, 2, 3, Có cả 1 bộ Hoa tính thêm 1 phán
4
Đại Hoa giá trị 2 phán

IV. Giá trị của các khung khi dựng lên


 Tổng hoặc Hợp dựng đầu được 3 phán
Có cả Tổng và Hợp dựng đầu được 9 phán
 
 
Khung đúng cửa được thêm 1  
phán  
Hỉ được 1 phán nếu không phải  
Cử là cửa 2  
Khung đỏ
a Nguyên 1 phán nếu không phải
 
là cửa 3
Hợp được 2 phán nếu không  
phải là cửa 4  
Đại Hoa Đại Hoa được 2 phán bất luận  
   
花 cửa nào
Hỉ được 2 phán nếu là cửa Nam  
Hỉ  喜 2
hay cửa 2  
Nguyên
3
Nguyên được 2 phán nếu là cửa  
元 Tây (3)  
Hợp được 3 phán nếu là cửa  
Hợp 合 4
Bắc (4)  
 
 
 
Khung đúng cửa được thêm 1
phán  
Văn được 1 phán nếu không  
Khung Cử phải là cửa 2  
xanh a Sách 1 phán nếu không phải là
 
cửa 3
Vạn được 1 phán nếu không  
phải là cửa 4  
Tổng được 2 phán bất luận cửa  
Tổng 縂  
  nào
 
Nhà cái thì được 3 phán  
Văn 筒 2
Văn được 2 phán nếu là cửa  
Nam hay cửa 2  
Sách được 2 phán nếu là cửa  
Sách 索 3
Tây (3)  
Vạn được 2 phán nếu là cửa
Vạn 萬 4  
Bắc (4)
 
 
 
Không hoa không lá (khung) ù một mủn
Không khung có thể thêm phán hay thêm mủn
Tui tui 3 phán, Tui tui không khung tính 4 phán
Toàn hàng 1 mủn, Toàn hàng không khung tính 2 mủn
Khản khản 3 mủn, Khản khản không khung 4 mủn...
  
V. Cách tính tiền
 
Tiền dùng trong lúc đánh bài gọi là sầu, đó là những đồng tiền bằng nhựa, đủ mầu và
giá trị khác nhau.  Khi tan cuộc, người ta mới đổi ra tiền thật.
 
Dùng tiền mặt, gọi là tiền tươi để chơi dễ lộ ra việc cờ bạc và sát phạt.
 
Ai đánh ra cho người ta ù thì phải giam Cái, còn 2 người kia chỉ phải giam Con.
 
Ai bốc lấy ù thì cả 3 người kia phải giam Cái.
 
Ai ù lầm quân, tính sai bài, là ù báo phải đền tiền cho mọi người.
 
Bốc nhầm quân không đúng chỗ lấy bài cũng bị phạt mất ù, tuy vẫn phải tiếp tục đánh
cho hết ván.
 
Nhà Cái khi lên bài mà ù ngay là Thiên ù, một mủn. Nhà con khi lên bài mà chờ
ngay, rồi ù ngay cây đầu tiên nhà Cái đánh ra là Địa ù, cũng một mủn.
 
Chờ mắt gọi là chờ tán tiêu, như nếu có khung Vạn thì chờ suốt hàng Vạn, con Vạn
nào cũng ù.
 
Chờ 1 quân trong phu, nếu là quân ở giữa là chờ xuyên, chờ hai đầu thí dụ đã có Tam
Vạn, Tứ Vạn thì Nhị Vạn, Ngũ Vạn ai đánh ra đều ù cả.
Nhưng nếu có khung, như có Khung Vạn và Tam Vạn thì chờ thảo mã...
ai đánh Nhất, Nhị, Tam, Tứ, Ngũ Vạn đều ù. Giả dụ như chờ mà có Khung Vạn và
Tam, Tứ, Ngũ, Lục Vạn, ai đánh Nhất, Nhị, Tam, Tứ, Ngũ , Lục, Thất, Bát Vạn đều
ù!  Tất cả hàng Vạn trừ Cửu Vạn. 
 
Giam tiền lối gấp thiếp, bảng thí dụ sau đây:
 
 
Bài ù Cái Con
Muỗi 10 10
1 phán 20 10
2 phán 40 20
3 phán 80 40
4 phán 160 80
5 phán 320 160
6 phán
640 320
(Mủn cun)
Thêm 1 phán 60 60
Plimút (Thưởng cho Mủn) 60 60
Coong
60 60
 

Lời Bàn
 

Nếu chơi hai bộ khung thì dễ ù và bài thay đổi đen đỏ chóng hơn. Với ba bộ
khung thì càng mau ù và càng phó cho may rủi nhiều nữa.
 
Chơi hai bộ khung thì có thêm 1 bộ khung xanh, 1 bộ khung đỏ, nghĩa là thêm 8 quân.
Số quân sẽ là 168, và như vậy mỗi người phải xếp 21 đôi.
Để phân biệt, chữ bộ khung thứ nhất thường khắc trong hình chữ nhật, bộ thứ nhì
trong hình tròn, bộ thứ ba có thể đóng khung quả trám...
 
Cũng có thể chơi năm người, như vậy một hội có thêm một gió Trung. Sau gió đầu,
người ở cửa Đông ra trước, thế bằng người thứ năm. Luật lệ đồng thuận lúc chơi, cách
tính phán, tính mủn và tính tiền thay đổi tùy theo nhóm... Trò chơi tuy may rủi, cao
thấp và mất thì giờ, nhưng hào hứng và có thể tiên liệu trước giới hạn được thua.
 
Đã có lúc chỉ cần 7 đôi là ù, gọi là ù pe pe. Có lẽ đôi là paire chăng?
Có chỗ cho đánh Hoa, đánh Khung. Đánh Hoa ra thì dễ làm bài không hoa không lá,
nhưng cũng coi như đánh Tổng, ai chờ rồi thì ù được và người đánh phải đền mủn
thay cho cả làng. Đánh được ba khung xanh mà thoát không bị ai bắt, người ta có thể
ù mủn mà không cần bài ra sao, nhất là không cần hết (sạch) tài phao.  Đánh thoát ba
khung đỏ thì ù mủn, nhưng lật bài ra phải sạch tài phao.
 
Trò chơi và danh từ Mạt Chược như phán, mủn, tài phao...phát xuất từ Trung Hoa.
Giới ăn chơi người Việt đã phiên âm, đổi thể thức và luật lệ cho hợp tính tình / thời
thượng. Ngôn ngữ trong bàn Mạt Chược tùy theo nhóm, được tùy tiện sáng chế. Đánh
chậm quá bị chê là 'Tiên đánh cờ". Ông "Tư lền lền" hay lên từ từ là người càng về
sau càng ù nhiều. Tin nhảm cũng vậy, như ngồi cửa 4 thường hay bị thua, gọi là cửa
tứ (tử), hay xách vali (chạy?). Với thời gian, như chơi bài hai ba bộ khung, sự tin
nhảm cũng thay đổi theo.
 
Ngày nay có rất nhiều thảo chương về Mạt Chược, mà các trung tâm trên mạng lưới
toàn cầu phổ biến trò chơi này cũng lắm, nên dựa vào đấy ta có thể tập dượt được.
Nếu ghi phần thư mục, tôi phải nói đến Bách Khoa Toàn Thư Tự Do Wikipédia, qua
những hình vẽ và Sơ đồ được Võ Đức Diễn bổ túc đã làm cho bài viết này thật sống
động.
 
Trò chơi nào cũng cần thời gian, kinh nghiệm, lâu dần chỉ sờ quân bài là có thể biết
cây gì. Đúng làvăn ôn, võ 'Mạt Chược' luyện. Bài viết này dành cho người mới tập,
còn nhiều điều cần phải bổ túc.  Riêng quân, công, cán, chánh và mọi giới Y, Nha,
Dược lẫn chuyên gia chúng ta đều có nhiều cao thủ kiện tướng, đủ để ghi thành một tự
điển danh nhân 'Mạt Chược' được. Nhưng cho rằng chơi bài người ta thường dễ để lộ
tính tình, thì không biết có thật đúng không?

You might also like