You are on page 1of 38

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

CƠ SỞ II TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TẠI TP.HCM

BÁO CÁO NHÓM

CHÍNH SÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020 VÀ ĐỊNH


HƯỚNG GIAI ĐOẠN SAU

NHÓM 4
LỚP K59D
2

BẢNG PHÂN CÔNG THÀNH VIÊN

STT Thành viên MSSV Phân công Độ hoàn thành

1 Trần Vân Anh 2011116313 Thuyết trình 100%

2 Lê Thị Bích Ngọc 2011116490 Chương 1 100%

3 Phạm Nhật Mai 2011116453 Thuyết trình 100%

4 Văn Huỳnh Mai 2011115312 Chương 3, 100%


mục 3.1

5 Trần Lã Trà My 2011116465 PowerPoint 100%

6 Hồ Trung Hiếu 2011116387 Chương 2, 100%


mục 2.3

7 Trần Thị Ngọc Duyên 2011116360 Chương 2, 100%


mục 2.1

8 Phùng Khánh Như 2011115441 Chương 2, 100%


mục 2.3

9 Hồ Nguyễn Khánh Hạ 2011115143 Chương 3, 100%


mục 3.2

10 Trần Thị Nhi 2011116513 Tổng hợp, 100%


mục lục, tài
liệu tham
khảo

11 Nguyễn Vũ Huy Hoàng 2011115186 Chương 2, 100%


mục 2.2

Danh sách gồm 11 thành viên


3

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ


1.1. Định nghĩa……………………………………………………………………....4
1.2. Vai trò và nhiệm vụ……………………………………………………………..4
1.3. Nội dung………………………………………………………………………...7
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020
2.1. Một số chính sách thuế ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020
2.1.1. Thuế xuất nhập khẩu……………………………………………………….8
2.1.2. Thuế giá trị gia tăng (GTGT)……………………………………………..12
2.1.3. Thuế thu nhập…………………………………………………………….14
2.2. Chính sách thuế trong thời kỳ dịch bệnh (2019-2020)......................................17
2.3. Kết quả đạt được
2.3.1. Thuế xuất nhập khẩu……………………………………………………...22
2.3.2. Thuế giá trị gia tăng (GTGT)……………………………………………..23
2.3.3. Thuế thu nhập…………………………………………………………….25
2.4. Ưu điểm và hạn chế
2.4.1. Ưu điểm…………………………………………………………………..27
2.4.2. Hạn chế…………………………………………………………………...29
CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH THUẾ GIAI ĐOẠN
2021-2030
3.1. Các vấn đề nóng liên quan đến chính sách thuế hiện tại
3.1.1. “Siết” thuế cho thuê nhà: Thu 10% là cao hay thấp?.................................31
3.1.2. Thuế nhập khẩu tại chỗ, doanh nghiệp dệt may “than khó”.......................32
3.2. Mục tiêu và định hướng chính sách thuế giai đoạn 2021-2030
3.2.1. Mục tiêu…………………………………………………………………..33
3.2.2. Định hướng giai đoạn 2021-2030………………………………………...34
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………..37
4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ

1.1. Định nghĩa

Chính sách thuế là tổng thể các quan điểm, chủ trương, giải pháp được cụ thể hóa
bằng các quy định trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thuế, được sử
dụng làm căn cứ để thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước về thuế.
1.2. Vai trò và nhiệm vụ

Cải cách chính sách thuế đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ nhằm khơi dậy các tiềm
năng kinh tế của kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Các cơ sở sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp mà trước đây còn gọi là
các hộ tiểu thương, tiểu thủ công nghiệp... vẫn chưa được quan tâm một cách đầy
đủ. Tuy môi trường pháp lý kinh doanh đối với khu vực kinh tế cá thể đó được thay
đổi rất nhiều, khuyến khích phát khu vực kinh tế cá thể, hộ gia đình này càng mạnh
mẽ. Nhưng Luật Doanh nghiệp 2005 vẫn chưa thực sự coi trọng việc chính thức hoá
bằng Luật đối với việc thành lập, hoạt động kinh doanh và giải thể của các cơ sở
kinh doanh cá thể. Về chính sách thuế đối kinh tế cá thể thì rất bất cập, từ trước đến
nay Nhà nước ta chủ trương ưu tiên phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản
nền kinh tế trang trại do các tiểu chủ đầu tư vào lĩnh vực này đó được quan tâm
đúng mực, sau khi bỏ thuế nông nghiệp thì bộ phận kinh tế tiểu chủ đầu tư trang trại
được hưởng chính sách miễn thuế, nhưng với kinh tế cá thể (hộ kinh doanh CTN
dịch vụ) thì không được hưởng bất kỳ ưu đãi nào. Trong cộng đồng sản xuất kinh
doanh Việt Nam, các cơ sở hộ kinh doanh cá thể không được coi là doanh nghiệp và
bị tách khỏi cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, hầu hết các chính
sách đều chủ yếu hướng tới chủ thể kinh doanh là doanh nghiệp. Do vậy, đến nay
nước ta vẫn chưa có quy hoạch, kế hoạch và chiến lược phát triển và chính sách ưu
đãi đầu tư cho kinh tế cá thể như đó thực hiện với các doanh nghiệp. Vì vậy, điều
cần thiết lúc này là chính thức hoá hơn nữa về mặt pháp lý cho các cơ sở sản xuất
kinh doanh cá thể, để từ đó xây dựng các chính sách phát triển thành phần kinh tế.
Không thể một nguồn nội lực lớn của đất nước lại thiếu chính sách để phát triển.
Bởi các cơ sở kinh doanh cá thể là tiền đề, bước đệm cho khu vực doanh nghiệp
hiện nay cũng như trong tương lai và một trong những cách đi nhanh và hiệu quả
5

nhất là tạo điều kiện để các cơ sở kinh doanh cá thể phát triển trở thành doanh
nghiệp.
Cải cách chính sách thuế đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ để chống thu nhập ngầm và
các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp trong kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Tính “ngầm” là đặc trưng khá phổ biến của nền kinh tế nước ta nói chung và của
kinh tế tư nhân VN nói riêng. Kinh tế ngầm ở ta ước tính chiếm khoảng hơn 50%
GDP chính thức; và kinh tế ngầm có xu hướng tăng lên từ khoảng 30% năm 1997
lên 51% năm 2001 trở đi. Kinh doanh ngầm với quy mô lớn và phổ biến làm cho
các doanh nhân không dám lên tiếng phản đối, tố cáo công chức nhà nước vi phạm
luật pháp; không dám phê bình, phản đối chính sách bất hợp lý, lối làm việc thiếu
trách nhiệm, thậm chí phi pháp của công chức nhà nước. Điều đó đến lượt nó tiếp
tục dung túng, nuôi dưỡng ý thức “nhờn” luật pháp, coi thường luật pháp, coi
thường kỷ cương phép nước từ cả hai phía cơ quan nhà nước và doanh nghiệp.
Kinh tế ngầm sẽ không cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác để hoạch định các
chính sách vĩ mô hợp lý; hiệu lực của các chính sách, hiệu lực quản lý nhà nước,
hiệu lực luật pháp cũng hết sức hạn chế, thậm chí bị chệch hướng, vô hiệu hóa.
Kinh tế ngầm sẽ làm cho doanh nghiệp và sản phẩm giảm năng lực cạnh tranh cả ở
tầm quốc gia, khó có thể hội nhập được với các hoạt động thương mại quốc tế để
tận dụng hết được các cơ hội có được nhờ hội nhập, và rất dễ bị ra khỏi dòng vận
động của kinh tế quốc tế, trở thành “ngoại vi” của nó. Một nền kinh tế như vậy có
nguy cơ đẩy nước ta càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác, kể cả các
nước trong khu vực.
Ngoài trình độ phát triển thấp của nền kinh tế, tính tự cung tự cấp và di sản của kế
hoạch hóa, tập trung, quan liêu trước đây, còn có một số nguyên nhân đáng lưu ý:
- Tâm lý xã hội nhìn chung vẫn chưa thiện cảm với người giàu. Vì vậy thói
quen che giấu sự giàu có, che giấu thu nhập còn khá phổ biến.
- Sự giàu lên một cách nhanh chóng đều bị đánh giá chính thức hay không
chính thức là phi pháp, hoặc là do chiếm đoạt của công, hoặc do buôn lậu,
trốn thuế...
Vấn đề là tại sao kinh tế tư nhân vẫn có xu hướng phi chính thức, ngay cả những
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế và mã số hải quan. Nói cách
6

khác, cả các doanh nghiệp “chính thức” cũng cố giấu một phần khoảng nhỏ doanh
thu và lợi nhuận. Các điều tra nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Thế giới cho thấy
luật lệ quá nhiều, quá phức tạp, không rõ ràng, được lý giải không thống nhất và
nhất quán của các cơ quan nhà nước đó là nguyên nhân trước hết của tình trạng
ngầm khá phổ biến và ở quy mô lớn trong hoạt động kinh doanh.
Cái sự ngầm còn do thuế. Thật ra thuế suất các loại ở nước ta không cao hơn nhiều
so với nhiều nước khác, nhưng mức thuế thực tế phải nộp thì thường rất cao, và
người nộp thuế không dự tính được số thuế thực tế phải nộp. Trên thực tế, cán bộ
thuế quyết định các khoản chi, mức chi hợp lý, hợp lệ và cả giá tính thuế để khấu
trừ mức thu nhập chịu thuế. Trong không ít các trường hợp cán bộ thuế ấn định mức
thuế các loại phải nộp ngay từ đầu kỳ và cuối kỳ chỉ làm các thủ tục giấy tờ “hợp
thức hóa” số thuế đã nộp mà thôi.
Cải cách chính sách thuế đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ nhằm góp phần điều tiết
thu nhập giữa các tầng lớp dân cư.
Các cơ sở kinh doanh cá thể, tiểu chủ tham gia hoạt động ở hầu hết các ngành kinh
tế quốc dân như: ngành sản xuất – dịch vụ truyền thống và cả lĩnh vực kinh doanh
mới trong nền kinh tế thị trường. Các cơ sở có mặt trên mọi vùng kinh tế, các khu
vực nông thôn và thành thị... Nếu chính sách thuế có sự thay đổi phù hợp thì chắc
chắn có ý nghĩa lớn trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và
tác đẩy phát triển nhiều mặt xã hội khác. Khảo sát của Tổng cục Thống kê cho thấy,
điểm yếu lớn nhất của các cơ sở kinh doanh cá thể là quy mô nhỏ bé và sản xuất
manh mún. Mặc dù số lượng khá đông nhưng quy mô bình quân của mỗi cơ sở khá
nhỏ, sử dụng khoảng 1,7 lao động/cơ sở, bình quân mỗi cơ sở chỉ có 43,7 triệu đồng
vốn và 31,1 triệu đồng tài sản cố định. Bên cạnh đó, trình độ lao động thấp, với hơn
92% tổng số lao động chưa qua đào tạo. Điều này đó ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động kinh doanh của các cơ sở. Tuy quy mô nhỏ và còn nhiều hạn chế nhưng
với số lượng đông nên sự đóng góp của các cơ sở cho nền kinh tế là rất đáng kể.
Hiện nay, các cơ sở đang sử dụng một lực lượng lao động lớn, tính đến tháng
10/2005 là 5,58 triệu lao động. Trung bình mỗi năm, khu vực này tạo thêm 250
ngàn chỗ là mới. Tính chung cả giai đoạn 2001 - 2005, các cơ sở đó đóng góp 1/5
trong thành tích tạo 5 triệu việc làm mới. Bên cạnh đó, các cơ sở là nơi tiếp nhận
7

một phần lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại DNNN cũng như chuyển đổi
sản xuất nông nghiệp.
Chính sách thuế còn tạo ra nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế, góp phần điều
chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững.

1.3. Nội dung

Mục tiêu của chính sách thuế: Xác định mức độ điều tiết qua thuế, những tác động
kinh tế - xã hội của thuế như thế nào và tại sao lại điều tiết ở mức độ đó cũng như
có tác động kinh tế - xã hội đó.

Phạm vi tác động của chính sách thuế: Chính sách thuế sẽ tác động đến những tổ
chức, cá nhân nào trong xã hội. Việc xác định rõ phạm vi tác động của chính sách
thuế cho phép tập trung vào những mục tiêu quan trọng của chính sách, đồng thời,
tránh được những hậu quả không mong muốn của chính sách.

Thời gian hiệu lực của chính sách: Xác định rõ chính sách thuế được áp dụng trong
thời kỳ nào, thời điểm bắt đầu và kết thúc của chính sách.

Trách nhiệm thực hiện chính sách thuế: Chỉ rõ tổ chức, cá nhân nào phải có trách
nhiệm trong thực hiện chính sách, như: cụ thể hóa chính sách thuế thành pháp luật
thuế, tổ chức thực hiện pháp luật thuế, chấp hành pháp luật thuế…

Cách thức động viên nguồn thu cho ngân sách Nhà nước qua thuế của từng thời kỳ
(động viên qua thuế trực thu hoặc thuế gián thu; động viên từ các khu vực kinh tế
khác nhau; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu… thể hiện cụ thể mục tiêu, quan điểm,
đường lối về thuế của Nhà nước).

Các định hướng phát triển hệ thống thuế: Trong các thời kỳ khác nhau thì định
hướng phát triển hệ thống thuế cũng khác nhau, điều này có chi phối đến việc
hoạch định các chính sách thuế cụ thể.
Ngoài ra, chính sách thuế có thể bao gồm các nội dung khác như: phương châm
thực hiện chính sách, bối cảnh kinh tế – xã hội ra đời chính sách với các yếu tố ảnh
hưởng cụ thể và định nghĩa các thuật ngữ sử dụng trong chính sách thuế.
8

CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH THUẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2020

2.1. Một số chính sách thuế ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020

Nhóm chúng em chọn 3 lĩnh vực thuế nổi bật để làm rõ hiệu quả chính sách thuế
giai đoạn 2011-2020, bao gồm: thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế thu
nhập.
2.1.1. Thuế xuất nhập khẩu
Trải qua 4 cuộc cải cách thuế là cải cách thuế giai đoạn 1 (1986 -1994), cải cách
thuế giai đoạn 2 (1995-2000), cải cách thuế giai đoạn 3 (2001 -2010) và mới đây là
cải cách thuế giai đoạn 2011-2020. Cải cách này đã giải quyết nhiều vấn đề về thuế
và gia tăng sức cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Đóng góp vào thu ngân của Nhà nước
Sau khi tham gia WTO và ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA), bên
cạnh những tác động tích cực như mở rộng thị trường XNK, mở rộng cơ hội cho
doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu, các FTA cũng đem lại nhiều
thách thức. Nguồn thu ngân sách đã bị ảnh hưởng đáng kể khi nhiều mặt hàng có
kim ngạch lớn, thuế suất cao phải cắt giảm thuế suất theo lộ trình cam kết trong các
FTA.
Giai đoạn 2015-2019, số thu cân đối từ hoạt động XNK tăng, tuy nhiên tốc độ tăng
không lớn .Bình quân mỗi năm số thu cân đối từ hoạt động XNK tăng trên 5%. Mức
tăng này là thấp nếu so sánh với tốc độ tăng của các nguồn thu khác. Trong những
năm qua, Việt Nam thực hiện đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và ký kết nhiều
hiệp định thương mại tự do (FTA) với cam kết giảm thuế NK theo lộ trình đối với
nhiều mặt hàng NK đã làm gia tăng lượng hàng hóa NK, kéo theo thu thuế giá trị
gia tăng đối với hàng NK cũng tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng. Mức chênh
lệch thu từ thuế GTGT so với các loại thuế khác ngày càng tăng qua các năm.
Hiện nay, Việt Nam chủ yếu đánh thuế XK đối với nguyên liệu thô và khoáng sản
khai thác chưa qua chế biến nhằm hạn chế, kiểm soát XK. Trong số các khoản thu
ngoài thuế giá trị gia tăng, thu từ thuế NK có giá trị lớn nhất. Xu hướng này phù
hợp với quy mô phát triển của nền kinh tế cũng như lượng hàng hóa NK phục vụ
sản xuất trong nước.
9

- Hỗ trợ sản xuất trong nước


Gần đây nhất, năm 2020, Hiệp định Hiệp định thương mại tự do (EVFTA) và Hiệp
định bảo hộ đầu tư EU - Việt Nam (EVIPA) chính thức được Quốc hội thông qua
với nhiều cam kết quan trọng. Ngay khi có hiệu lực, 65% hàng XK của EU sang
Việt Nam và 71% hàng NK của EU từ Việt Nam được cắt giảm thuế. Với lộ trình
thực hiện kéo dài một thập kỷ, EVFTA sẽ xóa bỏ gần 99% các dòng thuế và rào cản
thương mại giữa Việt Nam và EU. Nền sản xuất trong nước được hưởng nhiều lợi
ích từ chi phí đầu vào thấp, khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại… cũng như khả
năng gia tăng XK hàng Việt Nam sang thị trường châu Âu.

Mặc dù, số thu ngân sách nhà nước từ thuế XK, thuế NK trong tổng số nguồn thu có
xu hướng giảm xuống, tuy vậy, thuế XK, NK có những đóng góp gián tiếp khác cho
thu ngân sách nhà nước.
Chính sách miễn, giảm thuế NK đối với đầu vào phục vụ sản xuất hàng XK sẽ làm
giảm gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của hàng hóa XK
được cải thiện. Bên cạnh đó, do công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển hạn
chế, trong khi khu vực FDI chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế và trong hoạt động
XK, chính sách miễn, giảm thuế đối với nhiều loại đầu vào NK phục vụ các dự án
đầu tư cũng góp phần tích cực vào thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng
quy mô nền kinh tế, trên cơ sở đó mở rộng cơ sở thuế, tạo nguồn thu cho ngân sách
nhà nước.
- Bảo vệ các ngành sản xuất trong nước
10

Luật thuế XK, NK hiện hành đã bổ sung quy định về thuế áp dụng đối với hàng hóa
XK, NK gồm thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ gồm điều kiện
áp dụng, nguyên tắc áp dụng, thời hạn áp dụng đối với từng loại thuế. Căn cứ mức
thuế, số lượng hoặc trị giá hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế chống bán phá giá,
thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ, người khai hải quan có trách nhiệm kê khai và nộp
thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Việc áp thuế chống bán phá giá và thuế tự vệ góp phần quan trọng vào việc bảo vệ
các doanh nghiệp trong nước trước nguy cơ đe dọa của hàng hóa NK từ nước ngoài.
Phòng vệ thương mại là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ sản xuất trong nước ở bất bảo
hộ cho sản phẩm, ngành sản xuất trong nước, kiểm soát nguy cơ thao túng giá cả
trên thị trường.
- Thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường quốc tế
11

Để khuyến khích xuất khẩu, đại bộ phận hàng hàng xuất khẩu có thuế suất thuế xuất
khẩu 0%. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu đánh thuế xuất khẩu đối với nguyên liệu thô
và khoáng sản khai thác chưa qua chế biến nhằm hạn chế, kiểm soát xuất khẩu. Bên
cạnh đó, nguyên liệu, vật tư nhập khẩu cho mục đích sản xuất được miễn thuế nhập
khẩu. Chính sách thuế xuất khẩu hỗ trợ doanh nghiệp giảm gánh nặng chi phí và
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.
- Giải pháp tăng cường hiệu lực thực hiện Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Bên cạnh các kết quả tích cực nói trên, quá trình thực hiện chính sách thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu giai đoạn vừa qua cũng chỉ ra một số hạn chế cần có sự điều
chỉnh phù hợp, nhất là các quy định liên quan đến biểu thuế, phân loại, áp mã và các
vấn đề liên quan đến xuất xứ hàng hóa, nhất là ngăn chặn tình trạng hàng hóa nước
ngoài “đội lốt” hàng hóa Việt Nam để lợi dụng các ưu đãi thuế của các nước dành
cho Việt Nam trong khuôn khổ các hiệp định FTA để tăng xuất khẩu vào các thị
trường dành ưu đãi cho Việt Nam.
Hơn nữa, cần rà soát lại các quy định liên quan của pháp luật về thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống chính sách, nhất là
với các văn bản được ban hành gần đây.
● Các biện pháp tăng tăng cường hiệu lực thuế xuất nhập khẩu:
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu, đảm bảo sự thống
nhất, minh bạch của hệ thống pháp luật và phù hợp với các yêu cầu mới đặt ra từ
thực tiễn phát triển của đất nước và quá trình đẩy mạnh hội nhập, tham gia các Hiệp
định FTA thế hệ mới.
+ Hoàn thiện Nghị định quy định về biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, biểu thuế nhập
khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện Hiệp định.
+ Nâng cao năng lực điều tra, phân tích, xử lý nhanh các các vụ việc gian lận
của nhà nhập khẩu nước ngoài để có biện pháp áp thuế chống bán phá giá,
thuế tự vệ kịp thời bảo vệ các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
+ Tiếp tục hướng dẫn chi tiết, cụ thể hóa quy định về việc áp các mã mô tả và
mã hóa hàng hóa trong quá trình tính thuế.
+ Tăng cường công tác phối hợp trong quản lý để tránh tình trạng hàng hóa
nước ngoài “đội lốt” hàng hóa Việt Nam để lẩn tránh thuế, lợi dụng các ưu
12

đãi thuế của các nước dành cho Việt Nam trong khuôn khổ các hiệp định
FTA để tăng xuất khẩu vào các thị trường dành ưu đãi cho Việt Nam; bám sát
tình hình nhập khẩu vào thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài để
kiểm soát tình trạng hàng hóa mượn xuất xứ...
2.1.2. Thuế giá trị gia tăng (GTGT)
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Quyết định số
732/QĐ-TTg ngày 17/05/2011 phê duyệt chiến lược cải cách hệ thống thuế giai
đoạn 2011 - 2020 với nhiều thay đổi trong chính sách thuế.
Theo đó, thuế giá trị gia tăng ( GTGT) sẽ sửa đổi, bổ sung theo hướng giảm bớt số
lượng nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế và chịu thuế suất 5%. Đến năm
2020 có thể áp dụng cơ bản một mức thuế suất. Giảm mức thuế suất chung thuế thu
nhập doanh nghiệp theo lộ trình để thu hút đầu tư. Đối với thuế thu nhập cá nhân sẽ
sửa đổi theo hướng mở rộng cơ sở thuế và xác định rõ thu nhập chịu thuế; tính thuế
từng khoản thu nhập theo hướng đơn giản....
Chiến lược cải cách trên nhằm phấn đấu đến năm 2020 là một trong bốn nước đứng
đầu Đông Nam Á về mức độ thuận lợi về thuế, tối thiểu có 90% doanh nghiệp sử
dụng dịch vụ thuế điện tử, 100% tỉ lệ tờ khai thuế được kiểm tra tự động qua phần
mềm ứng dụng của cơ quan thuế....
● Các chính sách được áp dụng
Một là, mở rộng cơ sở thuế GTGT thông qua việc thu gọn danh mục chi tiết và quy
định cụ thể hơn. Trong đó, có sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên khoáng sản khai
thác, chưa chế biến thành sản phẩm khác (khoản 23) thu hẹp diện áp thuế 0% để
không hoàn thuế đầu vào.
Hai là, quy định mới về cơ chế vận hành đối với nhóm hàng hóa là sản phẩm trồng
trọt, chăn nuôi, thuỷ sản: Tại khâu đầu tiên sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu
thuộc đối tượng không chịu thuế, nhưng tại những khâu kinh doanh tiếp theo, các
DN, hợp tác xã có bán sản phẩm nông nghiệp theo phương pháp khấu trừ, thì không
phải kê khai, tính nộp thuế GTGT nhưng được khấu trừ GTGT đầu vào. Cách tính
thuế này đã tạo thuận lợi hơn trong lưu thông nội địa, vừa tiết kiệm được chi phí tài
chính, do không phải bỏ tiền nộp thuế trước, vừa được khấu trừ thuế đầu vào các chi
phí lưu thông làm tăng giá trị của hàng hoá nông sản...
13

Ba là, ban hành các “ ngưỡng doanh thu”. Lần đầu tiên quy định các “ngưỡng doanh
thu” để áp dụng thuế GTGT bảo đảm cho thuế GTGT của nước ta tiệm cận với
chuẩn mực quốc tế, tạo thuận lợi cho việc mở rộng cơ sở thuế đối với các hoạt động
kinh doanh mới xuất hiện trong cơ chế kinh tế thị trường, trong nền kinh tế số và
kinh tế chia sẻ.
Theo đó, cá nhân có mức doanh thu 01 năm đạt ngưỡng 100 triệu đồng trở lên thì
không phân biệt có đăng ký kinh doanh hay không có đăng ký kinh doanh đều phải
có nghĩa vụ trả thuế GTGT; đồng thời, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá
nhân (nếu doanh thu năm từ 100 triệu đồng trở xuống thì được miễn nộp các loại
thuế).
Nhờ có quy định này, khi tăng cường hợp tác với các ngân hàng thương mại, nắm
bắt số phát sinh giao dịch tài khoản cá nhân, cơ quan thuế đã có cơ sở pháp lý vững
chắc và nguồn thông tin dữ liệu xác thực để đấu tranh, truy thu hàng trăm tỷ đồng
tiền thuế của những người kinh doanh qua mạng, kinh doanh du lịch, dịch vụ trực
tuyến, kinh doanh quảng cáo, phần mềm, kinh doanh nội dung số trên các trang
mạng xã hội như báo chí đã phản ánh.
Trong quản lý thuế GTGT, các văn bản pháp luật quy định về mức ngưỡng doanh
thu năm 01 tỷ đồng, để làm cơ sở phân loại các DN được đăng ký nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ thuế hay phương pháp trực tiếp trên doanh thu. Do vậy,
các DN khởi nghiệp, DN có quy mô vừa và nhỏ, siêu nhỏ trong thời gian đầu được
lựa chọn cách nộp thuế đơn giản, tiện lợi mà Nhà nước cũng tăng thu được tiền thuế
từ các đối tượng này.
Bốn là, sửa đổi các quy định pháp luật về thuế GTGT nhằm thực hiện các chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước như: Chính sách "tam nông", khuyến khích ngư
dân ra khơi bám biển... Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 sửa đổi, bổ sung
một số điều của các luật về thuế quy định một số mặt hàng trước đây áp dụng mức
thuế suất GTGT thấp (5%), từ năm 2015 được chuyển sang đối tượng không chịu
thuế GTGT như: phân bón; máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp; tàu đánh bắt xa bờ; thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi
khác. Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016 đã bổ sung thêm nhóm hàng hóa
không được đưa vào diện chịu thuế 0%, để không hoàn thuế khi xuất khẩu sản
14

phẩm, hàng hóa có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng
chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên, góp phần thực hiện tăng cường quản lý
tài nguyên, khoáng sản.
Sự thay đổi mang tính đột phá là việc sửa đổi Luật Thuế GTGT năm 2016, theo đó
kiên quyết không hoàn thuế cho các DN đang hoạt động sản xuất kinh doanh tiêu
thụ nội địa, mà có số thuế GTGT đầu vào lũy kế 12 tháng chưa được khấu trừ hết
(số thuế GTGT đầu vào cao hơn số thuế GTGT đầu ra). Với đạo lý “Không có
GTGT thì không có số thu thuế GTGT, nhưng đã là DN thì không thể không có
GTGT”, vậy nên không phải hoàn thuế cho DN không tạo ra GTGT. Việc đề xuất
cho sự thay đổi này được đúc rút ra từ thực tiễn gần 20 năm áp dụng thuế GTGT ở
nước ta; quy định mới đã có tác động làm giảm đáng kể các DN được lập ra nhằm
trục lợi, bòn rút tiền thuế của Nhà nước.
Sửa đổi quy định về hoàn thuế GTGT góp phần giúp cho việc điều hành ngân sách
chủ động, minh bạch hơn, bảo đảm số thu thuế GTGT thực chất hơn, ngân sách
trung ương cũng bớt đi việc tài trợ không hợp lý cho ngân sách địa phương. Đối với
DN có dự án đầu tư hoặc xuất khẩu, việc thay đổi quy định về hoàn thuế cũng giúp
cho họ được chủ động hơn trước đây (vừa có nộp, vừa có hoàn), thuận lợi hơn do
bớt thủ tục và tiết kiệm được chi phí tài chính.
Việc trình ban hành các văn bản pháp luật trong giai đoạn cải cách thuế giai đoạn
2011 - 2020, được ghi nhận và đánh giá cao là: Có 01 luật sửa nội dung của nhiều
luật, 01 nghị định sửa đổi, bổ sung quy định của nhiều nghị định và đặc biệt là 01
thông tư sửa nội dung của 07 thông tư (Thông tư số 119/2014/TT-BTC). Số lần khai
nộp thuế GTGT đã giảm từ 12 lần giảm, xuống chỉ còn 4 lần mỗi năm cho hàng
trăm ngàn DN (có doanh thu năm từ 50 tỷ đồng trở xuống) khi nộp thuế GTGT theo
tháng chuyển sang khai nộp theo quý.
2.1.3. Thuế thu nhập

Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung hoàn thiện chính sách quản
lý thuế để phù hợp với yêu cầu thực tiễn của Việt Nam và thông lệ quốc tế, góp
phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Những văn bản đã ban hành có thể kể
đến như Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược Phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020 và Quyết định số
15

732/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/5/2011 phê duyệt Chiến lược cải
cách hệ thống thuế giai đoạn năm 2011- 2020.
Hệ thống chính sách thuế thu nhập hiện hành bao gồm 2 sắc thuế được ban hành
dưới dạng Luật và Luật Phí lệ phí:Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và
Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN).
Thuế trực thu ở Việt Nam, theo đúng bản chất thì hiện mới có thuế TNDN, thuế
TNCN, mặc dù mức độ đóng góp số thu thấp hơn thuế gián thu nhưng có tác động
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút vốn đầu tư, thực hiện công bằng xã hội,
góp phần kiểm soát thu nhập của các cá nhân và hạn chế tham nhũng.
- Thuế thu nhập cá nhân (TNCN)

Thuế TNCN chiếm tỷ trọng không lớn (khoảng 8,1% tổng thu NSNN, nhưng có tốc
độ tăng trưởng cao so với các sắc thuế khác (số thu về thuế TNCN năm 2016 tăng
24% so với năm 2015); năm 2017 tăng 28% so với năm 2016, dự toán thu NSNN
năm 2018 tăng 20% so với thực thu năm 2017. Tuy tăng trưởng nhanh, nhưng thất
thu về thuế TNCN, mà đặc biệt là thu nhập về chuyển nhượng bất động sản, thu
nhập của hộ cá nhân kinh doanh, trong đó có kinh doanh thương mại điện tử đang là
16

vấn đề nổi cộm, gay cấn trong công tác xác định thu nhập, quản lý thuế TNCN hiện
nay.
Luật Thuế TNCN của Việt Nam chưa làm tốt chức năng điều chỉnh (có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công nghệ cao), kể cả chính
sách và quản lý thuế. Luật hiện hành quy định thu nhập chịu thuế chưa rõ ràng,
thiếu minh bạch, bình đẳng như: Các khoản thưởng, biếu, tặng cho bằng tiền mà
không do tổ chức, cá nhân chi trả cho người làm công ăn lương thì không chịu thuế
TNCN. Quy định này tạo sơ hở luật pháp, vừa thất thu thuế vừa không kiểm soát,
đối chiếu được các khoản chi phí ngầm, tiêu cực, nhũng nhiễu. Bên cạnh đó, mức
điều tiết thuế TNCN có thuế suất khá cao so với các quốc gia, vùng lãnh thổ và
cũng cao hơn mức điều tiết thuế TNDN nên tính khả thi, tuân thủ chưa cao...
Chính sách đã được đề ra cho thuế TNCN mở rộng cơ sở thuế, bổ sung các khoản
thu nhập chịu thuế đặc biệt là quà tặng, quà biếu bằng tiền, hiện vật; các khoản thu
của cá nhân kinh doanh liên quan đến lĩnh vực kinh doanh số hóa, thương mại điện
tử. Tăng cường biện pháp quản lý các các thu nhập liên quan đến bất động sản,
doanh thu cung ứng hàng hóa dịch vụ làm cơ sở tính thuế của cá nhân kinh doanh.
Điều chỉnh giảm mức điều tiết thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công thông
qua giãn rộng khoảng cách các bậc kết hợp với điều chỉnh thuế suất, đảm bảo sự
tương quan mức điều tiết tương đương về nghĩa vụ thuế giữa thể nhân và pháp
nhân; nhằm nâng cao tính tuân thủ, khuyến khích cá nhân làm giàu hợp pháp đi đôi
với tăng cường quản lý, kiểm soát thu nhập của các tầng lớp dân cư trong toàn xã
hội.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Thuế TNDN có chức năng điều chỉnh, chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh cả
về địa bàn (có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, khu kinh tế, khu công
nghệ cao); lĩnh vực đầu tư (phát triển công nghệ, sản xuất sản phẩm phần mềm, sản
xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, BVMT; hoạt động xã hội hoá);DN sử
dụng nhiều lao động thông qua ưu đãi thuế suất, miễn giảm thuế …Tỷ trọng thuế
TNDN chiếm tỷ trọng 22,3% trong tổng thu NSNN.
Trong quá trình cải cách chính sách thuế, thuế trực thu có xu hướng giảm dần thuế
suất (thuế suất thuế TNDN đã được điều chỉnh từ 32% xuống 28%, 25%, 22% và từ
17

năm 2016 đến nay là 20%, ngoài ra còn có mức thuế suất ưu đãi là 10%, 15% và
17%; ưu đãi miễn giảm thuế. Việc ưu đãi, miễn, giảm thuế sẽ giảm thu NSNN theo
chu kỳ hiện hành nhưng số tiền thuế miễn giảm sẽ được bổ sung vào nguồn vốn để
DN tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thêm thu nhập và sẽ tăng thuế
TNDN nộp NSNN..
Chính sách thuế được đề ra cho thuế TNDN:
+ Điều chỉnh giảm mức thuế suất thuế TNDN cho DNNVV, tạo điều kiện để
DNNVV có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy để đẩy mạnh đầu tư phát
triển, nâng cao năng lực cạnh tranh; đơn giản, minh bạch hơn chính sách ưu
đãi thuế. Rà soát chính sách ưu đãi đầu tư: rút gọn các ưu đãi mang tính chất
xã hội; Tăng cường khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản
phẩm có giá trị gia tăng lớn, công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao, lĩnh vực xã
hội hóa, BVMT, sinh thái, các đại bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn, khu công nghệ cao, công nghệ tập trung…
+ Quy định về xác định doanh thu, các khoản chi phí được trừ và không được
trừ khi xác định thu nhập chịu thuế phù hợp và có tính khả thi cao hơn; bổ
sung các quy định về lĩnh vực kinh doanh mới: Về quản lý số, thương mại
điện tử; Cụ thể hóa vấn đề chống xói mòn về thuế, chuyển giá, vốn mỏng;
khắc phục tình trạng chỉ mới khống chế tỷ lệ chi phí lãi vay đối với các đơn
vị có quan hệ lên kết…
2.2. Chính sách thuế trong thời kỳ dịch bệnh (2019-2020)

Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng. Chính phủ các nước đã đưa ra nhiều giải pháp tài chính nhằm ổn
định kinh tế như sử dụng gói cứu trợ hàng nghìn tỷ, sử dụng chính sách cắt giảm
thuế, tăng chi tiêu công, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, hỗ trợ các doanh
nghiệp vay vốn lãi suất thấp… Mỗi nước áp dụng những giải pháp này trên quy mô
và mức độ khác nhau, phụ thuộc vào độ lớn những tổn thất mà dịch bệnh gây ra cho
từng nước. Trong hệ thống các giải pháp được thực hiện thì giải pháp về chính sách
thuế - một công cụ của chính sách tài khóa (CSTK). được nhiều nước tích cực sử
18

dụng trong bối cảnh sử dụng chính sách tiền tệ (CSTT) không thể mang lại nhiều
hiệu quả trực tiếp và có độ trễ nhất định.
Việt Nam đã thực hiện một số biện pháp tài chính để hỗ trợ doanh nghiệp và người
dân như đề xuất gói chính sách an sinh xã hội lên tới 61.580 tỷ đồng, tạm dừng
đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch
Covid-19, không thực hiện thanh tra chuyên ngành hoặc kiểm tra việc chấp hành
pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp năm 2020, tạm
lùi thời điểm đóng kinh phí công đoàn đến ngày 30/6/2020. Bộ Công thương triển
khai gói hỗ trợ giảm giá điện trong 3 tháng 4,5,6 với mức 10% cho các đối tượng
khách hàng sinh hoạt và sản xuất kinh doanh.
Bộ Tài chính cần xem xét các chính sách hỗ trợ khác như cắt giảm thuế, miễn thuế,
giảm chi phí với những đối tượng thích hợp.

*Ưu đãi gia hạn nộp thuế được đề cập trong Nghị định 41/2020-NĐ/CP về gia hạn
thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất, có hiệu lực từ ngày 08/04/2020.
19

Đối với thuế GTGT (trừ thuế GTGT hàng nhập khẩu), thời hạn nộp tờ khai thuế và
thời hạn nộp thuế tính như sau:

Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, người nộp thuế được gia hạn thêm 5 tháng (kể
từ ngày đến hạn nộp) đối với:

- Thuế TNDN quyết toán cho kỳ tính thuế năm 2019 (gia hạn tối đa 20% tổng
số thuế TNDN phải nộp cả năm theo quyết toán)
- Thuế TNDN tạm nộp quý 1, 2 năm 2020 (nếu đã nộp doanh nghiệp được
quyền chuyển vào các khoản mục nợ thuế khác sau khi đã lập thư tra soát
kèm chứng từ nộp thuế hoặc nội dung điều chỉnh gửi cơ quan thuế)

Lưu ý: Chi nhánh, đơn vị trực thuộc các doanh nghiệp nêu trên được gia hạn nộp
thuế tương tự đơn vị chủ quản của mình.

Đối với tiền thuê đất, các đơn vị thuộc đối tượng hưởng ưu đãi gia hạn thời hạn nộp
tiền thuê đất đối với số phí thuê phải nộp kỳ đầu năm 2020 là 5 tháng (kể từ
31/05/2020).

Đối với thuế thu nhập cá nhân, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh được gia hạn số
thuế TNCN phải nộp trong năm 2020 tối đa đến ngày 31/12/2020.

Đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sản xuất kinh doanh trên nhiều
lĩnh vực (có bao gồm các lĩnh vực được ưu đãi gia hạn thuế): số thuế được gia hạn
là toàn bộ số thuế GTGT, TNDN (đối với doanh nghiệp, tổ chức) và thuế GTGT,
TNCN (đối với cá nhân, hộ gia đình) phải nộp.

* Ưu đãi miễn giảm số thuế phải nộp


20

Doanh nghiệp được hưởng ưu đãi giảm 30% số thuế TNDN phải nộp trong kỳ tính
thuế năm 2020 khi thuộc một trong các đối tượng sau:

- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam;
- Tổ chức được thành lập theo luật Hợp tác xã;
- Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam;
- Tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam có phát
sinh thu nhập.

Về số thuế được giảm: doanh nghiệp có tổng doanh thu trong kỳ tính thuế năm 2020
không quá 200 tỷ đồng được giảm 30% số thuế TNDN phải nộp (số thuế được giảm
tính trên số thuế phải nộp đã được trừ đi các khoản ưu đãi thuế khác theo quy định
hiện hành).

Lưu ý: doanh nghiệp được giảm thuế cho kỳ tính thuế năm 2020. Trường hợp năm
tài chính của doanh nghiệp khác với năm dương lịch, doanh nghiệp xác định kỳ tính
thuế thu nhập doanh nghiệp theo năm tài chính áp dụng quy định tại Luật Thuế thu
nhập doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Lệ phí môn bài: Chính phủ vừa cho ban hành Nghị định 22/2020-NĐ/CP ngày 24
tháng 02 năm 2020, sửa đổi bổ sung cho Nghị định 139/2016-NĐ/CP điều chỉnh về
đối tượng được miễn giảm lệ phí môn bài, trong đó ngoại trừ các đối tượng được
miễn nộp lệ phí môn bài, các đối tượng thuộc các trường hợp sau được miễn lệ phí
môn bài trong năm đầu thành lập hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh (từ 01/01 đến
31/12), bao gồm:

- Tổ chức thành lập mới (doanh nghiệp mới thành lập, được cấp mã số thuế
mới);
- Hộ gia đình, cá nhân nhóm cá nhân lần đầu ra hoạt động sản xuất kinh
doanh;
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, nhóm cá nhân đang được miễn lệ phí môn bài
mà thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh trong thời
gian đó thì thì chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh mới được
miễn lệ phí môn bài trong cùng khoảng thời gian với đối tượng thành lập;
- Cơ sở giáo dục phổ thông công lập và mầm non công lập.
21

Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển từ hộ kinh doanh:

- Doanh nghiệp được miễn lệ phí môn bài trong vòng 3 năm kể từ ngày được
cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu.
- Trong thời gian được miễn lệ phí môn bài mà thành lập chi nhánh, văn phòng
đại diện, địa điểm kinh doanh: được miễn tương tự như cơ quan chủ quản.
Trường hợp các đơn vị này được thành lập trước ngày 24/02/2020: miễn lệ
phí môn bài tính từ ngày 24/02/2020 tính đến hết thời điểm doanh nghiệp
được miễn.

2.3. Kết quả đạt được

Khi đánh giá về Chiến lược cải cách thuế 2011-2020, Cục Thuế cho rằng Việt Nam
đã xây dựng được hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu
quả và phù hợp với hệ thống kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mức khuyến khích
hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước là một trong những phương
thức điều hành kinh tế vĩ mô hiệu quả của Đảng và của đất nước.
Bên cạnh đó, Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 đã hình thành,
xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; quản lý thuế và phí
thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, dựa trên ba cơ sở nền tảng
minh bạch thể chế chính sách thuế, thủ tục quản lý và thu thuế đơn giản, khoa học
và tiêu chuẩn quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng và liêm chính; ứng dụng công
nghệ thông tin hiện đại với mức độ kết nối, hội nhập và tự động hóa cao.
Hoạt động quản lý thuế cũng được hiện đại hoá cho phù hợp với các quy định mới
về thuế. Luật Quản lý thuế được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao tính minh bạch và
liêm chính của Tổng cục Thuế. Luật này đã tạo khung pháp lý để đảm bảo sự tuân
thủ thuế của khu vực tư nhân đang phát triển mạnh và ngăn ngừa lạm dụng quyền
lực của cán bộ thuế.
Trong những năm qua, hệ thống chính sách thuế được hoàn thiện theo hướng giảm
mức điều tiết, mở rộng diện chịu thuế nên hầu hết các sắc thuế đã thực hiện tốt chức
năng điều tiết thu nhập của doanh nghiệp và dân cư. Đặc biệt, các luật thuế giá trị
gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, Pháp lệnh thuế thu
nhập cá nhân được sửa đổi, bổ sung đã góp phần mở rộng, khuyến khích đầu tư,
22

khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong nước.
2.3.1. Thuế xuất nhập khẩu
Với thuế sắc này, các nội dung được triển khai đồng bộ, toàn diện từ năm 2011 đến
nay, bao gồm:
- Rà soát các dòng thuế đối với từng mặt hàng để đưa vào biểu thuế áp dụng
cho từng khu vực theo quy định. lộ trình cam kết trong các hiệp định thương
mại tự do (FTA).
- Đàm phán và ký kết các FTA, chú trọng các FTA thế hệ mới để mở rộng thị
trường quốc tế.
- Sửa đổi các quy định pháp luật liên quan đến chính sách quản lý hàng hóa,
hàng rào kỹ thuật và các biện pháp phòng vệ hợp lý.
- Sửa đổi Luật Thuế xuất nhập khẩu và Luật Hải quan nhằm tạo thuận lợi cho
việc mở cửa thị trường; đồng thời với việc bảo hộ các ngành sản xuất trong
nước một cách hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn và có điều kiện.

Việc ban hành Luật Thuế xuất nhập khẩu đã tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ trong
hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng thực hiện chính sách đối ngoại rộng
mở; thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hạn chế xuất khẩu tài nguyên,
khoáng sản thô, khuyến khích đầu tư công nghệ để nâng cao giá trị sản phẩm chế
biến. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu hàng năm theo cam kết trong các hiệp định
thương mại song phương và đa phương đã đưa thuế suất bình quân theo nguyên tắc
tối huệ quốc (MFN) từ 17,4% (năm 2010) xuống còn 10,4% (năm 2015), vừa bảo
đảm thực hiện bảo hộ hợp lý, dứt điểm, có điều kiện, lộ trình vừa góp phần điều
chỉnh bền vững hơn cơ cấu thu ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, Quốc hội đã phê chuẩn Hiệp định FTA Việt Nam - EU (EVFTA), nội
dung của Luật Thuế xuất nhập khẩu đảm bảo cho cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam được hưởng lợi từ việc mở rộng thị trường xuất khẩu, nhưng cũng tạo áp lực
sắp xếp lại sản xuất trong nước, đổi mới công nghệ, thay đổi tư duy quản lý ... Đồng
thời tác động đến sự thay đổi cơ cấu thu NSNN khi cắt giảm thuế trên diện rộng.
23

2.3.2. Thuế giá trị gia tăng (GTGT)

Thuế GTGT có thể coi như được sửa đổi, bổ sung nhiều nhất trong 10 năm qua với
các mục tiêu chủ yếu: mở rộng cơ sở thuế; chính sách rõ ràng, minh bạch, góp phần
hạn chế gian lận, trục lợi, từ đó tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng; tạo
thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp và người nộp thuế, giảm chi phí tuân thủ và chi
phí quản lý. Những kết quả tiêu biểu mà chính sách về thuế giá trị gia tăng đã đạt
được qua giai đoạn này như sau:

- Mở rộng cơ sở thuế GTGT thông qua việc thu hẹp danh mục chi tiết và quy
định cụ thể, chặt chẽ hơn đối với nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế
GTGT quy định tại Điều 5 Luật thuế GTGT (các khoản 4, 7, 7, 8, 11, 15, 17,
23 và 25). Trong đó, có mặt hàng xuất khẩu là tài nguyên khoáng sản khai
thác chưa chế biến thành sản phẩm khác (Khoản 23) thu hẹp diện thuế về 0%
để không được hoàn thuế đầu vào.
- Quy định mới về cơ chế vận hành đối với nhóm hàng hóa là sản phẩm trồng
trọt, chăn nuôi, thuỷ sản: Tại khâu đầu tiên sản xuất trong nước hoặc nhập
khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế, nhưng tại những khâu kinh doanh tiếp
theo, các DN, hợp tác xã có bán sản phẩm nông nghiệp theo phương pháp
khấu trừ, thì không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT nhưng được khấu trừ
GTGT đầu vào. Cách tính thuế này đã tạo thuận lợi hơn trong lưu thông nội
địa, vừa tiết kiệm được chi phí tài chính, do không phải bỏ tiền nộp thuế
trước, vừa được khấu trừ thuế đầu vào các chi phí lưu thông làm tăng giá trị
của hàng hoá nông sản…
- Lần đầu tiên quy định các “ngưỡng doanh thu” để áp dụng thuế GTGT bảo
đảm cho thuế GTGT của nước ta tiệm cận với chuẩn mực quốc tế, tạo ra lợi
thế mở rộng cơ sở thuế đối với các hoạt động kinh doanh mới trong cơ chế
kinh tế thị trường, trong nền kinh tế số và kinh tế chia sẻ. Điển hình như việc
nhờ có quy định ngưỡng doanh thu chịu thuế 100 triệu đồng, khi tăng cường
hợp tác với các ngân hàng thương mại, nắm bắt số phát sinh giao dịch tài
khoản cá nhân, cơ quan thuế đã có cơ sở pháp lý vững chắc cũng như nguồn
thông tin dữ liệu xác thực để đấu tranh, truy thu hàng trăm tỷ đồng tiền thuế
24

của những người kinh doanh qua mạng, kinh doanh du lịch, dịch vụ trực
tuyến, kinh doanh quảng cáo, phần mềm, kinh doanh nội dung số trên các
trang mạng xã hội như đã được phản ánh qua báo chí. Các DN khởi nghiệp,
DN có quy mô vừa và nhỏ, siêu nhỏ trong thời gian đầu được lựa chọn cách
nộp thuế đơn giản, tiện lợi mà Nhà nước cũng tăng thu được tiền thuế từ các
đối tượng này.
- Sửa đổi các quy định pháp luật về thuế GTGT hướng tới thực hiện các chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước có thể kể đến: Chính sách "tam nông"
nhằm khuyến khích ngư dân ra khơi bám biển... Luật số 71/2014/QH13 ngày
26/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế quy định một
số mặt hàng trước đây áp dụng mức thuế suất GTGT thấp (5%), từ năm 2015
được chuyển sang đối tượng không chịu thuế GTGT như: phân bón; máy
móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; tàu đánh bắt xa
bờ; thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác.
- Sự thay đổi mang tính đột phá nhất là việc sửa đổi Luật Thuế GTGT năm
2016, theo đó kiên quyết không hoàn thuế cho các DN đang hoạt động sản
xuất kinh doanh tiêu thụ nội địa, mà có số thuế GTGT đầu vào lũy kế 12
tháng chưa được khấu trừ hết (số thuế GTGT đầu vào cao hơn số thuế GTGT
đầu ra). Việc đề xuất cho sự thay đổi này được đúc rút ra từ thực tiễn gần 20
năm áp dụng thuế GTGT ở nước ta; quy định mới đã có tác động giảm số
lượng các DN được lập ra nhằm trục lợi, bòn rút tiền thuế của Nhà nước.
- Sửa đổi quy định về hoàn thuế GTGT góp phần giúp cho việc điều hành
ngân sách chủ động, minh bạch hơn, bảo đảm số thu thuế GTGT phản ánh
được thực tế, ngân sách trung ương đồng thời giảm lượng tài trợ không hợp
lý cho ngân sách địa phương.Với những doanh nghiệp có dự án đầu tư hoặc
xuất khẩu, việc thay đổi quy định về hoàn thuế cũng giúp cho họ được chủ
động hơn trước đây, bớt đi những thủ tục đồng thời tiết kiệm phần nào chi
phí tài chính.
- Việc trình ban hành các văn bản pháp luật trong giai đoạn cải cách thuế giai
đoạn 2011 - 2020, được đánh giá cao ở điểm có 01 luật sửa nội dung của
nhiều luật, 01 nghị định sửa đổi, bổ sung quy định của nhiều nghị định và
25

đặc biệt là 01 thông tư sửa nội dung của 07 thông tư (Thông tư số


119/2014/TT-BTC). Qua đó, số lần khai nộp thuế GTGT đã giảm từ 12 lần
giảm, xuống chỉ còn 4 lần mỗi năm cho rất nhiều doanh nghiệp khi nộp thuế
GTGT theo tháng chuyển sang khai nộp theo quý.

Song song với tiếp tục hoàn thuế nhanh cho xuất khẩu, thuận lợi cho đầu tư thì có
thể thấy rõ những quy định về điều kiện hoàn thuế, khấu trừ thuế được chặt chẽ
hơn, hợp lý hơn trong khi vừa có tác động ngăn chặn các hành vi gian lận thuế và
tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, khuyến khích xuất khẩu và đầu tư
cũng như bảo đảm quản lý hiệu quả nguồn thu.

2.3.3. Thuế thu nhập

Thuế thu nhập doanh nghiệp:

- Qua giai đoạn ban hành và thực hiện, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp
của Việt Nam đã chủ động chỉnh sửa, thay đổi và hoàn thiện, tạo môi trường
đầu tư hấp dẫn, đảm bảo bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, dần tiếp cận
với toàn bộ thông lệ quốc tế, phục vụ tích cực và trực tiếp cho quá trình hội
nhập chung của đất nước và tạo điều kiện thu hút đầu tư từ nước ngoài. Thực
tế cho thấy, số thu từ thuế TNDN đã có sự tăng trưởng mạnh trong những
năm gần đây. Mặc dù nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn do ảnh
hưởng của nhiều yếu tố trong và ngoài nước nhưng số thu NSNN về thuế
TNDN vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN.
- Thuế TNDN đã điều tiết được hầu hết các khoản thu nhập từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh; Số thu về thuế TNDN tăng trưởng hàng năm và chiếm tỷ
trọng khoảng 15 % trong tổng thu thuế và phí, từ đó tạo nguồn thu lớn, tập
trung và ngày càng ổn định cho ngân sách nhà nước, góp phần bù đắp số
giảm thu về thuế xuất nhập khẩu do phải thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu
theo cam kết quốc tế.
- Bên cạnh những kết quả đạt được, do sự biến động nhanh của nền kinh tế
nên một số quy định trong chính sách thuế chưa theo kịp sự vận động của
thực tiễn trong nước cũng như xu hướng chung về cải cách chính sách thuế
26

TNDN trên thế giới. Vì vậy, để đảm bảo chính sách thuế TNDN ngày càng
phù hợp hơn với thực tiễn cũng như thông lệ quốc tế, việc cải cách chính
sách thuế TNDN ở Việt Nam đã tập trung vào vấn đề lớn sau: Từng bước hạ
thuế suất theo lộ trình rõ ràng để đảm bảo giảm mức thu nhằm thu hút đầu tư,
khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh.Việt Nam đã từng bước giảm
thuế suất thuế TNDN phổ thông qua các lần sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Thuế TNDN theo đúng lộ trình đề ra, giảm từ 28% (trước năm 2009)
xuống 25% (từ 01/01/2009), xuống 22% (từ 01/01/2013) và xuống 20% (từ
01/01/2016). Riêng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được áp dụng thuế
suất 20% ngay từ 01/7/2013. Việc giảm thuế suất thuế TNDN phổ thông tuy
làm giảm đáng kể nghĩa vụ đóng góp của nhiều doanh nghiệp, nhưng đã có
tác động khuyến khích kinh doanh và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tăng
tích lũy, tăng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng. Luật thuế TNDN hiện hành quy
định thống nhất một mức thuế suất phổ thông nhìn chung phù hợp với thực tẻ
thời gian qua và là mức trung bình trong khu vực.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp ban hành đã cơ bản khắc phục được những tồn
tại của thuế thu nhập. Phạm vi giám sát của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
được mở rộng áp dụng cho cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các
chủ thể khác như công ty nước ngoài kinh doanh thông qua cơ sở thường trú
tại Việt Nam, hộ nông dân, cá nhân độc lập ...; hợp lý chi phí được điều tiết
phù hợp với thông lệ quốc tế Rõ ràng là phù hợp hơn với điều kiện của nền
kinh tế thị trường. Một số thu nhập nhất định có thể tạo ra trong nền kinh tế
thị trường cần phải đánh thuế bổ sung; xóa bỏ phân biệt thuế suất không phù
hợp giữa các ngành và lĩnh vực công nghiệp, áp dụng thống nhất thuế suất và
điều chỉnh chặt chẽ với thuế suất chung của thuế thu nhập doanh nghiệp thế
giới; cải tiến và áp dụng nhiều hình thức ưu đãi thuế , cắt giảm thuế và các
biện pháp giảm thuế nhằm khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước
tăng cường đầu tư vào khu vực.

Thuế thu nhập cá nhân:


27

- Nghiên cứu mở rộng cơ sở tính thuế, làm rõ thu nhập chịu thuế ... để sửa đổi,
bổ sung, nâng cao tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác chịu thuế điều chỉnh số thuế phù hợp với thu nhập
chịu thuế và thỏa thuận với người nộp thuế cơ bản.
- Các hoạt động hoặc các hoạt động tương tự nhằm đảm bảo sự công bằng về
nghĩa vụ thuế giữa thể nhân và pháp nhân (doanh nghiệp); điều chỉnh hợp lý
mức thuế suất để khuyến khích, động viên cá nhân làm giàu hợp pháp.
- Các quy luật khách quan được phát huy tác dụng một cách tối đa trong cơ
chế thị trường, dẫn đến tình trạng phân cực đối lập nhau khi một bên là thiểu
số người giàu có thu nhập cao còn đại bộ phận dân cư chỉ đạt được mức tăng
thu nhập rất nhỏ. Tình trạng trên không chỉ nói lên mức sống bị phân biệt mà
còn liên quan đến đạo đức và công bằng xã hội. Mà thực sự sự phát triển
kinh tế - xã hội về mọi mặt của một quốc gia là kết quả của nỗ lực cộng
đồng. Cho nên sự can thiệp, điều tiết của nhà nước là đặc biệt hữu ích, trong
đó thuế là một công cụ có vai trò quan trọng. Việc điều hòa thu nhập xã hội
trong thực hiện cải cách chính sách thuế 2011-2020 phần nào được thúc đẩy
thông qua thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân. Thuế đánh cao vào những
hàng hóa - dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của các công ty, cá
nhân có thu nhập cao so với bình quân xã hội.

2.4. Ưu điểm và hạn chế

2.4.1. Ưu điểm
Cải cách hệ thống thuế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 nối tiếp những thành công
từ ba cuộc cải cách trước đó phát huy vai trò là một công cụ để điều tiết nền kinh tế
hiệu quả và khắc phục những vấn đề trước đó. Những cải cách của ngành Thuế
trong giai đoạn này đã để lại nhiều dấu ấn nổi bật đối với công tác quản lý và làm
hài lòng những cá nhân, doanh nghiệp tham gia đóng thuế.
Điểm vượt trội đầu tiên của chính sách thuế giai đoạn này là đã thể hiện được sự
chủ động, tích cực trong việc thực hiện những biện pháp cải cách, cập nhật những
thay đổi của nền kinh tế trong nước và quốc tế để phù hợp với bối cảnh thế giới hiện
28

đại hơn. Chẳng hạn như Luật thuế GTGT đã được cập nhật vào năm 2013 và 2016
cụ thể hóa các quy định để đảm bảo dễ thực hiện cho người nộp thuế và cơ quan
quản lý thuế. Công tác quản lý thuế cũng được thay đổi để rút ngắn thời gian, giảm
chi phí thủ tục, và ứng dụng công nghệ để thu thuế điện tử, bổ sung các quy định về
hóa đơn điện tử, hóa đơn điện tử có mã xác thực của cơ quan thuế. Điều này giúp
cho các cá nhân và doanh nghiệp khai thuế và nộp thuế dễ dàng, hài lòng với các
dịch vụ mà cơ quan thuế cung cấp.
Một điểm sáng khác trong đợt cải cách hệ thống thuế lần này chính là xây dựng
được hệ thống thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng và hiệu quả. Không chỉ hoàn
thiện những phần nội dung chính trong các luật thuế, ngành Thuế còn chú trọng
nâng cao chất lượng các dịch vụ liên quan đến thuế khác như khai thuế, nộp thuế,
hoàn thuế, xử lý giấy tờ, hồ sơ bằng cách liên thông với các cơ quan nhà nước có
liên quan (cơ quan đăng ký kinh doanh, ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc, hải
quan,...), đồng thời áp dụng quản lý rủi ro trong các công tác quản lý thuế, chuẩn
hóa thông tin trên toàn quốc nhằm hoàn thiện cơ sở dữ liệu. Nhờ vào công tác quản
lý thuế tiến bộ, hiệu quả, tổng số thu nộp ngân sách từ thuế đã đảm bảo được tính
hợp lý về cơ cấu nguồn thu, mức độ điều tiết và tốc độ tăng trưởng, mang lại nguồn
thu thường xuyên và ổn định cho ngân sách nhà nước.
Bên cạnh việc tạo lập một hệ thống thuế bền vững lâu dài, trong giai đoạn 10 năm
thực hiện chính sách thuế mới, ngành Thuế Việt Nam vẫn thể hiện được sự linh hoạt
trong việc thay đổi các quy định về thuế để phù hợp với tình hình kinh tế cấp thiết.
Đặc biệt vào cuối giai đoạn cải cách hệ thống thuế lần 4, khi dịch bệnh Covid-19
tấn công toàn cầu, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ một số Nghị định, chủ động
triển khai các giải pháp về thuế, phí, tháo gỡ khó khăn cho người dân và các doanh
nghiệp. Cụ thể hơn, trong năm 2020, các Nghị định và Thông tư được ban hành để
sửa đổi 31 Thông tư thu phí, lệ phí hiện hành theo hướng miễn hoặc giảm mức thu
nhiều khoản phí, lệ phí có hiệu lực đến hết năm 2020. Khi nhận thấy dịch bệnh vẫn
còn diễn biến phức tạp, 29 loại thuế, phí đã được xem xét gia hạn, điều chỉnh giảm
với mức giảm từ 50 - 100%.
Chính nhờ những điểm vượt trội, sáng tạo, chủ động trong các đề xuất thay đổi, bổ
sung chính sách thuế và thực hiện các chính sách đó trong giai đoạn 2011 - 2020 đã
29

giúp ngành Thuế đạt được những chỉ tiêu đề ra, đưa các doanh nghiệp vượt qua khó
khăn sau cuộc khủng hoảng tài chính, dịch bệnh và những bất ổn khác trên thế giới.
Tất cả những nét đột phá trong quá trình cải cách thuế nói trên đã khẳng định được
sự vững vàng, tiến bộ, hiệu quả, hiện đại của hệ thống thuế Việt Nam và được cộng
đồng doanh nghiệp, người dân và xã hội đánh giá cao.
2.4.2. Hạn chế
Bên cạnh những bước tiến mới mẻ trong chiến lược cải cách thuế giai đoạn
2011-2020, thực tiễn áp dụng các luật thuế mới vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc
trong các điều luật và cách quản lý cũng như tính thuế. Một số vấn đề chính đặt ra
với chính sách thuế giai đoạn này phải kể đến:
Một là, hiện nay vẫn chưa có quy định thống nhất về vấn đề đánh thuế hay không,
phải đánh loại thuế nào và mức thuế là gì trong một số trường hợp bất cập. Điển
hình như các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và làm đẹp đắt tiền, các cuộc giao dịch sản
phẩm phái sinh, và một số nghiệp vụ, giao dịch khác mà bản chất của nó vẫn chưa
được định rõ hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau. Chẳng hạn như với loại hình dịch
vụ là spa vẫn chưa được phân định một cách rõ ràng để đánh thuế GTGT với dịch
vụ chăm sóc sức khỏe, vật lý trị liệu hay để áp thuế tiêu thụ đặc biệt và GTGT với
dịch vụ massage. Đối với những nghiệp vụ có bản chất khó định thuế như nghiệp vụ
thư tín dụng (L/C) có thể thuộc diện miễn thuế hoặc chịu thuế 10% phụ thuộc vào
hai góc độ khác nhau.

Hai là, cần nghiên cứu để sớm cập nhật các quy định áp thuế GTGT đối với những
trường hợp đang gây khó khăn cho sản xuất nội địa, giảm sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp. Trong trường hợp của các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng là đầu
vào của nông nghiệp được chuyển sang diện không chịu thuế, mặc dù chính sách
này sẽ giúp khuyến khích phát triển nông nghiệp, quan tâm đến nông dân, nhưng
các doanh nghiệp cũng đồng thời bị giảm sức cạnh tranh trên cả hai phương diện.
Một mặt, các doanh nghiệp sản xuất thuốc trừ sâu, phân bón, máy móc thiết bị phục
vụ sản xuất nông nghiệp phải vừa chịu áp lực giảm giá để cạnh tranh với hàng nhập
khẩu nông nghiệp cũng thuộc dạng miễn thuế, vừa phải xoay sở chi phí các nguyên
30

vật liệu đầu vào vẫn bị đánh thuế. Vấn đề cũng tiếp tục xảy ra với các doanh nghiệp
xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ…

Ba là, vấn đề quản lý thuế luôn được chú trọng quan tâm cải thiện, nhưng thời đại
hội nhập toàn cầu và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tiếp tục đặt ra thách thức cho
quá trình quản lý thuế, đặc biệt là thuế quốc tế đối với Việt Nam. Sự xuất hiện của
các giao dịch điện tử và xuyên biên giới đòi hỏi các quốc gia, không chỉ riêng Việt
Nam, phải thay đổi và bổ sung một số khái niệm mới và phối hợp với nhau để thu
thuế với những dịch vụ đặc biệt này. Ngoài ra, ngày càng có nhiều loại hình kinh
doanh mới nổi lên như kinh doanh nhờ các trang mạng xã hội Google, Facebook,
Youtube,... cũng gây khó khăn cho việc đánh thuế thu nhập vì chính sách thuế hiện
hành vẫn chưa phân biệt rõ ràng giữa các loại hình kinh doanh truyền thống và
thương mại điện tử.

Bốn là, nhiều vướng mắc phát sinh từ việc thực hiện thuế xuất nhập khẩu vì thuế
suất có nhiều mức nên việc phân loại và áp mã thuế sẽ khó khăn hơn. Bên cạnh đó,
các chính sách ưu đãi và miễn thuế đối với các dự án phân chia theo phạm vi địa
bàn, ngành nghề và lĩnh vực được đầu tư cần rà soát lại, sửa đổi và bổ sung để kịp
thời cập nhật hoàn cảnh phát triển kinh tế của đất nước, và cũng để khuyến khích
thu hút dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước. Để thuận tiện hơn cho công tác quản
lý cũng như đảm bảo tính minh bạch, công khai, tránh những thủ thuật gian lận
trong cả quá trình kiểm soát thuế, các chính sách hiện hành cần được xem xét điều
chỉnh theo hướng trả trước hoàn sau đối với việc miễn thuế cho các loại hàng hóa
nguyên, nhiên liệu, vật tư và thiết bị, linh kiện nhập khẩu để phục vụ cho việc gia
công, sản xuất.

Nhìn chung, cải cách chính sách thuế là một chiến lược cần thiết để củng cố lại hệ
thống thuế theo tình hình phát triển kinh tế hiện tại và cập nhật, bổ sung, sửa đổi
những nội dung quan trọng. Trong giai đoạn 10 năm cải cách chính sách thuế 2011 -
2020, các luật về thuế đã được thay đổi nhằm bao quát các nguồn thu, khắc phục
các bất cập ở giai đoạn trước và tiếp tục là một công cụ đắc lực của Đảng và Nhà
31

nước để điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới luôn không
ngừng thay đổi, chính sách thuế vẫn bộc lộ những thiếu sót và bất cập gây trở ngại
cho các doanh nghiệp cũng như cho các cơ quan quản lý.

CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH THUẾ GIAI ĐOẠN


2021-2030

3.1. Các vấn đề nóng liên quan đến chính sách thuế hiện tại

3.1.1. “Siết” thuế cho thuê nhà: Thu 10% là cao hay thấp?

Việc Cục Thuế TP Hà Nội yêu cầu siết chặt quản lý chống thất thu thuế với hoạt
động cho thuê nhà, văn phòng đã thu hút sự quan tâm của cộng đồng mạng tuần
qua.

Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là hai thành phố lớn, có hoạt động cho thuê nhà nhiều
nhất cả nước, tập trung vào loại hình cho thuê nhà phố, biệt thự, chung cư. Việc
thuê nhà là những hợp đồng dân sự, do vậy một số trường hợp người thuê và người
cho thuê đã thỏa thuận với nhau để lách luật, không kê khai thuế, đưa giá thuê
xuống thấp để "né" thuế.

Để tăng cường công tác quản lý, mới đây, Cục Thuế TP Hà Nội có công văn chỉ đạo
các chi cục thuế quận, huyện, thị xã tăng cường phối hợp, siết chặt quản lý, chống
thất thu thuế đối với hoạt động cho thuê căn hộ, văn phòng, mặt bằng kinh doanh
trên địa bàn. Đây cũng là câu chuyện nhận được rất nhiều sự quan tâm của cộng
đồng mạng trong tuần qua.

Theo quy định hiện nay, nếu doanh thu từ hoạt động cho thuê nhà dưới 100 triệu
đồng/năm thì người cho thuê được miễn thuế. Với trường hợp có doanh thu trên 100
triệu đồng/năm, tổng số thuế phải nộp là 10% doanh thu. Trong đó, 5% là thuế giá
trị gia tăng và 5% còn lại là thuế thu nhập cá nhân. Đa phần các quan điểm đều cho
rằng, việc đóng thuế cho nhà nước là yêu cầu bắt buộc với tất cả những ai có kinh
doanh, doanh thu, thu nhập trên lãnh thổ Việt Nam, để đảm bảo một môi trường
kinh doanh công bằng.
32

Tuy ủng hộ, nhưng nhiều cư dân mạng cũng cho rằng, hoạt động cho thuê nhà của
cá nhân hiện nay phải đóng mức thuế suất cao nhất lên đến 10%, so với nhiều loại
hình kinh doanh dịch vụ khác (dao động từ 4,5% đến 7%).

Nếu so sánh với việc gửi tiền tiết kiệm ngân hàng không phải chịu thuế, việc cá
nhân bỏ nhiều tỷ đồng để đầu tư bất động sản cho thuê, phải chịu thuế 10% mà
không được trừ bất kỳ khoản chi phí nào là chưa hợp lý. Do vậy, cần có một mức
thuế hợp lý đối với hình thức kinh doanh này.

Tổng cục Thuế cho biết đang nghiên cứu để đề xuất với Bộ Tài chính, xem xét báo
cáo Chính phủ, trình Quốc hội nâng ngưỡng doanh thu chịu thuế đối với hoạt động
cho thuê nhà. Lý do là vì mức này chưa được điều chỉnh trong suốt một thời gian
dài. Tuy nhiên, tăng lên bao nhiêu, còn cần phải tính toán cho phù hợp với thực tế.

3.1.2. Thuế nhập khẩu tại chỗ, doanh nghiệp dệt may “than khó”

Doanh nghiệp đã gặp khó khăn khi phải bố trí một lượng tiền lớn để nộp thuế trước,
sau khi sản phẩm xuất khẩu xong lại phải bỏ nhiều thời gian để hoàn thuế,

Nhằm ngăn ngừa tình trạng giả xuất khẩu để được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu
đầu vào, Nghị định 18/2021 đã yêu cầu các doanh nghiệp dệt may phải ứng trước
tiền nộp thuế khi nhập khẩu nguyên liệu từ các khu chế xuất trong nước, sau khi
xuất khẩu sản phẩm sẽ được hoàn lại khoản thuế này.

Tuy nhiên, sau hơn 1 tháng áp dụng đã phát sinh nhiều bất cập, làm tăng gánh nặng
tài chính cho doanh nghiệp. Hiệp hội Dệt may (Vitas) đã gửi văn bản kiến nghị
nhằm tháo gỡ vướng mắc cho các doanh nghiệp, khu chế xuất trong nước.

Một doanh nghiệp cho biết, ngay khi điền tờ khai nhập khẩu tại chỗ để thu mua
nguyên liệu từ các khu chế xuất trong nước, doanh nghiệp phải ứng trước 12% tổng
giá trị đơn hàng nguyên liệu vải và 20 - 40% với phụ liệu tùy loại để nộp thuế.

Thuế phải nộp ngay nhưng thời gian hoàn thuế lại kéo dài cả năm khiến doanh
nghiệp bị đọng vốn. Một số doanh nghiệp cho biết họ còn phải vay lãi ngân hàng để
33

nộp. Bất cập hơn, khi Hiệp hội Dệt may còn cho rằng quy định trên gây ra sự bất
bình đẳng giữa doanh nghiệp sản xuất thành phẩm FOB và doanh nghiệp gia công.

Hiệp hội Dệt may kiến nghị sửa đổi quy định cho phép miễn thuế nhập khẩu với
hàng nhập là nguyên liệu tại các khu chế xuất trong nước để sản xuất hàng xuất
khẩu, nhằm khuyến khích doanh nghiệp chuyển sang phương thức xuất khẩu mua
đứt bán đoạn (FOB) thay vì gia công, nhằm đem lại giá trị gia tăng cao hơn cho dệt
may Việt Nam.

Đại diện Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính cũng cho biết, hiện đang ghi nhận các
kiến nghị của doanh nghiệp và sẽ xem xét sau một thời gian nữa bởi Nghị định mới
triển khai được hơn 1 tháng.

3.2. Mục tiêu và định hướng chính sách thuế giai đoạn 2021-2030

3.2.1. Mục tiêu


Lãnh đạo Tổng cục Thuế cho biết, Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn
2021-2030 hướng đến 2 mục tiêu là: Đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế để
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng ngành Thuế Việt Nam
hiện đại, tập trung, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Để đạt được 2 mục tiêu này, việc cải cách phải đảm bảo tính ổn định, bền vững về
quy mô nguồn lực, có mức động viên hợp lý các nguồn lực cho ngân sách Nhà nước
(NSNN), góp phần thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội
nhập, phát triển của nền kinh tế.

Trong đó, cần tập trung triển khai thành 2 giai đoạn gồm: Giai đoạn 2021-2025 và
giai đoạn 2026-2030, nhằm đảm bảo thực hiện đúng các mục tiêu đề ra, tạo tiền đề
để ngành Thuế triển khai thắng lợi toàn bộ Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai
đoạn 2021-2030 với các mục tiêu tổng quát sau:

Thứ nhất, đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế để thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội, trong đó đảm bảo tính ổn định, bền vững của quy mô nguồn
34

lực; Có mức động viên hợp lý các nguồn lực cho NSNN góp phần thiết lập môi
trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế.

Thứ hai, xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, tập trung, tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch,
chuyên sâu, chuyên nghiệp theo phương pháp quản lý rủi ro, đồng thời dựa trên nền
tảng thuế điện tử và ba trụ cột cơ bản: Thể chế quản lý thuế đầy đủ, đồng bộ, hiện
đại, hội nhập; Nguồn nhân lực chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới; Công nghệ
thông tin hiện đại, tích hợp, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong bối cảnh kinh tế số.
3.2.2. Định hướng giai đoạn 2021-2030

Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 và Chiến lược tài chính
giai đoạn 2021-2030, Bộ Tài chính xây dựng Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai
đoạn 2021-2030 theo hướng sửa đổi, bổ sung các sắc thuế kết hợp với việc mở rộng
cơ sở thuế nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo hướng đồng bộ, thống
nhất, công bằng, hiệu quả, đơn giản, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, bao quát được các
khoản thu phát sinh trong nền kinh tế

Các sắc thuế sẽ có những điều chỉnh nhưng phạm vi tác động đến thu ngân sách nhà
nước không quá lớn, tỷ lệ thu từ các sắc thuế trực thu theo xu hướng giữ nguyên
hoặc điều chỉnh giảm; Thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giảm do thực hiện các
Hiệp định thương mại và tập trung cải thiện số thu từ các sắc thuế gián thu khác.

Cụ thể:

- Đối với thuế giá trị gia tăng: 

Mở rộng cơ sở thuế thông qua giảm nhóm hàng hóa dịch vụ không chịu thuế giá trị
gia tăng và nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 5%; nâng
mức thuế suất 5% lên theo lộ trình mỗi năm tăng 1% từ ngày 1/1/2023 trở đi; tiến
tới áp dụng cơ bản một mức thuế suất thống nhất là 10%; rà soát điều chỉnh ngưỡng
doanh thu áp dụng phương pháp khấu trừ cho phù hợp với thực tế và cho phép
người nộp thuế có doanh thu dưới ngưỡng được lựa chọn mức thuế trên doanh thu
35

(2% hoặc 3%) hoặc nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ nếu người
nộp thuế chứng minh được với cơ quan thuế là sổ sách kế toán đạt yêu cầu. Sửa đổi,
bổ sung các quy định về khấu trừ, hoàn thuế theo hướng tạo điều kiện phát triển sản
xuất kinh doanh cho người nộp thuế, đồng thời hạn chế gian lận tiền hoàn thuế,
khấu trừ thuế không đúng quy định.

- Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt: 

Rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để hướng
dẫn điều tiết tiêu dùng phù hợp với sự dịch chuyển về xu hướng tiêu dùng trong xã
hội cũng như định hướng của nhà nước; xây dựng lộ trình điều chỉnh tăng thuế đối
với các mặt hàng thuốc lá, bia rượu, để hạn chế sản xuất tiêu dùng và thực hiện các
cam kết quốc tế; rà soát nghiên cứu điều chỉnh thuế suất một số mặt hàng để phù
hợp với điều kiện kinh tế, xã hội giai đoạn 2021-2030; nghiên cứu áp dụng kết hợp
giữa thuế suất theo tỷ lệ và thuế tuyệt đối đối với một số hàng hóa, dịch vụ chịu
thuế.

- Đối với thuế xuất - nhập khẩu: 

Tiếp tục thu gọn số lượng mức thuế suất để đơn giản biểu thuế nhập khẩu từ 32 mức
xuống còn 25 mức vào năm 2025 và 20 mức vào năm 2030; Rà soát quy định về
hàng hoá xuất khẩu tại chỗ và các hoạt động trong khu phi thuế quan để đưa ra
chính sách phù hợp, tránh gian lận thương mại; Rà soát sửa đổi, bổ sung chính sách
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích gia tăng giá trị
nội địa của sản phẩm xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô chưa
qua chế biến; Có chính sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ
doanh nghiệp phát triển trong các ngành công nghiệp mũi nhọn và công nghiệp phụ
trợ; Rà soát chính sách ưu đãi về miễn, giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để đảm
bảo phù hợp với các định hướng phát triển kinh tế xã hội của nhà nước trong từng
thời kỳ và các cam kết quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

- Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp:


36

Rà soát để loại bỏ ưu đãi miễn, giảm thuế không còn phù hợp với yêu cầu phát
triển, yêu cầu hội nhập quốc tế; hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội với
chính sách miễn, giảm thuế, đảm bảo tính trung lập của thuế; thực hiện ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nhằm nuôi dưỡng và
tạo nguồn thu ổn định trong tương lai. Ban hành quy định về vốn mỏng dựa trên
một tỷ lệ vốn vay trên vốn chủ sở hữu; chế độ khấu hao tài sản cố định được đơn
giản hoá dựa trên cơ sở chia nhóm tài sản cố định và tính theo tỷ lệ % đối với nhóm
đó. Mở rộng cơ sở thuế phù hợp thông lệ quốc tế; thực hiện các tiêu chuẩn phòng,
chống chuyển giá, chống xói mòn nguồn thu.

- Đối với thuế thu nhập cá nhân: 

Rà soát bổ sung đối tượng chịu thuế; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng điều
chỉnh số lượng mức thuế suất, tỷ lệ thuế suất phù hợp với thu nhập chịu thuế;
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung miễn, giảm thuế phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội;
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng cơ sở thuế phù hợp thông lệ quốc
tế đối với các khoản thu của cá nhân (liên quan đến lĩnh vực kinh doanh số hoá,
thương mại điện tử, xác định giá tính thuế theo đúng với bản chất kinh tế...); Đơn
giản trong xác định thu nhập chịu thuế, quyết toán thuế để tạo thuận lợi cho cả
người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế; Ngăn chặn các hành vi trốn, tránh thuế.

- Đối với thuế tài nguyên: 

Nghiên cứu sửa đổi quy định giá tính thuế tài nguyên, sản lượng tài nguyên tính
thuế; Sửa đổi nguyên tắc khai, nộp đối với thuế tài nguyên; Sửa đổi khung và mức
thuế tài nguyên theo hướng minh bạch, rõ ràng, phù hợp với thực tế, đảm bảo chính
sách thuế tài nguyên tiếp tục là công cụ hữu hiệu để góp phần quản lý, bảo vệ tài
nguyên, khuyến khích sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, khuyến khích chế
biến sâu, nâng cao giá trị tài nguyên.

- Đối với các loại thuế liên quan đến tài sản:

Tiếp tục thực hiện miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2025 để
góp phần thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp,
37

nông dân, nông thôn. Hoàn thiện chính sách thuế liên quan đến tài sản theo hướng
tăng mức điều tiết đối với đất và thu thuế đối với nhà và một số tài sản khác nhằm
khuyến khích sử dụng nhà, đất, tài sản có hiệu quả, góp phần hạn chế đầu cơ nhà,
đất, đảm bảo động viên nguồn thu hợp lý, ổn định cho ngân sách nhà nước, bảo đảm
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đồng thời xây dựng chính sách thuế theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ xác định số
thuế phải nộp.

Bên cạnh đó, tập trung nghiên cứu xây dựng khoản thu hoặc thuế đối với các hoạt
động, hình thức kinh doanh mới phù hợp với thực tế phát triển, đảm bảo quyền thu,
đánh thuế của Nhà nước, phù hợp với thông lệ quốc tế. Rà soát, hoàn thiện chính
sách về thu khác thuộc ngân sách nhà nước phù hợp với thực tế và đồng bộ với pháp
luật chuyên ngành.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo điện tử VTV News, 2021, “Siết” thuế cho thuê nhà: 10% là cao hay thấp?
https://vtv.vn/kinh-te/siet-thue-cho-thue-nha-thu-10-la-cao-hay-thap-2021052910
1051693.htm
2. Báo điện tử VTV News, 2021, Thuế nhập khẩu tại chỗ, doanh nghiệp dệt may
“than khó”
https://vtv.vn/kinh-te/thue-nhap-khau-tai-cho-doanh-nghiep-det-may-than-kho-20
210607153826467.htm
3. Tạp chí tài chính, 2020, Cải cách thuế gián thu giai đoạn 2011-2020 và khuyến
nghị cho các giai đoạn tiếp theo
https://tapchitaichinh.vn/co-che-chinh-sach/cai-cach-thue-gian-thu-giai-doan-20
112020-va-khuyen-nghi-cho-giai-doan-tiep-theo-330946.html
4. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hệ
thống thuế
https://dangcongsan.vn/kinh-te-va-hoi-nhap/tiep-tuc-day-manh-cai-cach-he-thon
g-thue-578447.html
5. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính, 2017, Thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt
Nam: Những kết quả đạt được và một số kế hoạch hoàn thiện
38

https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/r/m/ncvtd/ncvtd_chitiet?dID=9
1756&dDocName=MOFUCM121020&_adf.ctrl-state=6wtwmorww_4&_afrLoo
p=2363139847373940#%40%3FdID%3D91756%26_afrLoop%3D23631398473
73940%26dDocName%3DMOFUCM121020%26_adf.ctrl-state%3D14aiwkv6e3
_4
6. Tổng cục thống kê, 2021, Xây dựng chính sách thuế phù hợp với tình hình dịch
bệnh
https://www.gso.gov.vn/tin-tuc-khac/2021/03/xay-dung-chinh-sach-thue-phu-hop-
voi-tinh-hinh-dich-benh/
7. Website Thuế Bảo Việt 2011
8. Website Tài chính online 2020
9. Hoa Tiêu tri thức, 2019, Chính sách thuế là gì?
https://ditiep.com/chinh-sach-thue-la-gi/?fbclid=IwAR3LRcL2JxC1RwQV09og8
U6q3hDjSGFMb3U0vhmeo0EmHKX7VhokSxe-Sv8
10. Trung tâm bồi dưỡng đại biểu dân cử, 2016, Tổng quan về thuế và chính
sách thuế
http://tailieu.ttbd.gov.vn:8080/index.php/tin-tuc/tin-tuc-ho-tro-boi-duong/item/76
1-tong-quan-ve-thue-va-cac-chinh-sach-thue
11. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính, 2021, Xây dựng, hoàn thiện hệ thống
chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng và hiệu quả
https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/r/m/ttsk/dtn/ttskdtn_chitiet?dD
ocName=MOFUCM201034&_adf.ctrl-state=c0nl5tq2i_64&_afrLoop=2364014
989323589#%40%3F_afrLoop%3D2364014989323589%26dDocName%3DMO
FUCM201034%26_adf.ctrl-state%3D14aiwkv6e3_29
12. Thanh tra, 2021, Bước đi hiện đại hóa toàn diện ngành Thuế
https://thanhtra.com.vn/kinh-te/tai-chinh-ngan-hang/buoc-di-hien-dai-hoa-toan-
dien-nganh-thue-180854.html

You might also like