You are on page 1of 22

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA : LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ

QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ BIỂU HIỆN CỦA


NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Hà Nội năm 2020


1
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 5

NỘI DUNG .................................................................................................... 6

Chương 1: Những lý luận về học thuyết giá trị và vai trò của nó trong
nền kinh tế thị trường ................................................................................ 6

1.1. Quy luật giá trị ............................................................................... 6

1.1.1. Nội dung của quy luật giá trị ...................................................................... 6

1.1.2. Hình thức của quy luật giá trị ..................................................................... 7

1.1.3. Yêu cầu của quy luật giá trị......................................................................... 7

1.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do
cạnh tranh và trong điều kiện độc quyền............................................... 8

1.2.1. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do
cạnh tranh ........................................................................................................................... 8

1.2.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện độc
quyền... ................................................................................................................................ 9

1.3. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ............. 9

1.3.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá ............................................... 10

1.3.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng
suất lao động. ................................................................................................................. 11

1.3.3. Phân hoá những người sản xuất hàng hoá nhỏ, làm nảy sinh quan
hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa. ..................................................................................... 12

1.4. Tính chất của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ...................... 12
3
Chương 2: Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời
gian qua và một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị ở
nước ta trong thời gian tới ....................................................................... 14

2.1.1. Từ năm 1986 trở về trước (thời kỳ bao cấp) ..................................... 14

2.1.2. Sau năm 1986 đến nay (thời gian sau thời kỳ đổi mới) ................ 15

2.2. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật ở nước ta
trong thời gian tới.................................................................................. 18

2.2.1. Đầu tư vào việc nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học
công nghệ. ....................................................................................................................... 18

2.2.2. Lưu thông hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của
Việt Nam. ........................................................................................................................ 19

KẾT LUẬN .................................................................................................. 21

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 22

4
LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, do đó những kiến thức, khái niệm, phạm trù, quy luật... của
kinh tế chính trị đưa ra là cực kỳ cần thiết cho việc quản lý sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư.

Trong đó, quy luật giá trị là một quy luật căn bản của sản xuất và trao
đổi hàng hoá. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và
phát phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Vì vậy qua tìm hiểu chung về tình
hình thực tế của nền kinh tế thị trường và em quyết định lựa chọn đề tài:

“Quy luật giá trị và vai trò của nó trong phát triển kinh tế thị trường ở nước
ta” vì nó là một quy luật giúp điều tiết và lưu thông hàng hoá, kích thích cải
tiến kĩ thuật hợp lý hoá sản xuất.

Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo
viên bộ môn kinh tế chính trị đã giúp em hoàn thiện đề tài tiểu luận này.

5
NỘI DUNG
Chương 1: Những lý luận về học thuyết giá trị và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường
1.1. Quy luật giá trị
1.1.1. Nội dung của quy luật giá trị

Trong nền kinh tế hàng hoá, hàng hoá và dịchvụ do các doanh nghiệp,
những người sản xuất hàng hoá tư nhân, riêng lẻ sản xuất ra. Những chủ thể
sản xuất hàng hoá cạnh tranh với nhau. Mỗi người sản xuất hàng hoá đều nghĩ
đến cách chen lấn người khác, đều muốn giữ vững và mở rộng thêm địa vị của
mình trên thị trường. Mỗi người đều tự mình sản xuất không phụ thuộc vào
người khác, nhưng trên thị trường những người sản xuất hàng hoá là bình
đẳng với nhau. Sản xuất hàng hoá càng phát triển thì quyền lực của thị trường
đối với người sản xuất hàng hoá càng mạnh. Nói như thế có nghĩa là trong nền
kinh tế hàng hoá có những quy luật kinh tế ràng buộc và chi phối hoạt động
của những người sản xuất hàng hoá.

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu
thông hàng hoá.

Quy luật giá trị quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải căn cứ
vào hao phí lao động xã hội cần thiết.

Qui định ấy là khách quan, đảm bảo sự công bằng hợp lý, bình đẳng
giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị buộc những
người sản xuất và trao đổi hàng hoá phải tuân theo "mệnh lệnh" của giá cả thị
trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt
động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống một cách tự phát xoay

6
quanh giá trị hàng hoá và biểu hiện sự tác động của quy luật giá trị trong điều
kiện sản xuất và trao đổi hàng hoá.

1.1.2. Hình thức của quy luật giá trị

Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn: sản phẩm làm ra, trao đổi với
mục đích là để thoả mãn nhu cầu cá nhân.Vì vậy, lưu thông và buôn bán
không phải là mục đích chính của người sản xuất.

Trong nền sản xuất hàng hoá TBCN: Hàng hoá được làm ra không đơn
thuần để trao đổi mà còn để buôn bán và lưu thông.

Giá trị hàng hoá biểu hiện ra bằng tiền được gọi là giá cả hàng hoá.
Trong nền kinh tế XHCN, tiền tệ cũng dùng làm tiêu chuẩn giá cả.

Tuỳ vào từng giai đoạn mà quy luật giá trị có các hình thức chuyển hoá
khác nhau. Trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, quy luật giá trị chuyển
hoá thành quy luật giá cả sản xuất. Trong giai đoạn CNTB độc quyền, quy luật
giá trị chuyển hoá thành quy luật giá cả độc quyền cao.

1.1.3. Yêu cầu của quy luật giá trị

Yêu cầu chung: sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở thời
gian lao động xã hội cần thiết.

Yêu cầu cụ thể: Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất tự
quyết định hao phí lao động cá biệt của mình nhưng giá trị của hàng hoá
không phải được quyết định bởi hao phí lao động của từng người sản xuất
hàng hoá, mà bởi hao phí lao động xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được
hàng hoá, bù đắp được chi phí và có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm
cho hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức chi phí xã hội chấp

7
nhận được. Trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã
hội cần thiết có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.

Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng
hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.
Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Trên thị
trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố: Cạnh tranh, cung
cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả
của hàng hoá trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục
giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường xoay quanh trục giá trị của nó
chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá
cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.

1.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh
tranh và trong điều kiện độc quyền
1.2.1. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh
tranh

Tự do cạnh tranh là tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành


khác, tức là tự phát phân phối tư bản (C và v) vào các ngành sản xuất khác
nhau nên hình thành tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Trong cạnh tranh có sự
ganh đua đấu tranh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa
những người sản xuất với những người tiêu dùng hàng hoá dịch vụ nhằm dành
được những điều kiện thuận lợi, trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có sự
khác nhau về điều kiện sản xuất nên chi phí lao động cá biệt của sản xuất hàng
hoá có sự khác nhau, để dành được các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm phải cạnh tranh nhau nhưng các điều kiện thuận lợi trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm luôn biến động nên cạnh tranh diễn ra liên tục.

8
Do đó trong tự do cạnh tranh quy luật giá trị được biểu hiện thành quy luật giá
cả sản xuất.

1.2.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện độc quyền

Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá
cả độc quyền: giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán..
Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và phủ định cơ sở của nó là
giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua
là chiếm đoạt một phần giá trị của những người khác. Nếu xem xét trong toàn
bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số giá
trị. Như vậy trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị biểu hiện thành
quy luật giá cả độc quyền.

Giá cả độc quyền bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền.
Giá cả độc quyền thường cao hơn giá trị của hàng hoá. Do nắm được vai trò
độc quyền trong một ngành sản xuất nhất định nên tập đoàn có thể tự ý quyết
định giá bán trên thị trường, nhờ đó mà thu được lợi nhuận độc quyền.

Lợi nhuận độc quyền bằng lợi nhuận bình quân cộng với một số lợi
nhuận khác do địa vị thống trị của các tập đoàn độc quyền. Khi trình độ xã hội
hoá của lực lượng sản xuất đã vượt khỏi giới hạn điều tiết của cơ chế thị
trường và độc quyền tư nhân thì tất yếu đòi hỏi phải được bổ sung bằng sự
điều tiết của Nhà nước. Cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc
quyền Nhà nước là sử dụng hợp cả ba cơ chế: thị trường, độc quyền tư nhân
và điều tiết của Nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực
trong cơ chế.

1.3. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường

9
Như đã biết quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá quy luật giá trị có
những tác dụng sau đây:

1.3.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá


Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu thường xảy ra tình
hình: người sản xuất bỏ ngành này, đổ xô vào ngành khác; tư liệu sản xuất và
sức lao động xã hội được chuyển từ ngành này sang ngành khác, quy mô sản
xuất của ngành này thu hẹp lại thì ngành kia lại mở rộng ra với tốc độ nhanh
chóng. Chính quy luật giá trị đã gây ra những hiện tượng đó, đã điều tiết việc
sản xuất trong xã hội. Muốn hiểu rõ vấn đề này, cần xem xét những trường
hợp thường xảy ra trên thị trường hàng hoá:

- Giá cả nhất trí với giá trị;


- Giá cả cao hơn giá trị;
- Giá cả thấp hơn giá trị.
Trường hợp thứ nhất nói lên cung và cầu trên thị trường nhất trí với
nhau, sản xuất vừa khớp với nhu cầu của xã hội.
Trường hợp thứ hai nói lên cung ít hơn cầu, sản xuất không thoả mãn
được nhu cầu của xã hội nên hàng hoá bán chạy và lãi cao. Do đó, những
người sản xuất loại hàng hoá đó sẽ mở rộng sản xuất; nhiều người trước kia
sản xuất loại hàng hoá khác cũng chuyển sang sản xuất loại này. Tình hình đó
làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển vào ngành này nhiều
hơn các ngành khác.

Trường hợp thứ ba chỉ rõ cung cao hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều
so với nhu cầu xã hội, hàng hoá bán không chạy và bị lỗ vốn. Tình hình đó
buộc một số người sản xuất ở ngành này phải rút bớt vốn chuyển sang ngành
khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này.
10
Như vậy là theo "mệnh lệnh" của giá cả thị trường lúc lên, lúc xuống
xoay quanh giá trị mà có sự di chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động từ
ngành này sang ngành khác, do đó quy mô sản xuất của ngành đó mở rộng.
Việc điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động trong từng lúc có xu hướng phù
hợp với yêu cầu của xã hội, tạo nên những tỷ lệ cân đối nhất định giữa các
ngành sản xuất. Đó là biểu hiện vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.
Nhưng sản xuất trong điều kiện chế độ tư hữu, cạnh tranh, vô chính phủ nên
những tỷ lệ cân đối hình thành một cách tự phát đó chỉ là hiện tượng tạm thời
và thường xuyên bị phá vỡ, gây ra những lãng phí to lớn về của cải xã hội.

Quy luật giá trị không chỉ điều tiết sản xuất mà điều tiết cả lưu thông
hàng hoá. Giá cả của hàng hoá hình thành một cách tự phát theo quan hệ cung
cầu. Cung và cầu có ảnh hưởng đến giá cả, nhưng giá cả cũng có tác dụng
khơi thêm luồng hàng, thu hút luồng hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Vì
thế, lưu thông hàng hoá cũng do quy luật giá trị điều tiết thông qua sự lên
xuống của giá cả xoay quanh giá trị.

1.3.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động.
Các hàng hoá được sản xuất trong những điều kiện khác nhau nên có
giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường đều phải trao đổi theo giá trị xã
hội. Người sản xuất nào có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội
thì có lợi; trái lại, người có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội sẽ ở thế bất lợi,
có thể bị phá sản. Để tránh bị phá sản và giành ưu thế trong cạnh tranh, mỗi
người sản xuất hàng hoá đều tìm cách giảm giá trị cá biệt hàng hoá của mình
xuống dưới mức giá trị xã hội bằng cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất
để tăng năng suất lao động. Lúc đầu, chỉ có kỹ thuật của một số cá nhân được

11
cải tiến, về sau do cạnh tranh nên kỹ thuật của toàn xã hội được cải tiến. Như
thế là quy luật giá trị đã thúc đẩy lực lượng sản xuất và sản xuất phát triển.

1.3.3. Phân hoá những người sản xuất hàng hoá nhỏ, làm nảy sinh quan hệ
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, sự tác động của quy luật giá trị
dẫn đến kết quả là một số ít người mở rộng dần kinh doanh, thuê nhân công và
trở thành nhà tư bản, còn một số lớn người khác bị phá sản dần, trở thành
những người lao động làm thuê. Thế là sự hoạt động của quy luật giá trị dẫn
tới hệ phân hoá những người sản xuất hàng hoá, làm cho quan hễ tư bản chủ
nghĩa phát sinh. Lênin nói "… nền tiểu sản xuất thì từng ngày, từng giờ, luôn
luôn đẻ ra chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, một cách tự phát và trên quy
mô rộng lớn".

Trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, quy luật giá trị cũng tác
động hoàn toàn tự phát "sau lưng" người sản xuất, hoàn toàn ngoài ý muốn
của nhà tư bản. Chỉ trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị, con người mới có thể nhận thức và vận
dụng quy luật giá trị một cách có ý thức để phục vụ lợi ích của mình.

1.4. Tính chất của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường, mặt khác
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do
đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng riêng.

Thứ nhất, về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường. Mục tiêu hàng đầu
của nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước
12
và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện
từng bước đời sống nhân dân.

Thứ hai, nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Thứ ba, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực
hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập,trong đó lấy phân phối theo lao động
là chủ yếu.

Thứ tư, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước xã hội chủ nghĩa.Vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa
là hết sức quan trọng. Nó bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt kết
quả cao, đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội.

Thứ năm, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là
nền kinh tế mở, hội nhập. Chỉ có như vậy mới thu hút vốn, kỹ thuật, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và
thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực để xây dựng và phát triển
kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.

13
Chương 2: Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta
trong thời gian qua và một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn
quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới
2.1. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian
qua
2.1.1. Từ năm 1986 trở về trước (thời kỳ bao cấp)

Nhà nước điều khiển nền kinh tế bằng hệ thống pháp lệnh về số lượng,
về thu nhập, về nộp ngân sách, về vốn và lãi suất tín dụng… Giá cả do Nhà
nước quyết định. Thực chất cũng là một chỉ tiêu pháp lệnh, mà giá cả lại là
biểu hiện của quy luật giá trị. Chính vì vậy có thể nói trong thời kỳ này quy
luật giá trị được áp dụng một cách cứng nhắc, áp đặt vào nền kinh tế thông
qua việc định giá theo những chỉ tiêu có sẵn mà không để ý đến thực trạng của
nền kinh tế Việt Nam. Suốt thời kì Nhà nước chỉ đạo giá cho đến trước cải
cách giá năm 1991, trên thị trường có hai hệ thống giá: giá chỉ đạo của Nhà
nước áp dụng trên thị trường có tổ chức và giá thị trường tự do biến động theo
quan hệ cung cầu. Đặc điểm của giá chỉ đạo là không chú ý đến quan hệ cung-
cầu và gần như bất biến. Những năm 1975, sau ngày Miền Nam được giải
phóng, cùng với quá trình thống nhất đất nước về chính trị và quân sự, việc
thống nhất về thể chế kinh tế cũng được xúc tiến. Quá trình thống nhất về thể
chế kinh tế trong cả nước, trên thực tế là sự dập khuôn gần như toàn bộ thể
chế kinh tế đã tồn tại trước đó ở miền Bắc. Đất nước thống nhất đã tạo niềm
phấn khởi lạc quan cả về chính trị xã hội và kinh tế. Tuy nhiên những khó
khăn mới cũng xuất hiện. Trước hết là sự thiếu hụt nguồn tài trợ, sự bùng nổ
về tiêu dùng, về công ăn việc làm đã bị dồn nén qua nhiều năm chiến tranh.
Các tổ chức kinh tế quốc doanh địa phương mọc lên nhanh chóng, bộ máy
hành chính kinh tế từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã đã quá nhiều tạo ra tình

14
trạng thừa người thiếu việc việc làm nghiêm trọng. Trong kinh tế quốc doanh
và trong bộ máy Nhà nước hình thành hệ thống quan liêu mà cho đến ngày
nay vẫn còn là gánh nặng đối với toàn bộ nền kinh tế. Việc duy trì chính sách
tài chính, tín dụng, chính sách giá cả và tiền lương theo kiểu cấp phát, giao
nộp hiện vật bình quân của nền kinh tế thời chiến gây ra tác hại nghiêm trọng
đối với nền kinh tế.

Trong thời kỳ này chúng ta đã có cách hiểu không đúng về việc thực
hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, bình đẳng xã hội,
do đó việc vận dụng quy luật giá trị đã có những thiếu sót, sai lệch. Hậu quả là
đã làm triệt tiêu nhưng nhân tố tích cực, năng động của xã hội. Nền kinh tế rơi
vào tình trạng trì trệ, kém phát triển.

2.1.2. Sau năm 1986 đến nay (thời gian sau thời kỳ đổi mới)
• Vận dụng vào vấn đề sản xuất

Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là
thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải thành hàng
hóa. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị - sản xuất và trao đổi
hàng hóa phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết.

Những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù đắp vào sức lao động đã hao
phí trong quá trình sản xuất, đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức
hàng hóa và chịu sản xuất sự tác động của quy luật giá trị. Trong những thành
phần kinh tế khác nhau, tác động của quy luật giá trị có những điểm không
giống nhau. Vì thế các xí nghiệp của chúng ta không thể và không được bỏ
qua quy luật giá trị.

Do vậy, nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ
chuyên môn. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu mã, nâng
15
cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò
đào thải của nó: loại bỏ những cái kém hiệu quả, kích thích các cá nhân,
ngành, doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả. Tất yếu điều đó dẫn tới sự phát
triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có táy nghề chuyên
môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Và cùng với nó,
sự xã hội hóa, chuyên môn hóa lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây
là những vận dụng đúng đắn của nhà nước.

• Vận dụng quy luật giá trị nâng cao tính cạnh tranh

Việc chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong
hoạt động bởi các chi tiêu sản xuất mà nhà nước đưa ra và phải tự nghiên cứu
để tìm ra thị trường phù hợp với các sản phẩm của mình; thực hiện sự phân
đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu, bằng những sản phẩm gì

Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế
năng động lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm cho mình một con
đường đi mới trong một lĩnh vực sản xuất, kinh doanh tạo nên sự sản xuất
hiệu quả nhất. Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau, luôn tạo ra những lĩnh
vực sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh tranh năng động sẽ làm cho sản phẩm
hàng hóa đa dạng về mẫu mã, nhiều chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy
luật giá trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại nhiều lợi
ích cho người tiêu dùng.

• Vận dụng quy luật giá trị trong lưu thông

Trong nền kinh tế XHCN, việc cung cấp hàng hóa cho thị trường thực hiện
một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc tế
dân sinh, nếu cung cầu không cân đối thì nhà nước dùng biện pháp đẩy mạnh
16
sản xuất, tăng cường thu mua, cung cầu theo định lượng, theo tiêu chuẩn mà
không thay đổi giá cả. Chính thông qua hệ thống giá cả quy luật có ảnh hưởng
nhất định đến việc lưu thông của một hàng hóa nào đó. Giá mua cao sẽ khơi
thêm nguồn hàng, giá bán hạ sẽ thúc đẩy mạnh việc tiêu thụ, và ngược lại.

Do đó mà nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị, xoay
quanh giá trị để kích thích cải tiến kĩ thuật tăng cường quản lí. Không những
thế nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị với từng loại hàng hóa
trong từng thời kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để
điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối.

Quy luật giá trị tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế. Nhờ nắm
vững tác dụng chủ đạo của các quy luật kinh tế, tự giác sử dụng tác dụng tích
cực và hạn chế các tác dụng tiêu cực của quy luật giá trị. Nhà nước đã năng
cao dần trình độ công tác, kế hoạch hoá kinh tế. Công tác kế hoạch hoá giá cả
cũng đã có tiến bộ, phạm vi ngày càng mở rộng, trình độ nghiệp vụ cũng được
nâng lên một bước.

• Kết quả của việc vận dụng quy luật giá trị vào nước ta

Sau nhiều năm thực hiện đổi mới nền kinh tế, chủ yếu nhờ các biện pháp
giải phóng sức lao động trong nước và mở cửa nền kinh tế, tận dụng nguồn
lực bên ngoài, nền kinh tế Việt Nam đã có sự biến đổi rõ rệt. Từ năm 1991
nền kinh tế Việt Nam đã được tăng trưởng với tốc độ khá cao, trung bình là
7,6% hàng năm. Trong những năm 1991-1999,mức kỷ lục là 9,54% (1995);
chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,5% (1991) xuống còn 0,1% (1999)

Về cơ cấu GDP theo ngành đã có chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ
trọng của khu vực nông – lâm - ngư nghiệp và tăng tỷ trọng của khu vực công
nghiệp xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên tốc độ chuyển dịch còn chậm. Tốc độ
17
chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngành tăng 0,99% và 1,03% đối với ngành
xây dựng. Tình hình năm 2002 cũng phản ánh trạng thái vận động nhiều năm
qua của nền kinh tế Việt Nam là công nghiệp và dịch vụ chưa tạo được số việc
làm tương ứng với mức tăng trưởng của hai khu vực này, khiến lực lượng lao
động mới vẫn phải tìm kiếm việc làm chủ yếu trong khu vực nông nghiệp vốn
đã dư thừa quá nhiều lao động. Đối với năng lực cạnh tranh dịch vụ của nước
ta trong những năm gần đây đã được nâng cao, song cũng không ít những sản
phẩm dịch vụ năng lực cạnh tranh còn thấp.

Về vấn đề dân số, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm nhiều.Tổng số lao động,
việc làm tăng, cơ cấu lao động có nhiều thay đổi. Xoá đói giảm nghèo đạt
thành tích cao.

2.2. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật ở nước ta trong
thời gian tới
2.2.1. Đầu tư vào việc nghiên cứu, ứng dụng và triển khai khoa học công
nghệ.

Trong tình trạng nước ta còn thiếu thốn trầm trọng khoa học kỹ thuật
như hiện nay, nước ta cần phải hỗ trợ nhiều hơn nữa kinh phí cho các viện
nghiên cứu, các đề tài nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho việc chuyển đổi cơ
cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất, thực hiện cơ chế đặt hàng trực tiếp giữa nhà
nước,doanh nghiệp và các cơ sở nghiên cứu khoa học, tránh tình trạng bỏ phí
vốn đầu tư do tách rời giữa sản phẩm nghiên cứu và thực tiễn.Tăng kinh phí
đào tạo, nhất là đào tạo mới và đào tạo bổ sung đội ngũ lao động chất lượng
cao. Đặc biêt chú trọng đội ngũ công nhân lành nghề, giỏi việc, làm chủ được
những công nghệ mới.

18
Tiếp theo phải nâng cao trình độ văn hoá cho nguồn nhân lực, phấn đấu
phổ cập phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đối với những đối tượng và
những vùng có điều kiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu các
kiến thức trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động

Đẩy mạnh công tác đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động.
Đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người lao động để tăng tỷ lệ được đào
tạo lên 30% năm 2005.

Nông thôn cần mở rộng hình thức đào tạo nghề gắn chặt với chuyển
giao công nghệ mới, chuyển giao các quy trình sản xuất, quy trình canh tác...
để làm cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Đào tạo chủ
nhiệm hợp tác xã, huy động lực lượng tri thức trẻ về nông thôn, vùng sâu vùng
xa để tăng thêm chất lượng nguồn nhân lực làm nòng cốt cho việc thay đổi
cách làm ăn tạo thế và lực mới cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

2.2.2. Lưu thông hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của Việt
Nam.

Một trong những yếu tố then chốt để nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng hoá Việt Nam là cơ cấu lại và tăng cường năng lực cạnh tranh của khu
vực doanh nghiệp, trong đó có vai trò quan trọng của khu vực nhà nước vì khu
vực này nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, nguồn lao động kỹ thuật, tài
nguyên và giữ vai trò chủ đạo trong các thành phần kinh tế. Khu cực doanh
nghiệp cần xây dựng được chương trình cắt giảm chi phí sản xuất trong từng
công đoạn sản xuất với từng sản phẩm. Nhà nước thực hiện chính sách khuyến
khích nghiên cứu áp dụng đổi mới công nghệ, đầu tư đổi mới thiết bị sản xuất.
Tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, xây dựng khuôn khổ chính sách tạo
điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành cơ cấu lại sản xuất có hiệu quả, tăng khả

19
năng cạnh tranh. Hướng dẫn thực hiện pháp lệnh giá nhằm thực hiện kiểm
soát chi phí, kiểm soát độc quyền. Hạn chế độc quyền của các doanh nghiệp,
nhà nước chỉ thực hiện trợ giá những mặt hàng thiết yếu quan trọng và một số
mặt hàng nông sản xuất khẩu.

Thực hiện chính sách hỗ trợ có điều kiện trong một khoảng thời gian
nhất định để dần dần tăng năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm, mở rộng
thị trường trong nước và xuất khẩu. Bằng cách mở rộng quan hệ với các quốc
gia, hỗ trợ xúc tiến thương mại ở các thị trường giàu tiềm năng. Tăng cường
đàu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra
nước ngoài.

Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của chính sách khuyến khích đầu tư
sản xuất, đặc biệt là hàng xuất khẩu, các vùng khó khăn. Chính sách phát triển
các vùng nguyên liệu để giảm chi phí sản xuất.

Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phải được đặc biệt coi trọng. Trong
thời gian tới cần đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại, nâng cao tỷ lệ lao động qua
đào tạo lên trên 30% số lao động hiện có, trong đó chú trọng đào tạo nghề
công nghệ cao.

20
KẾT LUẬN
Như vậy quy luật giá trị là một quy luật kinh tế quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển nền kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Đó là một quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Nó có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, đồng thời kích thích
cải tiến kỹ thuât, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng xuất lao động, lực lượng sản
xuất xã hội phát triển nhanh và thực hiện sự lựa chọn tự nhiên, phân hoá người
sản xuất hàng hoá thành kẻ giàu người nghèo. Thực tiễn chứng tỏ rằng quy
luật giá trị với những biểu hiện của nó như giá cả, tiền tệ, giá trị hàng hoá… là
lĩnh vực tác động rất lớn tới đời sống kinh tế xã hội. Đối với nước ta trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn mang nặng tính nông nghiệp lạc hậu,
cơ sở vật chất kỹ thuật còn phụ thuộc các nước khác, tuy nhiên Đảng và nhà
nước đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng trong việc đổi mới xã hội
cũng như hiểu rõ vai trò và tác dụng của quy luật giá trị mà từ đó thực hiện
nhiều cuộc cải cách kinh tế, tuân theo nhưng nội dung của quy luật giá trị
nhằm hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa đa dạng
và đã đạt đựơc những hiệu quả thành tựu đáng kể, tuy nhiên trong thời gian
qua sự vận dụng đó còn chưa quán triệt sâu sắc nhiều khi vẫn còn dập khuôn
máy móc, nên cần phải có những biện pháp khắc phục nhanh chóng những sai
lầm.

21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Nhà
xuất bản chính trị Quốc gia 2002.
2. Bài “Kinh tế Việt Nam thời kỳ cả nước cùng xây dựng xã hội chủ nghĩa
1976-1995”- sách lịch sử kinh tế quốc dân, NXB giáo dục, 1999.
3. Đại học Kinh tế Quốc dân môn lịch sử các học thuyết Kinh tế – Lịch sử
các học thuyết kinh tế – Nhà xuất bản thống kê, 1999.
4. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa - NXB Chính trị quốc gia 2000
5. Tạp chí Lý luận chính trị số 1/2002
6. Sách Kinh tế chính trị Mác - Lênin, NXB Giáo dục, Hà Nội 2000.
7. Số liệu nguồn báo cáo phát triển kinh tế, con người của Tổng cục thống
kê.

22

You might also like