You are on page 1of 21

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI


KHOA NGOẠI NGỮ

BÀI TIỂU LUẬN


ĐỀ TÀI: QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ SỰ BIỂU HIỆN CỦA NÓ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Trịnh Thị Tâm


HỌ VÀ TÊN SV: Nguyễn Thị Ngọc Thoa
LỚP: CĐTATM26C
MSSV:2203326

1
MỤC LỤ

C
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................................5
CHƯƠNG 1: NỘI DUNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ...............5
I. Nội dung của quy luật giá trị.............................................................................5

1. Quan điểm của Mác về giá trị:.............................................................5


2. Nội dung và yêu cầu chung của quy luật giá trị...................................5
3. Tác động của quy luật giá trị................................................................5
4. Biểu hiện của quy luật giá trị trong tư bản tự do canh tranh và tư bản
độc quyền:.....................................................................................................7
II. Một số quan điểm khác về giá trị......................................................................8

1. William.Petty:.......................................................................................8
2. A.Đam.Simith........................................................................................9
3. David Ricardo.......................................................................................9
4. J.Batis.SAY..........................................................................................10
5. Sismondi..............................................................................................10
6. Pi-e Giô-Dép PruĐông.......................................................................10
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG............................................................................................................12
I. Kinh tế thị trường:...........................................................................................12
II. Biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế Việt Nam...........................14

1. Khái quát về nền kinh tế thị trường Việt Nam....................................14


1.1. Giai đoạn trước Đại VI (1986)...........................................................14
1.2. Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001).............15
1.3. Giai đoạn ĐH IX (2001) đến nay.......................................................15

2
2. Biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay.......................................................................................................15
2.1. Trong lĩnh vực sản xuất.......................................................................15
2.2. Trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa..............................16
3. Những hạn chế của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường.......16
3.1. Sự phân hóa giàu nghèo.....................................................................17
3.2. Vấn nạn ô nhiễm môi trường..............................................................17
3.3. Cạnh tranh..........................................................................................17
4. Giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế thi
trường Việt Nam..........................................................................................17
4.1. Kế hoạch chung..................................................................................17
4.2. Đề xuất riêng......................................................................................17
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN.......................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................20

3
LỜI MỞ ĐẦU
Quy luật giá trị là một trong những quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát
huy tác dụng của quy luật giá trị. Mọi hoạt động trong quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Cũng chính vì vậy, quy luật giá trị là
nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kỳ, phân hóa giàu nghèo, cạnh
tranh không lành mạnh,… Hiện nay, Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng mô
hình kinh tế thị trường - nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc tìm hiểu và nắm bắt rõ quy luật này càng có ý
nghĩa to lớn hơn, có thể coi là một nhiệm vụ cấp bách đối với đất nước ta.
Hiểu rõ được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này, em quyết định chọn đề
tài tiểu luận là: “ Quy luật giá trị và sự biểu hiện của nó trong nền kinh tế thị trường”
với mục đích nghiên cứu sâu hơn về quy luật giá trị để có thể tìm ra những hướng đi
đúng đắn đưa nền kinh tế thị trường phát triển tốt đẹp hơn. Để đạt được mục tiêu,
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ hơn mối quan hệ giữa quy luật giá trị và
nền kinh tế thị trường cũng như sự tác động qua lại giữa chúng. Bài tiểu luận của em
gồm 2 nội dung chính là cơ sở lý luận (bản chất, vai trò và nội dung của quy luật giá
trị) và liên hệ thực tiễn (thực trạng quá trình vận dụng quy luật giá trị trong nền kinh tế
thị trường và đề xuất một số giải pháp giúp vận dụng hiệu quả hơn).
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, do sự hạn chế về kinh nghiệm cũng như kiến thức,
nên em khó tránh khỏi những thiếu sót về mặt nội dung. Em rất mong nhận được sự
đánh giá và đóng góp từ giảng viên để bài tiểu luận có thể hoàn thiện hơn nữa. Em xin
chân thành cảm ơn!

4
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NỘI DUNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ
I. Nội dung của quy luật giá trị.
1. Quan điểm của Mác về giá trị:
Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế như: quy luật giá trị,
quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ...Nhưng vai trò cơ sở cho sự chi phối nền
sản xuất hàng hóa thuộc về quy luật giá trị.
2. Nội dung và yêu cầu chung của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa, ở đâu có sản xuất và
trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ
sở của hao phí lao động xã hội cần thiết, cụ thể:
- Trong kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất tự quyết định hao phí lao động cá
biệt của mình, nhưng giá trị của hàng hóa không phải được quyết định bởi hao
phí lao động cá biệt của từng người sản xuất hàng hóa, mà bởi hao phí lao động
xã hội cần thiết. Vì vậy, muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có
lãi, người sản xuất phải điều chỉnh làm sao cho hao phí lao động cá biệt của
mình phù hợp với mức chi phí mà xã hội chấp nhận được.
- Trong lĩnh vực trao đổi, phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị xã
hội làm cở sở, không dựa trên giá trị cá biệt.
- Quy luật giá trị phát huy tác dụng thông qua sự vận động của giá cả xung
quanh giá trị dưới tác động của quan hệ cung cầu.
Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước
hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và
ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị còn, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố
khác như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố
này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay
quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục
giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động
của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.
3. Tác động của quy luật giá trị.

5
Trong sản xuất hàng hóa , quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:
- Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
Điều này biểu hiện là trong sản xuất thông qua sự biến động của giá cả người sản xuất
sẽ biết được tình hình cung cầu về hàng hóa đó và quyết định phương án sản xuất. Nó
biểu hiện nếu giá cả hàng hóa cao hơn giá trị, sản xuất cần mở rộng để cung ứng hàng
hóa đó nhiều hơn vì nó đang khan hiếm trên thị trường tư liệu sản xuất và sức lao
động sẽ được tự phát chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác. Nếu giá cả
hàng hóa thấp hơn giá trị cung về hàng hóa này đang thừa so với nhu cầu của xã hội
thì lại cần phải thu hẹp sản xuất ngành này chuyển sang các ngành khác, mặt hàng
khác. Nếu giá cả hàng hóa bằng với giá trị thì việc sản xuất là phù hợp với yêu cầu xã
hội hàng hóa này nên được tiếp tục duy trì sản xuất, còn trong lưu thông quy luật giá
trị điều tiếc hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn
cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Từ đó, cung cầu hàng hóa giữa các vùng được cân
bằng phân phối lại thu nhập giữa các vùng miền, địa phương điều chỉnh sức mua của
thị trường. Nếu giá cao thì mua ít, nếu giá thấp thì mua nhiều...
- Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động.
Chúng ta biết rằng, trên thị trường hàng hóa được trao đổi theo giá trị xã hội, người
sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội, khi bán theo giá trị xã hội sẽ thu được
nhiều lợi nhuận hơn, ngược lại người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội
sẽ gặp bất lợi trong cạnh tranh và dẫn tới thua lỗ thậm chí phá sản. Để đứng vững
trong cạnh tranh và tránh không bị phá sản, người sản xuất phải luôn luôn năng động
tìm cách làm cho giá trị cá biệt hàng hóa của mình nhỏ hơn hoặc bằng với giá trị xã
hội. Muốn vậy, họ phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương
pháp quản lý, thực hiện tiết kiệm kết quả là làm cho lực lượng sản xuất xã hội ngày
càng phát triển, năng suất lao động xã hội ngày càng tăng lên, chi phí sản xuất hàng
hóa giảm xuống.
Ví dụ: Viettel + vina + mobie cạnh tranh nhau. Viettel có mức chi phí khá thấp nên
sản phẩm của họ rẻ, khiến nhiều người dùng hơn. Vina cũng cải tiến kỹ thuật 3G
nhằm thu hút những khách hàng có nhu cầu. Đó chỉ là một ngành kinh doanh trong vô
số ngành kinh doanh mà hiện nay sự vận động KHKT của nó đang phát triển rất
mạnh. Góp phần chung vào sự phát triển kinh tế thị trường Việt Nam.
- Thứ ba, phân hóa người sản xuất thành người giàu – nghèo.

6
Chúng ta thấy rằng, trong quá trình cạnh tranh những người sản xuất nào có điều kiện
sản xuất tốt, nhạy bén với thị trường, có trình độ năng lực giỏi sản xuất với hao phí cá
biệt thấp hơn mức hao phí chung của xã hội thì đương nhiên tất yếu họ sẽ thu được
nhiều lợi nhuận và trở nên giàu có. Ngược lại, những người không có điều kiện sản
xuất tốt do hạn chế về vốn, về kỹ năng, về kinh nghiệm sản xuất còn thấp kém, trình
độ công nghệ lạc hậu, năng lực quản lý yếu kém,... thì giá trị cá biệt sẽ cao hơn giá trị
xã hội. Những người này dễ lâm vào tình trạng thua lỗ dẫn đến phá sản và trở thành
người nghèo.
Như vậy chúng ta thấy quy luật giá trị vừa có tác dụng đào thải cái cũ, cái lạc hậu, lỗi
thời kích thích sự tiến bộ làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Đồng thời,
quy luật giá trị vừa có tác dụng lựa chọn đánh giá người sản xuất bảo đảm sự bình
đẳng đối với người sản xuất vừa có cả những tác động tiêu cực.
4. Biểu hiện của quy luật giá trị trong tư bản tự do canh tranh và tư bản độc
quyền:
Trong thời kì tư bản tự do cạnh tranh:
Trong điều kiện tự do cạnh tranh, giá trị hàng hóa trở thành giá cả sản xuất. Giá trị là
cơ sở của giá cả sản xuất. Khi giá trị hàng hóa chuyển thành giá cả sản xuất và do chi
phối của cơ chế cạnh tranh nên các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp phân chia lợi
nhuận theo nguyên tắc bình quân hóa lợi nhuận vì vậy quy luật giá trị biểu hiện thành
quy luật giá cả sản xuất ( giá sản xuất + CFSX +P ngang).
Điều đó được thể hiện rõ theo quy luật giá trị giá cả hàng hóa : trên thị trường phải
được quyết định bởi mức hao phí lao động xã hội trung bình ( thời gian lao động TB,
sức lao động TB, trình độ thành thạo TB,..), nhưng giá trị của hàng hóa lại được quyết
định bởi mức hao phí lao động cá biệt của doanh nghiệp. Như vậy để có cạnh tranh
được các doanh nghiệp bắt buộc phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình dưới
mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Và muốn làm được điều này họ phải tiến hành
cải tiến đổi mới công nghệ, phương thức sản xuất. Chính vì vậy có thể thấy được quy
luật giá trị kích thích sản xuất và cạnh tranh, còn nếu doanh nghiệp nào không cạnh
tranh được sẽ sớm lâm vào phá sản.
Trong nền sản xuất xã hội, nếu ở mặt hàng nào đó mà có cung vượt quá cầu thì lúc
này giá cả được đẩy cao hơn so với giá trị, do đó các doanh nghiệp tập trung vào sản
xuất các mặt hàng đó và ngược lại. Vậy quy luật giá trị đóng vai trò điều tiết hàng hóa
trong cạnh tranh tự do.

7
Càng rõ rệt hơn biểu hiên của quy luật giá trị là trong việc sản xuất sản phẩm của bạn
phải có giá trị hơn đối thủ thì khách hàng mới tham giá mua và sử dụng. Người tiêu
dùng chịu sự chi phối của quy luật tối đa hóa lợi ích. Ai mang cho họ nhiều lợi ích
hơn có giá trị hơn thì mới bán được sản phẩm và tồn tại được.
Thời kì tư bản độc quyền:
Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá tri.
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư bản
sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt
ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản , mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển
những xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hoá nói
chung, làm cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư
bản có những biểu hiện mới.
Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc quyền,
giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó
không có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị không còn hoạt
động. Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không còn phủ định cơ sở
của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng
qua là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác.Nếu xem
xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số
giá trị. Và trong nền kinh tế xuất hiện có chế độc quyền nên các tổ chức độc quyền có
thể để ra giá độc quyền để thu P độc quyền cao vì vậy quy luật giá cả độc quyền: ( Giá
cả độc quyền = Chi phí sản xuất + P ngang + P độc quyền = Giá cả sản xuất + P độc
quyền )

 Giá cả độc quyền : giá cả hàng hoá nói chung vượt qua giá cả sản xuất và giá
thị trường, dựa vào điều kiện độc quyền về kinh tế ( sản xuất, lưu thông, xuất
nhập khẩu…) các tổ chức độc quyền tưbản chủ nghĩa dùng các phương pháp
khác nhau để giữ giá cao, độc quyền.
 Giá cả độc quyền gồm 2 loại : giá cả độc quyền cao và giá cả độc quyền thấp.
 Giá cả độc quyền cao : dùng khi mua
 Giá cả độc quyền thấp : dùng khi bán
II. Một số quan điểm khác về giá trị
1. William.Petty:

8
Theo ông, nếu như giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá, thì giá cả nhân tạo là giá cả thị
trường của hàng hoá. Giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan
hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường. Đối với W.Petty, việc phân biệt giá cả tự
nhiên - hao phí lao động trong điều kiện bình thường với giá cả chính trị – lao động
chi phí trong điều kiện chính trị không thuận lợi có ý nghĩa to lớn. Ông là người đầu
tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết giá trị lao động.
Lý thuyết giá trị lao động của W.Petty còn chịu ảnh hưởng tư tưởng chủ nghĩa trọng
thương. Ông có luận điểm nổi tiếng là: “Lao động là cha còn đất là mẹ của mọi của
cải ”. Về phương diện của cải vật chất, đó là công lao to lớn của ông, nhưng ông lại xa
rời tư tưởng giá trị – lao động khi kết luận “Lao động và đất đai là cơ sở tự nhiên của
giá cả mọi vật phẩm” tức là cả lao động và đất đai là nguồn gốc của giá trị.
2. A.Đam.Simith
Ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá trị, lao động là thước
đo cuối cùng của giá trị. Ông phân biệt sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá trị
trao đổi và khẳng định giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Ông chỉ ra lượng giá
trị hàng hoá là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định và đưa ra 2 định
nghĩa về giá cả là giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Về bản chất, giá cả thị trường là
biểu hiện tiền tệ của giá trị.
Lý thuyết giá trị – lao động của A.Smith còn có hạn chế. Ông nêu lên 2 định nghĩa:
Thứ nhất, giá trị do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết định. Lao động là
thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này, ông là người đứng vững trên cơ
sở lý thuyết giá trị–lao động. Thứ hai, ông cho rằng, giá trị là do lao động mà người ta
có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định. Từ định nghĩa này, ông suy ra giá trị
do lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh
tế TBCN, giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng với lợi
nhuận và địa tô.. Ông cho rằng “Tiền lương, lợi nhuận, địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên
của mọi thu nhập cũng như là của bất kỳ giá trị trao đổi nào”. Tư tưởng này xa rời lý
thuyết giá trị – lao động “Giá trị là do lao động hao phí để sản xuất hàng hoá quyết
định, lao động là thước đo thực tế của mọi giá trị”.
3. David Ricardo
Ông phân biệt rõ 2 thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và chỉ
rõ giá trị sử dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước
đo của nó. Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối, còn tồn tại giá trị tuyệt
đối. Giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện giá trị

9
tuyệt đối. .Ricardo chỉ ra là định nghĩa “Giá trị lao động hao phí quyết định” là đúng,
còn định nghĩa “Giá trị lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này
quyết định” là không đúng. Theo ông, không phải chỉ trong nền sản xuất hàng hoá
giản đơn mà ngay cả trong nền sản xuất lớn TBCN, giá trị vẫn do lao động quyết định.
Ricardo cũng khẳng định “Giá trị là do lao động hao phí quyết định” và cấu tạo giá trị
hàng hoá bao gồm 3 bộ phận là: c+v+m, nhưng ông cũng chưa phân tích được sự dịch
chuyển “c” vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào.
Phương pháp nghiên cứu của ông còn có tính siêu hình. Ông coi giá trị là phạm trù
vĩnh viễn. Ông chưa phân biệt được giá trị hàng hoá và giá cả sản xuất, chưa thấy
được mâu thuẩn giữa giá trị và giá trị sử dụng vì chưa có được lý thuyết tính hai mặt
của lao động
4. J.Batis.SAY
J.B.Say đã đồng nhất giá trị với giá trị sử dụng và phủ nhận vai trò duy nhất của lao
động trong việc tạo ra giá trị của hàng hoá. Ông còn cho rằng, giá trị chỉ được xác
định trên thị trường – tức là chỉ được xác định trong trao đổi. Thước đo giá trị của một
vật phẩm chính là số lượng vật phẩm khác mà người khác đưa lại để đổi lấy vật phẩm
đó. Nói khác đi theo ông, giá trị được quyết định với quan hệ cung – cầu. Rõ ràng ở
đây, Say đã đồng nhất giá trị với giá cả thị trường.
5. Sismondi
Ông thấy được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá. Ông đã tiến
thêm 1 bước so với D.Ricardo là đưa ra thước đo giá trị hàng hoá: “thời gian lao động
xã hội cần thiết”. Do đó, ông đã qui lao động thành mối liên hệ giữa nhu cầu xã hội và
thời gian lao động xã hội cần thiết để thoả mãn nhu cầu.Tuy nhiên, so với D.Ricardo
thì Sismondi còn có chỗ thụt lùi: D.Ricardo coi giá trị tương đối của hàng hoá được đo
bằng lượng lao động chi phí để sản xuất ra hàng hoá, còn Sismondi, giá trị tương đối
của hàng hoá được qui định bởi cạnh tranh, bởi lượng cầu về hàng hoá.
6. Pi-e Giô-Dép PruĐông
Giá trị bao gồm 2 mặt mâu thẫn với nhau: Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, chúng
phản ánh hai mặt khuynh hướng mâu thuẫn: dồi dào và khan hiếm.
Theo ông, giá trị sử dụng là hiện thân của sự dồi dào, còn giá trị trao đổi là hiện thân
của sư khan hiếm. Mâu thuẫn tưởng tượng này chỉ có thể xoá đi bằng việc thiết lập sự
trao đổi ngang giá, tức là “giá trị xác lập”. Do đó, ông đề nghị không chỉ sản xuất
những hàng hoá, mà còn đòi hỏi tạo ra sự trao đổi ngang giá để tất cả các hàng hoá

10
được thực hiện, tức là biến thành “giá trị xác lập”. Tức là, giá trị mà nó xuất hiện
trong trao đổi và thị trường chấp nhận, ông cho rằng trao đổi và lao động là nguồn gốc
giá trị. C.Mác đã nhận xét. “Lý luận giá trị của Prudong” là sự giải thích một cách
không tưởng lý luận của Ricardo. Và bằng chính cách đó đã bóp méo, tầm thường hoá
cả những phạm trù giá trị khác.
 Kết luận
Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của của lao động sản xuất hàng hóa,
đó là lao động cụ thể và trừu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội. Mác định
nghĩa lượng giá trị hàng hóa đo được bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, phê
phán các quan điểm đi trước. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt của lao
động sản xuất hàng hóa. Trên cơ sở phát hiện này, Mác đã thực hiện một cuộc cách
mạng khoa học kinh tế chính trị. Ông viết: “ Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa và khoa học kinh tế chính trị xoay quanh điểm
này”.
Những tác động của quy luật giá trị đến nề kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn hết sức to lớn: một mặt, quy luật giá trị chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải cái
yếu kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa xã hội thành
kẻ giàu người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội. Như vậy, quy luật giá trị
vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy
sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

11
CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
I. Kinh tế thị trường:
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất
cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường phát
triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ phổ
biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà
giai đoạn đầu là nền kinh tế XHCN. Để chuyển lên nấc thang này, nền kinh tế thị
trường phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với
nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ
trên thị trường. Có thể trừu tượng hóa một số đặc điểm cụ thể, phản ánh sự giao thoa,
chuyển tiếp và đan xen giữa các mô hình để quy về ba mô hình chủ yếu sau:
Mô hình kinh tế thị trường tự do
Kinh tế thị trường trong khuôn khổ CNTB chủ yếu phát triển theo mô hình thị trường
tự do, được thực hiện ở hầu hết các nền kinh tế TBCN ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Mô hình
này đề cao vai trò của chế độ sở hữu tư nhân, của tự do cá nhân và cạnh tranh tự do.
Trong mô hình kinh tế thị trường tự do, sự can thiệp điều tiết của nhà nước vào các
quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá trình phát triển kinh tế chủ yếu do khu
vực tư nhân vận hành dưới sự điều tiết của “bàn tay vô hình” (tức cơ chế cạnh tranh tự
do). Chức năng chính của nhà nước là bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân và các quyền tự
do cá nhân, bảo đảm ổn định vĩ mô, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân và cơ chế thị
trường tự do vận hành thuận lợi nhất. Sự tham gia của nhà nước vào quá trình phân
phối lại, vào hệ thống phúc lợi xã hội nhằm giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng, tạo
lập công bằng xã hội, ngăn chặn và xử lý các thất bại thị trường tuy vẫn được coi
trọng nhưng không nhiều như ở các mô hình khác. Trong mô hình này, trong khi vai
trò động lực phát triển của lợi ích tư nhân, lợi ích cá nhân (lợi nhuận) được đề cao thì
vai trò "bánh lái" của sự điều tiết, định hướng phát triển của nhà nước (bàn tay hữu
hình) lại tương đối bị xem nhẹ so với các mô hình khác.
Mô hình kinh tế thị trường - xã hội
Mô hình này được thực hiện thành công ở khá nhiều nước Tây - Bắc Âu, điển hình là
Đức (quê hương của mô hình kinh tế thị trường - xã hội), Thuỵ Điển, Na Uy và Phần

12
Lan. Xét theo tính chất đặc trưng, mô hình này còn có mặt ở một số nước khác như
Đan Mạch, Hà Lan, Pháp và Bỉ với những mức độ khác nhau.
Về nguyên tắc, mô hình kinh tế thị trường - xã hội thừa nhận các yếu tố cơ bản phổ
biến của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, so sánh với mô hình kinh tế thị trường tự do,
mô hình này có hai đặc trưng nổi bật.
Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng xã hội, phúc lợi cho
người nghèo và cho người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân, v.v.) là
mục tiêu của chính quá trình phát triển kinh tế thị trường;
Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục tiêu tăng
trưởng và hiệu quả kinh tế mà cả mục tiêu phát triển và hiệu quả xã hội.
Với những đặc trưng trên, tuy mô hình kinh tế thị trường - xã hội là một biến thể của
nền kinh tế TBCN, song nó phản ánh một xu thế tất yếu của sự phát triển. Đó là: đến
một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện cụ thể, tự kinh tế thị trường
không thể giải quyết có hiệu quả tất cả các vấn đề phát triển, nhất là các mục tiêu phát
triển xã hội và con người. Để đạt được điều đó, trong cơ chế vận hành của nền kinh tế
thị trường, cần có thêm “bánh lái” để định hướng “động cơ” thúc đẩy phát triển đi
đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt không chỉ nhiệm vụ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế
mà cả nhiệm vụ phát triển xã hội và con người.
Có thể khái quát rằng quá trình phát triển kinh tế thị trường, để đạt hiệu quả, cần
hướng tới các mục tiêu xã hội và phát triển con người. Cách thức để đạt mục tiêu đó
không phải là phủ nhận thị trường, xoá bỏ cơ chế thị trường mà là đặt nhà nước vào
vai trò tham gia điều hành và định hướng sự phát triển của kinh tế thị trường với tư
cách là yếu tố cấu thành của cơ chế kinh tế.
Việc triển khai mô hình kinh tế thị trường - xã hội trên thực tế đã mang lại những kết
quả phát triển tích cực, không chỉ ở một vài nước, tại một vài thời điểm riêng lẻ mà ở
hàng loạt nước và kéo dài trong nhiều thập niên. Điều này xác nhận tính tất yếu của xu
hướng phát triển mô hình kinh tế thị trường - xã hội. Tính tất yếu đó cũng được thể
hiện ở mô hình kinh tế thị trường đang được triển khai ở Trung Quốc và Việt Nam.
Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN
Loại mô hình kinh tế thị trường này hiện đang được thực thi chỉ ở hai nước (Việt Nam
- kinh tế thị trường định hướng XHCN; và Trung Quốc - kinh tế thị trường XHCN).
Thời gian tồn tại của nó cũng chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ thử nghiệm. Tuy vậy, các kết quả

13
thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to
lớn.
Sự ra đời của mô hình này gắn liền với sự sụp đổ của CNXH hiện thực, vốn phủ nhận
vai trò của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển ở các nước nghèo, lạc hậu tiến
lên CNXH. Sự xuất hiện của mô hình này chứng minh sức sống mãnh liệt của xu
hướng tiến lên CNCS như một tất yếu khách quan của thời đại; đồng thời, khẳng định
tính tất yếu và phổ biến của kinh tế thị trường với tư cách là một giai đoạn bắt buộc
trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh tế.
Tuy nhiên, khác với hai mô hình kinh tế thị trường nói trên, tồn tại trong khung khổ
CNTB, mô hình này mới được xác lập chưa lâu và vẫn đang trong quá trình thử
nghiệm, định hình cấu trúc và bản chất. Do vậy, chưa có căn cứ thực tiễn để xác lập
một hệ thống lý luận về nó với nội dung hoàn chỉnh và logic chặt chẽ.
II. Biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế Việt Nam
1. Khái quát về nền kinh tế thị trường Việt Nam
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống kinh tế được
Đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập niên
1990
Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức
rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân
của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch
sử. Thêm vào đó, công tác lý luận ở Việt Nam về hệ thống kinh tế này còn chưa theo
kịp thực tiễn. Gần 20 năm theo đuổi chủ trương xây dựng hệ thống kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng các thể chế cho hệ thống này hoạt động vẫn chưa
có đầy đủ. Mãi tới hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa X, Đảng mới ra nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 30 tháng 1 năm 2008
về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. và, mãi
tới ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chính phủ Việt Nam mới có nghị quyết số
22/2008/NQ – CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện nghị
quyết 21 – NQ/TW.
1.1. Giai đoạn trước Đại VI (1986)

14
Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Những
cải tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ, không
triệt để và không đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kê hoạch hóa tập trung và
nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập trung, bao cấp và đóng cửa.
1.2. Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)
Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ
bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, phát triền nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN. Đại
hội VI thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”
trên con đường đi lên CNXH ( Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH được thông qua tại Hội nghị giữa kỳ Đại hội VII).
1.3. Giai đoạn ĐH IX (2001) đến nay
Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế sang
nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến
lên CNXH, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Biểu hiện của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay
2.1. Trong lĩnh vực sản xuất
Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự
chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội và quy luật phát triển có kế
hoạch của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, quy luật giá trị không phải không có tác dụng đến sản xuất. Những vật
phẩm tiêu dùng cần thiết để bù đắp vào sức lao động đã hao phí trong quá trình sản
xuất,đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức hàng hoá và chịu sự tác động của
quy luật giá trị. Một nguyên tắc căn bản của kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá
tức là thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành
hàng hoá. Nguyên tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị: sản xuất và trao đổi hàng
hoá phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết.
Cụ thể:
- Xét ở tầm vi mô: Mỗi cá nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm cho thời
gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hội.

15
- Xét ở tầm vĩ mô: Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng cải thiện năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết.
Do vậy, Nhà nước đã đưa ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ chuyên
môn. Mỗi doanh nghiệp phải cố gắng cải tiến kỹ thuật, mẫu mã, nâng cao tay nghề lao
động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ thực hiện vai trò đào thải của nó. Tất yếu
điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội ngũ lao động có
tay nghề chuyên môn ngày càng cao, công cụ lao động luôn luôn được cải tiến.
Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì trong sản xuất, giá trị cá biệt của từng xí nghiệp
phải bằng hoặc thấp hơn giá trị xã hội, do đó quy luật giá trị dùng làm cơ sở cho việc
thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong sản xuất kinh doanh. Các cấp quản lý kinh tế
cũng như các ngành sản xuất ,các đơn vị sản xuất ở cơ sở, khi đặt ra kế hoạch hay
thực hiện kế hoạch kinh tế đều phải tính đến giá thành, quan hệ cung cầu, để định tính
khối lượng, kết cấu hàng hoá.
2.2. Trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa
- Hình thành giá cả
Hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất là khâu hình thành giá cả. Giá cả là
hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, cho nên khi xác định giá cả phải đảm bảo yêu
cầu khách quan là lấy giá trị làm cơ sở, phản ánh đầy đủ những hao phí về trật tự và
lao động sản xuất hàng hoá. Giá cả phải bù đắp chi phí sản xuất hợp lý, tức là bù đắp
giá thành sản xuất, đồng thời phải bảo đảm một mức lãi suất thích đáng để sản xuất
mở rộng. Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ biến cho mọi quan hệ trao đổi, quan hệ
giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau, cũng như nhà nước với nông dân. Giá cả là
một phạm trù phức tạp, sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị là một tất yếu khách quan
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị vào những
mục đích nhất định, tính đến những nhiệm vụ kinh tế - chính trị trước mắt và lâu dài,
căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa khác.
- Nguồn hàng lưu thông
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, việc cung cấp hàng hóa cho thị trường được thực
hiện một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng có quan hệ lớn đến quốc kế dân
sinh, nếu cung cầu không cân đối thì nhà nước dùng biện pháp đẩy mạnh sản xuất,
tăng cường thu mua, cung cấp theo định lượng theo tiêu chuẩn mà không thay đổi giá
cả. Chính thông qua hệ thống giá cả quy luật có ảnh hưởng nhất định đến việc sự lưu
thông của một hàng hoá nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm nguồn hàng, giá bán hạ sẽ
đẩy mạnh việc tiêu thụ, và ngược lại. Do đó mà nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá

16
trị vào việc định giá cả sát giá trị, xoay quanh giá trị để kích thích cải tiến kĩ thuật,
tăng cường quản lí. Nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị đối với từng loại
hàng hoá trong từng thời kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị để
điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh cung cầu và phân phối giá cả.
3. Những hạn chế của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường
3.1. Sự phân hóa giàu nghèo
Công bố mới nhất của Tổng cục thống kê cho thấy nhóm đầu là số hộ giàu, khoảng
20% dân số, chiếm 54,4% tổng thu nhập toàn quốc, trong lúc nhóm ở giữa với 60%
dân số chỉ chiếm 40,9% thu nhập toàn quốc, còn lại nhóm thứ ba là các hộ nghèo, tức
20% dân số còn lại, chỉ chiếm 4,7% tổng thu nhập toàn quốc mà thôi. Như vậy, trong
nền kinh tế thị trường, sự cách biệt giàu nghèo là rất lớn, song vì Việt Nam đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa nên đã phần nào rút ngắn khoảng cách ấy.
3.2. Vấn nạn ô nhiễm môi trường
Việt Nam vẫn đang còn thiếu những quy định bảo vệ môi trường nghiêm ngặt. Bên
cạnh đó, việc cần thu hút các nguồn vốn đầu tư khiến Việt Nam trở thành nơi tiếp
nhận nhiều ngành công nghiệp bẩn, gây ra ô nhiễm môi trường (như vụ xả chất thải ở
công ty thép Furmusa đã gây ra cá chết hàng loạt ở khu vực miền Trung), sử dụng
thuốc trừ sâu và thực phẩm hóa học trong chăn nuôi, trồng trọt, …
3.3. Cạnh tranh
Cạnh tranh thực chất xuất phát từ quy luật giá trị của sản xuất hàng hóa. Cạnh tranh là
sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế trong sản xuất hàng hóa hay nói chính xác hơn là
trong nền kinh tế thị trường nhằm giành giật những điều kiện trong sản xuất, tiêu thụ
và tiêu dùng nhằm thu về nhiều lợi nhuận nhất cho mình. Cạnh tranh có vai trò rất
quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, buộc người sản xuất phải năng động,
tích cực, nhạy bén, làm việc có hiệu quả, …Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Tuy
nhiên, khi cạnh tranh không lành mạnh sẽ dẫn đến những tác dụng tiêu cực như gây
lũng đoạn thị trường, phân hóa giàu nghèo, ô nhiễm môi trường…
4. Giải pháp để vận dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế thi trường
Việt Nam
4.1. Kế hoạch chung
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh cơ chế quản lý, phát triển thị
trường.
- Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh
nghiệp nhà nước.
17
- Tạo lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
- Tiếp tục chủ động hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Đổi mới cơ bản công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã
hội và điều chỉnh mạnh cơ cấu kinh tế.
4.2. Đề xuất riêng
Điều tiết khống chế quản lý vĩ mô đồng thời có sự giám sát của xã hội
Nhà nước cần có những giải pháp như: Hoạch định chính sách ngành nghề dài hạn cho
nền kinh tế quốc dân, thực hiện quản lý, giám sát và bảo vệ trật tự thị trường, hoạch
định chính sách thu nhập, điều tiết phân phối thu nhập…
Nâng cao sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập, tham gia tổ chức thương
mại quốc tế WTO
Nước ta cần phải nâng cao sức cạnh tranh, gồm 3 yếu tố: khả năng cạnh tranh của
từng mặt hàng dịch vụ, khả năng cạnh tranh của quốc gia và khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp.
Muốn nâng cao sức cạnh tranh cần đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng và triển khai
khoa học công nghệ bằng nhiều cách như: đầu tư về trang thiết bị, bảo hộ sở hữu trí
tuệ... vì đầu tư vào khoa học công nghệ giúp giảm chi phí cá biệt tăng năng suất lao
động, từ đó tăng khả năng cạnh tranh.
WTO là tổ chức thương mại thế giới điều chỉnh những hoạt động buôn bán đa phương
mang tính chất tương đối tự do, công bằng và tuân thủ những luật lệ rõ ràng. Gia nhập
WTO, Việt Nam được hưởng nhiều lợi ích nhưng cũng gặp không ít thách thức.
Giảm bất bình đẳng xã hội, giải quyết mâu thuẫn giữa hiệu quả và công bằng
Về mặt khách quan, bộ phận dân cư cần được hỗ trợ của các chính sách xã hội được
chia thành hai phần. Phần dân cư chịu sự thiệt thòi tự nhiên so với phần còn lại do họ
bị khiếm khuyết mặt nào đó trong năng lực cá nhân và do đó thường xuyên có thu
nhập thấp. Đó chủ yếu là người tàn tật, thương binh, gia đình chính sách, các dân tộc
thiểu số có trình độ văn hoá thấp. Phần còn lại bao gồm những cá nhân gặp khó khăn
về thu nhập không thường xuyên do biến động của kinh tế, chính trị, chiến tranh và
thiên tai. Bộ phận này luôn thay đổi theo tình hình phát triển kinh tế của đất nước.
Quan tâm, đầu tư hơn nữa vào nền giáo dục
Giáo dục để nâng cao trình độ, kiến thức cho toàn dân nói chung, cho lực lượng lao
động nói riêng. Khi đó người sản xuất sẽ dễ dàng hơn trong việc giảm giá trị cá biệt

18
của hàng hoá so với giá trị xã hội, có khả năng giành ưu thế trong cạnh tranh. Giáo
dục tạo điều kiện cho giáo dục sẽ giúp cho năng lực lao động của toàn xã hội tăng vọt.
Muốn thế cần phải đưa ra các giải pháp như: Tạo ra 1 sự tiếp cận công bằng hơn đến
dịch vụ giáo dục, nâng cao chất lượng và tính thiết thực của dịch vụ giáo dục, nâng
cao hiệu quả trong chi tiêu cho giáo dục đồng thời ngăn chặn nạn "chảy máu chất
xám".

19
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN
Quy luật giá tri đóng vai trò rất quan trọng bởi nó chi phối sự vận động của nền kinh
tế thị trường. Quy luật này cũng có mặt tốt và mặt xấu: một là điều tiết sản xuất và lưu
thông hàng hóa, thúc đẩy nền kinh tế phát triển; mặt khác lại gây ra một số hệ quả tiêu
cực như phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh,....
Trên cơ sở phân tích quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chúng ta có thể thấy
được vai trò và phạm vi ảnh hưởng của quy luật giá trị đối với nền kinh tế của Việt
Nam. Việc đẩy mạnh được các mặt tích cực cũng như hạn chế được các tác động tiêu
cực của quy luật này vẫn còn phụ thuộc vào vai trò quản lý của nhà nước và ý thức
của mỗi công dân. Trong thời đại kinh tế hội nhập, nền kinh tế Việt Nam được tiếp
cận với nhiều lợi ích với các cơ hội đầu tư từ nước ngoài nhưng cũng không tránh
khổi những khó khăn, thử thách trước mắt. Vì vậy, nhà nước cần nghiên cứu các biện
pháp giúp phát huy hiệu quả vận dụng quy luật giá trị để nền kinh tế ngày càng phát
triển tốt đẹp.

20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình. (2010). Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Lê Thành Nghiệp. (n.d.). Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. Nxb Khoa học
Kỹ thuật, Hà Nội.
3. Phạm Minh Chính, Vương Quân Hoàng. (2009). Kinh tế Việt Nam: Thăng
trầm và đột phá. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. BCHTW. (2008). Nghị quyết 21-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản - Nghị quyết 22/2008/NQ-CP của Chính phủ Việt Nam ban
hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW.
5. Nguyễn Văn Linh. (1986). “Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương
(khóa VI) tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII”. Văn kiện Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Bùi Thanh Quang, “Ý nghĩa của quy luật giá trị”,
https://buithanhquangblog.wordpress.com/2016/03/31/phung-nguyen-hoi-y-
nghia-cua-quy-luat-gia-tri-doi-voi-viet-nam/ năm 2016
7. Wikipedia, “Kinh tế thị trường”,
https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_th%E1%BB%8B_tr
%C6%B0%E1%BB%9Dng năm 2019

21

You might also like