You are on page 1of 50

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


🙣🙜🙞🙡

NIÊN LUẬN
ĐỀ TÀI: ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG XU
THẾ TOÀN CẦU HOÁ

Giảng viên hướng PGS.TS. Nguyễn Xuân

dẫn: Thiên

Sinh viên thực hiện: Nguỵ Thị Hương

Mã sinh viên: 18050470

Lớp : QH2018E-KTQT CLC4

Hà Nội, 7.2021
Mục Lục

LỜI CẢM ƠN 1
A. MỞ ĐẦU 2
1. Tính cấp thiết của đề tài 2
2. Tổng quan nghiên cứu 3
3. Mục tiêu nghiên cứu 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Câu hỏi nghiên cứu 5
6. Phương pháp nghiên cứu 6
7. Cấu trúc đề tài 6
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 6
Chương 1: Khái quát về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế 6
1. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế. 7
1.1. Toàn cầu hoá 7
1.2. Hội nhập kinh tế 9
2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: thuận lợi và khó khăn 10
2.1. Thuận lợi 10
2.2. Khó khăn 11
Chương 2 : Mối quan hệ và thực trạng giữa toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế của Việt Nam. 12
2.1. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế tại Việt Nam 12
2.2. Yêu cầu hội nhập quốc tế 14
2.3. Điều kiện của Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới 15
2.4. Thực trạng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam 16
2.5. Vai trò của hội nhập kinh tế đối với Việt Nam 17
2.6. Thời cơ và thách thức của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế 18
2.6.1. Thời cơ 18
2.6.2. Thách thức 21
2.7. Những nguy cơ của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế 24
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế của Việt Nam trong xu thế
toàn cầu hoá 27
3.1. Tầm vĩ mô 27
3.2. Tầm vi mô 32
C. KẾT LUẬN 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và tìm hiểu, em đã hoàn thành đề tài niên luận
của mình.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Xuân Thiên đã giúp đỡ và hướng
dẫn em trong suốt thời gian hoàn thành bài tiểu luận. Nhờ sự chỉ dẫn của thầy,
em đã định hướng được nội dung, luận điểm cũng như cách lập luận về vấn đề
một cách khoa học và chính xác. Thầy đã có những góp ý tận tình giúp em hoàn
thành tốt bài tiểu luận này.
Trong quá trình thực hiện, không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, vì vậy,
em rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét từ thầy để rút kinh nghiệm, học hỏi và
hoàn thiện kiến thức còn thiếu sót một cách hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin chúc thầy thật nhiều sức khỏe, công tác tốt ạ
Em xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội,
tháng 07 năm 2021
Sinh viên
thực hiện

Hương
Ngụy
Thị Hương

1
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng
sản xuất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn
cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư
bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc
gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và
của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Sự ra đời của các tổ
chức kinh tế thế giới như WTO, EU, AFTA...và nhiều tam giác phát triển khác cũng là
do toàn cầu hoá đem lại.

Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn
đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này.
Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị
cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa,
một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ
động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết.
Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời
cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút
được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh

2
nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập
kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem
lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước”, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành
sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Bài tiểu
luận “Đẩy mạnh hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá” là
một đề tài có tính thời sự, rất đáng được quan tâm.
2. Tổng quan nghiên cứu
1. Ulrich Beck, (2018), What is Globalization ?. Mục đích của cuốn sách này là tác giả
muốn cung cấp cho người đọc biết về những lý luận, lý thuyết về toàn cầu hoá: làm rõ
những mơ hồ về thực tế và giá trị, phân biệt rõ ràng hơn về toàn cầu hoá. Ngoài ra,
tác giả cũng muốn đưa ra những cảnh báo về toàn cầu hoá, bên cạnh đó là những
thông điệp mang tính chính trị, trả lời câu hỏi: toàn cầu hoá mang ý nghĩa như thế
nào?, Toàn cầu hoá tác động đến chính trị như thế nào?. Bài viết sử dụng các phương
pháp phân tích, lập luận, cuối cùng đưa ra được kết luận về sự khác nhau của toàn
cầu hoá.
2. Kaparnyk Mariia Andreevna, (2021), The process of globalization: Problem of
inequality in globalization,. Bài báo này cung cấp một cái nhìn tổng quan về sự phát
triển của hợp tác xuyên quốc gia qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Người ta đã tiến
hành so sánh quá trình toàn cầu hóa hiện nay với các kiểu tương tác nhà nước lâu đời
nhất và một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến tính đơn giản của hợp
tác quốc tế đã được xác định. Các giai đoạn quan trọng của quá trình phát triển và
xây dựng luật pháp ảnh hưởng đến sự phát triển của quan hệ thương mại giữa các
nhà nước và các công ty nước ngoài đã được nhấn mạnh. Các biểu hiện của toàn cầu
hóa trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống con người, ảnh hưởng của nó đối với cuộc
sống và các lĩnh vực của cuộc sống, cũng như các khả năng và hoàn cảnh tồn tại có
thể xảy ra trong tương lai cũng đã được thảo luận. Kết quả là, nhiều hình thức toàn
cầu hóa tồn tại ngày nay đã được nhấn mạnh. Bên cạnh những tiềm năng và những

3
yếu tố tốt đẹp của toàn cầu hóa, những sai sót đáng kể trong quá trình này đã được
phát hiện. Các lý do và biện minh cho những sai sót này được đưa ra dựa trên công
trình của những người đoạt giải Nobel Kinh tế. Bất bình đẳng do toàn cầu hóa đã
được nghiên cứu sâu hơn. Nguyên nhân chính của sự chênh lệch trong quá trình sản
xuất giữa các nước phát triển và đang phát triển đã được xác định. Ngoài ra, các quốc
gia khác nhau có mức lương và hoàn cảnh làm việc khác nhau đối với lao động có kỹ
năng và lao động phổ thông.
3. Henry Ogaga Aghwaritefe, (2021), The future of globalization process, Bài viết chỉ
ra: Quá trình toàn cầu hóa là một công việc nghiên cứu được thực hiện để phân tích
các hoạt động toàn cầu nói chung, sự tăng trưởng và thất bại cũng như các mối đe
dọa của nó, đồng thời có cái nhìn sâu sắc về tương lai của quá trình toàn cầu hóa.
4. Richard W. Mansbach & Yale H. Ferguson, (2021), The Future of Globalization and
the Liberal Global Order,. Chương 11 tổng hợp các vấn đề đã thảo luận trước đó. Nó
cho thấy mức độ lạc quan thận trọng về tương lai của toàn cầu hóa, đây sẽ là phản
ứng đối với sự thoái lui của nó trong những năm gần đây. Nó tiết lộ các xu hướng
trong ba chiều của toàn cầu hóa được mô tả trước đó và sử dụng dữ liệu thăm dò để
cho thấy toàn cầu hóa vẫn còn phổ biến trong công chúng trên khắp thế giới. Chương
ít lạc quan hơn về tương lai của trật tự tự do toàn cầu. Sự lan rộng của chủ nghĩa dân
tộc-dân túy Chủ nghĩa dân túy-dân tộc chủ nghĩa trong các chính trị gia trên toàn cầu
sẽ tạo ra một bối cảnh tồi tệ cho việc phục hồi trật tự chính trị. Tuy nhiên, như
chương lưu ý, việc Joe BidenBiden, Joe được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ và cuộc luận
tội lần thứ hai đối với người tiền nhiệm của ông là điềm báo tốt cho nền dân chủ, dân
chủ, nhân quyền, nhân quyền và hợp tác đa phương Hợp tác đa phương.
5. Njazi Halili & Arbresha Meha, (2020), Economic integration,. Trong bài báo khoa
học này, nhóm tác giả đã trình bày quá trình Hội nhập Châu Âu mang lại kết quả như
thế nào để mức độ phát triển kinh tế có thể so sánh được giữa các quốc gia khác
nhau. Nếu có thể, cơ cấu kinh tế phải là cơ cấu bổ sung của sản xuất và thị trường
giữa các quốc gia khác nhau. Các mục tiêu kinh tế cơ bản là thúc đẩy sự phát triển của
các hoạt động kinh tế giữa các quốc gia thành viên, mở rộng thường xuyên và cân

4
bằng của nền kinh tế, ổn định kinh tế hơn và cải thiện mức sống và tăng cường quan
hệ kinh tế giữa các quốc gia thành viên. Việc thực hiện các mục tiêu đã đặt ra được
thực hiện thông qua: loại bỏ các rào cản và đảm bảo sự di chuyển tự do của lao động,
luân chuyển vốn và dịch vụ, thiết lập biểu thuế hải quan chung cho các nước EEC.
Việc cải cách phù hợp với các tiêu chuẩn của Liên minh châu Âu được coi là một trong
những biện pháp hữu hiệu nhất để thúc đẩy và chuyển đổi thành công quá trình
chuyển đổi và tiến bộ cá nhân trong quá trình hội nhập châu Âu.
6. Koichi Ishikawa, (2021), The ASEAN economic community and ASEAN economic
integration,. ASEAN đã thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm 2015.
AEC là một hội nhập kinh tế với các mục tiêu là di chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ,
đầu tư và lao động có tay nghề cao và di chuyển vốn tự do hơn. Sau khi thành lập Khu
vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), ASEAN đã hội nhập kinh tế sâu rộng hơn thông
qua AEC. Các đánh giá về hội nhập kinh tế của ASEAN là trái chiều. Trong khi được
đánh giá cao về tiến độ hội nhập ổn định của nó, cũng có những đánh giá cho thấy có
rất ít tiến bộ trong hội nhập. Nghiên cứu này xem xét hội nhập kinh tế của AEC và
đánh giá hội nhập kinh tế ASEAN, bao gồm cả AFTA. AEC là một hội nhập kinh tế “FTA
cộng với”, mục tiêu và mức độ hội nhập thị trường của nó tương tự như các mục tiêu
của Hiệp định Đối tác Kinh tế. Thành tựu lớn nhất của AEC là sử dụng việc xóa bỏ
thuế quan để hiện thực hóa một khu vực thương mại tự do với mức độ tự do hóa
thương mại cao. Tự do hóa thương mại dịch vụ, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và tạo
thuận lợi cho thương mại đã bị trì hoãn và trở thành những vấn đề của AEC 2025.
AEC 2025 đặt mục tiêu tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, và thước đo của nó là thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặc dù tổng thể hội nhập kinh tế của ASEAN có
nhiều vấn đề khác nhau, nhưng nó có thể được đánh giá là thành công vì nó đã thực
hiện tự do hóa linh hoạt theo thời gian. Hội nhập kinh tế của ASEAN là một ví dụ
thành công về hội nhập kinh tế của các nước đang phát triển; các nước đang phát
triển khác có thể học các bài học từ kinh nghiệm của ASEAN.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu

5
Qua việc phân tích về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, phân tích về vai trò, cũng như
những thuận lợi, khó khăn khi nước ta hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đưa ra một số
đề xuất, giải pháp nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
- Phân tích vai trò, tính tất yếu của hội nhập kinh tế
- Đánh giá khái quát về khả năng hội nhập kinh tế tại Việt Nam
- Đưa ra một số giải pháp,đề xuất cho Việt Nam trong thời gian tới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là khả năng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam
- Không gian: Việt Nam
- Thời gian: 2008-2018
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Hội nhập kinh tế có tác động thế nào đến nền kinh tế Việt Nam?
- Vai trò của hội nhập kinh tế nói chung và đối với Việt Nam nói riêng là gì ?
- Giải pháp nâng cao khả năng hội nhập cho nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn
cầu hoá hiện nay ?
6. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu này được sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, cụ thể như sau:
- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: các số liệu được thu thập trên các trang web
uy tín của các tổ chức quốc tế và các tổ chức trong nước.
- Phương pháp phân tích: Sau khi đã thu thập được số liệu, tiến hành phân tích và
chọn lọc các nội dung nghiên cứu phù hợp với đề tài đã đưa ra.
- Phương pháp so sánh: So sánh các tài liệu nghiên cứu khác nhau trong cùng không
gian, thời điểm để kiểm tra các số liệu một cách chuẩn xác nhất. Đồng thời, so sánh
các kết quả nghiên cứu định tính so với các số liệu thực tiễn.
- Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các nội dung đã có; cùng với đó, tiếp tục bổ sung
những phát hiện mới vào bài nghiên cứu.

6
7. Cấu trúc đề tài
Chương 1: Khái quát về toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế
Chương 2: Mối quan hệ giữa toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế của Việt Nam
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế của Việt Nam trong xu thế toàn cầu
hoá

B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Chương 1: Khái quát về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế

1. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế.
1.1. Toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá là một xu thế phát triển lớn của thế giới ngày nay. Nó là thuật ngữ
thông dụng mà các học giả, các chính trị gia dùng để miêu tả đặc trưng của thời đại.
Đã có rất nhiều cách lý giải khác nhau về toàn cầu hoá:
- Toàn cầu hoá là một quá trình phức tạp, thể hiện và dưới dạng những dòng tư
tưởng, tư bản, kỹ thuật, hàng hoá ở quy mô lớn, đang tăng tốc và khuếch trương trên
toàn thế giới và gây ra những biến đổi căn bản trong xã hội của chúng ta.
- Toàn cầu hoá được hiểu như cách thức diễn đạt một cách ngắn gọn cái quá trình mở
rộng phổ của các quan hệ sản xuất, giao tiếp và công nghệ ra khắp thế giới. Quá trình

7
này đã làm cho các hoạt động kinh tế và văn hoá đan bện vào nhau.
- Toàn cầu hoá như một quá trình (hoặc một tập hợp gồm nhiều quá trình) làm biến
dạng kết cấu không gian của các quan hệ và giao dịch xã hội. Quá trình này làm nảy
sinh các dòng chảy xuyên lục địa hoặc liên khu vực và làm xuất hiện các mạng lưới
hoạt động, tương tác giữa các quyền lực.
- Toàn cầu hoá là một quá trình không thể đảo ngược và là sự hợp nhất giữa các
khuynh hướng như: quá trình quốc tế hoá toàn bộ đời sống xã hội, sự phụ thuộc lẫn
nhau xuyên quốc gia của các công ty, sự phối hợp hành động của các tổ chức quốc tế
khác nhau, và kèm theo đó là quá trình tự do hoá các hình thức giao dịch kinh tế và
xã hội hết sức đa dạng. Toàn cầu hoá không chỉ mở ra các kênh mới của quá trình lưu
chuyển các nguồn tài chính, trí tuệ, con người và vật chất một cách tự do xuyên biên
giới, mà đồng thời còn tạo ra những biến đổi sâu sắc mang tính bản chất đối với đời
sống cũng như hoạt động của mỗi quốc gia (nói riêng) và các dân tộc (nói chung).
- Toàn cầu hoá hay quốc tế hoá (Internationalization) là một quá trình được các nhà
nước kiến tạo một cách chủ động để buôn bán hàng hoá, dịch vụ của mình sang các
nước khác.
- Toàn cầu hoá là phương Tây hoá (đặc biệt là Mỹ hoá) hay hiện đại hoá. Nó là cơ chế
huỷ diệt những nền văn hoá và những thể chế tự trị hiện hành để thay vào đó bằng
một cấu trúc xã hội nhất (dạng chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa công
nghiệp).
- Toàn cầu hoá là quá trình phân rã lãnh thổ nhà nước dân tộc để tạo ra một không
gian siêu lãnh thổ. Nói cách khác, nó đang cơ cấu lại không gian xã hội vốn trước đó
vẫn dựa vào địa lý, khiến cho những sự kiện mang tính địa phương có ảnh hưởng đến
toàn thế giới, và ngược lại, nó làm nảy sinh những dòng chảy và mạng lưới hoạt động
xuyên lục địa, liên khu vực.
- Toàn cầu hoá là sự “thu nhỏ” địa cầu bởi tốc độ giao tiếp, bởi sự xuyên thấu vào
nhau cũng như tương thuộc lẫn nhau về thông tin, bởi quá trình “Internet hoá” nhiều
mặt trong đời sống hiện đại – với tư cách là hệ quả rút ra từ “sự tiến bộ như vũ bão
của khoa học kỹ thuật”.

8
- Toàn cầu hoá là sự hình thành nên một trật tự thế giới tuỳ thuộc lẫn nhau của các
quan hệ siêu quốc tế và xuyên quốc gia. Những mối liên hệ này đang chuyển hoá
mạnh mẽ các cơ chế giải quyết vấn đề nội bộ sang một cơ chế thống nhất chung cho
toàn nhân loại.
- Toàn cầu hoá là một dự án chiến lược, được hiện thực hoá bởi toàn nhân loại, nhằm
tác động một cách có ý thức và có chủ đích đến các quá trình tự phát của sự phát
triển toàn cầu để tạo ra một tương lai mong muốn và thịnh vượng cho con người,
bằng cách dựa vào các nguồn phát triển bền vững.
Có thể thấy, ý niệm về toàn cầu hoá còn nhiều sự phân tán và khác biệt. Tuy nhiên,
sau khi triển khai các phương án, tìm kiếm, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra đưa ra
được nhận định chung về toàn cầu hoá:
- Toàn cầu hoá làm gia tăng mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc
trên thế giới,
- Toàn cầu hoá hình thành nên các thị trường tài chính, hàng hoá, dịch vụ ở cấp độ
toàn thế giới, hay là một nền kinh tế thế giới thống nhất.
- Toàn cầu hoá làm nảy sinh không gian thông tin toàn cầu, theo đó, hoạt động giao
tiếp giữa các chủ thể không còn lệ thuộc nhiều vào không gian địa lý và thời gian vật
lý.
- Toàn cầu hoá chuyển hoá tri thức thành các đơn vị cơ bản tài sản xã hội, và do đó,
tiến đến thay thế loại hình lao động truyền thống bằng lao động sáng tạo.
- Toàn cầu hoá làm cho các giá trị tự do, dân chủ (trước hết là các giá trị gắn với nhân
quyền) thẩm thấu một cách mạnh mẽ vào thực tiễn quan hệ quốc tế, cũng như vào
đời sống chính trị trong nước.
Với những nhận thức trên, có thể đi đến một cách hiểu chung nhất về toàn cầu hoá
là: Toàn cầu hoá được hiểu như cách thức diễn đạt ngắn gọn cho quá trình mở rộng
phổ biến và các mối liên hệ sản xuất, của giao tiếp và của công nghệ ra khắp thế giới.
Quá trình mở rộng như vậy đã làm cho các hoạt động kinh tế văn hoá đơn bện vào
nhau.

9
1.2. Hội nhập kinh tế
Hiện nay người ta đều thấy rằng nhận thức về hội nhập vẫn là một vấn đề thời sự.
Các nước đều khẳng định cần xây dựng nhận thức thống nhất trong nội bộ rằng hội
nhập là cần thiết, phù hợp với xu thế chung, nhất là tham gia WTO sẽ tạo thuận lợi
cho sự phát triển của đất nước.
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở cửa
kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng
không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ kinh
tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự phát
triển kinh tế mỗi nước.
- Các nước đều không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là phải đề ra
được những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức thấp nhất và tranh
thủ cao nhất những cơ hội phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị trường nội
địa. Để hội nhập có hiệu quả phải ra sức tăng cường nội lực, cải cách và điều chỉnh cơ
chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế trong nước để phù hợp
với "luật chơi chung" của quốc tế.
Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến lược
phát triển của
đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của
quá trình hội nhập. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập,
đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế .
- Hội nhập không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt mà nhằm mở
rộng các cơ hội kinh doanh , thâm nhập thị trường, có môi trường pháp lý và kinh
doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập, không bị phân biệt
đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý do khác cản trở việc giao lưu hàng
hoá, dịch vụ và đầu tư. Các nước có thể sử dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải
quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.

10
- Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh nhận thức sâu sắc
và ủng hộ hội nhập, chuẩn bị tốt mọi mặt để chủ động hội nhập từng bước, tận dụng
những lợi thế so sánh của mỗi nước để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
Nhận thức đúng về hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế đối với các nước có ý nghĩa quan
trọng trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và giải pháp để chủ
động hội nhập và tham gia giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu nhằm thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, xã hội.

2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: thuận lợi và khó khăn
2.1. Thuận lợi
Toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu của quá trình tập trung,
chuyên môn sản xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền
kinh tế thế giới phát triển thành một thị trường thống nhất thì
không một quốc gia nào có thể đứng ngoài tiến trình này mà có
thể tồn tại và phát triển được.
Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất mạnh, nhanh sự phát
triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao. Toàn cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ
cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế
tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu kinh tế thế
giới.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự
hình thành và gia tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá,
dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất, được thể hiện qua sự
hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu
vực.
Toàn cầu hoá làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn
nhau giữa các nền kinh tế các nước. Toàn cầu hoá kinh tế làm
cho kinh tế ở mỗi nước có thể trở thành bộ phận của các tổng
thể, hình thành cục diện kinh tế thế giới mới.

11
Toàn cầu hoá kinh tế cũng làm giảm thiểu các chướng ngại
trong việc lưu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực…
giữa các nền kinh tế các nước, làm tăng vai trò kinh tế đối ngoại,
mậu dịch và đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế mỗi
nước.
Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô càng
lớn những thành quả mới về khoa học và công nghệ, về tổ chức
và quản lý, về sản xuất kinh doanh … dọn đường cho công nghệ
hoá, hiện đại hoá.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung
cho nhau và cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá,
dịch vụ, vốn và lao động. Liên kết khu vực vừa củng cố quá trình
toàn cầu hoá, vừa giúp các nước trong từng khu vực bảo vệ lợi
ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng làm cho
sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt chưa
từng có.
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho
nền kinh tế thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình
hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc tham gia
vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc phân bổ nguồn tài
lực hợp lý trên bình diện quốc tế để từ đó phát huy cao độ nhân tố sản xuất hữu
dụng của từng quốc gia.
- Tự do luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế
quan, đơn giản hoá thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ góp phần giảm chi phí
sản xuất, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng.
- Tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều kiện để đa
dạng hoá các loại hình đầu tư, nâng cao hiệu quả, hạn chế rủi ro đầu tư.
- Thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng quản lý, qua đó

12
mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước, đồng thời giúp các nước tiếp nhận đầu tư có
thêm nhiều cơ hội phát triển.
2.2. Khó khăn
- Sự bất ổn định của thị trường tài chính quốc tế. Nguồn tài chính được phân bố
không đồng đều, tập trung vào một số trung tâm tài chính lớn là các nước công
nghiệp phát triển hàng đầu thế giới . Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá càng làm
cho dòng vốn chảy mạnh hơn và tất yếu rủi ro sẽ lớn hơn.
- Khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, các nước nhất là các nước đang phát
triển phải giảm dần thuế quan và bỏ hàng rào phi thuế quan, nghĩa là bỏ hàng rào
mậu dịch, thì các hàng hoá dịch vụ nước ngoài sẽ ồ ạt đổ vào, bóp chết hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nước.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển đã làm tan vỡ các hàng rào bảo hộ của các quốc
gia. Do vậy các quốc gia không chỉ chịu tác động tích cực của quá trình này mà còn
phải chịu cả những chấn động của hệ thống kinh tế toàn cầu trong các lĩnh vực tiền
tệ, tài chính, nguyên nhiên liệu… Các nước càng yếu kém, các chính sách kinh tế vĩ mô
càng không đủ thông thoáng phù hợp với các định chế quốc tế, hệ thống ngân hàng -
tài chính càng lạc hậu… thì càng chịu tác động nặng nề hơn.
- Nguy cơ tụt hậu của một số quốc gia. Trong quá trình hội nhập một số quốc gia
tranh thủ được lợi ích của hội nhập mậu dịch quốc tế và thị trường tài chính quốc tế,
phát huy được lợi thế so sánh, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng mở rộng thương mại,
thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển thì một số nước khác lại không có
khả năng hội nhập vào quá trình phát triển thương mại, thu hút vốn đầu tư tất yếu sẽ
bị đẩy lùi xa hơn nữa về phía sau.
- Mối đe dọa của quá trình toàn cầu hoá là xu hướng hình thành thế độc quyền, tập
trung quyền lực vào một số tập đoàn đầu sỏ quốc tế.
- Quá trình toàn cầu hoá phát triển không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến bộ tham
gia vào quá trình này mà còn có cả các thế lực phản động, các tổ chức khủng bố…
Chính sách đúng đắn là phải ngăn chặn, chống lại mọi hoạt động phá hoại. Nhưng
không thể vì nó mà đóng cửa đất nước hay hạn chế sự hội nhập của đất nước vào

13
quá trình toàn cầu hoá.
Ngoài ra còn có những mặt tiêu cực khác nữa như sự
chênh lệch về trình độ giữa nước giàu và nước nghèo có thể tăng
lên, sự xung đột giữa các nền văn hoá…
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem
đến cho các nước những cơ hội thuận lợi lớn đồng thời cũng
đứng trước những khó khăn thách thức nghiêm trọng. Song
những tác động tiêu cực này có thể lớn nhỏ đến đâu điều đó lại
tuỳ thuộc vào chính sách hội nhập quốc tế của các quốc gia. Một
chính sách hội nhập quốc tế đúng đắn và thích hợp thì tác động
của quá trình này sẽ bị hạn chế và ngược lại.

Chương 2 : Mối quan hệ và thực trạng giữa toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế của
Việt Nam.
2.1. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế tại Việt Nam
Trong khoảng hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai,
kinh tế thế giới có bước phát triển vượt bậc, với đặc điểm cơ bản
là: Tốc độ tăng trưởng nhanh và khá ổn định; lạm phát được
kiềm chế, tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Nhưng từ giữa những năm 70 đến đầu thập kỷ 80 (thế kỉ
XX) “thế giới đang trải qua một trong những cuộc khủng hoảng
kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử
của mình”. Từ thập kỷ 80, toàn cầu hoá là hiện tượng nổi bật và là xu thế khách quan
của nền kinh tế thế giới. Mỗi nước trong quá trình phát triển không thể tách rời sự
tác động của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh tế và hội nhập trở thành
một xu thế tất yếu của thời đại.
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 là một
nền kinh tế kém phát triển. Đặc biệt trong những năm 1976-
1980, kinh tế tăng trưởng chậm chạp,thậm chí có năm giảm sút.
Giai đoạn 1981-1985, nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn, nhưng

14
tình hình kinh tế bất ổn do lạm phát nghiêm trọng.
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân hàng năm
(đvi: %)

Nguồn:
Wikipedia

Trước thực tế trên đã đặt ra cho Việt Nam phải hội nhập kinh tế
quốc tế để tranh thủ vốn, công nghệ để có thể đi tắt đón đầu
vươn lên trở thành 1 nền kinh tế mạnh của khu vực. Sau hơn 3
thập kỷ hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những bước
tiến rõ rệt. Theo quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) trong Báo cáo Triển
vọng kinh tế thế giới vừa công bố, Việt Nam vượt Singapore,
Malaysia thành nền kinh tế thứ 4 Đông Nam Á.Cụ thể, GDP Việt
Nam năm 2020 ước tính sẽ đạt 340,6 tỷ USD, vượt Singapore với
337,5 tỷ USD; Malaysia với 336,3 tỷ USD. Trong khi đó, GDP Thái
Lan trong năm nay sẽ đạt 509,2 tỷ USD; Philippines 367,4 tỷ USD;
Indonesia 1.088,8 tỷ USD.

Hình 2: Quy mô & dự báo tăng trưởng GDP khu vực Đông Nam Á

15
Ngu
ồn:
Infographic
s.vn

16
Ngay khi bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội VI của Đảng
đã nhận định: “Trên thế giới đang hình thành một thị trường”
(khác với trước đó ta thường nhấn mạnh trên thế giới có hai thị
trường vận hành theo các quy luật riêng). Cương lĩnh của Đảng
được thông qua tại Đại hội VII có đánh giá rằng, “Nền sản xuất
vật chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu
sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống
các dân tộc”. Đại hội IX lần đầu tiên đề cập khái niệm “Toàn cầu
hóa kinh tế”, coi đó là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia…và Đại hội X khẳng định lại “Toàn cầu hóa
kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu
tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia,
nhất là các nước đang phát triển." Là một bộ phận cấu thành của
thế giới, nước ta không thể không tính đến và đứng ngoài xu thế
đó.
Trên thực tế nền kinh tế nước ta gắn kết khá chặt chẽ với
kinh tế thế giới cả ở “đầu vào” lẫn “đầu ra”. Để duy trì tốc độ
tăng trưởng tương đối cao, nước ta cần số vốn đầu tư không nhỏ
song vốn trong nước lại có hạn nên riêng trong 5 năm qua đã
phải huy động khoảng 30% nhu cầu vốn từ bên ngoài (cả FDI lẫn
ODA) và nhập khẩu một lượng đáng kể máy móc, thiết bị,
nguyên nhiên vật liệu. Do thu nhập của các tầng lớp dân cư còn
thấp và cần có ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất,
nhiều hàng hóa làm ra phải tiêu thụ tại thị trường bên ngoài, do
đó kim ngạch xuất khẩu của nước ta chiếm tới trên 60% giá trị
GDP (nếu tính cả giá trị xuất nhập khẩu thì chúng chiếm trên
130% GDP, so với Trung Quốc tỷ lệ đó chỉ khoảng 57%).

17
Với nhận thức và nhu cầu nói trên, suốt mấy chục năm
qua Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh yêu cầu mở rộng sự hợp tác
kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ vốn, công nghệ
từ bên ngoài. Đại hội IX lần đầu tiên đã nêu khái niệm “chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế” và tháng 11/2001 Bộ Chính trị Trung
ương Đảng đã thông qua nghị quyết riêng là Nghị quyết 07/NQ-
TW về hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng theo tinh thần đó, Đại hội
X bổ sung thêm ý “tích cực” sau ý “chủ động” hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm nhấn mạnh thêm quyết tâm hội nhập. Trên thực
tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới khi gia nhập Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1995, tổ chức thương mại thế
giới WTO (2006) ký các hiệp định thương mại - đầu tư song
phương với EU, Hoa Kỳ rồi sau là Nhật Bản theo các thông lệ
quốc tế.
2.2. Yêu cầu hội nhập quốc tế
Việt Nam chúng ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước trùng với thời điểm trên thế giới đang diễn ra
những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế. Hoà bình, hợp tác,
phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và
quốc gia trên thế giới. Các nước đều ưu tiên phát triển kinh tế,
cần có môi trường hoà bình, ổn định và thực hiện chính sách mở
cửa.
Không một quốc gia nào có thể phát triển trong một thế
giới ngày càng được toàn cầu hoá mà không nỗ lực hội nhập vào
xu thế chung, điều chỉnh chính sách, giảm dần hàng rào thuế
quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, làm cho việc trao đổi
hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên
phạm vi thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Việt Nam cũng

18
không phải là ngoại lệ. Vấn đề là phải hội nhập như thế nào và
tiến trình hội nhập ra sao cho phù hợp với hoàn cảnh và điều
kiện phát triển của mình. Ngay từ đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (1986) của Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới mà
quan trọng là mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế. Đại hội VII
(1992), đại hội (1990) tiếp tục đường lối đa dạng hoá, đa phương
hoá các mối quan hệ. Đại hội IX (2000) Đảng và Nhà nước càng
nhấn mạnh tinh thần: “Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Chủ trương này đã tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình hội
nhập quốc tế của ta, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao
vây cấm vận, tham gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc
tế.
Chúng ta cũng nhận thức rõ hội nhập kinh tế quốc tế là
việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia vào
các định chế tài chính, kinh tế, thương mại quốc tế, mở rộng hợp
tác kinh tế với bên ngoài, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá
thương mại, đầu tư. Tham gia hội nhập quốc tế thực chất là
tham gia cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế
và củng cố an ninh, chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc
của mỗi nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc
lẫn nhau, đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các quốc gia
khác.
Chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
đất nước, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ,
văn minh.

19
2.3. Điều kiện của Việt Nam khi hội nhập kinh tế thế giới
- Vị trí địa lý thuận lợi
Bản chất kinh tế của vị trí địa lý là địa tô chênh lệch. Vị trí địa lý thuận lợi sẽ cho phép
thu được địa tô chênh lệch cao và ngược lại, vị trí địa lý không thuận lợi chỉ đem lại
địa tô chênh lệch thấp. Vị trí địa lý thuận lợi là lợi thế “so sánh” – là một yếu tố quan
trọng để phát triển kinh tế.
● Nước ta có một vị trí địa lý rất thuận lợi đó là:
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, là nơi gặp gỡ của những
luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh tạo nên tự nhiên Việt Nam phong
phú và đa dạng. Điều này có tác động sâu sắc đến cơ cấu, quy mô và hướng phát
triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
● Việt Nam nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, trở thành một đầu mối
giao thông quan trọng từ ấn Độ Dương tới Thái Bình Dương. Vị trí này cho phép nước
ta có thể dễ dàng phát triển các kinh tế thương mại, văn hoá, khoa học kĩ thuật với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
● Việt Nam nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nhất
thế giới. Điều này tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh,
chủ động phát triển kinh tế. Việt Nam có điều kiện giao lưu với những thị trường sôi
động, học hỏi được những kinh nghiệm quý báu của
các “con rồng Châu Á”.
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng:
● Việt Nam có nhiều loại tài nguyên thiên nhiên, trong đó có nhiều loại có giá trị
kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hoặc khai thác ở mức độ thấp, sử dụng chưa
hợp lý. Đây là nguồn lực bên trong để phát triển kinh tế, đồng thời là đối tượng đầu tư
của tư bản nước ngoài.
● Tài nguyên nhân văn phong phú: bao gồm lực lượng lao động dồi dào và những
hệ thống giá trị do con người tạo ra trong quá trình phát triển lịch sử của dân tộc. Đây
là đối tượng đầu tư phát triển rất quan trọng của tư bản nước ngoài
Những lợi thế trên đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tiến vào thế
giới.

20
2.4. Thực trạng hội nhập của nền kinh tế Việt Nam
Theo quan điểm của Đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập
từng bước, dần dần mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Một lộ
trình “ quá nóng “ về mức độ %, thời hạn mở của thị trường
vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua
thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát
của nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Tuy nhiên
điều đó không có nghĩa là lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo dài
quá trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ
bao cấp của nhà nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, không dốc sức cải
tiến quản lý công nghệ, kéo dài tình trạng kém hiệu quả, yếu sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ
là xác định thời gian mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác
định mục tiêu nền kinh tế nước ta: phát huy lợi thế so sánh,
chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế,
thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng
hoá và đầu tư dịch vụ.
Hình 3: Lộ trình ký kết các FTA

21
Ngu
ồn: Bộ Tài
chính
Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại các
quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế và ngân hàng tài chính thế giới,
đến tháng 10/1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai
tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới.
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ
ngày 1/1/1996 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu
vực mậu dịch tự do ASEAN, tức AFTA. Cùng tháng 7/1995 công
nghệ đã kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học kỹ
thuật và một số lĩnh vực khác với công đồng Châu Âu (EU). Đồng
thời bình thường hóa quan hệ với Mỹ. Khoảng tháng 3/1996,
Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp
tác kinh tế Á-Âu (ASEM). Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương (APEC). Tháng 7/2000, hiệp định thương mại Việt
Nam – Hoa Kỳ đã được ký kết. Trước đó từ cuối năm 1994, nhà
nước ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO) và hiện đang là thành viên chính thức của tổ chức này.
Với việc gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách
chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư đồng bộ theo hướng
minh bạch và tự do hóa hơn, góp phần quan trọng vào việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Cùng với xu hướng thiết lập các khu vực thương mại tự do
trên thế giới, đến nay, Việt Nam đã tham gia ký kết 12 hiệp định
thương mại tự do (FTA) với 56 quốc gia và nền kinh tế trên thế

22
giới, trong đó 6 FTA do Việt Nam chủ động tham gia ngoài khuôn
khổ nội khối ASEAN hoặc với nước đối tác của ASEAN.

Tháng 10/2015, Việt Nam đã cùng các nước thành viên


kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP). Việc tham gia vào TPP giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng
tốt hơn các cơ hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại,
đồng thời có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục
vụ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, triển khai chiến lược hội
nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực châu Á
– Thái Bình Dương nói riêng.

Việt Nam cũng đã chủ động, tích cực tham gia đàm phán
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) nhằm đạt
được một thỏa thuận kinh tế toàn diện, phù hợp với điều kiện
của Việt Nam và các nước ASEAN. Việt Nam đã chính thức gia
nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). Với việc tích cực triển khai
các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây
dựng AEC, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia
thành viên có tỷ lệ thực hiện cao nhất các biện pháp trong lộ
trình AEC…

Những hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và hội nhập
kinh tế quốc tế nói chung góp phần quan trọng vào phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước, mở ra không gian phát triển mới
cho nền kinh tế Việt Nam, mở rộng quan hệ hợp tác sâu, rộng
với các quốc gia trong khu vực và thế giới, nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời, tạo cơ hội để Việt Nam
thực hiện chiến lược cơ cấu lại thị trường xuất khẩu theo hướng

23
cân bằng hơn, thúc đẩy cải cách và tái cơ cấu nền kinh tế, tăng
cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp

2.5. Vai trò của hội nhập kinh tế đối với Việt Nam
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
đã và đang là một trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết
các nước. Nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế
chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc hậu. Trái lại, mở
cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song
đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với
những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công
nghệ truyền thông và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có
mối liên kết chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng
toàn cầu hoá được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền
kinh tế thế giới.
- Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới ngày càng gia tăng. Từ sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá trị trao đổi buôn bán trên thị trường toàn cầu đã
tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch
vụ.
- Về tài chính, số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng gấp 3 lần
trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức kinh tế quốc tế là
một phần của quốc tế hoá. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các nước phát triển
mạnh hơn nữa.
Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn
có những lợi thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý.
Còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt,
thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập.
Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị
chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ
cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, từ một

24
nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc với nền
kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn.
Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu
thế phát triển tất yếu, nhận thức được những cơ hội và thách
thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam,một bộ phận của cộng đồng
quốc tế không thể khước từ hội nhập. Chỉ có hội nhập Việt Nam
mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra những
thuận lợi phát triển kinh tế.
Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt
Nam năm 1991 đã đề ra đường lối chiến lược: “ Thực hiện đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại “. Đến đại hội đảng VIII, nghị quyết TW4 đã đề
ra nhiệm vụ: “giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa
nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội nhập
với khu vực và thế giới”.

2.6. Thời cơ và thách thức của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế
2.6.1. Thời cơ
Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam
phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà Việt Nam
tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạo để nền kinh tế sớm sánh vai với các
cường quốc năm châu.
- Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam:
Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau, vì vậy, khi Việt Nam gia nhập
các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng
ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo
điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong
phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang
các nước thành viên cũng đã tăng đáng kể. Năm 1990, Việt Nam đã xuất khẩu sang
ASEAN đạt 348,6 triệu USD, nhưng đến năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Nếu thực hiện
25
đầy đủ các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có xuất
xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả các thị trường các nước ASEAN. Nếu sau
2000 nước ta gia nhập WTO thì sẽ được hưởng ưu đãi dành cho nước đang phát triển
theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nước thành viên của tổ chức này. Do
vậy, hàng của ta sẽ xuất khẩu vào các nước đó dễ dàng hơn. Đối với các nước EU cũng
vậy, tiềm năng mở rộng thị trường hàng hoá Việt Nam tại các nước đó là rất lớn. Dĩ
nhiên nước ta có bán được hàng ra bên ngoài hay không còn phụ thuộc vào chất lượng,
giá cả, mẫu mã...hay nói cách khác là sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ra sao?
Nếu hàng hoá Việt Nam có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, giá thành rẻ...thì việc chiếm
lĩnh thị trường thế giới là tất yếu. Nhưng do hiện nay nước ta còn thiếu vốn, khoa học
kĩ thuật chưa được cải tiến đồng bộ, do đó chất lượng hàng hóa chưa cao, giá thành
chưa rẻ, mặc dù có được hưởng những ưu đãi về thuế.

- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát
triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế:
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ
mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước
ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà
nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có
hiệu quả hơn.
Hiện nay đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án
đầu tư vào Việt Nam, trong đó có nhều công ty và tập đoàn lớn,
có công nghệ tiên tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nước theo hướng công nghiệp, phát triển lực
lượng sản xuất và tạo nên công ăn việc làm. Tuy nhiên kể từ giữa
năm 1997 đến nay, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta có hướng suy
giảm. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn

26
đầu tư nước ngoài vẫn tăng nhanh. Nếu như năm 1991 đạt 52
triệu USD thì năm 1997 là 1790 triệu USD.

- Viện trợ phát triển ODA: Tiến hành bình thường hoá quan hệ tài chính của Việt
Nam, các nước tài trợ và các thể chế tài chính tiền tệ quốc tế đã tháo gỡ từ năm 1992
đã đem lại những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và
nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng. Tính đến 1999, tổng số vốn viện trợ phát triển cam
kết đã đạt 13,04 tỉ USD. Tuy nhiên, vấn đề quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA còn
bộc lộ nhiều yếu kém, nhất là tình trạng giải ngân chậm và việc nâng cao hiêu quả của
việc sử dụng nguồn vốn ODA.

- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ Việt Nam
Trong những năm qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa
phương, các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã được giải quyết
thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. Điều đó góp phần ổn
định cán cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển
kinh tế xã hội trong nước.

- Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công
nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh
Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kĩ thuật, công nghệ tiên
tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Hội nhập kinh
tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo
ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả . Qua đó mà các kĩ thuật, công nghệ mới
có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kĩ thuật,
công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kĩ thuật, công nghệ quốc gia. Trong
cạnh tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát triển, nhưng
lại là mới, có hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Do yêu cầu sử
dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới.

27
Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin
và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều
kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của
nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng
Nai, Bình Dương, Hải Phòng...và những xí nghiệp liên doanh trong ngành công nghệ
dầu khí đã chứng minh điều đó.
Dĩ nhiên ngoài việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo cơ hội tiếp nhận tiến
bộ kĩ thuật và công nghệ, nước ta vẫn có thể sử dụng ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu
để nhập công nghệ mới về phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh. Song vì nước ta
còn nghèo, dự trữ ngoại tệ rất hạn hẹp, kinh nghiệm tiếp cận thị trường bên ngoài chưa
nhiều, trình độ thẩm định công nghệ lại kém và khả năng quản lý sản xuất kinh doanh
với công nghệ cao còn yếu cho nên còn đường thích hợp hơn với nước ta hiện nay là
tiếp tục đổi mới cơ chế và chính sách, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để lấy lại nhịp
độ gia tăng thu hút đầu tư trực tiếp như những năm trước, qua đó tiếp nhận và chuyển
giao công nghệ có hiệu quả hơn.

- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ
quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi mỗi khi liên
doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước ngoài thì từ người lao động đến các nhà
quản lý đều được đào tạo tay nghề, trình độ chuyên môn được nâng cao. Chỉ tính riêng
trong các công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 600
cán bộ quản lý và 25000 cán bộ khoa học kĩ thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh vực
xuất khẩu lao động tính đến năm 1999 Việt Nam đã đưa 7 vạn người đi lao động ở
nước ngoài.

- Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì hoà bình ổn định, tạo dựng môi trường
thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao vị trí Việt Nam trên trường quốc tế. Đây là
thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động hội nhập.
Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và
các nước Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với
28
166 quốc gia trên thế giới. Với chủ trương coi trọng các mối quan
hệ với các nước láng giềng và trong khu vực Châu á Thái Bình
Dương. Chúng ta đã bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với
Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Đông Nam á. Điều này
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu xây
dựng môi trường quốc tế hoà bình, ổn định nhằm tạo thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Ngoài ra đối với
Mĩ chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1955.
Tháng 7 Việt Nam, Mĩ đã kí kết hiệp định thương mại, đánh dấu
một mốc quan trọng trong tiến trình bình thường hoá nối quan
hệ kinh tế giữa hai nước.

- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước
ta với các nước
Với dân số khoảng 96 triệu người, nguồn nhân lực nước ta
khá dồi dào. Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc
sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội
nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước
ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thông qua hội
nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử dụng lao động thông
qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời
tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ
mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có.
2.6.2. Thách thức
Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những
lợi ích mà còn đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta
không có biện pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã
hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông
minh, chính sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt,

29
dành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển. Mặc
dù đã có những bước tiến quan trọng về tăng trưởng kinh tế.
Song chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh
của các sản phẩm, các doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp.

- Tình hình sản xuất còn mang tính tự phát, chưa bám sát nhu cầu thị trường. Nhiều
sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu
thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí có nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho
lớn. Năng lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ của nước ta nói chung còn thấp do trang
thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém, lạc hậu so với thế giới từ 10
đến 30 năm, cộng thêm những yếu kém về quản lý, môi trường đầu tư kinh doanh (thủ
tục hành chính chưa thông thoáng, chính phủ đầu tư quá cao so với các nước trong khu
vực), hạn chế về cung cấp thông tin xúc tiến thương mại.
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỉ lệ số doanh nghiệp
kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều thực trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp
thực sự đáng lo ngại: nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo dài, tổng số nợ phải thu của
các doanh nghiệp chiếm 24% doanh thu, nợ phải trả chiếm 133% tổng số vốn nhà
nước các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không xác định tự lực phấn đấu vươn
lên mà còn dựa vào sự hỗ trợ, bảo hộ của nhà nước, chưa tích cực chuẩn bị theo yêu
cầu tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Tuy nhiên không thể đổ lỗi hoàn toàn cho các doanh
nghiệp mà nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Chi phí
sản xuất của các doanh nghiệp còn lớn đang làm giảm sức cạnh
tranh của các sản phẩm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ
có thể giảm chi phí đầu vào bằng cách đầu tư công nghệ mới,
thay đổi phương thức quản lý triệt để tiết kiệm. Song họ không
thể ngăn chặn được sự gia tăng của chi phí đầu vào do sự leo
thang giá cả của không ít loại vật tư, nguyên liệu, điện nước,
cước phí giao thông, viễn thông. Nhất là cước phí của các ngành

30
có tính độc quyền. Chẳng hạn như giá truy cập internet trực tiếp
có mức cước cao hơn các nước trong khu vực là 139%...Thêm
vào đó hầu hết các sản phẩm của ta dù để xuất khẩu hay tiêu
dùng đều phải nhập ngoại nguyên, phụ liệu nên chi phí đầu vào
cao. Đã vậy hàng nhập khẩu ngoài việc phải chịu thuế nhập khẩu
còn phải chịu thuế VAT dù chưa có giá trị tăng thêm. Trong khi
đó thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng lại chậm, do vậy làm khó
khăn cho doanh nghiệp về vòng quay vốn, chịu lãi suất ngân
hàng. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải chịu chi phí do sự sách
nhiễu của một số cán bộ nhà nước thoái hoá biến chất. Hơn nữa
sự rườm rà về thủ tục hành chính, thanh kiểm tra chồng chéo
cũng làm tăng chi phí đầu vào của các doanh nghiệp. Do chi phí
đầu vào cao nên giá thành sản phẩm quá cao so với khu vực và
thế giới, dẫn đến ứ đọng, khó tiêu thụ, năng lực sản xuất không
khai thác hết làm cho nhiều doanh nghiệp thua lỗ.
Điều đáng lo ngại nữa hiện nay là mặc dù thời điểm hội
nhập với khu vực và thế giới đang đến gần, song tư tưởng đòi
bảo hộ, chưa tích cực chuẩn bị còn phổ biến ở nhiều doanh
nghiệp. Theo điều tra của phòng Thương Mại và Công Nghiệp
Việt Nam mới có 84% doanh nghiệp điều tra trả lời là có nhận
được tin về hội nhập, 16% doanh nghiệp chưa có hiểu biết về
quá trình hội nhập. Trong các doanh nghiệp sản xuất hàng công
nghiệp chỉ có 23,8% doanh nghiệp có hàng hoá xuất khẩu, 13,7%
doanh nghiệp có triển vọng xuất khẩu và 62,5% doanh nghiệp
hoàn toàn không có khả năng xuất khẩu. Việc Trung Quốc, Đài
Loan gia nhập WTO, việc 6 nước thành viên ASEAN cũ thực hiện
AFTA từ 1/1/2002 và gần đây Nhật Bản ký thỏa thuận với
Singapore về thành lập khu vực tự do thương mại giữa hai nước,
cũng như kế hoạch thành lập khu vực tự do thương mại giữa

31
Trung Quốc và ASEAN vào 2010 sẽ tạo ra 1 số thuận lợi, song sẽ
làm tăng cạnh tranh gay gắt về kinh tế giữa các nước trong khu
vực cũng như đối với nền kinh tế nước ta về thương mại, đầu tư.

- Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam mặc dù đang được cải tiến song nhìn
chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn: khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho
cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực
của một số tổng công ty nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu
minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành
chính còn rườm rà, chưa thông thoáng. Các thể chế thị trường như thị trường vốn, sức
lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản...còn sơ khai, chưa hình thành
đồng bộ.

- Nguồn nhân lực Việt Nam dồi dào nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao động rẻ có xu
hướng đang mất dần
Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường
rộng lớn nên ngành may mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế
cạnh tranh cao nhất trong nhóm năm sản phẩm công nghiệp có
khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên lợi thế về nhân công rẻ đang mất
dần và giá nhân công các ngành này hiện đang cao hơn một số
nước trong khu vực. Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ
năng, trình độ tay nghề cần phải chi phí đầu tư lớn, điều này sẽ
làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng đến sức cạnh
tranh của hàng hoá.
Như vậy nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém, sức cạnh tranh
thấp.
2.7. Những nguy cơ của Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế
- Tạo ra thách thức với các doanh nghiệp trong nước
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước
ta phải giảm dần thuế quan và gỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì

32
hàng hoá nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn
vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về việc
làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Bởi hàng hóa Việt
Nam do kỹ thuật và công nghệ và quản lý còn kém nên chất
lượng thấp, giá thành lại cao. Trong khi đó, nước ngoài với dây
chuyền công nghệ hiện đại, tay nghề lao động vững vàng, trình
độ quản lý cao, vốn lớn nên sản phẩm làm ra mẫu mã đẹp, chất
lượng tốt lại không phải nộp thuế khi xuất khẩu sang thị trường
Việt Nam nên giá thành phù hợp. Sức cạnh tranh bấp bênh của
các doanh nghiệp trong nước được thể hiện rõ. Ví dụ đường của
ta xuất xưởng năm 1999 là 340 – 400 USD/tấn nhưng giá nhập
khẩu chỉ có 260 – 300 USD/tấn (giá nhập khẩu rẻ hơn giá xuất
xưởng 20 – 30%), giá sắt thép trong nước sản xuất bình quân 300
USD/tấn nhưng nhập khẩu chỉ 285 USD/tấn, giá xi măng Việt
Nam là 840 ngàn đồng/tấn trong khi nhập khẩu chỉ có 630 ngàn
đồng/tấn.
Với vấn đề trên, nhiều doanh nghiệp trung bình và yếu
kém thường đòi hỏi nhà nước thi hành chính sách càng lâu càng
tốt. Tuy nhiên nếu đứng từ góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài của
quốc gia mà xem xét thì nhà nước không thể và không nên đáp
ứng đòi hỏi của các doanh nghiệp đó. Bởi Việt Nam có nghĩa vụ
thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại. Khi đã tham gia
vào các tổ chức kinh tế thế giới. Hơn nữa, việc thi hành chính
sách bảo hộ mậu dịch luôn là con dao hai lưỡi. Một chính sách
bảo hộ có chọn lọc có điều kiện có thời hạn thích hợp thì sẽ kích
thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới, tích cực
vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trái lại, một chính
sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành gậy ông đập lưng
ông gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội. Chẳng hạn như việc hạn

33
chế định lượng nhập khẩu xi măng
năm 1999, làm cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi măng nhập khẩu chưa có
thuế là 50%. Do đó năm 1999, toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu USD để bảo hộ
ngành xi măng, trong đó gần 1/2 số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thương mại
tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nước khác. Nhưng
hiện tại chúng ta vẫn còn tụt hậu khá xa về kinh tế (nhất là trình độ công nghệ và thu
nhập bình quân đầu người) so với các nước trong các tổ chức kinh tế mà ta sẽ và đã
tham gia. Chẳng hạn so với AFTA, thu nhập bình quân đầu người của ta chưa bằng
1/3 của Indonesia, 1/100 của Singapore...Đây là một thách thức, bất lợi lớn đòi hỏi ta
phải có nỗ lực và quyết tâm cao. Đã vậy, trên thị trường thế giới ta mới chỉ xuất khẩu
các mặt hàng sơ chế như: dầu thô, gạo, cà phê...còn các sản phẩm công nghiệp chế
biến nhất là sản phẩm chất lượng cao còn ít, sức cạnh tranh yếu. Trong khi đó giá mặt
hàng nguyên liệu và sơ chế lại bấp bênh hay bị tác động xấu, bất lợi cho nước xuất
khẩu.

- Ảnh hưởng đến quyền độc lập tự chủ của một quốc gia
Không ít ý kiến cho rằng: nước ta hiện nay với xuất phát
điểm kinh tế quá thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển
đổi, thị trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể
của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản xuất hàng hoá nhỏ, công
nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém.
Trong khi đó các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản
phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt. Do đó nếu chúng ta
mở rộng quan hệ với các nước đó thì nước ta khó tránh khỏi sẽ
bị lệ thuộc về kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc về mặt kinh tế có thể đi
đến không giữ vững được quyền độc lập tự chủ.
Độc lập tự chủ về thực chất là mỗi nước cần có sự tự lựa
chọn còn đường và mô hình phát triển của mình, tự quyết định

34
các chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội, tự đề ra mục tiêu
chiến lược và kế hoạch trong từng thời kỳ và các biện pháp thực
hiện mục tiêu đó. Nhưng độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng
cửa với thế giới. Nếu đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế
chung của thời đại, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển.
Khi tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được sớm khắc
phục thì sẽ làm xói mòn lòng tin của nhân dân, làm nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo ra nguy cơ tư bên trong đối với
trật tự an toàn xã hội. Trái lại, mở rộng hợp tác kinh tế hai bên
cùng có lợi, nước ta với các nước, các tổ chức quốc tế đan xen
lợi ích với nhau, chúng ta sẽ có thêm thế lực để củng cố độc lập
tự chủ của đất nước. “Quốc gia nào muốn độc lập và giàu mạnh
thì phải buôn bán với nhiều nước, còn quốc gia nào chỉ buôn bán
với một nước thôi thì khó tránh khỏi bị phụ thuộc vào nước duy
nhất ấy” (Jose Marti)

- Ảnh hưởng tới bản sắc dân tộc


Xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập với quốc tế thông qua “siêu lộ” thông
tin với mạng internet, một mặt tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc,
cộng đồng ở mọi nơi có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hoá, dịch vụ, kiến
thức...Qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công
nghệ, mở mang sự hiểu biết về văn hoá của nhau. Mặt khác, quá trình trên cũng làm
nảy sinh mối nguy cơ ghê gớm về sự đồng hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe
doạ, làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối
với sự tồn tại của nhân loại.
Nguy cơ nói trên lại càng tăng gấp bội khi một siêu cường
nào đó tự xem giá trị văn hoá của mình là ưu việt, từ đó nảy sinh
thái độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân
tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là xâm lược văn hoá với
nhiều biện pháp trắng trợn tinh vi. Trước tình hình đó chúng ta

35
không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao
đổi, đối thoại với bên ngoài. Ngược lại, chúng ta, với bản lĩnh vốn
có của dân tộc: “ hoà nhập chứ không hoà tan “, tiếp thu những
yếu tố nhân bản, hợp lý, khoa học tiến bộ của văn hoá các nước
để làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc. Đây sẽ là nhân tố khơi dậy
tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị vật chất và tinh thần
mới trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên chúng ta cũng tỉnh táo phản đối những văn hoá ngoại
lai không phân biệt tốt hay xấu dẫn đến mất gốc, lai căng về văn
hoá gây hậu quả xấu về tư tưởng đạo đức của các tầng lớp dân
cư.
Như vậy chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị
ưu tú của văn hoá dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá
của nhân loại thì văn hoá Việt Nam ngày nay mới có thể đóng
được vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực và sẽ điều tiết sự
phát triển của kinh tế xã hội.

Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế của Việt Nam trong xu thế toàn cầu
hoá
3.1. Tầm vĩ mô
- Đồng bộ hệ thống pháp luật
● Tham gia vào hội nhập kinh tế với những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức kinh
tế, chúng ta phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ và chặt chẽ để đảm bảo thực
hiện những nguyên tắc đó.
● Nhà nước phải đề ra những bộ luật rõ ràng, cụ thể về đầu tư, thuế xuất nhập
khẩu, quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong và ngoài nước...Có như vậy
mới tạo ra được một môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế.
- Điều chỉnh chính sách
● Một nền kinh tế muốn phát triển được không chỉ dựa vào những điều kiện tài
nguyên thiên nhiên sẵn có mà còn cần phải có những quan điểm chỉ đạo, chính
36
sách cải cách kinh tế hợp lý. Những chính sách đó bao gồm trên tất cả các lĩnh
vực: thương mại – dịch vụ, đầu tư, tài chính – tiền tệ...
● Chính sách thương mại
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những
phương hướng để tiếp tục phát triển kinh tế trong chiến lược 10
năm 2001 – 2010 của nước ta. Một nội dung quan trọng của hội
nhập là mở của thị trường trong nước hướng ra thị trường quốc
tế. Tức là các vấn để thương mại giữa các bên cần phải có sự
quan tâm đặc biệt. Các cam kết trong các hiệp định thương mại
quốc tế đặt ra những yêu cầu phải điều chỉnh quy chế thương
mại của Việt Nam.
Cải cách thương mại theo hướng mở cửa và tự do hoá luôn là một nội dung quan
trọng hàng đầu của mọi chương trình cải cách cơ cấu. Các quốc gia thực hiện cải cách
thương mại thường nhằm 1 trong hai mục đích: khắc phục khủng hoảng cán cân
thanh toán hoặc tạo lập môi trường thuận lợi cho tăng trưởng nhanh chón và bền
vững. Với Việt Nam trong những năm qua đã thực hiện 3 cuộc cải cách thương mại.
Cuộc cải cách lần thứ nhất từ 1988 – 1992 do tình thế cấp bách với mục tiêu chính là
khắc phục khủng hoảng kinh tế. Lần cải cách thứ hai được thực hiện một cách bài bản
hơn trong chương trình ESAF và SAC, có sự hỗ trợ của IMF và WB trong thời gian từ
1994 đến 1997, dựa trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên sau cuộc cải cách này, chế độ
thương mại của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và đặt Việt Nam ở tư thế bất lợi vì
phải mở cửa và cạnh tranh với bên ngoài.
Đến cuộc cải cách lần thứ 3, theo chương trình PRVS và PRSC
cuối thập kỉ 90 và đầu những năm 2000 đã thực sự đem lại cho
Việt Nam những điều kiện thuận lợi để hội nhập:
Trong năm 1999, thống nhất với Nhật Bản trong khuôn khổ
chương trình Miyazawa về một lịch trình xoá bỏ các hàng rào phi
thuế quan từ nay cho đến năm 2010 đối với 20 nhóm mặt hàng
nhập khẩu có điều kiện.

37
Trong năm 2000 đã đưa 9 nhóm mặt hàng ra khỏi danh mục
cần giấy phép nhập khẩu như xút lỏng, hàng tiêu dùng bằng
sành, thuỷ tinh...mở rộng sự tham gia của tư nhân vào xuất khẩu
gạo khi cho phép 5 công ty tư nhân và 4 liên doanh được phép
xuất khẩu gạo.
Tháng 7, chính phủ đã ký hiệp định thương mại với Hoa kỳ,
trong đó cam kết theo một lịch trình nhất định về việc tự do hoá
thương quyền, xoá bỏ các hạn chế định lượng đối với hầu hết
các sản phẩm, giảm thuế suất đối với một số hàng công nghiệp
và nông sản...
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã hoàn tất lịch trình giảm thuế
quan cho giai đoạn 2001-2006 theo khuôn khổ AFTA, dỡ bỏ yêu
cầu tự cân đối ngoại tệ cho doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài.
Như vậy, các nội dung cải cách thương mại nói trên là phù
hợp với đường lối của Đảng và nhà nước Việt Nam trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên chương trình cải cách
thương mại phải được xây dựng và thực hiện trong mối liên hệ
chặt chẽ với các chính sách vĩ mô thận trọng để hạn chế tối đa
các tác động tiêu cực của nó đem lại. Cải cách thương mại đòi
hỏi ý chí chính trị mạnh mẽ. Không nên vì nền kinh tế vẫn phát
triển mà trì hoãn cải cách thương mại. Vì sự cạnh tranh ác liệt và
những khó khăn hơn nhiều so với các nước công nghiệp hoá đi
trước đòi hỏi Việt Nam - đi sau phải chủ động đi nhanh hơn các
nước khác. Việc thực hiện cải cách thương mại lần thứ 3 cùng
với các biện pháp cải cách trong các lĩnh vực khác của chương
trình sẽ giúp Việt Nam khắc phục được những bất hợp lý có hại
cho nền kinh tế; đồng thời đẩy nhanh được tốc độ tăng trưởng
thêm từ 1,2 – 2% trên một năm. Số các doanh nghiệp nhà nước

38
trực tiếp sản xuất 6 nhóm mặt hàng phải xoá bỏ hạn chế định
lượng vào năm 2003 và phải áp dụng mức thuế quan bằng nửa
mức thuế suất hiện hành chỉ chiếm 10% số doanh nghiệp nhà
nước sẽ buộc phải cơ cấu lại để có thể cạnh tranh được với nước
ngoài.
● Chính sách tài chính
Chính sách tài chính bao gồm rất nhiều mảng, chiều lĩnh vực
phức tạp liên quan đến toàn bộ dòng chu chuyển vốn và tiền tệ
của nền kinh tế. Do đó chính sách tài chính cũng có tầm quan
trọng đặc biệt trong phát triển kinh tế. Để tham gia hội nhập
thành công, chúng ta không những chỉ cần một hệ thống chính
sách tài chính linh hoạt, nhất quán và đồng bộ, mà cần phải có
những giải pháp nhằm cải cách chính sách tài chính phù hợp
nhất.
● Về chính sách thuế
Theo nguyên tắc cơ bản của bất kỳ tổ chức kinh tế nào cũng đều
có miễn giảm thuế nhập khẩu và xóa bỏ hàng rào phi thuế quan.
Do đó:
Đối với thuế nhập khẩu cần phải xây dựng hệ thống thuế
quan hợp lý, vận dụng chiến lược đàm phán thuế trần cao hơn
mức áp dụng hiện tại; sử dụng tích cực chính sách thuế làm
phương tiện bảo hộ hữu hiệu và hợp lý cho sản xuất trong nước,
loại trừ dần các biện pháp phi quan thuế.
Đối với thuế gián thu trong nước, tiếp tục hoàn thiện các
sắc thuế, đặc biệt là
thuế giá trị gia tăng (VAT).
Đối với thuế thu nhập duy trì hợp lý thuế thu nhập doanh
nghiệp, mở rộng diện đánh thuế thu nhập cá nhân với mức thuế
suất thấp để dễ quản lý.

39
● Về chính sách tỷ giá
Hội nhập kinh tế về thương mại đầu tư đòi hỏi thay đổi cơ
chế điều hành tỷ giá. Tháng 2/1999, ngân hàng nhà nước đã thay
đổi cơ chế điều chỉnh tỷ giá bình quân hình thành trong phiên
giao dịch ngày hôm trước được dùng làm tỷ giá chính thức công
bố cho phiên giao dịch ngày hôm sau. Đồng thời, biên độ giao
dịch cũng được thu hẹp từ 10% xuống còn 0.1% Nhờ sự thay đổi
cơ chế điều hành như trên mà chênh lệch tỷ giá công bố với tỷ
giá giao dịch thực tế đã giảm đáng kể. Ngoài ra cùng với sự thay
đổi cơ chế điều hành tỷ giá, cần kết hợp nhiều biện pháp kiểm
soát sự biến động của tỉ giá thực tế, quản lý chặt chẽ mọi khoản
vay nước ngoài. Mặt khác, cần nâng dự trữ ngoại tệ lên ít ra là
mức 3 tháng nhập khẩu để đảm bảo hiệu lực điều tiết của ngân
hàng trung ương khi cần thiết. Cần nâng dần sức cạnh tranh của
đồng Việt Nam tránh đi đến kết cục phá giá mạnh, gây mất ổn
định kinh tế.
● Về cơ chế chính sách lãi suất
Chính phủ cần hạn chế sử dụng tiền thu được từ việc phát
hành trái phiếu để cho vay đầu tư với lãi suất thấp.
Từng bước bãi bỏ hệ thống lãi suất trần, tiến tới việc xác
định lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Biện pháp tình thế: thực hiện chính sách lãi suất thấp để
khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế.
Như vậy nhìn chung cần phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô trên lĩnh vực
tài chính trong quá trình hội nhập.
● Những chính sách trên lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp
Tăng cường thu hút vốn FDI và tích cực chuẩn bị hội nhập trên lĩnh
vực đầu tư :
- Đa dạng hoá hơn nữa các hình thức thu hút vốn FDI. Cho phép các doanh nghiệp có

40
vốn FDI được thí điểm chuyển đổi từ công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ
phần và phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn đầu tư. Cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước theo một tỉ lệ khống chế
nhất định...
- Hướng dẫn triển khai và xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh liên quan đến việc áp
dụng các luật thuế mới như: thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT...
- Rà soát lại thuế suất thuế nhập khẩu để khuyến khích nội địa hoá, khắc phục tình
trạng thuế nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện cao hơn nhập khẩu thành
phẩm.
- Xây dựng phương án, lộ trình áp dụng thống nhất các loại giá cả dịch vụ đối với các
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo tinh thần
nghị quyết hội nghị TW4.
- Xử lý thoả đáng mối quan hệ giữa công nghệ và sử dụng lao động, mối quan hệ giữa
tiền lương và vấn đề việc làm.
- Bên cạnh việc nỗ lực thu hút FDI cần tích cực chuẩn bị cho quá trình hội nhập về đầu
tư bằng cách:
o Sớm thống nhất luật đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài, đảm bảo đối xử
quốc gia.
o Mặt khác, cần nghiên cứu một số chính sách và bảo hộ cần thiết đối với các xí
nghiệp trong nước trong đó có xi nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài.

Tiếp tục xây dựng thị trường chứng khoán chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế:
- Thị trường chứng khoán trong một nền kinh tế là điều kiện cần thiết thúc đẩy hội
nhập. Bởi thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp, đặc
biệt là vốn cổ phần. Việc huy động vốn cổ phần qua thị trường chứng khoán là một
biện pháp cân đối lại tỉ lệ vốn sở hữu so với vốn vay và như vậy giảm được các rủi ro,
nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán là nơi thuận tiện để
mua bán trái phiếu chính phủ, tạo điều kiện cho việc phát hành trái phiếu chính phủ

41
quy mô lớn với chi phí thấp nhất.
- Nhìn chung, các chính sách trên mà được điều chỉnh và cải cách phù hợp sẽ tạo điều
kiện để Việt Nam gia nhập quốc tế.
● Cải cách thủ tục hành chính
Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường nhưng tự do trong khuôn khổ
của pháp luật và theo định hướng XHCN. Vì vậy, nền kinh tế vẫn còn nhiều rườm rà
gây cản trở việc thực hiện một số dự án kinh tế quan trọng. Chẳng hạn như một công
ty muốn xin giấy phép xuất khẩu phải trải qua rất nhiều “ cửa “. Mỗi cửa lại phải tốn
một chi phí gọi là “ làm luật “. Điều đó không chỉ làm tăng chi phí của công ty mà
nhiều khi làm cho doanh nghiệp để tuột mất thời cơ vì khi xin được giấy phép xong
thì đã quá muộn. Hay tình trạng nhiều cơ quan chức, năng nhiệm vụ chồng chéo lên
nhau dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm khiến cho các doanh nghiệp nhiều khi
không biết kiến nghị hoặc kiện tụng ai. Do đó, chính phủ cần phải có những biện pháp
cải cách thủ tục hành chính như:
- Cụ thể hoá sự phân cấp quản lý giữa các cơ quan của chính phủ với các cấp chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ phù hợp với yêu cầu nâng cao hiệu lực chỉ
đạo, điều hành thống nhất và thông suốt của hệ thống tài chính nhà nước và thủ
trưởng cơ quan hành chính.
- Khắc phục tình trạng nhiều đoàn kiểm tra, thanh tra chồng chéo lên nhau gây phiền
hà tốn kém cho cơ sở.
3.2. Tầm vi mô
Như chỉ có những chính sách của nhà nước mà không có
sự hợp tác của các doanh nghiệp thì Việt Nam vần chưa đủ điều
kiện để hội nhập. Do vậy doanh nghiệp cũng là một yếu tố rất
quan trọng trong quá trình hội nhập.
Theo nhiều ý kiến hiện nay, Việt Nam gia nhập các tổ chức
kinh tế, tiến hành ký kết các hiệp định một mặt mở rộng thị
trường cho các doanh nghiệp Việt Nam nhưng mặt khác nó lại là

42
thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình
cạnh tranh. Các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, quy mộ sản xuất không lớn, thiếu vốn, công
nghệ chưa được cải tiến đồng bộ...do vậy chất lượng hàng hoá
thấp nhưng giá thành lại cao. Hơn nữa nhiều doanh nghiệp lại
quen với “ vòng tay bảo hộ “ của nhà nước nên thụ động với nền
kinh tế thị trường. Như vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp Việt Nam là thách thức lớn nhất đối với vấn đề
hội nhập của nước ta. Vấn đề đặt ra là phải làm gì và làm như
thế nào để phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng doanh
nghiệp và của cả đất nước, vận dụng có hiệu quả cơ hội, giảm
thiểu những thách thức do hội nhập đem lại. Để làm được điều
đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng một kế hoạch dài
hạn với những biện pháp cụ thể cải tạo tình hình hướng tới phát
triển. Các biện pháp đó có thể là:
- Các doanh nghiệp phải nắm bắt và vận dụng sáng tạo các thành tựu khoa học công
nghệ mới vào quy trình sản xuất kinh doanh: đổi mới dây chuyền công nghệ sẽ giúp
cho các doanh nghiệp giảm được chi phí đầu vào, từ đó hạ được giá thành sản phẩm
mà chất lượng lại cao. Những tiến bộ về khoa học công nghệ còn giúp cho doanh
nghiệp giảm được số lao động trực tiếp sản xuất, dẫn tới giảm nhân công và tăng
lương cho người lao động.
- Các doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi thực trạng của thị trường: khảo sát
nhu cầu của thị trường, xác định lượng cung, lượng cầu để có kế hoạch sản xuất. Bởi
hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục sản xuất các sản phẩm với giá trị gia tăng
thấp trong khi nhu cầu thị trường đã có sự chuyển đổi. Để khảo sát được thị trường,
doanh nghiệp có thể tổ chức các đợt tiếp thị, quảng cáo sản phẩm đến tận tay người
tiêu dùng. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp cần có tầm nhìn dài đón đầu
được xu hướng thay đổi thị trường khu vực và thế giới.
- Các doanh nghiệp còn phải coi trọng cải tiến quản lý tài chính. Các chế định tài chính

43
cần được củng cố vững mạnh và có công nghệ hiện đại đủ sức cạnh tranh các dịch vụ
tài chính với các định chế tài chính nước ngoài để doanh nghiệp và nhà đầu tư trong
nước không tìm kiếm dịch vụ nước ngoài.
- Một vấn đề quan trọng nữa hiện nay đối với các doanh nghiệp là nâng cao tay nghề
của người lao động. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tạo điều kiện cho người lao động
tiếp cận với công nghệ hiện đại, tổ chức đào tạo nghiệp vụ qua trường lớp. Ngoài ra,
doanh nghiệp còn phải quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của người lao
động để người lao động có đủ điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Nói tóm lại, những giải pháp cả ở tầng vĩ mô và vi mô trên mà được thực hiện tốt thì
trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ mở rộng thị trường mạnh mẽ trên thế giới.

C. KẾT LUẬN
Thế kỷ 21 đang bước những bước đi đầu tiên. Quá trình hội nhập của Việt Nam trong
thế kỉ 21 – thế kỉ của công nghệ thông tin cũng đang dần được mở rộng. Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế thực sự là điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể phát triển
kinh tế và hoàn thành sứ mệnh “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Bởi Việt
Nam không chỉ là đi theo xu hướng chung của thời đại mà còn tìm kiếm những thời
cơ cho đất nước. Việt Nam hộ nhập với thế giới sẽ tạo ra rất nhiều điều kiện thuận
lợi. Đó không chỉ đơn thuần là mở rộng giao lưu với các nước mà còn là minh chứng
cho sự khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế. Từ việc mở rộng thị trường,
thu hút vốn đầu tư...làm cho doanh nghiệp có thị phần ngày càng rộng lớn trên thế
giới. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập cũng không tránh khỏi những khó khăn, thử
thách như: hội nhập với các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ đe dọa đến sự tồn tại của một
số doanh nghiệp trong nước, ảnh hưởng tới chính trị, văn hoá của một quốc
gia...Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ đi thời cơ của mình. Trái lại, chúng ta “hoà
nhập chứ không hoà tan”, các doanh nghiệp Việt Nam không tự chôn mình mà tìm

44
những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh. Nói một cách chung nhất, chúng ta
hãy tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn, đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập
hơn nữa. Chúng ta, những chủ nhân tương lai của đất nước phải thấy được tầm quan
trọng của vấn đề hội nhập đối với sự phát triển của quốc gia. Từ đó thực hiện tốt
trách nhiệm của mình để góp phần vào sự tiến bộ của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Văn kiện đại hội đảng VII, VIII, IX.
2. Nguyễn Luyện, (2000), Việt Nam trên đường hội nhập kinh tế thế giới, Tạp chí
xây dựng số 6 – 2000.
3. Lênin, Chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản toàn tập – tập
27
4. Nguyễn Thanh Mai (2000), Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập của Việt Nam trước
thiên niên kỷ mới, Thương mại số 7 – 2000.
5. Phạm Bình Mân, (2001), Hội nhập kinh tế quốc tế: cơ hội và thách thức, Tạp chí
công nghệ Việt Nam số 3 – 2001.
6. Phạm Thị Túy, (2002), Toàn cầu hoá và những tác động, Nghiên cứu kinh tế số
290 – tháng 7/2002.
7. Phạm Thái Việt, (2006), Toàn cầu hóa – Những biến đổi lớn Anh đã sang chính trị

45
quốc tế và văn hoá, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, Hà Nội, 2006.
8. Smith M.K and Smith M.,(2002), Globalization: The Encyclopedia of Informal
Education.
9. Trịnh Xuân Việt, (2019), Tác Động Của Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế Đến Tăng Cường
Tiềm Lực Quốc Phòng Ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật.
10. Ngô Thị Tuyết Mai, (2016), Giáo trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb. Đại học Kinh
tế Quốc dân.
11. Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia
12. Ulrich Beck, (2018), What is Globalization ?.
13. Kaparnyk Maria Andreevna, (2021), The process of globalization: Problem of
inequality in globalization.
14. Henry Ogaga Aghwaritefe, (2021), The future of globalization process.
15. Richard W. Mansbach & Yale H. Ferguson, (2021), The Future of Globalization and
the Liberal Global Order.
16. Njazi Halili & Arbresha Meha, (2020), Economic integration.
17. Koichi Ishikawa, (2021), The ASEAN economic community and ASEAN economic
integration.

46

You might also like