Professional Documents
Culture Documents
kỷ yếu 2
kỷ yếu 2
Từ bảng kết quả trên ta có thể thấy FCFE và FCFE có sự phân hóa rõ rệt giữa các doanh
nghiệp thực phẩm trong giai đoạn 2011-2017 . Trong đó giá trị trung bình của FCFE là
678267.3, còn giá trị lớn nhất, nhỏ nhất của FCFE cho ta thấy nhiều DN thực phẩm niêm yết
kinh doanh rất kém trong giai đoạn này và một số khác thì hoạt động khá tốt, có dư tiền để chi
trả cổ tức cho cổ đông. Bên cạnh đó, giá trị trung bình của FCFF là 509028.7, với giá trị nhỏ
nhất là âm cho thấy trong 26 DN thực phẩm niêm yết trong mẫu nghiên cứu, dòng tiền ở một
số DN được tạo ra không đủ để tài trợ cho nhu cầu đầu tư mới vào TSCĐ và vốn lưu động
thuần tăng thêm. Khả năng thanh toán có giá trị trung bình là 1.73 khá cao, tuy nhiên giá trị
chung trải dài từ 0.36 đến xấp xỉ 8.48, điều này cho thấy có sự chênh lệch rất lớn giữa DN có
khả năng thanh toán kém nhất và DN có khả năng thanh toán tốt nhất. Tổng nợ phải trả
(TNPTra) có giá trị trung bình là 2564481 và dao động trong khoảng (17908;5.27e+07), điều
này cho thấy bên cạnh những doanh nghiệp dùng đòn bẩy tài chính gần như tuyệt đối thì vẫn
có những doanh nghiệp dùng đa số là vốn chủ để giảm thiểu rủi ro. Các biến nợ phải thu, hàng
tồn kho cũng là những biến có sự chênh lệch rất lớn giữa giá trị lớn nhất và nhỏ nhất.
4.2 Phân tích và kiểm định mô hình
4.2.1.Trường hợp FCFE là biến phụ thuộc
Coefficients
(b) (B) (b-B) sqrt(diag(V_b-V_B))
fe re Difference S.E.
chi2(3) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 1.53
Prob>chi2 = 0.6759
Nguồn: Kết quả thực hiện của nhóm nghiên cứu từ phần mềm STATA.
Kết quả kiểm định cho thấy mô hình REM phù hợp hơn mô hình FEM.
2. Kết quả chạy mô hình với FCFE là biến phụ thuộc theo phương pháp REM
sigma_u 0
sigma_e 1519404.3
rho 0 (fraction of variance due to u_i)
Nguồn: Kết quả thực hiện của nhóm nghiên cứu từ phần mềm STATA.
Từ bảng kết quả trên, có thể thấy các biến giải thích được cho FCFE là biến Hàng tồn
kho, biến kỳ thanh toán, tổng nợ phải thu (với mức ý nghĩa 5%), như vậy trong số các biến
độc lập nghiên cứu, có 3 biến có ảnh hưởng đến FCFE (dòng tiền thuần của doanh nghiệp),
các biến còn lại chưa kết luận được.
3. Kiểm định khuyết tật đa cộng tuyến cho mô hình REM
Nguồn: Kết quả thực hiện của nhóm nghiên cứu từ phần mềm STATA
. vif, uncentered
.
Kiểm định trên cho thấy các biến cố định trong mô hình có hệ số VIF < 10 và không có
hiện tượng đa cộng tuyến.
4. Kiểm định phương sai sai số thay đổi cho mô hình REM
Nguồn: Kết quả thực hiện của nhóm nghiên cứu từ phần mềm STATA
Như vậy, kiểm định Breusch and Pagan Lagrangian cho thấy mô hình không có phương
sai sai số thay đổi với P- value > 0,05.
5. Kiểm định hiện tượng tự tương quan trong mô hình
Nguồn: Kết quả thực hiện của nhóm nghiên cứu từ phần mềm STATA
Thông qua kiểm định Wooldridge cho thấy mô hình có tự tương quan với với P- value
< 0,05.
Như vậy, với mô hình sử dụng biến phụ thuộc là FCFE có các đặc điểm sau:
+ Không có hiện tượng đa cộng tuyến
+ Có hiện tượng tự tương quan
+ Không có phương sai sai số thay đổi
Do đó chúng tôi sẽ nghiên cứu thực hiện điều chỉnh khuyết tật cho mô hình bằng cách
sử dụng mô hình GLS.
6. Mối quan hệ giữa các nhân tố đến dòng tiền thuần của chủ sở hữu (FCFE) theo mô
hình tác động ngẫu nhiên sau điều chỉnh
Nguồn: Kết quả thực hiện của nhóm nghiên cứu từ phần mềm STATA
Coefficients
(b) (B) (b-B) sqrt(diag(V_b-V_B))
fe re Difference S.E.
chi2(3) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 1.66
Prob>chi2 = 0.6465
Nguồn: Kết quả thực hiện của nhóm nghiên cứu từ phần mềm STATA.
Như vậy, dựa vào kết quả kiểm định cho thấy mô hình REM phù hợp hơn mô hình
FEM.
sigma_u 353678.8
sigma_e 1219865.9
rho .07754258 (fraction of variance due to u_i)
Nguồn: Kết quả thực hiện của nhóm nghiên cứu từ phần mềm STATA.
Từ bảng kết quả trên, có thể thấy các biến giải thích được cho FCFF là biến hàng tồn
kho (với mức ý nghĩa 5%), như vậy trong số các biến độc lập nghiên cứu, có 1 biến có ảnh
hưởng đến FCFF (dòng tiền thuần của doanh nghiệp), các biến còn lại chưa kết luận được.
Tương tự như quy trình với biến phụ thuộc là FCFE, chúng tôi cũng thực hiện các kiểm
định khuyết tật đa cộng tuyến, kiểm định phương sai sai số thay đổi, kiểm định hiện tượng tự
tương quan cho mô hình với biến phụ thuộc là FCFF. Qua đó, mô hình sử dụng biến phụ
thuộc là FCFF có những đặc điểm sau:
+ Không có hiện tượng đa cộng tuyến
+ Có hiện tượng tự tương quan
+ Không có phương sai sai số thay đổi
Do đó chúng tôi nghiên cứu có thực hiện điều chỉnh khắc phục mô hình.
3. Kết quả mô hình tác động ngẫu nhiên sau điều chỉnh
Nguồn: Kết quả thực hiện của nhóm nghiên cứu từ phần mềm STATA.
TÓM TẮT
Ngày nay, quản lý rủi ro trở thành một vấn đề cấp thiết đối với sự phát triển
bền vững của các doanh nghiệp nói chung và của các định chế tài chính nói
riêng. Ở Việt Nam, công tác quản lý rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng và các định
chế tài chính đã và đang được chú trọng theo hướng tuân thủ các tiêu chuẩn của
hiệp ước Basel II. Theo đó, với rủi ro thị trường, mô hình VaR (Value at Risk) là
mô hình được khuyến khích sử dụng.
Đề tài sử dụng phần mềm R và dữ liệu giá đóng cửa từ 06/12/2016 đến
17/01/2019 của 10 mã cổ phiếu có tỷ trọng lớn nhất trong danh mục đầu tư của
quỹ VEIL, một quỹ đầu tư có lợi nhuận lớn nhất trên TTCK Việt Nam năm 2018
để nghiên cứu. Đề tài ứng dụng VaR và các công cụ của VaR để quản lý rủi ro
của danh mục đầu tư đó. Với tư cách là một nhà đầu tư đang sở hữu danh mục
đầu tư 10 cổ phiếu, nghiên cứu sử dụng VaR cận biên đo lường sự biến động của
VaR danh mục khi thay đổi tỷ trọng đối với từng cổ phiếu và xác định sự nhạy
cảm của rủi ro danh mục đầu tư theo từng cổ phiếu cũng như tìm ra những cổ
phiếu ổn định có vai trò phòng hộ rủi ro trong danh mục. Sử dụng VaR thành
phần để lượng hóa, đo lường sự thay đổi của VaR danh mục khi loại bỏ các cổ
phiếu có tác động mạnh đến rủi ro của danh mục, điều chỉnh giảm tỷ trọng các cổ
phiếu nhạy cảm và tăng tỷ trọng đối với cổ phiếu ổn định để được danh mục tối
ưu theo cực tiểu của VaR và độ lệch chuẩn. Đồng thời nghiên cứu sử dụng mô
hình hệ số Shapre để tối ưu danh mục đầu tư kết hợp giữa kỳ vọng và rủi ro để
tìm ra danh mục đầu tư tối ưu. Nghiên cứu đã chỉ ra các danh mục đầu tư tối ưu
được hậu kiểm dựa trên dữ liệu lịch sử cho kết quả thực nghiệm tốt hơn, tức là
VaR thấp hơn và tỷ suất sinh lời cao hơn so với danh mục đầu tư ban đầu. Tuy
nhiên đề tài chưa đạt được kết quả hậu kiểm theo khung lý thuyết vì bị vượt 4 sai
phạm (khoảng 1,5% số quan sát). Bên cạnh đó để tăng ý nghĩa quản trị danh mục
đầu tư nhóm nghiên cứu đã sử dụng công cụ VaR gia tăng để xác định khi nhà
đầu tư muốn tăng tỷ trọng vào các tài sản trong danh mục thì cần tăng bao nhiêu
để đảm bảo VaR của danh mục mới được tối ưu tuy nhiên với danh mục đầu tư
này thì chưa đạt được kết quả kỳ vọng ban đầu.
Từ khóa: Danh mục đầu tư, VaR, VaR cận biên, VaR gia tăng, VaR thành
phần
1. Vai trò của VaR trong quản trị rủi ro
Gần đây, vai trò của QLRR trong các tổ chức tài chính đã trở nên cần thiết và được mở
rộng. Sau những vụ bê bối tài chính lớn vào đầu những năm 90, điển hình như các vụ bê bối
của quận Cam (Orange County), của Ngân hàng Barings, Metallgesellschaft, công ty chứng
khoán Daiwa..., người ta cho rằng, những cuộc khủng hoảng này đều bắt nguồn từ sự yếu kém
trong công tác quản lý và giám sát rủi ro, mà hậu quả của nó là sự thất thoát nhiều tỷ đô la
Mỹ. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã cho thấy việc bỏ qua QLRR
có thể góp phần tạo nên cuộc khủng hoảng cho nền kinh tế. Thời kỳ dài tăng trưởng kinh tế và
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 17
thịnh vượng đáng chú ý ở châu Á đã che giấu những điểm yếu trong QLRR tại nhiều tổ chức
tài chính. Nhiều ngân hàng châu Á đã không đánh giá rủi ro hoặc tiến hành phân tích dòng
tiền trước khi gia hạn khoản vay, mà chỉ cho vay dựa trên mối quan hệ của họ với người vay
và sự sẵn có của tài sản thế chấp. Kết quả là các khoản vay đã mở rộng nhanh hơn khả năng
trả nợ của người vay. Ngoài ra, các ngân hàng không có hoặc không tuân thủ các quy định về
hạn mức cho vay đối với các doanh nghiệp riêng lẻ nên khi nền kinh tế khủng hoảng, các
ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp và có thể suy yếu dẫn đến kiệt quệ tài chính. Bên cạnh đó
việc đánh giá mức độ rủi ro của tỷ giá hối đoái cũng không được chú trọng nên khi khớp các
khoản nợ ngoại tệ với tài sản ngoại tệ đã biến rủi ro tỷ giá thành rủi ro tín dụng bởi những
người vay ngoại tệ không đảm bảo nguồn thu ngoại tệ. Bên cạnh đó, các ngân hàng nước
ngoài đánh giá thấp rủi ro các quốc gia ở châu Á và các nước châu Á thực hiện chính sách tự
do hóa tài khoản vốn, mặt khác lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển nên
làm cho dòng vốn nước ngoài ồ ạt chảy vào châu Á. Tuy nhiên, khi một số định chế tài chính
phá sản, người ta tin rằng chính phủ không còn khả năng giữ tỷ giá cố định, lúc này, các nhà
đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn khỏi châu Á, làm cho cuộc khủng hoảng ngày càng trầm
trọng.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, VaR đặc biệt trở nên thông dụng hơn. Một số
nhà kinh tế học cho rằng, VaR không chỉ hữu ích trong phòng tránh rủi ro đối với một công
ty, mà về mặt nguyên tắc, chúng còn có thể được sử dụng trong QLRR cho tài sản của cả một
quốc gia. Từ những tình huống có thể xảy ra trong quá trình mô phỏng VaR, các quốc gia có
thể xem xét thực hiện các nghiệp vụ phòng hộ rủi ro (Hedging) và một số các nghiệp vụ khác
nhằm hạn chế rủi ro. Một số các quốc gia thậm chí còn đưa ra đề xuất đánh giá khả năng tín
dụng của các ngân hàng trung ương thông qua những yêu cầu về công bố thông tin các chỉ số
VaR của các ngân hàng này. Người ta cho rằng, phần lớn những cuộc khủng hoảng trong lĩnh
vực ngân hàng hay chứng khoán phái sinh có thể tránh được nếu như chúng ta có một hệ
thống công bố thông tin minh bạch hơn. Việc thường xuyên giám sát và công bố thông tin về
giá trị các danh mục sẽ giảm thiểu những rủi ro tiềm tàng.
Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision) năm
1996 tại Ngân hàng Thanh toán Quốc tế BIS (Bank for International Settlements) đã có những
quy định yêu cầu các định chế tài chính như ngân hàng, các công tư đầu tư tài chính phải thỏa
mãn một số những chỉ số về vốn xây dựng theo chỉ số VaR. Năm 1996, Cục Dự trữ liên bang
Hoa Kỳ (US Federal Reserve) cũng có những quy định bắt buộc các ngân hàng phải sử dụng
mô hình định giá rủi ro VaR để xây dựng quỹ dự phòng rủi ro. Trong lĩnh vực chứng khoán,
năm 1996, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ (SEC) cũng sửa đổi quy chế về báo cáo,
theo đó VaR là một trong ba chỉ số về mức độ rủi ro thị trường mà các định chế trung gian có
thể lựa chọn để báo cáo.
Tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong những năm gần đây cho phép phát triển và hoàn
thiện một loạt các hệ thống và phương pháp định giá rủi ro như Value at Risk (VaR), thước đo
tín nhiệm, rủi ro tín dụng, phân bổ ngân quỹ cho rủi ro. Trong đó, đáng chú ý nhất là phương
pháp xác định giá trị rủi ro VaR, một phương pháp VaR được phát triển từ năm 1993 và hiện
được các tổ chức tài chính trên thế giới áp dụng rộng rãi. JP Morgan là tổ chức tài chính đi
tiên phong về ứng dụng và phát triển phương pháp này. Hiệp định Basel áp dụng đối với các
giá trị VaR là giá trị dương. Tương tự, nếu thu nhập trung bình là REV và TSSL trung bình là
μ, thì giá trị VaR so với giá trị trung bình là:
ƒ R dR
nhỏ hơn R* là: Prob [ R < R* ] = . (3)
Khi đó quy trình 3 bước để xác định VaR như sau: giả định về ƒ(R) được thay vào (3)
để tính TSSL giới hạn R*; sau đó R* vào công thức (1) hoặc (2) để tính được VaR.
Trên thực tế thường giả định rằng ƒ(R) là hàm mật độ phân phối chuẩn có giá trị trung
bình μ, độ lệch chuẩn σ. Giả định phân phối chuẩn không những có mức độ hợp lý nhất định
mà còn có ưu điểm lớn trong việc thực hiện ước lượng VaR đơn giản hơn.
Cho độ tin cậy 1- α hay mức ý nghĩa α, cần tìm R* thỏa mãn
Prob [ R < R* ] = α. (4)
¶ s P2 ¶sP
= 2s p
Có ¶ w i ¶ wi nên độ nhạy của sự biến động trên DMĐT do sự thay đổi của
¶ s P cov( Ri , RP )
=
trọng số tài sản có thể viết thành: ¶ w i sP .
cov( Ri , Rp )
DVaRi = za
sp
Từ đó có thể suy ra mức độ thay đổi của VaR: . (7)
Công thức (7) được định nghĩa là VaR cận biên cho tài sản i.
Mối quan hệ giữa hệ số β và VaR cận biên
Hệ số βi đo lường sự đóng góp của tài sản thứ i nắm giữ trong danh mục đến tổng rủi ro
danh mục và còn được gọi là rủi ro hệ thống của tài sản i (undiversified risk). Hệ số βi được
đo lường từ mô hình hồi quy của Ri và Rp:
Ri ,t = a i + b i R p,t + e i ,t
t = 1, ..., T.
å w
b=
b = ( b1 , b 2 ,...., b n ) thì ( w ' å w)
Biểu diễn vecto , trong đó các βi được tính:
cov( Ri , R p ) r ips is p si
bi = 2
= 2
= r ip
s p s p sp
. (8)
Hệ số β là một hệ số cơ bản trong mô hình CAPM (mô hình định giá tài sản vốn), theo
mô hình CAPM chi phí rủi ro của tất cả các tài sản chỉ phụ thuộc vào hệ số β. Mối quan hệ
giữa VaR cận biên và hệ số β được xác định bởi công thức:
¶ VaR VaR
DVaRi = = za ( b i ´ s p ) = ´ bi
¶ xi W .
2.3.2. VaR thành phần (Component VaR - CVaR)
VaR thành phần có thể được tính bằng cách nhân VaR cận biên với giá trị của tài sản
VaR b i
CVaRi = (DVaRi ) ´ wiW = ´ wiW = VaR b i wi
trong danh mục đó: W (9).
VaR danh mục bằng tổng các VaR thành phần:
N
CVaR1 + CVaR2 + ... + CVaRN = VaR (å wi b i ) = VaR
i =1 .
2.3.3. VaR gia tăng (Incremental VaR)
VaR gia tăng (Incremental VaR-IVaR) đo lường sự thay đổi của VaR của DMĐT khi
nhà đầu tư (NĐT) thêm một tài sản mới trong danh mục.
Gọi a là tỷ trọng của các tài sản được thêm vào các tài sản trong DMĐT. Khi đó VaR
gia tăng cho biết sự thay đổi VaR của DMĐT mới và giá trị VaR của DMĐT gốc, tức là:
IVaR = VaR p +a - VaRp
.
Trong đó (DVaR ) ' là đạo hàm riêng bậc nhất của ma trận VaR theo các tài sản trong
DMĐT. Suy ra: IVaR » (DVaR) '´ a .
Mục tiêu cần tính số tiền đầu tư sao cho rủi ro được giảm thiểu xuống mức thấp nhất.
Giả sử danh mục sẽ thay đổi từ giá trị cũ là W thành giá trị mới Wp+a = W + a, a là giá trị
khoản đầu tư mới vào các tài sản i. Phương sai chuỗi TSSL danh mục mới được tính theo i
như sau:
s 2
( )
W p2+a = s p2 w2 + 2aW cov Ri , R p + a 2s i2
p +a
.
2 2
¶s W
Lấy đạo hàm theo biến a, ta được: ¶a
p +a p +a
(
= 2W cov Ri , R p + 2as i2
.
)
Phương sai của lợi suất DMĐT mới nhỏ nhất khi biểu thức trên bằng 0, do đó:
a* = - W
(
cov Ri , R p )
= - W bi 2 .
s 2
p
s i2 si
3. Danh mục đầu tư và quản lý danh mục đầu tư
3.1. Khái niệm DMĐT và quản lý DMĐT
DMĐT là một tập hợp/ rổ các tài sản mà trong đó, trọng số được xác định bằng tỷ
trọng đầu tư vào từng tài sản trong danh mục so với tổng giá trị của toàn bộ DMĐT.
Hoạt động đầu tư tài sản tài chính không chỉ dừng ở chỗ lựa chọn được DMĐT mà còn
cần phải quản lý DMĐT trong suốt thời gian nắm giữ sao cho phù hợp với những diễn biến cụ
thể của thị trường.
Quản lý DMĐT là việc quản lý tiền và tài sản do khách hàng ủy thác đầu tư hoặc tiền,
tài sản của quỹ đầu tư, phù hợp với mục đích đầu tư đã xác định tại các hợp đồng quản lý quỹ
hoặc đã được công bố trong bản cáo bạch của quỹ.
Quản lý DMĐT bao gồm các hoạt động nghiên cứu, lựa chọn các loại tài sản với các
mức rủi ro khác nhau vào một tổ hợp đầu tư (DMĐT). Việc kết hợp các loại tài sản với các
mức rủi ro khác nhau vào một DMĐT nhằm giảm thiểu rủi ro đầu tư với mức lợi nhuận kỳ
vọng xác định trước hoặc để gia tăng lợi nhuận kỳ vọng mà không làm gia tăng rủi ro tương
ứng.
3.2. DMĐT tối ưu
Giả sử có một danh mục gồm n tài sản (chứng khoán hay cổ phiếu) có véc tơ tỷ trọng
tương ứng là (w1, w2, …, wn). Khi đó:
n n
E ( RP ) = å w i .E ( Ri ), å wi = 1
TSSL của DMĐT được xác định: i =1 trong đó i=1 ;
E ( RP ) :
2 2
Cov ( Ri ,R j )
trong đó: s P : Phương sai của DMĐT; s i : Phương sai của tài sản chứng khoán i;
: Hiệp phương sai giữa chứng khoán i và chứng khoán j
Lý thuyết DMĐT tối ưu chỉ ra rằng các NĐT có thể tối thiểu hóa rủi ro thị trường bằng
việc xây dựng một DMĐT đã được đa dạng hóa. Việc đa dạng hóa DMĐT dẫn tới xuất hiện
nhiều các danh mục khác nhau với TSSL và độ lệch chuẩn khác nhau. Tất cả các cách đa dạng
tỷ trọng của n chứng khoán trong danh mục sẽ tạo ra số lượng danh mục nằm trong một vùng
giới hạn theo như hình 1:
Hình 1: Đường biên hiệu quả của DMĐT gồm n chứng khoán
(Nguồn: Bài giảng Toán Tài chính, Nguyễn Đình Công, tr.125)
Ý nghĩa: Với bất kỳ mức độ rủi ro nào, NĐT luôn chọn những DMĐT nằm trên đường
cong hiệu quả mang đến TSSL kỳ vọng cao nhất có thể. Nói một cách khác, đường cong hiệu
quả chứa các DMĐT có phương sai thấp nhất với bất kỳ TSSL kỳ vọng nào.
Như vậy, nếu một NĐT muốn lựa chọn danh mục tối ưu để đầu tư thì trước hết phải
chọn trong số các danh mục nằm trên đường cong hiệu quả. Tiếp đến, tùy vào khả năng chấp
nhận rủi ro của NĐT để xác định danh mục cổ phiếu tối ưu cho mình.
Mỗi NĐT có mức ngại rủi ro riêng và khả năng chấp nhận rủi ro của NĐT được thể hiện
trong mối quan hệ với TSSL kỳ vọng và được biểu diễn bằng đường bàng quan. Điểm tiếp
xúc giữa đường bàng quan và đường cong hiệu quả chính là định vị danh mục tối ưu của NĐT
đó.
x
Hơn nữa x có giá trị kỳ vọng E(x) = pT và phương sai V(x) = p (1-p) T. Khi T đủ lớn,
theo định lý giới hạn trung tâm thì phân phối nhị thức có hình dạng xấp xỉ phân phối chuẩn.
Nếu quy tắc quyết định được xác định ở mức độ tin cậy 95%, thì giá trị ngưỡng của z là 1.96.
x pT
z N 0,1
p 1 p
Bảng về mô hình hậu kiểm Kupiec (1995) ghi nhận vùng không loại bỏ cho các sai phạm:
Mức độ tin cậy cho
Mức xác suất (p) T = 252 ngày T = 510 ngày T =1000 ngày
VaR (1-α)
0.01 99 N<7 1<N<11 4<N<17
0.025 97.5 2<N<12 6<N<21 15<N<36
0.05 95 6<N<20 16<N<36 37<N<65
0.075 92.5 11<N<28 27<N<51 59<N<92
0.1 90 16<N<36 38<N<65 81<N<120
Bảng 1: Mô hình hậu kiểm của Kupiec
Khoảng tin cậy này được xác định dựa trên điểm đuôi của hệ số log-likelihood:
N T N N N
LRuc 2 ln 1 p p 2 ln 1
T N N
T T
LRuc có phân phối khi bình phương khi T là lớn với 1 bậc tự do dưới giả định rằng p là
xác suất thích hợp. Vì vậy sẽ bác bỏ giả thiết khi LR > 3.841. Giá trị N 1 ngụ ý rằng mô
hình VaR là quá an toàn. Khoảng cách này được biểu thị bằng tỷ lệ N/T và sẽ thu hẹp lại khi
kích thước mẫu càng lớn. Với giá trị xác suất p nhỏ đo lường cho VaR, nó sẽ trở nên khó
khăn hơn để xác nhận sự thay đổi. Điều này lý giải cho việc tại sao các ngân hàng lại thích
chọn mức độ tin cậy cao cho VaR, chẳng hạn như 95%.
Quy định của Ủy ban Basel
Các quy tắc của Ủy ban Basel cho phép hậu kiểm được lấy trực tiếp từ kiểm tra tỷ lệ
sai phạm. Để thiết kế một quy trình kiểm tra đầu tiên người giám sát phải chọn tỷ lệ mắc vào
lỗi loại 1, là xác suất bác bỏ mô hình khi nó đúng. Khi điều này xảy ra, ngân hàng đơn giản là
trải qua điều không may mắn và không nên bị phạt vì không hợp lệ. Vì vậy, người ta nên chọn
cách kiểm tra để tỷ lệ lỗi loại 1 thấp, thường là 5%. Cốt lõi của của mâu thuẫn là, người giám
sát sẽ ủy thác lỗi loại 2 (xác suất không bác bỏ mô hình khi nó sai) cho một ngân hàng mà cố
tình gian lận trong báo cáo VaR. Thủ tục xác minh hiện tại bao gồm việc ghi lại các sai phạm
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 29
hàng ngày của 99% VaR trong năm trước. Người ta kỳ vọng, về trung bình, chỉ 1% của 250
ngày, hay 2.5 ngày có trường hợp sai phạm được ghi nhận trong năm đó.
Ủy ban Basel đã quyết định rằng, không quá 4 trường hợp sai phạm là có thể chấp nhận
được, tình huống này được định nghĩa như là vùng “đèn xanh” cho các ngân hàng. Nếu số sai
phạm là 5 hoặc nhiều hơn, ngân hàng sẽ rơi vào vùng “vàng” hoặc “đỏ” và gánh chịu một
hình phạt lũy tiến theo đó.
Mức độ tin cậy 99% Mức độ tin cậy 97%
Mô hình đúng Mô hình sai
Xác suất tích
Xác suất tích lũy Xác suất
Số lượng Xác suất lũy (Loại 1) Xác suất
Vùng (Loại 2) (Không loại bỏ
ngoại lệ N P(X=N) (Loại bỏ) P(X=N)
loại bỏ) P(X >N) P(X N)
P(X N)
ACB MWG SAB MBB KDH VHM VNM GAS FPT ACV
Trung bình -
0.00104 0.00128 0.00099 0.00095 0.00013 0.00133 0.00086 0.00162 0.00018
(ngày) 0.00052
Phương sai 0.00041 0.00050 0.00048 0.00034 0.00093 0.00030 0.00041 0.00063 0.00045 0.00033
Độ lệch
0.02020 0.02245 0.02201 0.01856 0.03046 0.01722 0.02026 0.02508 0.02115 0.01810
chuẩn
Giá trị thấp - - - - - - - -
-0.06947 -0.13032
nhất 0.10200 0.12230 0.49752 0.19911 0.06991 0.06996 0.06425 0.17815
Giá trị cao
0.06872 0.09699 0.06920 0.10510 0.06932 0.06954 0.06997 0.06988 0.13090 0.06136
nhất
Bảng 4: Thống kê mô tả TSSL của 10 cổ phiếu trong DMĐT ban đầu
(Nguồn: Theo tính toán của nhóm nghiên cứu)
Lợi suất trung bình theo ngày cao nhất là của cổ phiếu FPT: 0.162% tương đương với
lợi nhuận 40.5%/năm tính theo 250 ngày) và có ngày lợi suất lên đến 13.09%. Ngược lại lợi
suất trung bình theo ngày của KDH là thấp nhất: -0.052% tương đương với lỗ 13%/năm, có
ngày lỗ đến 50%. KDH cũng là cổ phiếu có độ lệch chuẩn của TSSL theo ngày lớn nhất
(0.00093).
4.2. Tối ưu DMĐT bằng các công cụ VaR
4.2.1. Tính VaR và Beta của từng cổ phiếu
Trong đề tài, nhóm nghiên cứu tập trung sử dụng phương pháp phương sai - hiệp
phương sai để đo lường VaR.
Từ giá đóng cửa của 10 mã cổ phiếu thực hiện các bước tính VaR đơn lẻ để xác định
khả năng tổn thất lớn nhất phải chịu trong một ngày của mỗi cổ phiếu.
B1: Tính TSSL theo ngày của 10 cổ phiếu.
Hệ số beta 0.457 1.431 1.295 0.854 1.512 0.664 0.633 1.421 0.756 1.007
a* = - W (
cov Ri , R p ) = - W bi
s 2
p
tới 9 mã cổ phiếu phải rút hết tiền đầu tư ra khỏi danh mục (trừ mã ACB), thậm chí phải bán
Interpolated Dickey-Fuller
Test 1% Critical 5% Critical 10% Critical
Statistic Value Value Value
Interpolated Dickey-Fuller
Test 1% Critical 5% Critical 10% Critical
Statistic Value Value Value
0.15
0.10
0.10
Partial autocorrelations of saiphan
Autocorrelations of saiphan
0.05
0.05
0.00
0.00 -0.05
-0.05
0 10 20 30 40 0 10 20 30 40
Lag Lag
Bartlett's formula for MA(q) 95% confidence bands 95% Confidence bands [se = 1/sqrt(n)]
OPG
D.close Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval]
close
_cons .2672036 .1462644 1.83 0.068 -.0194694 .5538767
ARMA
ar
L1. -.6080022 .0463863 -13.11 0.000 -.6989177 -.5170868
ma
L1. .7545527 .0470959 16.02 0.000 .6622465 .846859
OPG
D.close Coef. Std. Err. z P>|z| [95% Conf. Interval]
close
_cons .2557961 .2551358 1.00 0.316 -.2442609 .7558532
ARMA
ar
L1. -.8224967 .0573474 -14.34 0.000 -.9348955 -.7100979
L2. .1456897 .0499982 2.91 0.004 .0476949 .2436845
L3. .8698801 .0498751 17.44 0.000 .7721266 .9676335
L4. .6655368 .0461972 14.41 0.000 .5749919 .7560817
L5. -.0278915 .0164902 -1.69 0.091 -.0602116 .0044286
L6. .1161252 .0160954 7.21 0.000 .0845788 .1476715
L7. -.0302465 .0150657 -2.01 0.045 -.0597749 -.0007182
L8. -.0649824 .0147871 -4.39 0.000 -.0939646 -.0360002
L9. -.0412775 .0131702 -3.13 0.002 -.0670905 -.0154644
L10. .005735 .011072 0.52 0.604 -.0159657 .0274357
ma
L1. 1.076804 .0566102 19.02 0.000 .9658501 1.187758
L2. .0578102 .054395 1.06 0.288 -.0488019 .1644224
L3. -.9281184 .0552642 -16.79 0.000 -1.036434 -.8198025
L4. -.8375204 .0514761 -16.27 0.000 -.9384117 -.736629
Chúng tôi cũng chạy với mô hình với giá trị k >=10 nhưng hầu hết các mô hình đều có
giá trị p_value>α nên có thể kết luận mô hình ARIMA chỉ thích hợp cho các dự báo chứng
khoán trong ngắn hạn. Điều này cũng phù hợp với lý thuyết sóng đã trình bày ở phần trên.
Bước 4 Kiểm định độ chính xác
Kiểm định tính ổn định và tính khả nghịch của mô hình:
Kiểm định mô hình ARIMA có ổn định và khả nghịch hay không? Tính dừng của quá
trình ARMA phụ thuộc vào thành phần tự hồi quy (AR). Nếu nghịch đảo (inverse roots) của
AR nằm trong đường tròn đơn vị thì quá trình này sẽ dừng và mô hình là ổn định. Tính khả
nghịch (invertible) được thể hiện qua phần trung bình trượt (MA).
Để kiểm định mô hình ARIMA (p, q,d) ta sử dụng lệnh estat aroots , options ngay sau
khi chạy mô hình.
Ví dụ: Sau khi ước lượng mô hình ARIMA bằng lệnh:
arima close in 1/4200, arima(5,1,3)
estat aroots
Bảng 4: Kết quả thu được
Eigenvalue Modulus
Eigenvalue Modulus
Do mọi giá trị AR đều nằm trong vòng tròn đơn vị nên có thể kết luận rằng mô hình và
có tín dừng và ổn định.
Tiếp tục kiểm tra tính khả nghịch thông qua lệnh: estat aroots lag(50). Do chuỗi hội tụ
nên có thể kết luận mô hình có tính khả nghịch. Và mô hình đáng tin cậy cho dự báo.
Bước 5: Dự báo
Sau khi có các tham số ta áp dụng mô hình để dự báo dữ liệu kiểm tra bao gồm
240 ngày (từ bản ghi 4201 đến bản ghi 4441).
Ví dụ: dự báo cho mô hình ARIMA (5,1,3)
arima close in 1/4200, arima (1,1,1)
predict closef1, xb
predict closef2, y
twoway (tsline close in 1/4441, lcolor(blue)) (tsline closef2 in 4201/4441,
lcolor(red))
1500
1000
500
0
TP (Time proccessing): là tổng thời gian sử dụng cho quá trình dự báo ( tính theo ms.
Đô ̣ chính xác của mô hình :
TH1: Số lượng phần tử LSTM trong mỗi lớp 256
Chúng tôi dự báo mô hình LSTM trong 3 ngày, 5 ngày, 15 ngày, 20 ngày, 30 ngày, 60
ngày, 90 ngày.
Dưới đây là kết quả dự báo mô hình LSTM trong 3 ngày:
Kết quả dự báo trong 3 ngày xu hướng (trend) của giá dự báo và giá thực tế giống nhau.
Đồng thời vì đây là mô hình phi tuyến nên trend không thể đối ngược. Nhìn vào bảng trên ta
còn thấy giá phân tích hầu như là lớn hơn giá thực tế và đô ̣ nhiễu của mô hình này là đô ̣ nhiễu
câ ̣n dưới.
MSE= 644.325593
Kết quả dự báo mô hình LSTM trong 15 ngày:
Nhâ ̣n xét sau khi xem kết quả dự báo mô hình LSTM trong 15 ngày,20 ngày, 60
ngày : Có kết quả tương đồng là từ 15 ngày trở đi giá dự báo và giá thực tế gần như sát nhau.
Đô ̣ sai số rất bé mă ̣c dù số lượng ngày tăng lên nhưng MSE có giảm.
3.2.3.Biê ̣n luận
Tại sao chúng tôi lại khẳng định đối với deep-learning dự báo chứng khoán từ 15 ngày
là tốt nhất được thể hiê ̣n như sau:
Thứ 1, do tư duy của nhà đầu tư tại Việt Nam chủ yếu là lướt sóng ngắn hạn. Mà tâm lý
và hành động của nhà đầu là yếu tố tác động mạnh nhất đến thị trường. Theo nghiên cứu của
ThS. Nguyễn Ngọc Tú Vân- Đại học Văn Lang có kết quả thực nghiệm đã cho thấy phản ánh
khách quan sự tác động của độ nhạy cảm NĐT đến chỉ số giá chứng khoán toàn thị trường là
rất lớn. Nghiên cứu còn cho thấy, độ nhạy cảm NĐT có thể dự báo tốt chỉ số giá TTCK trong
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 50
tương lai. Trong bài nghiên cứu của ông cho rằng chỉ số niềm tin tiêu dùng là nhân tố đại diện
tốt nhất cho độ nhạy cảm NĐT, nên khi NĐT đã đặt niềm tin vào điều gì đó thì họ sẽ hành
động để niềm tin đó thành hiện thực.
Thứ 2, vì thích lướt sóng nên NĐT thường sử dụng các công cụ ngắn hạn và chủ yếu là
nến dễ nhìn và phán đoán. Xu hướng khi dùng nến xác định, trung bình kéo dài khoảng 8-15
phiên.
Trong PTKT có rất nhiều biểu đồ nến nhưng có thể chia làm 2 loại là mô hình đảo chiều
và mô hình tiếp diễn. Từ việc xác định được mô hình nến có thể tìm được điểm mua, bán hợp
lý.
Thứ 3, rất nhiều NĐT cả các broker của các CTCK lớn đều dùng đường EMA15 làm
chỉ báo xác định xu hướng. Theo như định luật Granville và thực tế giao dịch của NĐT trên
TTCK Việt Nam thì EMA15 là chỉ báo theo sát với thị trường và có độ trễ khá thấp.
Trên Data, có tất cả n trường dữ liê ̣u. Cụ thể trong bài toán này ( n=6) bao gồm các
trường dữ liê ̣u sau : Ngày, Giá cao nhất, Giá thấp nhất, Giá đóng cửa , Giá mở cửa, khối
lượng giao dịch.
=> Nhưng trong nền kinh tế Viê ̣t Nam, do thị trường chứng khoán còn non trẻ, và các
nhà phân tích kĩ thuật luôn tin tưởng rằng: giá cả biến động luôn phản ánh đầy đủ thông tin,
và giá của các cổ phiếu sẽ dịch chuyển theo xu thế chung của thị trường, và điều quan trọng
nhất là: lịch sử sẽ lặp lại.
=> Do đó dự đoán giá hay xu hướng của VN- Index rất quan trọng để đưa ra quyết
định đầu tư
3.2.4.So sánh mô hình RNN-LSTM và mô hình ARIMA
- Đô ̣ chính xác: độ chính xác của mô hình RNN-LSTM: dự đoán chỉ số Vn-index từ 15
ngày trở lên là tốt nhất (vơi MSE =121.43) và độ chính xác này cào hơn so với mô hình
ARIMA (13,1,2) (MSE =193). Điều này có thể giải thích như sau: RNN-LSTM là mạng
neuron với tính toán phi tuyến với số lượng tham số là rất lớn (hơn 2000 tham số với RNN-
LSTM 256 và 4000 tham số với RNN-LSTM 512) do vậy với dữ liệu càng lớn thì mô hình
mạng neuron sẽ càng sát với thực tế. Trong khi ARIMA dùng ít tham số hơn (<=20 tham số)
và sử dụng giả thuyết là tuyến tính nên trong thực tế chỉ thích hợp trong ngắn hạn.
- Tính phổ dụng: Đối với mô hình ARIMA chủ yếu được thực hiê ̣n các thao tác trên
Stata và đây cũng là mô ̣t phần mềm đã có sẵn và thích hợp với những nhà nghiên cứu kinh tế
lượng. Nhưng dể cài đặt được RNN-LSTM chúng ta cần có kiến thức về Deep learning và
khai phá dữ liệu sẽ nên phù hợp với những người chuyên về công nghê ̣ thông
- Khả năng dự đoán nhanh và ngắn hạn: Mô hình tuyến tính chỉ cho phép dự đoán
trong ngắn hạn. Còn mô hình phi tuyến cho chúng ta dự đoán trong cả trung hạn và dài hạn.
Cụ thể, trong bài toán dự báo dự đoán Vn-index, ta sử dụng Deep-learning sẽ tốt hơn là
ARIMA. Nhưng nếu ta sử dụng dữ liê ̣u trong vòng 5 ngày thì dữ liê ̣u Vn-index là tuyến tính,
tức là biến đổi theo tuần nên mô hình ARIMA sẽ cho kết quả chính xác hơn RNN-LSTM .
Còn nếu ta sử dụng dữ liê ̣u từ 15 ngày trở đi thì dữ liê ̣u phi tuyến, do đó chúng ta phải sử
dụng Deep-learning để dự báo.
4. Kết luâ ̣n
4.1.Kết luận chung
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự hình thành và phát triển gần 20 năm. Đây là
một kênh quan trọng để thu hút nguồn vốn vào sản xuất gớp phần phát triển nền kinh tê. Tuy
nhiên do thiếu các công cụ dự báo ở cả mặt vi mô và vĩ mô, thì trường chứng khoán VN cũng
có giai đoạn khủng hoảng gây ảnh hưởng rất nặng lề đến kinh tế, xã hội, làm suy giảm niềm
tin của các nhà đầu tư, và gây nhiều hệ lụy trong xã hội. Do vậy việc nghiên cứu các mô hình
dự báo chứng khoán là vô cùng cấp thiết có ý nghĩa cả mặt lý luận và thực tiễn.
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi đã khái quát những đặc điểm sơ lược về thị trường
chứng khoán Việt Nam và vai trò của chỉ số chứng khoán VNINDEX với cả các nhà đầu tư và
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 51
các nhà quản lý. Nó phản ánh sức khỏe của TTTK qua đó thể hiện tính ổn định vĩ mô của nền
kinh tế. Việc dự báo chỉ số Vnindex sẽ giúp cho những nhà quản lý có thông tin về xu hướng
phát triển tương lai của thị trường để từ đó đưa ra những quyết định hợp lý.
Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng đề xuất về 2 phương pháp dùng để dự báo
vnindex dưới dạng bài toán chuỗi thời gian: là phương pháp sử dụng mô hình KTL: ARIMA
và mô hình sử dụng khai phá dữ liệu học sâu: RNN-LSTM. Từ dữ liệu thực nghiệm lấy từ
website cophieu68.vn thể hiện dữ liệu VNINDEX theo ngày từ 01/01/2000 tới 17/01/2019
chúng tôi đã đua ra một số nhận xét sau:
Với từng mô hình dự báo, sai số sẽ hội tụ tại một ngưỡng giá trị nhất định khi khoảng
dữ liệu lịch sử đủ lớn (khoảng 200 với ARIMA từ 5 ngày trở đi và 120 với Deeplearning
RNN-LSTM 256 từ 15 ngày và 100 với RNN-LSTM 512 từ 10 ngày), do vậy dù mô hình dự
báo nào thì cũng đều phản ánh một lớp quy luật hành vi của những nhà đầu tư. Do vây bài
toán dự báo không thể tách rời dược những kiến thức kinh tế.
Mô hình ARIMA (5,1,4) là mô hình dự đoán tối ưu nhất với độ sai số MSE=201 do vây mô
hinhf ARIMA thích hơp dự báo dựa vào dữ liệu trong vòng 1 tuần.
Mô hình Deep learning RNN-LSTM có thể giúp cải thiện độ chính xác của dự báo bằng
cách kéo dài dữ liệu lịch sử và kết hợp với nhiều nguồn dữ liệu khác đây chính là ưu thế của
deep learning so với các mô hình kinh tế lượng trong cùng lớp bài toán tương đương. Tuy
nhiên sử dụng deeplearning phải trả giá là độ phức tạp tính toán và thời gian để ra thông tin.
Hơn nữa deeplearning cần cài đặt trên các máy tính chuyên dụng.
Để tối ưu khi sử dụng Mô hình deep learning thì nhà đầu tư có thể có 2 trường hợp. xây
dựng mạng RNN-LSTM256 với sử dụng dữ liệu trong 3 tuần (15 ngày), hoặc RNN-LSTM
512 với dữ liệu trong 2 tuần (10 ngày) và đây chính là phản ánh một lớp quy luật hành vi của
các nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường.
4.2.Hướng phát triển
Cần cài đặt thêm một số thuật toán học sâu cho bài toán dự báo VN Index nhằm tăng độ
so sánh và tìm mô hình tối ưu nhất cho TTCK Việt Nam.
Cần mở rộng bài toán cho các mã chứng khoán của từng doanh nghiệp tập đoàn để tăng
tính ứng dụng của đề tài
Mô tả về các biến, cách tính và nguồn thu thập dữ liệu của mô hình nghiên cứu đề xuất
được thể hiện trong Bảng 1 dưới đây.
LNIMP Imports of goods and services Logarit (Imports of goods and services) World Development
(current US$) Indicators, World
Bank
Nguồn: Kết quả tập hợp của nhóm nghiên cứu
2.3. Phương pháp ước lượng và kiểm định mô hình
Dữ liệu thu thập là dữ liệu bảng nên bài nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính
với dữ liệu bảng. Các mô hình sẽ được sử dụng là:
* Mô hình hồi quy POOLED (Population Averaged - PA):
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata
Bảng 2 trình bày kết quả thống kê mô tả của các biến nghiên cứu. Biến phụ thuộc
LNSTOCK (Total value of stock traded) có giá trị cao nhất là 11.581, thấp nhất là 8.932 và
đạt trung bình là 10.855. Điều này cho thấy tổng giá trị chứng khoán giao dịch ở một số nước
trong Đông Nam Á có sự biến động khá lớn. Bởi một phần do số liệu được lấy trong khoảng
thời gian 2006-2017 khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 và một phần do các quốc
gia được phân tích hầu hết là các quốc gia đang phát triển.
Bảng 3 trình bày kết quả ma trận tương quan cho thấy hầu hết các biến đều có hệ số
tương quan dưới 0.5. Chỉ riêng mối quan hệ giữa biến lạm phát (INF) và lãi suất thực (IR) có
hệ số tương quan cao -0.7229.
Bảng 3: Ma trận hệ số tương quan của các biến trong mẫu dữ liệu
lnstock 1.0000
lngdp 0.5612 1.0000
lnfdi -0.1237 -0.0242 1.0000
infl -0.4455 -0.1383 0.1149 1.0000
ir 0.1102 0.2896 0.0848 -0.7229 1.0000
unemploy -0.0880 0.2511 0.5017 0.3336 0.0445 1.0000
lnimp 0.8202 0.4051 0.1813 -0.4069 0.1545 -0.2184 1.0000
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata
Bảng 3 cung cấp mối quan hệ tương quan giữa các biến trong mô hình với biến phụ
thuộc là LNSTOCK. Kết quả tính toán hệ số tương quan của các biến độc lập cho thấy trong
mô hình các biến có hệ số tương quan không cao. Kiểm định hệ số VIF để đánh giá ảnh
hưởng của đa cộng tuyến đến kết quả kiểm định mô hình cho thấy giá trị VIF trung bình là
2.58 < 10. Từ đó, kết luận đa cộng tuyến không ảnh hưởng đến kết quả mô hình nghiên cứu.
Bảng 4: Kết quả nhân tử phóng đại phương sai
. vif
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata
Kiểm định tính dừng của các biến:
Theo Gujarati (2003), một chuỗi thời gian dừng khi giá trị trung bình, phương sai, hiệp
phương sai tại các độ trễ khác nhau không đổi theo thời gian. Chuỗi dừng sẽ có xu hướng trở
về giá trị trung bình và dao động xung quanh giá trị trung bình là như nhau. Các nghiên cứu
gần đây cho thấy, kiểm định nghiệm đơn vị với dữ liệu bảng sẽ có hiệu quả hơn so với kiểm
định chuỗi thời gian riêng lẻ vì phương pháp kiểm định này kết hợp kiểm định nhiều chuỗi
thời gian. Chính vì thế, với dữ liệu bảng cùng chuỗi thời gian từ 2006-2017, nhóm nghiên cứu
sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị do Levin, Lin và Chu phát triển (LLC Test – 2002), Tiêu
chuẩn Harris – Tzavalis (1999) và Tiêu chuẩn Hadri Lagrange (2000), cụ thể các tiêu chuẩn
áp dụng cho từng biến như sau:
Tiêu chuẩn Levin – Lin – Chu (2002): bao gồm 4 biến: tổng sản phẩm quốc nội
(LNGDP), lãi suất thực (IR), lạm phát (INFL) và tỷ lệ thất nghiệp (UNEMPLOY).
Tiêu chuẩn Harris – Tzavalis (1999): bao gồm 2 biến: biến phụ thuộc – tổng giá trị giao
dịch trên thị trường chứng khoán (LNSTOCK) và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(LNFDI).
Tiêu chuẩn Hadri Lagrange (2000): áp dụng duy nhất cho biến nhập khẩu (LNIMP).
Với giả thuyết:
H 0: Dữ liệu là chuỗi không dừng
H 1: Dữ liệu là chuỗi dừng
Kết quả kiểm định tất cả các biến đều dừng ở mức ý nghĩ nhỏ hơn 5%. Thực hiện hồi
quy với các biến dừng trong mô hình sẽ tránh hiện tượng hồi quy giả mạo.
3.3. Kết quả ước lượng và kiểm định mô hình
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 60
Bảng 5: Kết quả ước lượng mô hình bằng phương pháp OLS, FEM, REM
(1) (2) (3)
OLS Model FEM Model REM Model
N 72 72 72
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng kiểm định kiểm định Hausman để lựa chọn giữa mô hình
FEM và REM có kết quả giá trị p-value là 0.0038, như vậy, sử dụng mô hình FEM là phù
hợp.
Tiến hành kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi cho mô hình FEM bằng lệnh
xttest3, kết quả giá trị p-value = 0.0002 cho thấy mô hình có khuyết tật phương sai sai số thay
đổi.
Do mô hình FEM có khuyết tật phương sai sai số thay đổi và tương quan chuỗi làm cho
kết quả ước lượng sẽ không còn đáng tin cậy nên nhóm nghiên cứu tiến hành sử dụng phương
pháp ước lượng General Method of Moments (GMM) để khắc phục các khuyết tật cũng như
sự nội sinh trong mô hình mà FEM không thể khắc phục được. GMM sử dụng phương pháp
ước lượng bình phương tối thiểu tổng quát khả thi FGLS (ước lượng bình phương tối thiểu
tổng quát khả thi).
Bảng 5 thể hiện kết quả ước lượng hồi quy mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến tổng giá
trị cổ phiếu đã giao dịch bằng phương pháp GMM. Với giá trị P-value (F) của mô hình là
0.0000, từ đó cho thấy mô hình hồi quy là phù hợp ở mức ý nghĩa là 1%.
Kết quả sau cùng của phương pháp ước lượng GMM:
LNSTOCK it =−8.846901+0. 351327 LNGDP it −0.1628908 LNFDI it −0.0509208 INFLit −0.0629104 IR it + 0
Bảng 6 : Kết quả ước lượng theo phương pháp General Method of Moments
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata
Tất cả 6 biến độc lập đều có ý nghĩa thống kê. Biến GDP tác động tích cực đến biến phụ
thuộc, phù hợp với giả thuyết ban đầu nhóm tác giả tìm được.
Biến độc lập thứ hai là vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) có tác động tiêu cực
đến tổng giá trị giao dịch cổ phiếu, điều này đi ngược lại với giả thuyết ban đầu. Bởi hầu hết
các quốc gia được chọn nghiên cứu có lĩnh vực tài chính vẫn còn chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn
trong tổng cơ cấu nền kinh tế, cụ thể hơn thị trường chứng khoán chưa thực sự nổi bật so với
các ngành nghề khác, do đó vốn đầu tư nước ngoài cho thị trường chứng khoán nói riêng và
lĩnh vực tài chính nói chung tại các quốc gia này còn hạn chế và góp phần gây ra ảnh hưởng
tiêu cực cho sự phát triển thị trường. Theo dữ liệu thông kê của ASEANstats, năm 2017, tại
các quốc gia Đông Nam Á, tỉ trọng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực tài
chính và bảo hiểm chỉ chiếm 11.9% so với các lĩnh vực và ngành nghề còn lại. Ngoài ra, FDI
được thống kê là FDI đăng kí đầu tư vào các quốc gia, chứ chưa phải là FDI được chính phủ
giải ngân, nên góp phần tạo ra kết quả mô hình với tương quan âm cho biến phụ thuộc
(LNSTOCK).
Đối với hai biến lạm phát (INFL) và lãi suất (IR) đều có tác động ngược chiều, đúng
như giả thuyết nhóm tác giả đưa ra ban đầu.
Tuy nhiên, kết quả cho rằng tỷ lệ thất nghiệp (Unemployment rate) có tương quan
dương với giá trị chứng khoán đã giao dịch và đi ngược lại giả thuyết ban đầu nhóm nghiên
cứu đặt ra. Bởi khi tỷ lệ thất nghiệp thấp đồng nghĩa là có nhiều nhân công được thuê, số
lượng nhân công trong mỗi công ty tăng chứng tỏ các công ty đó sẽ kiếm được ít lợi nhuận
hơn trên mỗi công nhân. Điều này có thể ảnh hưởng đến điểm mấu chốt của các công ty và có
thể ảnh hưởng đến lợi nhuận, nó sẽ gián tiếp làm giảm giá trị của cổ phiếu. Ngược lại, khi tỷ
lệ thất nghiệp cao chứng tỏ phải cần có nhiều sự hỗ trợ hơn từ chính phủ, công ty có thể gián
tiếp hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi. Ngoài ra các công ty có ít nhân công không phải vì họ
không tuyển dụng mà có thể nhân công ở trong thị trường có trình độ không đáp ứng được
điều kiện của công ty. Do vậy tỉ lệ lợi nhuận kiếm được trên mỗi nhân công sẽ càng cao và nó
sẽ ảnh hưởng tích cực đến giá của cổ phiếu sau này. Mà phần lớn các quốc gia Đông Nam Á
có tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức khá cao do đó tạo nên tác động tích cực cho thị trường chứng
khoán.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 62
Cuối cùng, nhập khẩu (IMPORT) tại các nước ĐNA có tác động cùng chiều với lượng
chứng khoán được giao dịch, phù hợp với giả thuyết mà nhóm nghiên cứu đã đặt ra. Ngoài ra,
kết quả còn cho thấy LNIMP là biến có tác động mạnh nhất đến biến phụ thuộc. Sự lý giải
cho việc nhập khẩu làm tăng giá trị chứng khoán được giao dịch là do phần lớn kim ngạch
nhập khẩu vào khu vực Đông Nam Á là những mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, nguyên phụ liệu
đầu vào phục vụ sản xuất trong nước (như: xăng dầu các loại; máy móc, thiết bị, dụng cụ &
phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện tử&linh kiện; chất dẻo nguyên liệu; giấy; gỗ&sản phẩm
gỗ; …). Theo như Tổng cục Hải quan, tỷ trọng của những mặt hàng trên chiếm khoảng 60%
trong tổng cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu chủ lực tại Đông Nam Á trong 11 tháng từ đầu
năm 2015. Từ đó với những nguyên liệu nhập khẩu, các công ty ở mỗi quốc gia sẽ tạo nên
những sản phẩm đầu ra có giá trị cao hơn và góp phần làm tăng giá trị cổ phiếu mà công ty đó
sở hữu.
4.Một số khuyến nghị
Kết quả nghiên cứu cho thấy các tổng giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán chịu
sự tác động không hề nhỏ của các yếu tố kinh tế vĩ mô như GDP, FDI, lạm phát, lãi suất, nhập
khẩu và tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, sự tác động này là khác nhau giữa các yếu tố vĩ mô. Trên
cơ sở kết quả phân tích ở trên và bài học rút ra từ lý thuyết và các nghiên cứu trước đó, bài
nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị cho việc xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế vĩ mô,
cũng như phát triển thị trường chứng khoán tại các quốc gia Đông Nam Á như sau:
Một là, cần thiêt lập chính sách kinh tế vĩ mô hướng đến tạo sự ổn định và bền vững
cho thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là một trong những thước đo phản ánh những gì được kỳ vọng
sẽ xảy ra trong nền kinh tế, cũng như sự phát triển kinh tế tại mỗi quốc gia. Kết quả phân tích
đã cho thấy các yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động không hề nhỏ đến thị trường chứng khoán.
Do đó, việc ban hành và quản lý các chính sách kinh tế vĩ mô không chỉ hướng đến việc điều
hành nền kinh tế mà còn cần phải quan tâm đến sự phát triển bền vững cho thị trường chứng
khoán. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu hành vi của các chủ thể kinh tế có thể ảnh hưởng đến
việc ra các quyết định kinh tế cũng như giá cả thị trường ra sao bởi vì trên thực tế các nhà đầu
tư không phải luôn luôn hành động theo lý trí. Vì vậy ngoài những nền tảng pháp quy cơ bản
để xây dựng các chính sách, việc hoạch định chính sách không nên xem nhẹ tác động mang
tính hiệu ứng đám đông để điều chỉnh các chính sách nói chung và quản lý thị trường chứng
khoán nói riêng.
Hai là, nâng cao tính hiệu quả và sự minh bạch của thông tin vĩ mô cũng như thị
trường chứng khoán.
Kết quả hồi quy đã cho thấy sự tác động thực sự của các yếu tố vĩ mô lên thị trường
chứng khoán, ngoài ra thị trường chứng khoán còn phản ứng rất mạnh trước các thông tin. Độ
chính xác, minh bạch và kịp thời của thông tin sẽ có những tác động lên thị trường và hành vi
của các nhà đầu tư. Do đó, việc nâng cao tính hiệu quả của các thông tin vĩ mô là vô cùng cần
thiết.
Để nâng cao hiệu quả về mặt thông tin cho thị trường chứng khoán, nhóm nghiên cứu
đề xuất một số giải pháp sau: cải thiện tính minh bạch của thông tin được công bố, tạo điều
kiện cho giá chứng khoán phản ứng nhanh chóng với thông tin công bố, nâng cao vai trò của
cơ quan giám sát thị trường chứng khoán, nâng cao tính thực thi của hệ thống luật pháp liên
quan đến hoạt động đầu tư chứng khoán, nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng, rút ngắn
thời gian thanh toán phù hợp với thông lệ quốc tế và skiểm soát chặt tiêu chuẩn niêm yết
nhằm tăng tính an toàn cho các nhà đầu tư.
5.Kết luận
Mỗi quốc gia dù ở giai đoạn phát triển nào cũng đều theo đuổi những nghiên cứu khoa
học chất lượng cao. Các nghiên cứu này hầu hết đều bám sát thực tế, phản ánh những thực
trạng đang tồn tại trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế - xã hội nhằm đưa ra các giải pháp cụ
thể, phù hợp với từng trường hợp, từng đối tượng nghiên cứu. Chính vì thế, việc theo đuổi
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 63
những nghiên cứu khoa học tạo ra nền tảng thiết thực giúp nhận diện và phản ứng với những
vấn đề đang tồn tại, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội trong và ngoài nước.
Là những sinh viên khối ngành Kinh tế - Tài chính, để phát triển kiến thức, nhóm tác giả luôn
nỗ lực học hỏi, tìm hiểu các vấn đề và thực trạng liên quan đến tài chính và kinh tế tồn tại
trong các thực thể của xã hội. Từ đó, xây dựng đề tài nghiên cứu có tính thực tiễn, góp phần
hỗ trợ về nguồn tài liệu, phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận cho các đối tượng quan
tâm.
Qua quá trình thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu đã chỉ ra được những nhân tố tác động
tích cực và tiêu cực đến sự phát triển của thị trường chứng khoán của một số quốc gia Đông
Nam Á. Qua đó cho thấy, thị trường chứng khoán của các quốc gia Đông Nam Á cũng có
những nét đặc thù riêng.
Bài nghiên cứu được thực hiện dựa trên bộ số liệu thực tế mà nhóm nghiên cứu thu thập
được từ cơ sở dữ liệu của World Bank. Tuy nhiên, mẫu số liệu của bài nghiên cứu vẫn còn
mặt hạn chế về mặt không gian (các quốc gia) và thời gian (số năm quan sát). Nguyên nhân là
do tại khu vực Đông Nam Á, thị trường chứng khoán còn chưa có ở một số quốc gia. Do đó,
làm cho nghiên cứu chưa được toàn diện phổ quát về chứng khoán tại khu vực này mà chỉ làm
đại diện trên một số quốc gia tiêu biểu.
Bài nghiên cứu còn có thể mở rộng đi sâu nghiên cứu về ảnh hưởng của một số nhân tố
khác đến sự phát triển thị trường chứng khoán tại khu vực Đông Nam Á bằng một số định
hướng như sau:
Ngoài các nhân tố đã phân tích, nhóm nghiên cứu sẽ tiếp tục đi sâu xem xét tác động
của một số yếu tố khác như giá vàng, giá dầu hay tỷ giá hối đoái để tìm hiểu rõ hơn về mối
quan hệ của kinh tế vĩ mô và thị trường chứng khoán. Từ đó, góp phần hoàn thiện hơn trong
việc xây dựng và hoàn chỉnh chính sách vĩ mô cũng như phát triển chứng khoán.
Trên cở sở thực trạng những tác động của các yếu tố, nhóm sẽ đưa ra phần nào dự báo
về tình hình phát triển của thị trường chứng khoán tại các quốc gia này.
Vì sự hạn chế về mặt thời gian và kiến thức của nhóm, bài nghiên cứu sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót, bài trình bày tuy chưa đầy đủ nhưng góp phần bổ sung nguồn tài liệu
thực tiễn cho lĩnh vực đầu tư tài chính. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu, nhóm tác giả hy
vọng phần nào cung cấp được những thông tin hữu ích tới các độc giả quan tâm đến lĩnh vực
này. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự đóng góp từ các nhà Khoa học,
các Chuyên gia, các Thầy cô và các bạn về đề tài này, để nhóm có thể hoàn thiện đề tài của
mình hơn nữa. Xin trân trọng cảm ơn!
ABSTRACT
This paper investigates the influence of firm growth on profitability using
panel data on 438 listed companies, which is categorized into nine different fields
for the period of 2009-2017. The result shows that firm growth does have various
impacts on profitability. Some independent variables including sale growth, total
asset growth have a positive impact on profitability; while leverage, firm size and
asset structure giving the opposite results. Moreover, the type of industry does
significant impact on profitability.
Keywords: Profitability, firm growth, Vietnamese listed companies
1. Introduction
Recently, according to the report of the McKinsey Global Institute (MGI), published
September 12 at the World Economic Forum (WEF) in Hanoi, Vietnam is one of 18 countries
rated as "outstanding performance" in the past 50 years. Together with the rise of the national
economy, Vietnamese market opened a series of new opportunities for enterprises; thereby
creating high competitiveness, requiring businesses themselves to constantly research,
innovate and develop. However, innovation also involves potential risks that businesses must
face to. Moreover, if we only focus on increasing profit the company will not create a solid
foundation for prosperity and long-term development. Research on growth and profitability
for businesses is currently only focus in developed countries but not developing countries like
Vietnam.
Vietnamese enterprises have made important contributions to the development of the
national economy over previous years. Reality shows that each business has different growth,
development and profit maximization policies and leads to different efficiency. Thus, making
a financial decision and choosing a reasonable growth policy is necessary for the development
of the business.
With the purpose of clarifying the relationship between the growth and profitability of
listed companies on the Vietnamese stock market in order to give recommendations on
building cooperate growth strategy.
Apply regression theory, trade-off theory, pecking order theory to build a regression
model to study the relationship between growth and profitability. Thus, propose solutions to
develop the growth policy and maximize the profitability that is suitable for the Vietnamese
listed companies, thereby achieving high efficiency in business, contributing to the increase in
business value.
Missions:
- Systematize basic theoretical issues about the firm’s growth and profitability.
- General analysis of the firm’s growth and profitability during the studied period.
- Perform regression in order to study the relationship between growth and profitability
of Vietnamese listed companies.
- Propose solutions to enhance the firm’s growth and profitability.
Thus, the study aims to identify the relationship between the growth and profitability of
Vietnamese firms listed on the Stock Exchange in the context of effects of the economic
downturn (2009-2017). The data of 438 enterprises is divided into different industry to
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 66
analyze. Thereby, recommendation for business strategy for growth is given. The research
evaluates Vietnamese firms listed on the Stock Exchange on the following aspects: growth,
the relationship between growth and profitability; financial factors that affect growth and
profitability. We collected data from Vietnamese listed companies for the period 2009 to
2017. Our study only covers the period from 2009 to 2017. However, to measure the firm
growth for 2009, the data from 2008 was also needed.
The rest of this paper is organized as follows:
Section 1: Overview of the relationship between growth and profitability of Vietnamese
firms listed on the Stock Exchange
Section 3: Recommendation.
2. Literature Review and Hypothesis
2.1 Literature Review and Theoretical Background
Growth and profitability in businesses are always a topic which is interested in and done
by many scientists. Many theoretical and empirical research results have been done in the
world. These studies focused on theoretical foundations of growth, profitability, factors
affecting the two indices as well as the positive and negative effects of these two indicators on
other factors in business.
Empirical studies have proven the inconsistency in the relationship between growth and
profitability. According to Hee Jae Cho and Vladimir Pucik’s research "The relationship
between innovation, quality, growth, profitability and market value", theories related to each
individual influence factor has been mentioned. They used assumptions to run tester models
and come up with conclusions that one factor does not directly affect others. Markman and
Gartner (2002) concluded that there is no significant relationship between growth and
profitability. Similarly, Bottazi et al (2008), Gschwandtner (2005) declare that there is no
remarkable relationship between growth trend and the differential profitability. Sexton et al
(2000) show that a very weak relationship between sales growth and profits, whereas Capon
et al. (1990) reported that firm growth is related to high financial performance, but it was
significant in only some industries.
Keith Glancey’s journal "The determinants of growth and profitability of small startups"
at Napier University, Edinburgh offers a series of assumptions and proofs about factors that
directly affect growth and profitability such as the size of the business, the age of the
company, the position and impact of the company at the present time. Moreover, Glancey has
a multidimensional perspective on the relationship between growth and profitability. If small
businesses rely mostly on retained earnings as their main source of capital to avoid being
taken over from outside lenders, this relationship is very positive. In addition, businessmen
will find it easier to raise capital from outside if the company has high profit margins. Besides
that, high growth rates can lead to increase in profitability.
The relationship between growth and profit rates is even more complicated when the
inter-relationship is examined and time lags of the two variables are considered. Goddard et
al. proved that the current growth rate for a given corporate size has a statistically significant
negative effect on the profit rate in the next period. Coad claimed a quite small significant
effect of current profitability on the firm growth but a positive effect of current growth rate on
the next quarter’s profit rate.
On the other hand, some researchers have studied that from the resource-based
perspective, firm growth does not increase future profitability. This theory is demonstrated by
Penrose, the author of “The Theory of the Growth of the Firm”, published by Oxford
University Press in 1995. Penrose pointed out that firm growth can be achieved through the
“economy of growth” inherent in the company growth process, other than just rely on the
characteristics of the company itself. Although “economy of growth” temporarily provides
companies with an incentive to grow, companies that have grown rapidly are burdened with
Total liabilities
Financial leverage of firms LEV
Total aset
Current asset
Liquidity LIQUID
Current liabilities
Fix asset
Asset structure TANG
Total asset
Size SIZE Loparite (Total asset)
To test the impact of these factors on the relationship between growth and profitability
of companies, this research uses the following three regression models:
ROA it =α 1 + β1 × LEV it + β 2 × SG it + β 3 × TAGit + β 4 ×TANGit + β 5 × LIQUID it + β 6 × ¿¿ it +U 1
ROEit =α 2+ β 1 × LEV it + β2 × SG it + β 3 ×TAG it + β 4 ×TANGit + β 5 × LIQUIDit + β 6 ׿ ¿ it +U 2
BEPit =α 3 + β 1 × LEV it + β2 × SGit + β 3 ×TAG it + β 4 ×TANGit + β 5 × LIQUIDit + β 6 ׿ ¿ it +U 3 i
α 1,2,3 :constant
β 1 …6 :the coefficient of independent variables
U1it…3it: errors
4. Research Results
4.1 Descriptive statistics on the variables
Table 2: Descriptive statistics
Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max
ROA 3,941 0.0645714 0.1047995 -1.626769 1.897889
ROE 3,937 0.1240799 0.2561724 -6.447597 6.546929
BEP 4,060 0.0879319 0.4046433 -24.2071 2.755425
LEV 3,941 0.4951489 0.2449057 0 4.787137
SG 3,942 0.3010114 1.918329 -1.039213 59.25915
TAG 3,941 0.2559242 4.961575 -0.9697259 308.4486
TANG 3,923 0.2304046 0.2083622 0 2.563019
LIQUID 3,934 2.390588 5.38891 0 229.5757
SIZE 3,942 5.73453 0.6792509 2.705008 8.329992
(Resource: Authors’ evaluation)
Table 2 illustrates the descriptive statistics of the full sample. The table shows that the
average Return on Asset is 6.46%, which means for each 100 million VND gained from sales,
6.46 million VND is generated. This ROA is relatively low. The average Return on Equity of
the companies is approximate of 12.41% in the period from 2009 to 2017, representing that
for each 100 million VND of equity, the average return achieved is 12.41 million VND. Next,
the average basic earning power ratio of the companies is about 8.79% in 9-year period, on
average. Furthermore, the average leverage is 49.51% extremely high. Moreover, total asset
growth in this research period has the average ratio 25.59% showing that the asset increased
around 1.26 times. If we investigate the basic earning power ratio, the average number is
8.7%. Lastly, the ratio of firm size is 5.7, which means in the past 8 years, the companies have
expanded firm size by 5.7 times.
Table 3: Correlation matrix
ROA ROE BEP LEV SG TAG TANG LIQUID SIZE
α1,3: constant
β1…8 ∶ coefficient of independent variables
DUM1: dummies variable of construction industry
DUM2: dummies variable of manufacturing industry
From results evaluated by authors from Stata (two tables attached on Appendix B);
comments are made as below:
Construction (DUM1) have a remarkable negative impact on profitability. The ratio of
Construction on ROA is -0.0187 (p<0.001); on ROE is -0.0396 (p<0.001) and BEP is -0.0185
(p<0.001). That means in the short – term (in this research, the period is eight years),
construction companies have low profitability. Concerning the construction industry,
construction industry characteristics affect profitability. In the research phase, it can be seen
that the real estate market is difficult, leading to difficulties in construction.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 72
In contrast, Manufacturing (DUM2) witnesses the positive impact on profitability. The
ratios of DUM2 on ROA, ROE and BEP are 0.0170 (p<0.01); 0.0195 (p<0.05); 0.0212
(p<0.01) in respectively. That means all the manufacturing companies under examination has
high profitability. It is reasonable that for manufacturing companies, industry characteristics
that have a positive impact on profitability show the recovery of the manufacturing industry
during the study period. The debt impact coefficient variable shows the ineffective use of
debt, does not take advantage of the positive impact of financial leverage.
5. Conclusion
This study investigated the impact of firm growth on profitability on the sample of 438
Vietnamese listed companies over the period 2009-2017. With the sample of 438 listed firms
on Vietnam stock market from 2009 to 2017, this research shows that profitability have
correlation with 5 factors: sale growth, total asset growth, leverage, asset structure, firm size
and liquidity. The study reveals that firm growth measured by total asset growth and firm size
has a strong negative effect on profitability. In contrast, the sale growth has positive impact on
ROA, ROE and BEP. Moreover, the type of industry, which is manufacturing and
construction industry in this research, has significant impact on profitability.
From the research results, some suggestions can be given such as boosting revenue, and
managing costs well; increase capital turnover quickly, effectively use debt to increase
profitability for the company
However, some limitations of this paper should be commented, as follows: the dataset
used in this analysis are not enough to generalize the results over the all Vietnamese firms;
different profit ratios and growth variables may be used to confirm these findings; time lags
are not mentioned.
To complete the research, we profoundly thank Dr. Cu Thu Thuy and Dr. Pham Thi
Thanh Hoa (Academy of Finance) for all their inspiration, trust and guidance. We are grateful
to have them as our instructors in this incredible journey. Due to limited knowledge and data
sources, shortcomings are inevitable. Our team would like to receive contributions from
scientists, teachers and friends to the research for further improvements.
Thank you very much!
Appendix A
chi2(6) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 224.56
Prob>chi2 = 0.0000
Hausman Test for dependent variable ROE
chi2(6) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 59.07
Prob>chi2 = 0.0000
chi2(6) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)
= 82.49
Prob>chi2 = 0.0000
Appendix B
FEM Model for dependent variable ROA
Fixed-effects (within) regression Number of obs = 3,914
Group variable: B Number of groups = 438
F(6,3470) = 52.58
corr(u_i, Xb) = -0.2663 Prob > F = 0.0000
sigma_u .06887434
sigma_e .07423767
rho .46257614 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(437, 3470) = 5.82 Prob > F = 0.0000
F(6,3467) = 14.79
corr(u_i, Xb) = -0.4247 Prob > F = 0.0000
sigma_u .13543426
sigma_e .20966043
rho .29442146 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(437, 3467) = 2.85 Prob > F = 0.0000
(Resource: Authors’ evaluation)
FEM Model for dependent variable BEP
Fixed-effects (within) regression Number of obs = 3,914
Group variable: B Number of groups = 438
F(6,3470) = 45.89
corr(u_i, Xb) = -0.3213 Prob > F = 0.0000
sigma_u .08576747
sigma_e .10229715
rho .41278019 (fraction of variance due to u_i)
F test that all u_i=0: F(437, 3470) = 4.76 Prob > F = 0.0000
(Resource: Authors’ evaluation)
Appendix C
REFERENCES
[1] Alchian, A.A. Uncertainty, evolution, and economic theory. J. Polit. Econ. 1950, 58, 211–
221
[2] Buzzell RD, Gale BT. 1987. The PIMS Principles: Linking Strategy to Performance. Free
Press: New York.
[3] Coad, A. Testing the principle of “growth of the fitter”: The relationship between profits
and firm growth. Struct. Change Econ. Dyn. 2007, 18, 370–386.
[4] Coad, A., (2009), The Growth of Firms: A Survey of Theories and Empirical Evidence.
Edward Elgar Publishing.
[5] Coad, A.; Rao, R.; Tamagni, F. Growth processes of italian manufacturing firms. Struct.
Change Econ. Dyn. 2011, 22, 54–70.
[6] David S. Evan (1987), Test of Alternative Theories of Firm Growth
[7] Gibrat, R. Les Inégalités Économiques; Librairie du Recueil Sirey: Paris, France, (1931).
[8] Goddard, J., Molyneux, P., Wilson, J., (2004). Dynamics of growth and profitability in
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng phương pháp khác biệt trong khác biệt (DiD) và mô
hình hồi quy OLS với bộ dữ liệu VHLSS 2014 và VHLSS 2016 (Vietnam
Household Living Standard Survey) để phân tích khoảng cách thu nhập giữa các
nhóm hộ có hay không được hưởng lợi từ các chương trình trợ giúp Chính phủ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy thu nhập bình quân của các hộ được hưởng lợi từ
các chương trình trợ giúp có được cải thiện nhưng vẫn thấp hơn so với nhóm hộ
không được hưởng lợi. Vậy nên việc các hộ gia đình được hưởng lợi từ chương
trình trợ giúp của chính phủ không cải thiện được khoảng cách thu nhập bình
quân với các hộ không được hưởn lợi. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra
chênh lệch thu nhập bình quân giữa thành thị và nông thôn, ảnh hưởng của các
biến số trình độ, tỷ lệ phụ thuộc, độ tuổi, quy mô hộ tới thu nhập bình quân của
các nhóm hộ.
Từ khóa:VHLSS 2012; VHLSS 2014; trợ giúp Chính phủ; thu nhập bình
quân; chênh lệch thu nhập.
ABSTRACTS
The study uses diference in diferences (DiD) method and OLS regression
models with VHLSS 2014 and VHLSS 2016 (Vietnam Household Living Standard
Survey) to analyze income gap between households groups which has or not
benefit from government assistance programs. The results show that the average
income of households benefiting from assistance programs has improved but this
income is lower than the one of the non-benefit groups. So the households which
benefit from the government's assistance program do not improve the average of
the income gap. In addition, the results also illustrate the difference in the
average of income between urban and rural areas, the impact of the level
variables, dependency ratio, age, the size of household which affect the average
income of households groups.
Key words: government aid, income per capita, income gap
1. Giới thiệu
Các chương trình trợ giúp từ Chính phủ là nguồn hỗ trợ vật chất hay phi vật chất ảnh
hưởng trực tiếp đến thu nhập bình quân của các hộ gia đình đặc biệt là các hộ nghèo. Vì vậy,
Chính phủ đưa ra nhiều chính sách để hỗ trợ, giúp các gia đình chính sách tiếp cận và được
hưởng lợi nhiều nhất từ các chương trình trợ giúp của Chính phủ Việt Nam. Nghiên cứu này
được thực hiện để đánh giá ảnh hưởng của các chương trình trợ giúp đến khoảng cách thu
nhập bình quân giữa các nhóm hộ được hưởng lợi từ các chương trình trợ giúp và không được
hưởng lợi từ các chương trình trợ giúp Chính phủ. Nghiên cứu sử dụng phương pháp Khác
biệt trong Khác biệt (DID) và dựa vào dữ liệu Điều tra thu nhập hộ gia đình VHLSS 2014 và
VHLSS 2016.
2. Tổng quan tài liệu
Lê Đình Hải (2017) đã sử dụng phương pháp hồi quy đa biến (OLS) để nghiên cứu các
nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập. Kết quả đã chỉ ra được ba nhân tố ảnh hưởng đến
thu hộ gia đình là: quy mô vốn vay, diện tích đất nông hộ và áp dụng ký thuật vào sản xuất.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 77
Nguyễn Quốc Nghi và Bùi Văn Trịnh (2011) nghiên cứu đã sử dụng phần mềm SPSS. Bằng
phương pháp chọn mẫu phân tầng với ngẫu nhiên, kết hợp mô hình hồi quy tuyến tính. Kết
quả cho thấy, các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập hộ gia đình là: trình độ học vấn của chủ hộ,
của lao động trong hộ, số nhân khẩu trong hộ, số hoạt dộng tạo ra thu nhập của hộ, độ tuổi lao
động trong hộ và có cả yếu tố tiếp cận các chính sách hỗ trợ của chính phủ. Trong đó, yếu tố
độ tuổi và số nhân khẩu lao động có ảnh hưởng tỷ lệ nghịch với thu nhập bình quân hộ gia
đình các dân tộc thiểu số.Chu Thị Kim Loan và Nguyễn Văn Hướng (2015) bằng phương
pháp phân tích thống kê mô tả và hồi quy đa biến OLS đã nghiên cứu và đưa ra kết luận rằng
các nguồn lực về quy mô đất sản xuất, số lượng và trình độ học vấn của lao động, giá trị
phương tiện sản xuất tỷ lệ thuận với thu nhập của hộ. Ngoài ra còn có yếu tổ khả năng tiếp
cận nguồn vốn vay, giới tính của chủ hộ và vị trí địa lý cũng có tác động tới thu nhập của
nông hộ. Phan Thị Nữ (2012) đã sử dụng phương pháp khác biệt DID và mô hình hồi quy
OLS để phân tích dữ liệu bảng của VHLSS 2004 và VHLSS 2006 chỉ ra việc tiếp cận tín dụng
có tác dụng tích cực lên phúc lợi xã hội của hộ nghèo thông qua việc tăng chi tiêu đời sống
nhưng tín dụng không tác động cải thiện cho hộ nghèo nên chưa thoát nghèo một cách bền
vững. Nguyễn Lan Duyên (2014) đã sử dụng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) để ước
lượng. Kết quả ước lượng cho thấy các yếu tố như trình độ học vấn, diện tích đất, thời gian
cư trú tại địa phương, khoảng cách từ nơi ở đến trung tâm, lượng vốn vay, lãi suất và số lao
động là tác nhân ảnh hưởng đến thu nhâp. Võ Thành Khởi (2015) nghiên cứu xác định các
yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình bằng cách thu thập số liệu từ cuộc điều tra
phỏng vấn và sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Bên cạnh đó, nghiên cứu sử dụng
phần mềm SPSS 16.0 để phân tích số liệu và mô hình hồi quy tuyến tính. Kết quả cho thấy, có
bốn yếu tố ảnh hưởng tích cực đến thu nhập của các hộ gia đình: sự tham gia hoạt động đoàn
thể, số hoạt động tạo ra thu nhập, tình trạng vay vốn, sự hỗ trợ của nhà nước; có hai yếu tố tác
động tiêu cực đến thu nhập của hộ gia đình là số nhân khẩu và độ tuổi trung bình của lao động
trong hộ. Tuy nhiên nghiên cứu mới chỉ đưa ra một nguồn trợ cấp từ chính phủ là trợ cấp hộ
nghèo. Kết quả khảo sát thực tế tỷ lệ hộ gia đình được địa phương hỗ trợ là 56,7% và tỷ lệ hộ
gia đình không được địa phương hỗ trợ là 43,3%. Các hộ gia đình được địa phương hỗ trợ chủ
yếu là những hộ nghèo hoặc cận nghèo. Trần Thị Lệ Mỹ, Nguyễn Thị Hoàng Yến, Nguyễn
Thị Minh Khánh (2012) sử dụng phương pháp phân tích thông kê và mô hình kinh tế lượng,
đưa ra kết luận là các yếu tố về nhân khẩu và kinh tế có ảnh hưởng nhất định đến thu nhập
cũng như cơ cấu thu nhập của khu vực duyên hải nam trung bộ. Kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Viết Anh và Trần Thị Thu Thủy (2010) cho thấy các biến như trình độ học vấn, tuổi,
lao động nông nghiệp, lượng vốn vay, chi phí đầu vào, diện tích canh tác và thời hạn cho vay
có tác động cùng chiều với thu nhập của nông hộ huyện Quảng Trạch. Ngoài ra, nông hộ ở
vùng đồng bằng có thu nhập cao hơn hộ ở vùng núi.
Bên cạnh đó, một số nghiên cứu từ nước ngoài cũng đề cấp đến vấn đề này như nghiên
cứu của Acemoglu và Angrist (1999) cho thấy mỗi năm học thêm mức lương trung bình tăng
7.5%. Nghiên cứu gần đây của Caponi Plesca (2007) chỉ ra rằng những người tốt nghiệp đại
học thu nhập cao hơn nguời chỉ tốt nghiệp phổ thông trung học từ 30% tới 40%. Trường hợp
nghiên cứu của Ellis và Freeman (2005) tại vùng Kenya chỉ ra các hộ nghèo tham gia vào các
hoạt động phi nông nghiệp có thu nhập thấp hơn so với các hộ giàu cùng tham gia các hoạt
động phi nông nghiệp nhưng hình thức đa dạng hơn. Trong nghiên cứu khác ở Trung Quốc,
Khan (1993) kết luận rằng thu nhập của nông hộ có mối quan hệ chặt với trình độ học vấn,
mức vốn, diện tích, tỷ lệ diện tích được tưới chủ động,...
Qua các nghiên cứu được tổng quan, có thể thấy thu nhập của các hộ gia đình được
phản ánh qua các chỉ tiêu như chi tiêu bình quân đầu người, chi tiêu hàng tháng bình quân hộ
gia đình, chi tiêu cho các dịch vụ y tế, giáo dục, thể thao, thời trang, du lịch. Các nghiên cứu
thực nghiệm đã chỉ ra rằng thu nhập của hộ gia đình phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trợ
cấp Chính phủ là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra thu nhập của hộ gia đình còn chịu ảnh
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 78
hưởng của các yếu tố khác là: khu vực sống (thành thị; nông thôn); tổng số người trong hộ gia
đình; tuổi bình quân trong hộ gia đình; tỉ lệ trung học phổ thông; tỉ lệ thu phi nông nghiệp; tỉ
lệ phụ thuộc của số người trong hộ.
Theo tìm hiểu của nhóm nghiên cứu, vẫn chưa có nghiên cứu nào chỉ rõ ảnh hưởng của
việc tham gia các chương trình trợ giúp của chính phủ tới thu nhập của hộ gia đình ở Việt
Nam giai đoạn 2014 - 2016. Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp
DID để chỉ ra tác động của nguồn trợ giúp từ Chính phủ đến thu nhập của các hộ gia đình trên
lãnh thổ Việt Nam.
3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1 Mô hình và phương pháp nghiên cứu
Để phản ánh chính xác tác động của các chương trình trợ giúp Chính phủ đến thu nhập
của các hộ gia đình, đề tài sử dụng phương pháp DID. Phương pháp này chia các đối tượng
thành hai nhóm, một nhóm được áp dụng chính sách (nhóm tham gia), nhóm còn lại không
được áp dụng chính sách (gọi là nhóm so sánh). Tuy nhiên, thu nhập bình quân của hộ gia
đình không chỉ phụ thuộc vào các chương trình trợ giúp mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác như: quy mô hộ, tuổi bình quân, tỷ lệ trung học phổ thông, khu vực thành thị hay nông
thôn, tỷ lệ thu phi nông nghiệp, tỷ lệ phụ thuộc,….. Để làm được điều này, đề tài kết hợp giữa
phương pháp DID và phương pháp hồi qui đa biến OLS. Mô hình kinh tế lượng:
Ybq = β0 + β1*D + β2*T + β3(D*T) + β4*tylethpt + β5* ttnt + β6*tylephuthuoc + β7*
tylethuphinn
Trong đó: Ybq là thu nhập bình quân người của hộ thứ I vào năm 2012 hoặc 2014;
T = 0 nếu quan sát thuộc năm 2014
T = 1 nếu quan sát thuộc năm 2016
D = 0 nếu hộ không tham gia bất cứ chương trình trợ giúp nào
D = 1 nếu hộ có tham gia một trong các chương trình trợ giúp được liệt kê trong danh sách
các chương trình trợ giúp trong bảng hỏi.
Giải thích ý nghĩa các hệ số
β0: Cho biết thu nhập bình quân của các hộ gia đình khi các yếu tố khác bằng 0
β4: nếu tỷ lệ những người tốt nghiệp trung học phổ thông của hộ tăng lên 1 đv trong điều kiện
các yếu tố khác không đổi thì thu bình quân thay đổi β4 đơn vị.
Tương tự giải thích với β5, β6, β7
Các hệ số β1, β2 và β3 được giải thích như sau:
Bảng 1: Phương pháp khác biệt trong khác biệt
(Difference- in- difference approach)
Năm 2014 Năm 2016 Khác biệt mức thay đổi thu
nhập của các nhóm
Nhóm so sánh β0 β 0+ β2 β2
Bảng 1 cho biết sự khác biệt giữa các nhóm theo thời gian giữa hai năm 2014 và 2016 và sự
khác biệt của từng nhóm là nhóm so sánh và nhóm tham gia theo thời gian. Năm 2014, chênh
lệch của thu nhập bình quân giữa hai nhóm là β1. Đến năm 2016, chênh lệch thu nhập giữa hai
nhóm là β1 + β3. Nếu chính sách có hiệu quả thì tổng (β 1 + β3) > β1, tức là khoảng cách thu
nhập giữa hai nhóm được rút ngắn, và ngược lại. So sánh trong từng nhóm, từ năm 2014 đến
2016, trung bình thu nhập bình quân của nhóm so sánh thay đổi là β2, còn con số này đối với
nhóm tham gia là β2 + β3. Như vậy, mức thay đổi của hai nhóm chênh nhau một lượng là β 3.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 79
Nếu chính sách của β3 > 0 tức là mức thay đổi thu nhập bình quân của nhóm tham gia cao hơn
nhóm so sánh.
3.2. Mô tả dữ liệu và biến số
3.2.1 Gới thiệu bộ dữ liệu VHLSS 2016
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của bộ VHLSS năm 2016 của Tổng cục Thống
kê.VHLSS là tên viết tắt của Vietnam Household Living Standard Survey (Dữ liệu khảo sát
mức sống hộ gia đình Việt Nam) do Tổng cục Thống kê phối hợp cùng một số đơn vị
thamgia. Bộ bảng hỏi VHLSS 2016 gồm 8 mục điều tra khác nhau về các khía cạnh trong đời
sống của các hộ dân cư, với 3994 quan sát. Các biến số trong phương trình này được lấy dữ
liệu từ VHLSS như sau:
Bảng 2: Các biến số sử dụng và cách lấy các biến số trong bộ dữ liệu VHLSS
Mục trong
Biến Ký hiệu Nội dung Mô tả đơn vị và cách mã hoá biến
VHLSS 2016
Bao gồm các mã: Không có bằng cấp
Tỷ lệ trung học phổ thông = Số (0), tiểu học (1), trung học cơ sở (2),
Tỷ lệ trung người có bằng trung học phổ trung học phổ thông (3) sơ cấp nghề
học phổ tylethpt thông trở lên/Tổng số người m2ac2a (4), trung cấp nghề (5), trung học
thông trong hộ. chuyên nghiệp (6), cao đẳng nghề (7),
cao đẳng (8), đại học (9), thạc sỹ (10),
tiến sĩ (11), khác (12)
Khu vực
sống là
Nếu hộ sống ở thành thị: ttnt = 1; Mục Ho1.
thành thị ttnt
Nếu hộ sốn ở nông thôn: ttnt = 0 Tên biến: ttnt
hay nông
thôn
Tỷ lệ phụ thuộc = Tổng số người
nằm ngoài độ tuổi lao động/
Tổng số thành viên trong hộ gia
Tỷ lệ phụ đình m1ac5 (tuổi), Tuổi của quan sát (tính tròn đến tháng
tylephuthuo
thuộc Tuổi được coi là độ tuổi nằm m1ac2 (giới phỏng vấn), giới tính gồm các mã: là
c
ngoài lao động: tính). nam (1), là nữ (2)
< 15 tuổi
> 60 tuổi đối với nữ
> 65 tuổi đối với nam
Là các khoản thu nhập nằm
ngoài nông nghiệp được chia
thành các mục ảnh hưởng:
+ Khoản thu từ tiền lương, công
Tỷ lệ thu
hưu, trợ cấp (ATN) m4atn, m4ct, Thu nhập trong năm (đơn vị nghìn
phi nông tylethuphinn
+ Khoản thu ngoài nông nghiệp m4dtn, m4cc đồng)
nghiếp
(CT)
+ Khoản chi ngoài nông nghiệp
(CC)
+ Thu khác (DTN)
Quan sát sẽ được tính là thuộc
Hưởng lợi nhóm tham gia các chương trình
Báo gồm các mã:
từ các trợ giúp nếu có tham gia một m8c2a
Hỗ trợ bằng tiền (1), hỗ trợ bằng hiện
chương cohuongloi trong các chương trình trợ giúp
vật (2), hỗ trợ bằng tiền vay vốn (3),
trình trợ được liệt kê ở trên trong năm
không được hỗ trợ (4), không biết (5)
giúp hiện tại hoặc năm trước thời kỳ
điều tra.
Nguồn: Thống kê của tác giả từ VHLSS hai năm 2014 và 2016
3.3. Thống kê mô tả các chương trình trợ giúp theo dữ liệu VHLSS 2016
Nhóm nghiên cứu đã lọc ra 3994 quan sát là các hộ có tham gia khảo sát trong cả hai
năm 2014 và 2016. Trong đó:
- Phân bố của các hộ phân theo nhóm có hưởng lợi và không hưởng lợi từ các
chương trình trợ giúp như sau:
3500.0 3330.3
2479.6
2500.0
2000.0 1817.2
1500.0 1444.6
1000.0
500.0
0.0
Trung bình mẫu Nhóm so sánh Nhóm tham gia
2014 2016
Biểu đồ 1: So sánh mức trung bình của thu nhập bình quân giữa nhóm so sánh, nhóm
tham gia và mức trung bình mẫu
Nhìn chung mức thu nhập bình quân giữa nhóm so sánh trong năm 2014 và năm
2016 đều cao hơn nhiều so với mức thu nhập bình quân của nhóm tham gia. Nếu xét theo
năm có thể thấy thu nhập bình quân của hộ gia đình trong cả hai nhóm đều có xu hướng
tăng lên, và chênh lệch về mức tăng thu nhập bình quân người trong cả hai nhóm hộ
không có nhiều khác biệt.
- Về tỷ lệ người phụ thuộc trong hộ: Biểu đồ sau so sánh mức trung bình tỷ lệ phụ
thuộc của hai nhóm hộ và trung bình mẫu:
0.40
0.39
0.38 0.38
0.36
0.35 0.34
0.34
0.33 0.33
0.32
0.30
0.28
Toàn mẫu Nhóm so sánh Nhóm tham gia
2014 2016
Biểu đồ 2: Mức trung bình tỷ lệ phụ thuộc trong toàn mẫu và giữa các nhóm
Dựa vào biểu đồ về mức trung bình tỷ lệ phụ thuộc trong toàn mẫu và các nhóm ta
có thể thấy được sự chênh lệch lớn giữa hai nhóm tham gia với nhóm so sánh. Tỷ lệ phụ
thuộc của nhóm tham gia cao hơn nhiều so với nhóm so sánh và toàn mẫu. Có lẽ điều này
lý giải sự khó khăn của hộ và nhu cầu cần nhận được sự trợ giúp do áp lực về tỷ lệ người
phụ thuộc quá cao.
- Về trình độ: Biểu đồ 2.3 biểu thị mức độ trung bình tỷ lệ người trong hộ có bằng từ
THPT trở lên trong toàn mẫu và trong các nhóm.
0.20
0.15
0.10
0.05
0.00
Toàn mẫu Nhóm so sánh Nhóm tham gia
2014 2016
Biểu đồ 3: Mức trung bình tỷ lệ người trong hộ có bằng từ THPT trở lên trong toàn mẫu
và trong các nhóm
Nhìn chung tỷ lệ người trong hộ gia đình có bằng THPT trở lên của nhóm tham gia
thấp hơn nhiều so với so sánh cao hơn nhóm tham gia và toàn mẫu. Điều này cho thấy, các
hộ cần đến sự trợ giúp của các chương trình chính phủ là những hộ có mặt bằng trình độ
giáo dục thấp hơn. Đây cũng có lẽ là nguyên nhân dẫn đến các hộ này có thu nhập thấp
hơn do việc làm từ lao động phổ thông đem lại.
Tóm lại, phân tích mô tả cho thấy, nhóm tham gia chương trình trợ giúp của chính phủ là
nhóm các hộ có mặt bằng trình độ thấp hơn, tỷ lệ người phụ thuộc cao hơn, mức thu nhập
thấp hơn và chủ yếu sống ở nông thôn. Các chương trình trợ giúp có nhiều hộ được hưởng
lợi gồm: khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, tín dụng ưu đãi với người nghèo, hỗ trợ
máy móc, vật tư sản xuất (phân bón, con giống, cây giống,…), hỗ trợ mua bảo hiểm y tế,
miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo, miễn giảm học phí cho người nghèo,
trợ cấp khó khăn đối với hộ nghèo và trợ cấp lương thực.
4. Kết quả ước lượng
Dưới đây là bảng kết quả hồi quy dữ liệu mảng mức thu bình quân của các hộ gia đình trong
mẫu nghiên cứu với các biến độc lập được mô tả ở trên. Do trong dữ liệu các quan sát chéo
được phân thành hai nhóm, quan sát theo thời gian cũng chỉ gồm hai năm, với biến giả phân
nhóm và biến giả thời gian đều được đưa vào mô hình, nên nghiên cứu sẽ sử dụng phương
pháp hồi quy dữ liệu mảng trộn. Kết quả hồi quy như sau:
Dựa vào kết quả hồi quy có thể đưa ra được một số kết luận như sau:
- Hệ số của biến ttnt = 1129.605, cho biết khi các yếu tố khác như nhau, thu nhập bình
quân người của các hộ ở nông thôn thấp hơn thu nhập bình quân người của các hộ ở thành thị
là 1129.605 (trong bài này, nếu hộ thuộc thành thị thì biến ttnt = 1, nếu hộ thuộc nông thôn thì
biến ttnt = 0).
- Hệ số của biến tsnguoi = -203.7207 cho biết quy mô hộ có quan hệ ngược chiều với
thu nhập bình quân. Khi quy mô hộ tăng 1 đơn vị với điều kiện khác không đổi thì thu bình
quân của một hộ giảm 203.7207 đơn vị.
- Hệ số của biến tylethuphinn = 604.3811 cho biết thu nhập từ phi nông nghiệp có
quan hệ cùng chiều với mức thu bình quân của hộ. Khi tỷ lệ thu phi nông nghiệp tăng 1 đơn vị
với các điều kiện khác không đổi thì thu nhập bình quân người của hộ tăng 604.3811 đơn vị.
sigma_u 1819.3842
sigma_e 1553.3214
rho .57839916 (fraction of variance due to u_i)
- Hệ số của biến t = 470.0398, cho biết mức thay đổi thu nhập bình quân người trung
bình trong mỗi nhóm tăng lên hơn 470000 đồng từ năm 2014 đến năm 2016.
- Hệ số của biến cohuongloi = -442.8755, cho biết thu nhập bình quân của nhóm tham
gia thấp hơn thu nhập bình quân của nhóm so sánh là 442.8755 đơn vị. Điều này là phù hợp
với các quan sát từ các con số trung bình mẫu về thu nhập bình quân người của các hộ nhóm
có tham gia chương trình trợ giúp và nhóm không tham gia các chương trình này. Con số này
cũng cho thấy chính sách của nhà nước tập trung vào nhóm hộ có thu nhập bình quân thấp
hơn và phù hợp với nguyên tắc chung về phân phối công bằng và giảm bất bình đẳng trong
nền kinh tế. Do đó, với điều kiện các yếu tố khác như nhau, nếu quan sát thuộc năm 2014, thì
các hộ thuộc nhóm có tham gia chương trình trợ giúp có thu nhập bình quân thấp hơn thu
nhập các hộ thuộc nhóm so sánh là 442.8755
Hệ số của biến tuongtac = -261.411 < 0. Biến tương tác được tính bằng cách: tuongtac
= t*cotrogiup. Như vậy, biến này chỉ nhận giá trị bằng 1 khi quan sát thuộc năm 2016 và có
tham gia chương trình trợ giúp. Hệ số của biến nhận giá trị âm cho thấy chênh lệch thu nhập
bình quân giữa hai nhóm hộ không được rút ngắn vào giai đoạn 2014 – 2016. Điều này chứng
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy Logit với bộ dữ liệu từ VHLSS 2016 để
tìm hiểu tác động của các yếu tố đến di cư việc làm của Việt Nam. Kết quả ước
lượng bảy yếu tố tác động đến di cư việc làm của các hộ gia đình, đó là: tỷ lệ
người có trình độ từ THPT trở lên, tỷ lệ người phụ thuộc, tỷ lệ nam giới, tỷ lệ thu
từ phi nông nghiệp, dân tộc, khu vực và mức sống của hộ gia đình so với năm
năm trước (năm 2012) đều có ý nghĩa thống kê. Trong đó, tỷ lệ thu từ phi nông
nghiệp có ảnh hưởng cùng chiều đến xác suất di cư việc làm của hộ, còn các yếu
tố khác có ảnh hưởng ngược chiều đến xác suất di cư việc làm của hộ. Khu vực
và mức sống của hộ gia đình có tác động mạnh mẽ đến xác suất các hộ có người
đi làm ăn xa và giúp việc.
Từ khóa: VHLSS 2016, di cư việc làm, yếu tố nhân khẩu học, Việt Nam.
ASBTRACT:
This study utilized logit regression model with data from Vietnames
Household Living Standards Survey (VHLSS) in the year 2016 to estimate factors
that determined the probability of job migration in Vietnam. The estimated results
of the model indicate that there are 7 factors affecting job migration of
households, comprising: the proportion of people with high school or higher
qualifications, the proportion of dependents, the male rate, income from non-
agricultural rate, ethnic, area and household living standards compared to the
previous five years (2012). In particular, the rate of non-agricultural income has
a positive impact on the probability of job migrant t of households, while other
factors have negative effects on the probability of job migrant. Area and living
standards have a strong impact on the probability of households having people
working away from home and assisting.
Keywords: 2016 VHLSS, job migration, demographic factors, Vietnam.
1.Giới thiệu
Di cư được hiểu là hiện tượng thay đổi nơi cư trú từ đơn vị hành chính, lãnh thổ này
sang đơn vị hành chính, lãnh thổ khác trong một khoảng thời gian nhất định gắn liền với việc
tìm kiếm những điều kiện, khả năng tồn tại và phát triển của cá nhân, hộ gia đình.
Về mặt lý luận, nhiều nghiên cứu lý thuyết như lý thuyết về của Ravenstein (1885) đã
xác định các quy luật ảnh hưởng đến di cư, lý thuyết của Harris - Todaro (1970) giải thích
quyết định của người lao động di cư từ khu vực nông thôn ra thành thị dựa trên sự khác biệt
về mức thu nhập dự kiến có được trong một khoảng thời gian nhất định ở thành thị so với
mức thu nhập trung bình đang có ở nông thôn, lý thuyết của B.King (2006) đã chỉ ra nguyên
nhân chủ yếu của hiện tượng di cư là kinh tế, lý thuyết NELM (Stark và Bloom, 1985) cho
rằng các quyết định di cư của một cá nhân không phải là quyết định của bản thân người di cư
mà là một phần chiến lược của hộ gia đình nhằm tăng thu nhập, tạo dựng quỹ đầu tư vào các
hoạt động mới nhằm hạn chế các rủi ro sản xuất và đảm bảo nguồn thu nhập,… hay các lý
Trong đó: Xi = (1, X2i, X3i,…, Xki) là các biến độc lập có khả năng ảnh hưởng đến xác
suất để Y = 1, và β = (β1, β2,…, βk)
Trong mô hình trên không phải là hàm tuyến tính của các biến độc lập. Phương trình
xác định trên được gọi là hàm phân bố logistic. Với số liệu có dạng cá thể, phương pháp phổ
biến để ước lượng hàm pi là phương pháp ước lượng hợp lý tối đa. Từ các kết quả ước lượng
được về βk, đồng thời thay các giá trị của biến độc lập X i =Xi* nào đó vào công thức (*) ta
được: ¿ ¿
β1 +β 2 X 2 i+ . . .+β k X ki
¿ e
pi= P ( Y =1| X = X )= ¿
β 1+ β 2 X 2 i+ ...+ β k X ki
¿
(2) 1+ e
Ảnh hưởng biên của một biến X (chẳng hạn X2i) đến P(Y=1) bằng:
∂ pi
= pi ( 1− pi ) β2
∂ X2i (3)
Như vậy, trong mô hình Logit chúng ta không nghiên cứu ảnh hưởng trực tiếp của biến
độc lập Xi đối với Y mà xem xét ảnh hưởng của Xi đến xác suất để Y nhận giá trị bằng 1.
Hay nói cách khác, trong mô hình này là xác định xác suất để hộ thứ i trong mẫu có người di
cư việc làm (tức là Yi nhận giá trị 1).
Dựa vào tổng quan lý thuyết và thực nghiệm được trình bày trong phần trên, kết hợp với
điều kiện dữ liệu thực tế có được từ VHLSS 2016, tác giả chọn ra 7 yếu tố có thể ảnh hưởng
đến di cư việc làm tại Việt Nam bao gồm: tỷ lệ người có trình độ từ THPT trở lên, tỷ lệ phụ
thuộc, tỷ lệ nam giới, tỷ lệ thu phi nông nghiệp, dân tộc, khu vực sinh sống và mức sống của
hộ.
Mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau:
pi
Ln ( ¿= β0 + β1*tyleTHPT + β2*tylephuthuoc + β3*tylenam + β4*tylethuphinn +
1− pi
β5*dantoc + β6*khuvuc + β7*mucsong + ui
Mô hình này xác định được xác suất p i khả năng có di cư của người thứ i dưới tác động
ảnh hưởng của các nhân tố tham gia trong mô hình, là xác suất để biến Y nhận giá trị 1 (tức là
người thứ i di cư).
Các biến đưa vào mô hình được phân tích cụ thể như sau:
Y thể hiện di cư việc làm, Y bằng giá trị 1 nếu hộ có người di cư, bằng 0 nếu hộ không
có người di cư, P là xác suất một hộ có người di cư. Từ công thức trên ta hiểu hệ số ước lượng
β cho biết khi biến độc lập X tăng 1 đơn vị thì ln (logarit cơ số e) của tỷ lệ (P/1-P) tăng β đơn
vị. Nếu hệ số β mang dấu dương thì X sẽ làm tăng khả năng Y nhận giá trị 1 trong khi hệ số
âm làm giảm khả năng này. Những biến còn lại được giải thích trong bảng 1.
Bảng 1: Giải thích các biến trong mô hình
Mã câu hỏi
STT Ký hiệu Mô tả biến Mã hóa và tính giá trị biến trong VHLSS
2016
Biến phụ thuộc
1 Y Hộ có người di cư Y=1: Hộ có người di cư việc làm m1bc4
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 91
việc làm Y=0: Hộ không có người di cư việc làm
Biến độc lập
Tỷ lệ người từ THPT tyleTHPT = Số người có trình độ từ THPT trở m2a
1 tyleTHPT
trở lên lên / Tổng số người trong hộ
tylephuthuoc = (Số người dưới 15 tuổi + Số m1ac5
Tỷ lệ người phụ thuộc
2 Tylephuthuoc người trên 65 tuổi đối với nam + Số người trên
trong hộ
60 tuổi đối với nữ) / Tổng số người trong hộ
Tỷ lệ nam giới trong Tylenam = Số nam giới trong hộ / Tổng số m1ac2
3 Tylenam
hộ người trong hộ
Tỷ lệ thu phi nông Tylethuphinn = Thu phi nông nghiệp / Thu 4atn, 4cc, 4ct,
4 tylethuphinn
nghiệp nhập 4dtn
dantoc=1: Nếu hộ thuộc dân tộc Kinh hoặc Hoa Ho1
5 dantoc Dân tộc
dantoc=0: Nếu hộ thuộc dân tộc khác
Khu vực sinh sống Khuvuc=1: Nếu hộ sống ở khu vực thành thị Ho1
6 khuvuc
của hộ Khuvuc=0: Nếu hộ sống ở khu vực nông thôn
Mucsong=1: Nếu hộ trả lời là cải thiện hơn M8c17
nhiều và cải thiện hơn một chút.
Mucsong=0: Nếu hộ trả lời là như cũ, suy giảm
7 mucsong Mức sống của hộ
hay không biết.
(Mức sống của hộ được so sánh với 5 năm
trước (năm 2012))
Nguồn: phân tích tác giả
Ý nghĩa của các hệ số và cách phân tích như sau:
+ Hệ số β0 là hệ số chặn (intercept). Nó cho biết giá trị của Y khi tất cả các biến độc lập bằng
0.
+ Hệ số β1, β2,…, β7 là các hệ số hồi quy cho biết độ mạnh cũng như chiều của sự ảnh
hưởng của các biến độc lập đến xác suất xảy ra di cư việc làm. Nếu hệ số hồi quy dương thì
khi giá trị biến độc lập tương ứng tăng lên làm tăng khả năng (xác suất) xảy ra của di cư và
ngược lại.
3.2 Thống kê mô tả
3.2.1 Thông tin chung về những người di cư việc làm theo dữ liệu VHLSS 2016
Trong bộ dữ liệu VHLSS 2016, thông tin chung về những người di cư việc làm được
lưu tại mục 1B. Phần dưới đây sẽ khái quát thông tin về giới tính (m1bc3), công việc khi di cư
việc làm (m1bc4), tuổi (m1bc5), tình trạng hôn nhân (m1bc6), trình độ giáo dục (m1bc7a,
m1bc7b), đăng ký hộ khẩu,…
Bảng 2: Kết quả thống kê mô tả
Số lượng quan Độ lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn
Yếu tố Trung bình
sát chuẩn nhất nhất
Giới tính 1.235 1,391903 0,48837 1 2
Công việc 1.235 1,987854 0,10958 1 3
Tuổi 1.235 27,94413 9,31778 10 76
Tình trạng hôn nhân 1.235 1,448136 0,67704 1 5
Trình độ giáo GDPT 1.235 3,275304 2,83478 0 12
dục GDNN 1.235 0,7967611 1,93994 0 7
Nguồn: Tính toán của tác giả từ bộ dữ liệu VHLSS 2016
Từ bảng thống kê mô tả, ta thấy có 1.235 người đi làm ăn xa và giúp việc. Trong đó
nam giới có xu hướng di cư nhiều hơn nữ giới. Trong mục 1B của bộ dữ liệu có 751 người
nam giới di cư việc làm chiếm 60,81% trong tổng số người di cư, có 484 người là nữ giới
chiếm 39,19%. Điều này cho thấy nam giới là những người trụ cột, chịu gánh nặng về thu
nhập trong gia đình, họ di cư để kiếm thêm thu nhập đảm bảo cuộc sống gia đình.
Qua bảng thống kê cho thấy mẫu quan sát có tuổi rải từ 10 đến 62 tuổi, trong đó, trung
bình độ tuổi di cư việc làm là 28 tuổi. Điều đó chứng tỏ nhóm người di cư việc làm là lực
lượng lao động trẻ dồi dào, là nguồn lực quan trọng góp phần vào tiềm năng phát triển kinh tế
- xã hội.
Về tỷ lệ di cư việc làm tính theo mỗi nhóm tình trạng hôn nhân, người chưa có gia đình
có tỷ lệ di cư việc làm nhiều nhất, chiếm tới 62,07%; thứ hai là những người đã có gia đình có
0.2
0.15
0.1
0.05
0
Không di cư việc làm Di cư việc làm Mẫu nghiên cứu
0.35 0.34
0.35
0.30 0.29
0.25
0.20
0.15
0.10
0.05
0.00
Không di cư việc làm Di cư việc làm Mẫu nghiên cứu
0.4 0.38
0.3
0.2
0.1
0
Không di cư việc làm Di cư việc làm Mẫu nghiên cứu
0.6
0.5
0.4
0.3
0.2
0.1
0
Không di cư việc làm Di cư việc làm Mẫu nghiên cứu
Khu vực sinh sống của hộ Khuvuc 1,69901 0,8977328 1,52526 4,33%
Mức sống so với 5 năm
Mucsong 0,17044 -0,317987 -0,0542 -1,53%
trước
Constant _cons -3,371857
P (Y=1) 5,08%
Khu vực sinh sống của hộ Khuvuc 1,82922 0,897732 1,6421 5,96%
Mức sống so với 5 năm
Mucsong 0,12997 -0,317987 -0,0413 -2,11%
trước
Constant _cons -3,371857
P (Y=1) 7,15%
TÓM TẮT
Với mẫu quan sát 319 công ty cổ phần niêm yết tại Sở giao dịch chứng
khoán TP.HCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội giai đoạn từ năm 2013 đến
2017, tác giả kiểm định ảnh hưởng của dòng tiền đến sự thay đổi trong lượng tiền
mặt nắm giữ hay nói cách khác là độ nhạy của dòng tiền của tiền mặt. Phương
pháp ước lượng được sử dụng gồm hồi quy OLS và hồi quy GMM bậc 4. Kết quả
nghiên cứu tìm thấy ảnh hưởng của tính bất cân xứng trong dòng tiền đến sự thay
đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ, nghĩa là khi công ty có dòng tiền dương, công
ty sẽ tăng lượng tiền mặt dự trữ khi dòng tiền tăng lên nhưng khi công ty có dòng
tiền âm, công ty sẽ tăng lượng tiền mặt dự trữ khi dòng tiền suy giảm. Thêm vào
đó, nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng cho thấy ảnh hưởng của tính bất cân
xứng trong dòng tiền đến sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ khác nhau
giữa các công ty rơi vào tình trạng bị hạn chế tài chính và các công ty không bị
hạn chế tài chính. Cuối cùng, giữa các công ty có sự kiểm soát bên ngoài chặt chẽ
và các công ty có ít sự kiểm soát bên ngoài cũng như giữa các công ty sở hữu nhà
nước và sở hữu tư nhân có sự khác nhau về độ nhạy này trong điều kiện dòng tiền
dương.
Từ khóa: Tính bất cân xứng trong dòng tiền, sự thay đổi trong lượng tiền mặt
nắm giữ, hạn chế tài chính, kiểm soát bên ngoài, sở hữu nhà nước.
1.Giới thiệu
Tiền mặt là một trong những nhân tố quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Việc quản lý và sử dụng tiền mặt luôn đặt ra nhiều thách thức cho mỗi
doanh nghiệp, làm sao để đầu tư lượng tiền mặt nhàn rỗi nhằm thu lợi nhuận đồng thời vẫn
đảm bảo mức thanh khoản hợp lý để đáp ứng các nhu cầu mua sắm phục vụ cho sản xuất kinh
doanh trong tương lai là câu hỏi lớn đối với mỗi nhà quản trị. Quản lý tốt tiền mặt tạo điều
kiện cho doanh nghiệp nắm bắt các cơ hội đầu tư tốt khi chi phí tài trợ bên ngoài quá cao và
giúp doanh nghiệp thanh toán được các khoản nợ khi xảy ra kiệt quệ tài chính do sử dụng
nguồn tài trợ bên ngoài. Tuy nhiên, việc doanh nghiệp có quá nhiều tiền mặt liệu có phải là
một điều tốt? Lượng tiền mặt dư thừa sẽ khiến các nhà đầu tư đặt ra những câu hỏi nghi vấn
rằng doanh nghiệp có thể mất đi các cơ hội đầu tư tốt hoặc sự quản lý yếu kém của nhà quản
trị. Vậy làm sao tìm ra được lượng tiền mặt nắm giữ tối ưu cho doanh nghiệp?
Trong những năm gần đây, trên thế giới, các nhà nghiên cứu đã dành sự quan tâm rất
nhiều đến vấn đề quản trị tiền mặt, đã đưa ra nhiều lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm góp
phần làm sáng tỏ hơn cho vấn đề này. Có những nghiên cứu đi vào nghiên cứu mối quan hệ
giữa việc nắm giữ tiền mặt với giá trị doanh nghiệp, có những nghiên cứu đi vào xem xét sự
ảnh hưởng của việc nắm giữ tiền mặt đối với thành quả hoạt động của công ty. Những nghiên
cứu này phát hiện ra rằng giá trị thị trường của các công ty được tính bằng Tobin’q có mối
quan hệ tuyến tính với mức độ tiền mặt được nắm giữ (Saddour 2006), hoặc là việc nắm giữ
tiền mặt chỉ làm gia tăng giá trị của các doanh nghiệp bị hạn chế tài chính (Mulligan 1997), có
nghiên cứu lại cho rằng hiệu quả hoạt động của các công ty có lượng tiền mặt nắm giữ nhiều
tốt hơn hiệu quả hoạt động của các công ty khác có cùng quy mô và ngành nghề nhưng có
lượng tiền mặt nắm giữ ít hơn (Mikkelson và Partch 2002). Bên cạnh những nghiên cứu về
mối quan hệ giữa việc nắm giữ tiền mặt và giá trị doanh nghiệp, có nhiều nghiên cứu đi sâu
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 103
vào tìm hiểu những yếu tố tác động đến việc nắm giữ tiền mặt của các doanh nghiệp. Nhưng
gần đây nhất, từ năm 2004, nổi lên những bài nghiên cứu nghiên cứu về ảnh hưởng dòng tiền
đến sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ và những nghiên cứu này mở ra một hướng
nghiên cứu mới. Trong đó nổi bật là nghiên cứu của Bao và cộng sự (2012), kết quả cho thấy
sự bất cân xứng trong dòng tiền có ảnh hưởng đến sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ
và kết quả này vẫn đúng khi các tác giả xem xét đến vấn đề hạn chế tài chính của doanh
nghiệp cũng như vấn đề đại diện công ty. Các doanh nghiệp Việt Nam với những đặc thù của
những doanh nghiệp ở một thị trường mới nổi với nhiều tiềm năng tăng trưởng nhưng cũng
tiềm ẩn nhiều rủi ro thì liệu có hay không sự ảnh hưởng trong dòng tiền đến sự thay đổi lượng
tiền mặt nắm giữ. Ngoài ra, vấn đề sở hữu nhà nước cũng là một chủ đề rất được quan tâm
trong thời gian gần đây khi Chính phủ phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước,
trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2016 - 2020" nên các doanh
nghiệp sở hữu nhà nước phải hoàn thành quá trình cổ phần hóa trước 2020, đó sẽ là một bài
toán cân nhắc khi nói về chính sách tiền mặt của những doanh nghiệp này. Đây cũng là một
điểm mới của đề tài khác biệt so với các tác giả trước đây khi nghiên cứu trong yêu cầu thời
đại mới. Đó là lý do để tác giả thực hiện đề tài “Phân tích độ nhạy dòng tiển của tiền mặt nắm
giữ đối với các doanh niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”.
Nghiên cứu sẽ được thực hiện với mục tiêu tổng quát là kiểm định ảnh hưởng của dòng
tiền đến sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ của các doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu này, nghiên cứu sẽ
làm rõ các câu hỏi nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất là độ nhạy dòng tiền của tiền mặt nắm giữ có khác nhau khi công ty có dòng
tiền dương và khi công ty có dòng tiền âm hay không hay nói cách khác độ nhạy dòng tiền
của tiền mặt nắm giữ có bị bất cân xứng hay không?
Thứ hai là có sự khác biệt trong sự ảnh hưởng của tính bất cân xứng trong dòng tiền
đến lượng tiền mặt nắm giữ giữa những công ty bị hạn chế tài chính và những công ty không
bị hạn chế tài chính hay không?
Thứ ba là có sự khác biệt trong ảnh hưởng của dòng tiền đến sự thay đổi trong lượng
tiền mặt nắm giữ giữa các doanh nghiệp có sự kiểm soát bên ngoài chặt chẽ và các doanh
nghiệp có ít sự kiểm soát bên ngoài hay không?
Thứ tư là có sự khác biệt trong ảnh hưởng của dòng tiền đến sự thay đổi trong lượng
tiền mặt nắm giữ giữa các doanh nghiệp sở hữu nhà nước và các doanh nghiệp sở hữu tư nhân
hay không?
2. Tổng quan các nghiên cứu về ảnh hưởng của dòng tiền đến sự thay đổi trong lượng
tiền mặt nắm giữ
Lượng tiền mặt nắm giữ của một doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, có thể làm
ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới đã kiểm định
sự ảnh hưởng trực tiếp của việc nắm giữ tiền mặt đến giá trị doanh nghiệp chẳng hạn như
nghiên cứu của Ditmarr và Mahrt-Smith năm 2005, Lee và Powell năm 2010, nghiên cứu của
Cristina Martinez-Sola và cộng sự năm 2013.
Năm 2005, Ditmarr và Mahrt-Smith phát hiện ra rằng vấn đề quản trị doanh nghiệp có
tác động đáng kể đối với giá trị doanh nghiệp thông qua việc ảnh hưởng đến giá trị tiền mặt
được nắm giữ của doanh nghiệp. Theo đó, giá trị thị trường của lượng tiền mặt dư thừa sẽ mất
đi một nửa giá trị khi lượng tiền mặt này được nắm giữ bởi các công ty có năng lực quản trị
kém. Các tác giả còn tìm được bằng chứng cho thấy các công ty với cơ chế quản trị yếu kém
thường dùng tiền mặt dư thừa để đầu tư vào các dự án có tỷ suất sinh lợi thấp.
Năm 2010, hai tác giả Lee và Powell đã khảo sát những nhân tố tác động đến quyết định
nắm giữ tiền mặt của các doanh nghiệp Úc và ảnh hưởng của vấn đề dư thừa tiền mặt đối với
giá trị tài sản của cổ đông. Kết quả cho thấy các doanh nghiêp có lượng tiền mặt dư thừa “tạm
thời” thì có mức sinh lợi (đã điều chỉnh rủi ro) cao hơn đáng kể so với các doanh nghiệp có
lượng tiền mặt dư thừa “thường xuyên”. Bài nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng giá trị biên
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 104
tế của tiền mặt sẽ giảm dần khi doanh nghiệp nắm giữ tiền mặt nhiều hơn và thời gian nắm
giữ tiền mặt lâu hơn.
Năm 2013, Martinez – Sola và cộng sự dựa trên việc sử dụng dữ liệu bảng không cân
bằng của 472 công ty của ngành Công nghiệp Mỹ giai đoạn 2001 – 2007 để trưng ra bằng
chứng cho thấy tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa giá trị doanh nghiệp và lượng tiền mặt nắm
giữ. Theo đó, các doanh nghiệp sẽ điều chỉnh lượng tiền dự trữ để tối đa hóa giá trị doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp có lượng tiền mặt dự trữ ít, chi phí của việc nắm giữ tiền mặt sẽ ảnh
hưởng đến giá trị doanh nghiệp. Từ đó, nếu doanh nghiệp nắm giữ càng nhiều tiền, giá trị
doanh nghiệp sẽ càng tăng. Tuy nhiên, sau khi mức độ tiền mặt đạt đến mức tối ưu, giá trị
doanh nghiệp sẽ giảm nếu lượng tiền mặt nắm giữ tiếp tục tăng.
Kết quả của những nghiên cứu này đều cho thấy rằng vấn đề quản trị tiền mặt có tác
động đối với giá trị của doanh nghiệp, mà trọng tâm là giá trị tiền mặt do doanh nghiệp nắm
giữ. Như vậy, việc nghiên cứu để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến lượng tiền mặt nắm giữ
của doanh nghiệp là rất quan trọng.
Nadiri, năm 1969, là người tiên phong trong nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến
việc nắm giữ tiền mặt bằng cách thu thập dữ liệu từ các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực Sản xuất
ở Mỹ trong giai đoạn 1948-1964 để ước lượng mô hình liên quan đến mức độ nắm giữ tiền
mặt mong muốn của các doanh nghiệp. Bằng phương pháp phân tích hồi quy OLS, kết quả
cho thấy rằng nhu cầu tiền mặt được quyết định bởi sản lượng đầu ra, lãi suất, tỷ lệ thay đổi
mức giá chung dự kiến, và các yếu tố liên quan đến giá cả.
Mở rộng thêm nghiên cứu của Nadiri (1969), Cambell và Brendsel (1977) đã tiến hành
nghiên cứu thực nghiệm bằng việc thu thập dữ liệu từ các công ty ngành Sản xuất ở Mỹ từ
năm 1953 đến 1963 và sử dụng hồi quy OLS để kiểm tra tác động của việc cân đối mức tiền
mặt được nắm giữ. Tuy nhiên, các bằng chứng thực nghiệm lại cho thấy kết quả hoàn toàn trái
ngược, nghĩa là không có sự ràng buộc nào giữa tỷ lệ tiền mặt nắm giữ và sản lượng đầu ra,
lãi suất, tỷ lệ thay đổi mức giá chung dự kiến, và các yếu tố liên quan đến giá cả.
Opler và các cộng sự cũng bắt đầu nghiên cứu của mình vào năm 1999 với đề tài “Các
yếu tố ảnh hưởng đến nắm giữ tiền mặt – Bằng chứng thực nghiệm tại Mỹ”. Các tác giả đã
thu thập dữ liệu của 1048 doanh nghiệp trong giai đoạn 1971-1994 để tìm những yếu tố quyết
định và tác động lên việc nắm giữ tiền của các doanh nghiệp. Kết quả thu được từ các kiểm
định chuỗi thời gian và hồi quy chéo đã chứng minh được rằng doanh nghiệp với nhiều cơ hội
tăng trưởng, rủi ro kinh doanh cao, và quy mô nhỏ có xu hướng nắm giữ nhiều tiền mặt hơn
các doanh nghiệp khác. Các công ty có khả năng tiếp cận tốt với thị trường vốn, chẳng hạn
như các công ty có quy mô lớn và hệ số tín nhiệm cao, cũng như có đòn bẩy tài chính cao có
xu hướng nắm giữ ít tiền mặt hơn.
Vẫn nghiên cứu về các yếu tố tác động đến việc nắm giữ tiền mặt, năm 2003, Ditmarr
và cộng sự đã đưa ra bằng chứng cho thấy chi phí đại diện đóng vai trò rất quan trọng trong
việc lý giải cho quyết định nắm giữ tiền mặt của doanh nghiệp. Sử dụng mẫu của hơn 11000
công ty từ 45 quốc gia, các tác giả đã tìm được bằng chứng ủng hộ cho giả thuyết các công ty
tại những quốc gia mà quyền cổ đông không được bảo vệ thì có lượng tiền mặt nắm giữ cao
gấp hai lần so với những công ty tại các quốc gia mà quyền cổ đông được bảo vệ tốt hơn.
Năm 2004, Ferreira và Vilela đã xem xét các yếu tố quyết định đến việc nắm giữ tiền
mặt bằng cách sử dụng mẫu 400 doanh nghiệp ở các quốc gia trong Hiệp Hội Kinh Tế và Tiền
Tệ (EMU) trong giai đoạn 1987 đến 2000. Tương tự như phát hiện trước đó của Opler và các
cộng sự (1999) về các yếu tố quyết định đến việc nắm giữ tiền mặt, kết quả tìm được chứng
minh được rằng lượng tiền mặt nắm giữ gia tăng cùng với sự gia tăng trong cơ hội đầu tư và
dòng tiền; và lượng tiền mặt nắm giữ giảm đi khi doanh nghiệp có sự gia tăng trong tính thanh
khoản, tỷ lệ nợ trong cấu trúc vốn và quy mô doanh nghiệp.
Afza và Adnan (2007) tập trung vào các công ty phi tài chính ở Pakistan. Các tác giả đã
sử dụng mẫu dữ liệu từ 1998 đến 2005 để nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố quy mô công
ty, cơ hội tăng trưởng, dòng tiền, vốn luân chuyển ròng, đòn bẩy tài chính, mức độ thay đổi
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 105
của dòng tiền và chi trả cổ tức đến lượng tiền mặt được nắm giữ của doanh nghiệp. Nghiên
cứu chỉ ra rằng lượng tiền mặt nắm giữ của doanh nghiệp sụt giảm khi doanh nghiệp có sự gia
tăng trong cơ hội đầu tư, vốn luân chuyển ròng, đòn bẩy tài chính, chi trả cổ tức, và lượng tiền
mặt nắm giữ sẽ gia tăng cùng với sự gia tăng trong quy mô công ty và dòng tiền.
Bài nghiên cứu về mức độ nắm giữ tiền mặt của Kim và các cộng sự vào năm 2011 đã
sử dụng dữ liệu của 125 doanh nghiệp trong ngành Kinh doanh nhà hàng tại thị trường Mỹ từ
năm 1997-2008. Kết quả cho thấy các doanh nghiệp trong lĩnh vực Kinh doanh nhà hàng với
triển vọng đầu tư lớn có xu hướng nắm giữ tiền mặt nhiều hơn. Đồng thời các doanh nghiệp
có quy mô lớn sẽ nắm giữ các loại tài sản khác có tính thanh khoản cao nhiều hơn là tiền mặt;
các công ty với chi phí sử dụng vốn cao hơn, và các công ty thực hiện chính sách thiên về chi
trả cổ tức sẽ nắm giữ lượng tiền mặt ít hơn.
Năm 2012, Gill và Shah đã mở rộng nghiên cứu của Adnan (2007). Các tác giả đã thu
thập dữ liệu của 166 công ty của Canada được niêm yết trên sàn chứng khoán Toronto trong 3
năm 2008, 2009 và 2010. Quản trị tiền mặt trong bài nghiên cứu được hiểu là quản trị tiền
hoặc các khoản tương đương tiền, những khoản có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt khi
cần thiết. Kết quả cho thấy có mối tương quan thuận chiều giữa quy mô công ty, quy mô hội
đồng quản trị, đòn bẩy tài chính, dòng tiền, tài sản ngắn hạn với lượng tiền mặt được nắm giữ
của doanh nghiệp.
Từ những nghiên cứu trước đây, có thể thấy giới học thuật trên thế giới đã dành sự quan
tâm rất lớn đối với chủ đề nắm giữ tiền mặt và cũng đã đưa ra nhiều lý thuyết và bằng chứng
thực nghiệm góp phần làm sáng tỏ vấn đề này. Nếu xác định được lượng tiền mặt nắm giữ tối
ưu thì sẽ có thể tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Do vậy, việc tìm hiểu có bao nhiêu nhân tố
ảnh hưởng đến việc nắm giữ tiền mặt của các doanh nghiệp là rất quan trọng và đặc biệt hơn
là ít doanh nghiệp nào có số dư tiền mặt dao động theo quy luật, hầu hết các doanh nghiệp đều
có số dư tiền mặt không ổn định. Dòng tiền là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lượng
tiền mặt nắm giữ được các nhà nghiên cứu quan tâm rất nhiều. Và gần đây nhất, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra một hướng nghiên cứu mới về mối quan hệ giữa dòng tiền và lượng tiền
mặt nắm giữ đó là nghiên cứu về ảnh hưởng của tính bất cân xứng trong dòng tiền đến sự thay
đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ.
Năm 2004, Almeida, Campello và Weisbach trong bài nghiên cứu “The Cash Flow
Sensitivity of Cash”, các tác giả đã xây dựng một mô hình về nhu cầu thanh khoản của các
doanh nghiệp để thực hiện kiểm định thực nghiệm mới về những tác động của hạn chế tài
chính lên những quyết định tài chính của doanh nghiệp. Tác động của hạn chế về tài chính
được tập trung vào xu hướng nắm giữ tiền mặt của doanh nghiệp khi dòng tiền thay đổi như
thế nào. Bài nghiên cứu sử dụng mẫu dữ liệu của những doanh nghiệp sản xuất từ năm 1971
đến năm 2000 và đã tìm thấy nhiều bằng chứng cho thấy đối với những doanh nghiệp hạn chế
tài chính luôn có sự gia tăng trong lượng tiền mặt được nắm giữ khi dòng tiền tăng, trong khi
những doanh nghiệp không bị hạn chế tài chính không có tác động nào từ dòng tiền đến sự
thay đổi trong lượng tiền mặt được nắm giữ của các doanh nghiệp.
Yi-Chen Lin, năm 2007, đã thu thập dữ liệu của 988 công ty tại Đài Loan để kiểm định
mối tương quan giữa sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ và dòng tiền. Kết quả cho thấy
những công ty bị hạn chế về tài chính và những công ty không bị hạn chế về tài chính đều thể
hiện mối tương quan dương giữa sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ và dòng tiền. Kết
quả này có sự khác biệt đáng kể với kết quả từ mô hình nghiên cứu thực nghiệm của Almeida
và các cộng sự (2004) khi cho rằng chỉ có các công ty bị hạn chế về tài chính mới gia tăng
lượng tiền mặt nắm giữ khi dòng tiền tăng.
Năm 2009, trong bài nghiên cứu “The Corporate Propensity to Save”, Riddick và
Whited cho thấy sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ là nghịch chiều so với dòng tiền.
Kết quả này trái ngược hoàn toàn với những lập luận của Almeida và các cộng sự. Sự khác
biệt này được các tác giả lý giải là do trong các mô hình nghiên cứu trước đây có sự sai số
trong đo lường chỉ số Tobin’q nên dẫn đến kết quả ước lượng không được chính xác. Riddick
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 106
và Whited cho rằng mối quan hệ giữa sự thay đổi của lượng tiền mặt nắm giữ và dòng tiền
mang dấu dương nếu không có sự điều chỉnh sai số đo lường trong Tobin’q. Tuy nhiên, sau
khi điều chỉnh các sai số trong đo lường chỉ số Tobin’q bằng phương pháp hồi quy GMM bậc
cao thì mối quan hệ giữa sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ và dòng tiền là âm.
Nghiên cứu “On the Sensitivity of Corporate Cash Holdings and Hedging to Cash
Flows” của Monica Marin và Greg Niehaus (2011) đã ủng hộ cho những lập luận của
Almeida và các cộng sự (2004). Các tác giả cũng đã tìm thấy mối tương quan dương giữa sự
thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ với dòng tiền đối với các doanh nghiệp bị hạn chế về
tài chính. Các doanh nghiệp bị hạn chế về tài chính gia tăng lượng tiền mặt nắm giữ khi dòng
tiền tăng, nhưng các doanh nghiệp không bị hạn chế về tài chính không thường xuyên gia tăng
lượng tiền mặt nắm giữ khi dòng tiền tăng lên. Bài nghiên cứu còn cho thấy dòng tiền cao hơn
sẽ làm tăng khả năng phòng ngừa rủi ro cho các công ty bị hạn chế về tài chính.
Gần đây nhất, năm 2012, Dichu Bao, Kam. C. Chan và Weining Zhang đã công bố
những phát hiện mới về ảnh hưởng của sự bất cân xứng trong dòng tiền đến sự thay đổi trong
lượng tiền mặt nắm giữ của các công ty. Dichu Bao và các cộng sự cho rằng dù ở các công ty
bị hạn chế tài chính hay không hạn chế về tài chính thì vẫn có mối quan hệ khác nhau giữa
dòng tiền và sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ, và mối quan hệ này đồng biến hay
nghịch biến phụ thuộc vào dòng tiền của công ty đó là âm hay dương. Sự thay đổi trong lượng
tiền mặt nắm giữ là khác nhau đối với dòng tiền âm và dòng tiền dương là vì nhiều nguyên
nhân, trong đó có các điều khoản ràng buộc của dự án, việc che giấu những thông tin xấu và
chi phí đại diện. Thứ nhất, do các công ty bị ràng buộc bởi những điều khoản của các dự án
nên các công ty không thể chấm dứt việc thực hiện các dự án ngay lập tức cho dù đó là một
dự án có NPV âm. Thứ hai, các nhà quản lý có động cơ che giấu những thông tin xấu. Nếu
một công ty chấm dứt ngay các dự án xấu, thị trường có nhiều khả năng sẽ biết được những
vấn đề xấu đang xảy ra trong công ty. Chính vì vậy, một số nhà quản lý có thể chọn việc tiếp
tục các dự án xấu để giảm thiểu những tin tức không tốt lan ra bên ngoài thị trường, và hy
vọng thời gian tới sẽ có một số tin tốt để trung hòa tác động của những thông tin xấu. Thứ ba,
do sự tồn tại của chi phí đại diện, các nhà quản lý sẽ có động cơ để đầu tư quá mức hoặc thực
hiện một số dự án có NPV âm để tối đa hóa lợi ích cá nhân.
Từ kết quả các nghiên cứu trước đây, có thể thấy rằng mối tương quan giữa dòng tiền và
thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ là không đồng nhất giữa các nghiên cứu. Các nghiên
cứu của Almeida và cộng sự (2004), Yi-Chen Lin (2007), Marin và cộng sự (2011) đều cho
rằng tác động của dòng tiền lên thay đổi lượng tiền mặt nắm giữ là cùng chiều. Tuy nhiên,
theo nghiên cứu của Riddick và Whited (2009) thì tác động của dòng tiền lên thay đổi lượng
tiền mặt nắm giữ là nghịch chiều. Một kết quả nghiên cứu khác được tìm thấy trong nghiên
cứu của Bao và cộng sự (2012). Các tác giả cho rằng tồn tại sự khác nhau trong tác động của
dòng tiền lên thay đổi lượng tiền mặt nắm giữ. Có nghĩa là, tác động của dòng tiền lên thay
đổi lượng tiền mặt nắm giữ là nghịch chiều khi doanh nghiệp có dòng tiền dương và ngược
lại, khi doanh nghiệp có dòng tiền âm thì tác động này là cùng chiều.
Để nghiên cứu về tác động của dòng tiền lên thay đổi lượng tiền mặt nắm giữ, tác giả đã
chọn mô hình nghiên cứu của Bao và cộng sự (2012) để áp dụng cho các doanh nghiệp tại
Việt Nam bởi vì 3 lý do sau: thứ nhất, mô hình nghiên cứu của Bao và cộng sự (2012) có sự
cải tiến bằng việc đưa thêm các biến tương tác thể hiện sự tác động trong tính bất cân xứng
của dòng tiền đối với lượng tiền mặt nắm giữ của các công ty; thứ hai, dữ liệu các biến đều có
thể thu thập trên thị trường chứng khoán Việt Nam; thứ ba, nghiên cứu của Bao và cộng sự
(2012) sử dụng phương pháp ước lượng GMM bậc 4, đây là một phương pháp hồi quy khắc
phục được đa số các nhược điểm của phương pháp OLS như hiện tượng tự tương quan,
phương sai thay đổi và nội sinh.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1.Dữ liệu nghiên cứu
Ghi chú: *, **, *** tương ứng với các mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu từ phần mềm Stata 15.0
4.3. Kết quả kiểm định các giả thuyết
4.3.1.Kết quả kiểm định giả thuyết H1
Bảng 3: Kết quả hồi quy về ảnh hưởng của tính bất cân xứng trong dòng tiền lên sự thay
đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ
Phần A Phần B
OLS GMM4 OLS GMM4
Hệ số p-value Hệ số p-value Hệ số p-value Hệ số p-value
Hệ số chặn -0,0292 0,520 -0,6004* 0,070 0,0266 0,550 -0,588* 0,089
CashFlow 0,0616** 0,022 -1,249** 0,019 0,0637** 0,014 1,235** 0,031
Neg -0,0052 0.553 0,0047 0,878 -0,0079 0,358 0,0017 0,955
CashFlow* Neg -0,0581 0,243 -1,4258** 0,020 -0,0564 0,245 -1,4039** 0,034
Q 0,0321*** 0,003 -1,538** 0,030 0,0311*** 0,003 -1.5267** 0,045
Size -0,0022* 0,520 0,070** 0,034 -0,0016 0,353 0,0714** 0,049
Expenditure -0,1808*** 0,000 -0.2237* 0,092
Acquisition 0,0059 0,440 -0,0833* 0,072
∆NCWC -0,0492*** 0,000 -0,0545 0,083
ShortDebt -0,0051 0,550 -0,0467 0,376
N 1595 1595
R square 0,012 0,063
Ghi chú: *, **, *** tương ứng với các mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%
Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu từ phần mềm Stata 15.0
Từ kết quả hồi quy bảng 3 cho thấy hệ số ước lượng của các biến nghiên cứu có khác
với những kỳ vọng ban đầu của đề tài. Trong đó, hệ số ước lượng của CashFlow là 1,235 với
mức ý nghĩa 5%, hệ số ước lượng của biến tương tác CashFlow và Neg là -1,4039 với mức ý
nghĩa 5% và tổng hệ số ước lượng của CashFlow và CashFlow*Neg là -0,1689. Điều này ngụ
ý rằng khi tỷ lệ dòng tiền trên tổng tài sản tăng 1% thì lượng tiền mặt được nắm giữ trên tổng
tài sản của doanh nghiệp có dòng tiền dương sẽ tăng 1,235% (và ngược lại), tuy nhiên khi
dòng tiền trên tổng tài sản giảm 1% thì doanh nghiệp có dòng tiền âm sẽ gia tăng lượng tiền
mặt được nắm giữ trên tổng tài sản là 0,1689% (và ngược lại). Từ đây cung cấp bằng chứng
cho thấy tính bất cân xứng trong dòng tiền có ảnh hưởng đến sự thay đổi trong lượng tiền mặt
nắm giữ. Đối với những doanh nghiệp có dòng tiền dương, doanh nghiệp sẽ cân nhắc sử dụng
tiền để tài trợ cho các dự án đầu tư nhưng chờ đợi các cơ hội tốt chứ chưa thực hiện ngay, vì
thế lượng tiền mặt dự trữ của công ty sẽ tăng khi công ty có sự gia tăng trong dòng tiền. Khi
các doanh nghiệp có dòng tiền âm, dòng tiền càng âm doanh nghiệp tuy có thể cắt giảm các
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 112
khoản đầu tư cho các dự án hoặc tăng lượng tiền mặt dự trữ để phòng ngừa rủi ro cho các dự
án bởi với động cơ che đậy các thông tin xấu và vấn đề đại diện. Do đó, đối với các công ty có
dòng tiền âm, lượng tiền mặt dự trữ của công ty sẽ tăng khi công ty có sự sụt giảm trong dòng
tiền.
Bảng 3 cũng thể hiện các kết quả hồi quy khác nhau bằng phương pháp hồi quy OLS và
GMM bậc 4 nhằm để đánh giá tính hiệu quả của mô hình khi thêm các biến kiểm soát
Expenditure, Acquisition, ∆NCWC, ShortDebt vào mô hình, cũng như là để so sánh sự khác
nhau trong kết quả hồi quy giữa phương pháp hồi quy OLS và phương pháp hồi quy GMM
bậc 4. Hệ số hồi quy của các biến nghiên cứu chính CashFlow và CashFlow*Neg trong phần
B theo phương pháp GMM bậc 4 có mức ý nghĩa thống kê ngang so với kết quả hồi quy bằng
phương pháp GMM bậc 4 trong phần A. Bên cạnh đó, chỉ tiêu R2 của phương pháp hồi quy
OLS dùng để đánh giá mức độ phù hợp của mô hình trong phần B lớn hơn chỉ tiêu R2 trong
phần A, tương ứng là 0,063 và 0,012. Điều này chứng tỏ rằng việc tác giả đưa thêm các biến
kiểm soát vào mô hình đem tới một kết quả kiểm định tốt hơn cho các giả thuyết của đề tài.
4.3.2.Kiểm định giả thuyết H2
Bảng 4 thể hiện kết quả hồi quy của mô hình 2 theo ba tiêu chí phân loại các công ty
hạn chế tài chính và các công ty không hạn chế tài chính.
Kết quả hồi quy theo cả ba tiêu chí, hệ số ước lượng của biến CashFlow dương, biến
CashFlow*Neg âm có mức ý nghĩa 5% và 10% và tổng hệ số ước lượng của biến CashFlow
và CashFlow*Neg dương cho thấy ảnh hưởng của tính bất cân xứng trong dòng tiền đến sự
thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ vẫn tồn tại khi đưa thêm biến giả hạn chế tài chính vào
mô hình.
Để kiểm định giả thuyết H2 về ảnh hưởng của tính bất cân xứng trong dòng tiền lên sự
thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ có khác nhau giữa các công ty hạn chế tài chính và các
công ty không hạn chế tài chính hay không, tác giả sẽ xem xét hệ số ước lượng của hai biến
tương tác CashFlow*Constraint và CashFlow*Constraint*Neg. Theo ba phương pháp phân
loại theo chỉ số Whited and Wu, chi trả cổ tức và quy mô doanh nghiệp thì hệ số ước lượng
của biến tương tác (CashFlow*Constraint) không có mức ý nghĩa thống kê ở mức 1% và 5%.
Thêm vào đó, biến tương tác (CashFlow*Constraint*Neg) không cùng có mức ý nghĩa thống
kê ở cả ba phương pháp phân loại hạn chế tài chính. Như vậy, không có đủ bằng chứng để
chấp nhận giả thuyết 2, có nghĩa là không có khác biệt trong ảnh hưởng của tính bất cân xứng
trong dòng tiền đến sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ giữa các doanh nghiệp bị hạn
chế tài chính và các doanh nghiệp không bị hạn chế tài chính.
Bảng 4: Kết quả hồi quy về ảnh hưởng của tính bất cân xứng trong dòng tiền
lên sự thay đổi trong lượng tiền mặt nắm giữ khi xem xét đến vấn đề hạn chế
tài chính
H2 CashFlow*Constraint Không có ý Không chấp Không tương đồng với kết quả
nghĩa nhận H2 nghiên cứu của Almeida và cộng
CashFlow*Constraint*Neg Không có ý sự (2004), Bao và cộng sự (2012).
nghĩa
H3 Dòng tiền CashFlow Có ý nghĩa Chấp nhận Tương đồng với nghiên cứu của
dương CashFlow*Inst Có ý nghĩa một phần H3 Bao và cộng sự (2012).
Dòng tiền CashFlow Không có ý trong điều
âm nghĩa kiện dòng tiền
CashFlow*Inst Không có ý dương
nghĩa
H4 Dòng tiền CashFlow Có ý nghĩa Chấp nhận Chưa có trong các nghiên cứu
dương CashFlow*State_O Có ý nghĩa một phần H4 trước đây
wn trong điều
Dòng tiền CashFlow Không có ý kiện dòng tiền
âm nghĩa dương
CashFlow*State_O Không có ý
wn nghĩa
ABSTRACT
In the recent years, non-performing loans (NPLs) in Vietnam has been
declining significantly. In addition, resolutions for this kind of loan are developed
systematically; therefore, bad debt ratio in the credit institutions tend to decrease
and perform several good signals. This study is dedicated to investigating
different factors that influence the level of NPLs in Vietnamese banks and how
they are interrelated. In this research, we have three main parts: introduction
including current situation of bad debts in Vietnam and theoretical framework;
secondly, quantitative analysis of real data using E-view; and lastly, some
suggestions for Vietnam to maintain the NPLs resolution method as well as the
prediction for NPLs in the future.
Key words: Non-performing loans, Vietnam Asset Management Company
(VAMC), Resolution 42, banks.
1. Introduction
In 2019, global economy started with a lot of expectations which are shown in the
prospective prediction reports of many prestige organizations such as International Monetary
Fund (IMF) or World Bank (WB). It is believed that there is a potential growth in the
financial market thanks to the positive encouraging from domestic and international economic
situation. Notably, macroeconomic current state is relatively stable. According to experts
from WB, to maintain the development, new emerging economies need to improve policies
buffer zones. Among these policies, government should force to raise internal sources,
increase efficiency in loan management and investment. Simultaneously, monetary and fiscal
policies frame which have higher resistance ability shall be conducted.
Despite of all the challenge from international economic effects, Vietnam economy in
2018 has gained several positive results in general, thanks to great effort of the government
and economic components. Outstandingly, GDP growth achieved 7.08% which is the highest
figure in the recent 10 years and higher than other countries in ASIAN. Moreover, average
annual Consume Price Index (CPI) was controlled below 4%. In the financial market, credit
growth which intensively focuses on preference fields attained 15%, increased by nearly 3%
compared to the previous year. Especially the government strictly supervised credit growth in
real estate and securities. Foreign exchange rate, forex market was administered efficiently.
As a result of beneficial current state of financial and money market in 2018, credit
institutions expect banking sector continue to progress in 2019. Policies which are issued
form State Bank and Government in 2019 are predicted to keep inflation stable and guarantee
capital demand for supporting economic growth.
Credit institutions anticipate that credit balance of the whole banking system will grow
15.27% on average in 2019; and VND credit is always expected to increase higher than the
foreign one. These institutions also predict the non-performing loans (NPLs)/credit balance
ratio will be kept in the lowest level in 2018 and tend to decline in 2019. Nevertheless, Mr.
Nghiem Xuan Thanh – Vietcombank’ s Chairman of the Board affirms that NPLs are caused
not only by banks but also mainly by the market. Particularly, NPLs might be primarily
influenced by the fluctuation in the market, the drop in the volume of production and trading
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 117
in term of customers or even the bankruptcy of corporations and the borrowers. These existing
problems raise an inextricable situation for Vietnam in bad debt resolution, the evidence is
that Vietnam is claimed to “clean up” all bad debt to 2020. To approach the problem and find
out the current resolution for NPLs in Vietnam, the paper shall link the relationship between
NPLs level of 10 banks and ongoing market indicators.
2. Current situation
As reported by State Bank, on-balance sheet bad debt ratio in the end of 2018 had a
sharp fall. The ratio dropped from 2.46% in 2016 to 1.89%. In 2019, banking sector remains
the goal to keep the ratio below 2%. To achieve that, banks should strictly supervise the
quality of the debts. Classification, restructuration and loan categories transferring are
conducted in the stipulated way. Debt is currently divided into 5 categories, considered
seriously about overdue maturity level and time. At the time of report finalization, many debts
need to be reclassified. Category 1 debt, which has lowest risk, obtains the highest level of
36%. In term of category 5 – bad debt that is uncollectible, banks must make provision for
loans and losses for 80% of debts. In addition, 2018 is the year that many banks shall pay off
bad debt which have been sold to Vietnam Asset Management Company (VAMC). Due to
that, the banks must expand provision for loans and losses as much as they can. By
conducting the strategy, the banks can speed up the bad debt resolution process under valid
Resolution 42.
Recently, bad debt risk problem in Vietnam is ranked in the improvement level by
Moody’s Investors Service, which is one of the six standards that help Moody’s give the
bright prospective for Vietnam banking system in 2019. In 2017 and 2018, many banks had
paid off bad debts in VAMC, namely Vietcombank, Techcombank, MB, ACB, VIB.
Outstandingly, in 2018, Agribank did collected debt after handling credit risk and debts sold
to VAMC with 12.000 billion dongs, exceeding the plan. Since the resolution 42 was valid,
the debt collection result of VAMC in 2017 and 2018 has achieved 68.103 billion dongs,
approximately equals a half of total value of debt collection in the period of 2013-2018.
Resolution 42 is a crucial progress in bad debt solving, especially in conducting a
structure for credit institution for solving collaterals to collect debt. However, in order to
tackle bad debt problem completely, there still needs more efforts, particularly in the policies.
Additionally, bad debt resolution is essential process of banks in the role of lender. As a
result, banks should enhance risk management standard to make long-term plan, avoid the gap
of cash flows in the operation. It can be seen that the risk of NPLs derives from both the
economy instability and the changes in bank’s operations or specific indicators. These above
reasons reaffirm the substantially importance of researching into related variables affecting
NPLs and attempt to suggest the resolution for NPLs in the future.
3. Research and result
3.1 Variables selection
Based on considering possible variables which has the closest effect on NPLs, we
categorized them into 2 groups: bank specific variables and macroeconomic factors. On the
one hand, indicators specific to banks include inefficiency, non-interest income, profitability,
leverage, capital ratio, capital adequacy ratio and bank size. On the other hand, ratios of the
economy consist of GDP growth, inflation, real interest rate, exchange rate, unemployment
rate and credit growth. Each variable has one of the three relationships with NPLs: positive,
negative and unclear. The classification is shown in the table below:
Table 1: Summary of variables
Factor Positive Relationship Negative Relationship
Microeconomic factors
Inefficiency Kwan and Eisenbeis (1997); Espinoza and Prasad
(2010); Nguyen (2014).
Bank size Abid et al. (2014); Chaibi and Ftiti (2015). Salas and Saurina (2002); Hu et al. (2004)
Macroeconomic factors
Exchange rate Khemraj and Pasha (2009); Chaibi and Ftiti Poudel (2013); Washington (2014).
(2015)
Inflation Mehmood et al. (2013) Poudel (2013); Chaibi and Ftiti (2015).
Thanks to prior researches in identifying the relationship of related variables and NPLs,
we decide to only examine the reasonable ones in Vietnam’s case. Banking sector in Vietnam
are often evaluated credit risk based on the following factors: In term of macroeconomic
elements, we will study GDP growth, credit growth, interest expenses ratio; and in term of
bank’s specific elements, capital adequacy ratio (CAR), leverage ratio and the size of bank
will be considered. In summary, we select 6 variables that are the best fit for measuring the
NPLs, which are the bank size, leverage ratio, interest expense ratio, CAR, GDP growth and
loan growth.
REFERENCES
[1]. Abid, L., Ouertani, M., & Zouari-Ghorbel, S. (2014). Macroeconomic and Bank-specific
Determinants of Household’s Non-performing Loans in Tunisia: A Dynamic Panel
Data. Procedia Economics And Finance.
[2]. Amuakwa-Mensah, F., Marbuah, G., & Ani-Asamoah Marbuah,, D. (2017). Re-
examining the Determinants of Non-Performing Loans in Ghana’s Banking Industry: Role of
the 2007–2009 Financial Crisis. Journal Of African Business, 357–379.
[3]. Berger, A., & DeYoung, R. (1997). Problem loans and cost efficiency in commercial
banks. Journal Of Banking & Finance.
[4]. Beck, R., Jakubik, P., & Piloiu, A. (2015). Key Determinants of Non-performing Loans:
New Evidence from a Global Sample. Open Economies Review, 525-550.
[5]. Castro, V. (2013). Macroeconomic determinants of the credit risk in the banking system:
The case of the GIPSI. Economic Modelling, 672–683.
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu đã trình bày mô hình lý thuyết chấp nhận công nghệ mới
TAM, trên cơ sở mô hình TAM và kết quả của những nghiên cứu trước, nghiên
cứu đã xây dựng mô hình lý thuyết để nghiên cứu những nhân tố tác động đến
quyết định sử dụng ứng dụng du lịch thông minh. Trong bài nghiên cứu, tác giả
đã nhận diện được những nhân tố: tính dễ sử dụng cảm nhận, tính hữu ích cảm
nhận, ảnh hưởng xã hội, tính tự làm chủ, Lo ngại về an toàn thông tin và chất
lượng dịch vụ có ảnh hưởng đến quyết định sử dụng ứng dụng du lịch thông minh
của người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn 2018-2019. Các
nhận định trên được rút ra thông qua việc phân tích nhân tố khám phá EFA, ứng
dụng mô hình TAM và các phương pháp hồi quy được thực hiện trên phần mềm
SPSS. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm đưa ứng dụng du lịch thông
minh trở thành ứng dụng gắn với hoạt động du lịch tại Việt Nam nói chung và Hà
Nội nói riêng
Từ khóa: Mô hình TAM; nhân tố khám phá EFA; mô hình hồi quy (Linear
Regression Model); thành phố thông minh; du lịch thông minh.
1. Phần mở đầu
Thành phố thông minh là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông kết nối các cảm
biến, mạng không dây tốc độ cao, xử lý dữ liệu lớn để nâng cao chất lượng cuộc sống nơi đô
thị, cải thiện chất lượng phục vụ của chính quyền thành phố, giảm tiêu thụ năng lượng, quản
lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Nhìn chung, để đánh giá thành phố thông minh
sẽ phải dựa trên mức độ thông minh của cơ sở hạ tầng tác động lên các lĩnh vực giao thông, y
tế, xây dựng, năng lượng, quản trị,… Để xây dựng một thành phố thông minh, cần xây dựng
các hệ thống thông minh: hệ thống giao thông thông minh, hệ thống du lịch thông minh, hệ
thống giáo dục thông minh,… Trong đó hệ thống du lịch thông minh là một hệ thống được trú
trọng nhiều tại các quốc gia, hệ thống du lịch thông minh được thể hiện bằng các ứng dụng du
lịch thông minh. Có thể hiểu du lịch thông minh là mô hình du lịch được xây dựng dựa trên
nền tảng của công nghệ thông tin và truyền thông; giúp cho sự tương tác, kết nối chặt chẽ
giữa nhà quản lý, doanh nghiệp và khách du lịch, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách,
đồng thời giúp cho việc quản lý thuận tiện hơn
Tại Việt Nam, hiện đã có nhiều thành phố, tỉnh áp dụng ứng dụng du lịch thông minh:
Hà Nội, Đà Nẵng, Ninh Bình, thành phố Hồ Chí Minh,…Bên cạnh đó cũng có một số thành
phố, tỉnh đang trong kế hoạch áp dụng ứng dụng du lịch thông minh như: Tuyên Quang, Bà
Rịa – Vũng Tàu,…
Theo khảo sát của Công ty Nghiên cứu thị trường Q&Me được công bố vào tháng 6
năm 2017, có 88% khách du lịch tra cứu thông tin qua mạng, trong đó, 35% thường xuyên sử
dụng internet để tìm kiếm thông tin du lịch. Trên internet có khá nhiều trang thông tin về du
lịch và có thể xuất hiện những trang web không chính thống, do vậy việc áp dụng ứng dụng
du lịch thông minh thực sự trở thành một tất yếu trong thời buổi nền cánh mạng công nghiệp
4.0 như hiện nay.
Việc đánh giá chính xác những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ứng dụng du lịch
thông minh sẽ giúp ích cho cả ba đối tượng là bên cung cấp ứng dụng (Sở du lịch Hà Nội, Tập
đoàn Công nghệ bưu chính viễn thông), doanh nghiệp kinh doanh du lịch và người sử dụng
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 123
ứng dụng. Đo lường được chính xác các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng ứng dụng
du lịch thông minh, giúp cho các nhà cung cấp ứng dụng phát triển được ứng dụng của mình
một cách tốt nhất, đáp ứng tối đa nhu cầu của người dùng, từ đó thu hút được nhiều người
dùng lựa chọn và sử dụng ứng dụng du lịch thông minh. Về phía người sử dụng, người dùng
được tiếp cận nhiều hơn tới những tiện ích mà công nghệ mang lại để phục vụ cho hoạt động
du lịch.
Trong những tỉnh, thành phố đang áp dụng ứng dụng du lịch thông minh, Hà Nội là thủ
đô của Việt Nam với rất nhiều các địa điểm du lịch nổi tiếng. Cụ thể Hà Nội đã có những ứng
dụng du lịch được sử dụng phổ biến: Ha Boi City Guide, My Ha Hoi, Trip Hunter, trang web
của sở du lịch Hầ Nội,..Đề tài nghiên cứu hướng đến đối tượng là sinh viên khu vực Hà Nội.
Vì vậy, nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn triển khai đề tài: 4“Ứng dụng mô hình TAM
(Technology acceptance model) nghiên cứu những nhân tố tác động đến quyết định sử dụng
ứng dụng du lịch thông minh trong bối cảnh Hà Nội hướng đến xây dựng thành phố thông
minh”.
2. Mô hình thuyết chấp nhận công nghệ TAM (Technology Acceptance Model)
Mô hình TAM được xem là mô hình phổ biến nhất để đánh giá khả năng chấp nhận của
người dùng đối với các dịch vụ công nghệ mới trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn
thông (Kuo & Yen, 2009; Shroff và cộng sự, 2011; Melas và cộng sự, 2011).
Mô hình TAM được Davis đề xuất và chứng minh năm 1989. Mô hình bao gồm các
biến chính sau:
Biến bên ngoài (biến ngoại sinh) hay còn gọi là các biến của thí nghiệm trước đây: Đây
là các biến ảnh hưởng đến nhận thức sự hữu ích (Perceive Usefulness-PU) và nhận thức tính
dễ sử dụng (Perceive Ease Of Use-PEU).
Nhận thức sự hữu ích (Perceive Usefulness-PU): Là mức độ tin tưởng của người sử
dụng dịchvụ hay hệ thống sẽ giúp nâng cao kết quả thực hiện công việc của họ (Davis, 1989).
Người sử dụng chắc chắn nhận thấy rằng việc sử dụng các hệ thống ứng dụng riêng biệt sẽ
làm tăng hiệu quả/năng suất làm việc của họ đối với một công việc cụ thể. Yếu tố cấu thành
biến nhận thức sự hữu ích bao gồm: Giao tiếp (Communication): Tầm quan trọng của sự giao
tiếp trong việc vận hành một hệ thống thông tin đã được các nhà nghiên cứu trước đây thừa
nhận. Thật vậy, nếu thiếu thông tin thì không thể liên kết các chủ thể hoạt động lại với nhau.
Nếu có thông tin thì mọi người đang hoạt động tại nhiều bộ phận khác nhau trong cùng một tổ
chức mới hiểu nhau và hành động hướng đến mục tiêu chung. Chất lượng hệ thống (System
quality): Không ngừng nâng cao chất lượng hệ thống sẽ giúp việc khai thác hệ thống thông tin
đạt hiệu quả hơn. Chất lượng thông tin (Information quality): Chất lượng đầu ra của hệ thống
thông tin: Tin cậy, đầy đủ, kịp thời. Chất lượng dịch vụ (Service quality): Có bảo hiểm, tin
cậy, có tính phản hồi.
Nhận thức tính dễ sử dụng (Perceive Ease Of Use-PEU): Là mức độ dễ dàng mà người
dùng mong đợi khi sử dụng hệ thống, là nhận thức của khách hàng tin rằng việc sử dụng dịch
vụ hay hệ thống đặc thù không cần nhiều nỗ lực.
Thái độ hướng đến việc sử dụng: Được định nghĩa là cảm giác tích cực hoặc tiêu cực về
việc thực hiện một hành vi mục tiêu (Ajzen & Fisbein, 1975). Là thái độ hướng đến việc sử
dụng một hệ thống được tạo lập bởi sự tin tưởng về sự hữu ích và dễ sử dụng.
Dự định sử dụng: Là nhận thức về xu hướng hay khả năng quyết định sử dụng dịch vụ
hay hệ thống khi sử dụng hệ thống. Dự định sử dụng có mối quan hệ chặt chẽ đến việc sử
dụng thực sự.
Quyết định sử dụng hay hành vi sử dụng: Là mức độ hài lòng, khả năng sẵn sàng tiếp
tục sử dụng hay mức độ cũng như tần suất sử dụng dịch vụ/hệ thống trong thực tế.
TAM là mô hình đặc trưng để ứng dụng trong việc nghiên cứu việc sử dụng một hệ
thống vì TAM là mô hình đo lường và dự đoán việc sử dụng hệ thống thông tin (IS). Do đó,
mô hình TAM cũng được áp dụng thích hợp cho nghiên cứu của đề tài.
Nhận thức
sự hữu ích
sử dụng
Hình 1. Mô hình thuyết chấp nhận công nghệ TAM
(Nguồn: Davis và cộng sự (1989)
3. Phương pháp và kết quả nghiên cứu
3.1 Phương pháp nghiên cứu
3.2 Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở mô hình TAM của Davis (1989) kết hợp với kết quả của một số nghiên cứu
trước đây của các tác giả khác, nhóm đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng
ứng dụng du lịch thông minh của người dân trên địa bản Hà Nôi. Tính dễ sử dụng là mức độ
niềm tin của cá nhân trong việc sử dụng ứng dụng sẽ mang lại sự tự do thoải mái (Davis,
1989; Davis, 1993) [3]. Ứng dụng du lịch thông minh là một ứng dụng công nghệ mới, tuy
vậy đây là các ứng dụng trên điện thoại hay các trang web nên người dùng cũng có thể sử
dụng ứng không mấy khó khăn. Có nhiều nghiên cứu cho thấy tính dễ sử dụng có tác động
đến việc sử dụng ứng dụng công nghệ mới của người dùng (Bendegul Okumus & Anil
Bilgihan, 2013; Changsok Yoo, Shinhye Kwon, Hyunsoo Na & Byenghee Chang, 2017;
Davis, 1989). Vì vậy, tác giả đề xuất giả thuyết:
H1: Tính dễ sử dụng cảm nhận (SD) có tác động cùng chiều với quyết định sử dụng
(QD)
Tính hữu ích cảm nhận là cảm nhận của khách hàng trong mối quan hệ với những lợi
thế tiềm năng cho quyết định của họ.[3] Yếu tố này đã được nghiên cứu trong nhiều nghiên
cứu liên quan đến việc áp dụng các công nghệ mới. Điều này phù hợp với các nghiên cứu
trước đây (Bendegul Okumus & Anil Bilgihan, 2013; Changsok Yoo, Shinhye Kwon,
Hyunsoo Na & Byenghee Chang, 2017; Davis, 1989). Vì thế, tác giả đề xuất giả thuyết:
H2: Tính hữu ích cảm nhận (HI) có tác động cùng chiều với quyết định sử dụng (QD)
Chất lượng thông tin và chất lượng dịch vụ là 2 yếu tố có thể nói là quyết định đối với
việc người dùng có sử dụng dịch vụ của nhà cung cấp hay không, trước đây cũng đã có
nghiên cứu chứng minh rằng chất lượng thông tin và dịch vụ có ảnh hưởng đến việc sử dụng
dịch vụ của người dùng (Changsok Yoo, Shinhye Kwon, Hyunsoo Na & Byenghee Chang,
2017; Lê Quang Hùng, 2017). 2 giả thuyết sau được thêm vào mô hình đề xuất
H3: Chất lượng thông tin (TT) nhận có tác động cùng chiều với quyết định sử dụng
(QD)
H4: Chất lượng dịch vụ (DV) có tác động cùng chiều với quyết định sử dụng (QD)
Ngoài 2 biến số trên, nhận thức về sự ưa thích cũng có mặt trong nhiều nghiên cứu về
việc ứng dụng công nghệ mới để biết được cảm giác của người dùng có ưu thích ứng dụng
hay không (Bendegul Okumus & Anil Bilgihan, 2013; Changsok Yoo, Shinhye Kwon,
Hyunsoo Na & Byenghee Chang, 2017)
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 125
H5: Nhận thức về sự ưa thích (UT) có tác động cùng chiều với quyết định sử dụng(QD)
Tính tự làm chủ của con người càng cao thì họ càng có xu hướng sử dụng các dịch vụ
công nghệ mới hay tính tự làm chủ ảnh hưởng tích cực đến quyết định sử dụng dịch vụ công
nghệ mới [1]. Nghiên cứu về tính tự làm chủ ảnh hưởng đến quyết định sử dụng trước đó đã
có (Bendegul Okumus & Anil Bilgihan, 2013). Do vậy, đề xuất giả thuyết
H6: Tính tự làm chủ (LC) tác động cùng chiều với quyết định sử dụng(QD)
Ảnh hưởng xã hội hay chuẩn mực xã hội biểu thị cho người dùng nhận thức quan điểm
của người khác về việc người đó có nên sử dụng dịch vụ hay không [1]. Trước đó cũng có
nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng xã hội có ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ của
người dùng (Bendegul Okumus & Anil Bilgihan, 2013)
H7: Ảnh hưởng xã hội (XH) tác động cùng chiều với quyết định sử dụng(QD)
Rào cản về công nghệ là sự phát triển của công nghệ làm cản trở việc sử dụng ứng dụng
một cách dễ dàng của người dùng, nghiên cứu trước dây đã chứng minh rào cản công nghệ có
ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ công nghệ mới (Bendegul Okumus & Anil Bilgihan,
2013)
H8: Rào cản về công nghệ (CN) có tác động ngược chiều với quyết định sử dụng (QD)
Khi áp dụng dịch vụ công nghệ mới, điều mà người dùng khá lo ngại đó là thông tin của
mình bị rò rỉ ra ngoài, do vậy yếu tố an toàn thông tin cũng đóng vau trò quan trọng giúp các
nhà nghiên cứu về ứng dụng công nghệ mới hoàn thiện bài nghiên cứu của mình (Changsok
Yoo, Shinhye Kwon, Hyunsoo Na & Byenghee Chang, 2017)
H9: An toàn thông tin (AT) có tác động cùng chiều đến quyết định sử dụng (QD)
Từ những nhận định trên ta có giả thuyết:
Quyết định sử dụng (QD) phụ thuộc vào chín yếu tố trên.
Coefficientsa
Model Unstandardized Coefficients Standardized Coefficients T Sig. Collinearity Statistics
B Std. Error Beta Tolerance VIF
1 (Constant) -.380 .245 -1.555 .121
AT .121 .044 .144 2.737 .007 .624 1.602
Biểu đồ 4: Biểu đồ Scatter Plot kiểm tra giả định liên hệ tuyến tính.
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu SPSS)
Kết quả đồ thị xuất ra, các điểm phân bố của phần dư nếu có các dạng: đồ thị Parabol,
đồ thị Cubic,.. hay các dạng đồ thị khác không phải đường thẳng thì dữ liệu đã vi phạm giả
định liên hệ tuyến tính. Nhìn vào biểu đồ ta thấy phần dư chuẩn hóa không thay đổi so với
một trật tự nào đối với giá trị dự doán chuẩn hóa. Do đó giả định về liên hệ tuyến tính
không bị vi phạm.
4.Kết luận và đề xuất giải pháp
4.1.Kết luận
Nghiên cứu đã đạt được các mục tiêu ban đầu đề ra bao gồm:
Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng tới dự định và hành vi sử
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 133
dụng dịch vụ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về các nhân tố ảnh hưởng tới dự định sử dụng và
hành vi sử dụng ứng dụng du lịch thông minh qua các nghiên cứu trước.
Đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng tới dự định và hành vi sử dụng ứng dụng du
lịch thông minh của khách du lịch với các điểm đến trên địa bàn Hà Nội.
Xác định được mức độ quan trọng của từng nhân tố ảnh hưởng tới hành vi sử dụng
ứng dụng du lịch thông minh của khách du lịch với các điểm đến trên địa bàn Hà Nội. Xác
định sự ảnh hưởng lẫn nhau (qua mô hình) của các nhân tố ảnh hưởng tới hành vi sử dụng
ứng dụng du lịch thông minh của khách du lịch với các điểm đến trên địa bàn Hà Nội.
Ngoài ra kết quả nghiên cứu cũng đưa ra những gợi ý giải pháp phát triển ứng dụng
du lịch thông minh tại Hà Nội và những kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực công nghệ để bức tranh về thành phố thông minh tại Hà Nội sớm được hình
thành.
Như vậy kết quả phân tích dữ liệu cho thấy: Tính hữu ích cảm nhận, Tính dễ sử dụng
cảm nhận, Ảnh hưởng xã hội, Lo ngại về toàn thông tin, Chất lượng dịch vụ và Tính tự
làm chủ có ảnh hưởng đến quyết định sử dụng ứng dụng du lịch thông minh của người dân
trên địa bàn Hà Nội nhưng ở những mức độ khác nhau. Đặc biệt nhân tố Ảnh hưởng xã
hội có ảnh hưởng mạnh nhất đến quyết định sử dụng ứng dụng du lịch thông minh của
người dân trên địa bàn Hà Nội và nhân tố Tính dễ sử dụng cảm nhận có ảnh hưởng ít nhất
đến quyết định sử dụng ứng dụng du lịch thông minh. Yếu tố Ảnh hưởng xã hội (XH) là
một yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất lên quyết định sủ dụng, điều này củng cố giả thuyết
của Bendegul Okumus & Anil Bilgihan (2013). Nhân tố Chất lượng dịch vụ (DV) ảnh
hưởng đến quyết định sẻ dụng ứng dụng du lịch thông minh phù hợp với bài nghiên cứu
của nhóm tác giả Changsok Yoo, Shinhye Kwon, Hyunsoo Na & Byenghee Chang (2017)
và Lê Quang Hùng (2017). Nhân tố HI và SD ảnh hưởng đến quyết định sử dụng hoàn
toàn phù hợp với mô hình TAM (Davis, 1989; Davis, 1993); Bendegul Okumus & Anil
Bilgihan (2013), Changsok Yoo, Shinhye Kwon, Hyunsoo Na & Byenghee Chang (2017)
cùng các nghiên cứu về công nghệ thông tin trước đây. Sự ảnh hưởng của yếu tố Lo ngại
về an toàn thông tin (AT) phù hợp với bài nghiên cứu của nhóm tác giả Changsok Yoo,
Shinhye Kwon, Hyunsoo Na & Byenghee Chang (2017). Yếu tố Tính tự làm chủ (LC) phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Bendegul Okumus & Anil Bilgihan (2013).
4.2.Đề xuất giải pháp
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy những ý kiến đánh giá khách quan cho việc phát
triển ứng dụng du lịch thông minh trong hiện tại góp phần cho Hà Nội tiến tới xây dựng
thành phố thông minh. Để phát triển ứng dụng du lịch thông minh trên địa bàn Hà Nội,
nhà cung cấp ứng dụng cần chú ý, tập trung vào cải thiện các nhân tố chính sau: Chất
lượng thông tin, dịch vụ; Tính hữu ích cảm nhận; Ảnh hưởng xã hội; An toàn thông tin.
Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với nhân tố Ảnh hưởng xã hội, là một trong những nhân tố có ảnh
hưởng lớn tới quyết định sử dụng ứng du lịch thông minh của người dân trên địa bàn Hà
Nội, vì vậy nhà cung cấp ứng dụng cần nêu cao tầm quan trọng của nhân tố này bằng cách
thực hiện giải pháp sau:
(1) Thông qua nhiều kênh khác nhau như truyền hình, mạng xã hội ( đặc biệt là
mạng xã hội vì tiếp cận với thời kỳ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì người dùng có xu
hướng tiếp cận thông tin qua mạng xã hội nhiều hơn),… nhà cung cấp ứng dụng cần
truyền tải thông điệp về tính thay thế của ứng dụng du lịch thông minh so với du lịch
truyền thống.
(2) Cần tạo cơ hội cho khách hàng có thể tăng cơ hội trải nghiệm ứng trước khi
quyết định sử dụng bằng cách mở rộng hệ thống wifi miễn phí (hiện nay ở bờ hồ Hoàn
Kiếm và một số nơi đã có hệ thống wifi miễn phí). Đặc biệt cần tác động vào các nhóm
khách hàng tiên phong sử dụng ứng dụng để thể hiện sự tiến bộ về công nghệ. Khi nhóm
khách hàng tiên phòng có những đánh giá tốt về tính hữu ích của ứng dụng thì đó cũng là
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 134
tín hiệu phát sóng, truyền tải thông tin khách quan nhất, tốt nhất nhằm lôi kéo các nhóm
khách hàng còn lại sử dụng ứng dụng.
Thứ hai, đối với nhân tố Chất lượng dịch vụ, kết quả cho thấy nhân tố này ảnh
hưởng khá nhiều đến quyết định sử dụng ứng dụng du lịch thông minh, cần thực hiện một
số biến pháp sau:
(1)Cần tập trung cải thiện lợi ích cốt lõi của ứng dụng du lịch thông minh là dịch vụ
tiện ích có thể truy cập mọi lúc, mọi nơi, làm cho người dùng cảm thấy tiện lợi và dễ dàng
hơn so với hình thức du lịch truyền thống
(2)Lắng nghe những ý kiến phản hồi về chất lượng ứng dụng của khách hàng bằng các
kênh khác nhau như phản hồi trực tiếp qua web, các app hay đường dây nóng,.. hoặc qua
các bài nghiên cứu khảo sát. Từ đó lập ra các kế hoạch phù hợp điều chỉnh cải tiến chất
lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu người dùng.
Thứ ba, đối với nhân tố Tính hữu ích cảm nhận, kết quả nghiên cứu cho thấy hiện tại
tính hữu ích có tác động đến quyết định sử dụng ứng dụng du lịch thông minh của người
dân trên địa bàn Hà Nội. Tác giả đề xuất một số giải pháp như sau: Các nhà cung cấp ứng
dụng cần thực hiện phương pháp truyền thông truyền tải thông điệp về các tiện ích, hữu ích
của dịch vụ theo hướng khác biệt hóa với hình thức du lịch truyền thống hay đơn thuần chỉ
là tra cứu thông tin về địa điểm du lịch trên mạng và không biết nguồn thông tin ấy có
chính xác hay không. Đặc biệt cần nhấn mạnh vào các yếu tố giúp khách hàng cải thiện
hiệu năng, tốc độ và hiệu quả sử dụng ứng dụng, hơn nữa còn giúp tiết kiệm chi phí qua đó
đem lại giá trị vượt trội của ứng dụng tới khách hàng.
Thứ tư, Tính tự làm chủ cũng được chứng minh rằng có ảnh hưởng đến quyết định
sử dụng ứng dụng. Thuyết tự chủ cho rằng động lực tồn tại ở ba mức độ phạm vi khác
nhau: phạm vi toàn cục, phạm vi ngữ cảnh, và phạm vi tình huống. Vì vậy tác giả đề
xuất một số giải pháp như sau:
(1)Truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng về ứng dụng du lịch
thông minh cũng như gửi thông điệp đến cho người nghe rằng ứng dụng này là một ứng
dụng mà ai có điện thoại thông minh cũng có thể dễ dàng sử dụng được
(2)Dán các pano, áp phích về giao diện của một số ứng dụng du lịch thông minh tại
các điểm đến du lịch, khi đó người dân sẽ thấy bắt mắt và sẽ tăng động lực hướng đến
ứng dụng, từ đó hình thành nên tính tự làm chủ hướng đến hành vi sử dụng ứng dụng
(3)Đối với phạm vi tình huống, nhà cung cấp ứng dụng có thể cử đội ngũ nhân viên
làm công tác quan hệ công chúng sử dụng điện thoại thông minh và nói trực tiếp với
người dùng tại các điểm đến du lịch làm cho du khách hứng thú và sẽ sử dụng ứng
dụng.
Thứ năm, yếu tố Lo ngại về an toàn thông tin cũng được chứng minh rằng có ảnh
hưởng đến quyết định sử dụng ứng dụng du lịch thông minh của người dùng. Nhà cung
cấp ứng dụng cần xây dựng lòng tin với khách hàng rằng thông tin của họ cung cấp cho
các hệ thống ứng dụng không bị rò rỉ ra ngoài.
Thứ sáu, đối với nhân tố Tính dễ sử dụng cảm nhận. Trong khảo sát cho thấy tính dễ
sử dụng được khách hàng đánh giá thấp, tác giả đề xuất 1 số giải pháp như sau:
(1)Thiết kế phần mềm liên quan với giao diện đơn giản, thân thiện với người dùng;
cung câp thông tin dưới dạng văn bản, hình ảnh, âm thanh dễ hiểu đáp ứng nhu cầu tìm
hiểu thông tin du lịch của mọi nhóm đối tượng thuộc nhiều trình độ khác nhau.
(2)Đơn giản hóa ứng dụng giúp những khách hàng chưa từng trải nghiệm sử dụng dịch
vụ hay những khách hàng không cần có nhiều hướng dẫn cũng có thể dễ dàng sử dụng
được. Hoặc nếu có các bản text hướng dẫn cũng được viết bởi các ngôn ngữ phổ biến mà
người dùng lựa chọn với các câu từ dễ hiểu không mạng tính chuyên ngành hay học thuật.
Các tính năng cho người mới sử dụng nên cập nhật tự động, dưới dạng tiếng Việt và một
số ngôn ngữ phổ biến cho đối tượng khách hàng nước ngoài như tiếng Anh, tiếng Pháp,
tiếng Trung Quốc,...
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 135
4.3.Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo
Bên cạnh những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn, nghiên cứu vẫn còn những
hạn chế nhất định: đề tài mới chỉ dừng lại ở việc điều tra nhóm đối tượng người sử dụng
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Hướng nghiên cứu tiếp theo và mở rộng điều tra ở các thành phố khác đang trên đà
xây dựng thành phố thông minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bendegul Okumus & Anil Bilgihan (2013), “Proposing a model to test smartphone
users”
[2] Changsok Yoo, Shinhye Kwon, Hyunsoo Na và Byenghee Chang (2017) “Factors
Affecting the Adoption of Gamified Smart Tourism Applications: An Integrative
Approach”
[3] Davis, F.D., (1989), Perceived usefulness, perceived ease of use and user acceptance of
information technology’’, MIS Quarterly
[4] Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2005), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với
SPSS, NXB Thống kê, Hà Nội.
[5] Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS
Tập 2, NXB Hồng Đức, Trang 24.
TÓM TẮT
Bài viết này xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ
thanh toán điện tử trên thiết bị di động dựa trên nhu cầu sử dụng thực tế cuả
người dân trên địa bàn Hà Nội. Từ đó là cơ sở để các nhà cung cấp dịch vụ đưa
ra các giải pháp phù hợp cho các nhân tố có tác động lớn đến quyết định sử dụng
của người dùng. Mở đầu là phần trình bày tổng quan về lý thuyết thanh toán điện
tử trên thiết bị di động, sau đó nhóm tìm hiểu và tổng hợp kết quả của các bài
nghiên cứu trước đây liên quan đến thanh toán điện tử để xây dựng mô hình giả
thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ. Sau đó thu thập dữ liê ̣u
tiến hành: mã hoá dữ liê ̣u, sử dụng phần mềm SPSS phân tích nhân tố và mô hình
hồi quy đa biến nhằm tìm ra các nhân tố quan trọng, và mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố đó đến quyết định sử dụng dịch vụ. Cuối cùng nhóm tác giả dựa trên
kết quả phân tích được để đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển
dịch vụ.
Từ khóa: Thanh toán trực tuyến ,thiết bị di động, nhân tố ảnh hưởng, địa bàn Hà
Nội
1.Tổng quan nghiên cứu
Thanh toán điê ̣n tử trên thiết bị di đô ̣ng đang trở thành phương thức phổ biến ở các
nước trên thế giới. Tại Viê ̣t Nam, trong những năm gần đây, thanh toán điê ̣n tử trên thiết bị di
đô ̣ng cũng đang có bước phát triển nhanh chóng. Do đó mà đã có không ít những công trình
nghiên cứu ở Viê ̣t Nam và trên thế giới tâ ̣p trung vào vấn đề thanh toán điê ̣n tử với nhiều cách
tiếp câ ̣n khác nhau, chẳng hạn như:
Nghiên cứu về: Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định mua sắn trực tuyến của người tiêu
dùng, có bài nghiên cứu của Hà Ngọc Thắng và Nguyễn Thành Đô ̣ (2016) [1] thảo luận các
yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua trực tuyến của người tiêu dùng Việt Nam dựa trên lý thuyết
hành vi có hoạch định. Sau khi phân tích dữ liê ̣u thu thâ ̣p được, bài viết chỉ ra rằng: thái độ và
nhận thức kiểm soát hành vi của người tiêu dùng có ảnh hưởng tích cực đến ý định mua trực
tuyến. Trong khi đó, rủi ro cảm nhận có ảnh hưởng tiêu cực đến ý định mua trực tuyến của
người tiêu dùng. Hay nghiên cứu của Lê Nguyễn Xuân Đào và Nguyễn Thị Bảo Châu (2014)
[2]. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng
thành phố Cần Thơ. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra nhân tố rủi ro về tài chính và sản phẩm, đa
dạng về lựa chọn hàng hóa, niềm tin, tính đáp ứng của trang web, rủi ro về thời gian, sự thoải
mái, sự thuận tiện, giá cả có ảnh hưởng đến việc quyết định tiếp tục (hoặc bắt đầu) mua sắm
trực tuyến của người tiêu dùng. Trong đó, nhân tố sự thoải mái tác động lớn nhất đến hành vi
mua sắm trực tuyến.
Tiếp đến là nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng dịch vụ thương mại
di động của người tiêu dùng. Trong nước ta có bài nghiên cứu của Nguyễn Đinh Yến Oanh và
Phạm Thuỵ Bích Uyên (2017) [3] nhằm giới thiệu thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến ý định
sử dụng dịch vụ thương mại di động của người tiêu dùng trong bối cảnh nghiên cứu tại tình
Anh Giang của Việt Nam... Đồng thời, nghiên cứu này cung cấp một số hàm ý quản trị giúp
các doanh nghiệp kinh doanh mạng viễn thông, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thương
mại di động, các chuyên gia tiếp thị phát triển các chiến lược marketing và cải thiện các dịch
vụ thương mại di động. Tại Bangkok, Thái Lan thì có bài nghiên cứu của Panjaporn
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 137
Chansaenroj, Rapeepat Techakittiroj thuộc trường đại học Assumption [4] với mục đích xác
định các yếu tố ảnh hưởng đến người tiêu dùng sử dụng dịch vụ ngân hàng di động mà ngân
hàng có thể sử dụng thông tin này để cải thiện hệ thống và dịch vụ của họ một cách hiệu quả.
Phát hiện cho thấy tính hữu dụng nhận thức, dễ sử dụng chi phí cảm nhận và rủi ro nhận thức
bị ảnh hưởng với ý định sử dụng ngân hàng di động.
Thêm vào đó còn có các bài nghiên cứu về: Các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng
dịch vụ ngân hàng di động. Ở nô ̣i dung này có nghiên cứu của Vũ Văn Điệp (2017) [5].
Nghiên cứu thực hiện để hệ thống hóa cơ sở lý luận về dịch vụ ngân hàng điện tử, các nhân tố
ảnh hưởng và các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử. Từ đó thu thập dữ
liệu để phân tích, đánh giá về thực trạng dịch vụ ngân hàng điện tử tại Ngân hàng TMCP
Ngoại Thuơng Việt Nam qua các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử.
Hay tại Jordan có nghiên cứu của Ahmood Jasim Alsamydai, Saad Galib Yassen, Husam
Mustafa Alnaim, Dima Mousa Dajani, Ihab Ali Al-Qirem [6] nhằm tìm cách xác định các yếu
tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận sử dụng dịch vụ ngân hàng di động theo quan điểm của
khách hàng. Những yếu tố này được chia thành hai nhóm về tác động của chúng: yếu tố thứ
nhất đại diện cho các yếu tố thúc đẩy khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng di động, thứ hai
là các yếu tố cản trở việc sử dụng dịch vụ ngân hàng di động, trong đó đại diện cho những trở
ngại ngăn cản việc sử dụng dịch vụ ngân hàng di động.
Ngoài ra còn có nghiên cứu về: Thực trạng phát triển dịch vụ thanh toán điện tử qua
điện thoại di động của Nguyễn Lan Hương (2015) [7]. Bài viết đã tóm lược và hệ thống hóa
các vấn đề lý luận cơ bản liên quan thanh toán điện tử, thanh toán điện tử qua điện thoại di
động và triển khai dịch vụ thanh toán điện tử qua điện thoại di động trên website
Nganluong.vn; đánh giá thuận lợi, khó khăn trong việc triển khai dịch vụ thanh toán điện tử
qua thiết bị di động trên website Nganluong.vn từ đó đưa ra giải pháp.Tại Việt Nam nghiên
cứu nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ Mobile Banking của khách hàng tại
ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh Thanh Hóa của TS. Lê Hoằng
Bá Huyền và Lê Thị Hương Quỳnh[8] đã chứng minh 3 yếu tố có tác động mạnh bao gồm
ảnh hưởng xã hội, cảm nhân tính dễ sử dụng, khả năng tương thích.
2.Lý do chọn đề tài
Trong thời gian qua, lĩnh vực thanh toán, đặc biệt là thanh toán điện tử đã chứng kiến
những tác động mạnh mẽ từ cuộc CMCN 4.0. Bên cạnh việc hoàn thiện các dịch vụ thanh
toán truyền thống, hầu hết các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã và đang triển
khai các dịch vụ thanh toán mới, hiện đại dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và
viễn thông với nhiều sản phẩm, phương tiện mới, bảo đảm an toàn, tiện lợi, đáp ứng tốt hơn
nhu cầu thanh toán của khách hàng, phù hợp với xu thế thanh toán của các nước trong khu
vực và trên thế giới.
Trong đó, thanh toán qua điện thoại di động là một hình thức được quan tâm và đầu tư.
Tỷ lệ sử dụng điện thoại di động của người dân Viê ̣t Nam cũng đạt mức cao, trung bình một
người dân sở hữu nhiều hơn 1 thuê bao di động.
Dù có những lợi thế trên nhưng số lượng thanh toán trên thiết bị di động vẫn còn khiêm
tốn, còn tồn tại nhiều lo ngại khi sử dụng từ phía người dùng. Theo Ngân hàng Thế giới
(WB), chỉ 40% người trưởng thành tại Việt Nam có tài khoản ngân hàng vào năm 2017. Cũng
theo WB, tính đến cuối năm 2017, Việt Nam có lượng giao dịch phi tiền mặt thấp nhất khu
vực châu Á, chỉ đạt 4.9% [17]. Do đó nhóm nghiên cứu lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu các yếu
tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử trên thiết bị di động của
người dùng trên địa bàn thành phố Hà Nội”.
3.Cơ sở lý thuyết
Khái niệm thanh toán điện tử trên thiết bị di động
Dennis (2004) định nghĩa hệ thống thanh toán điện tử như một hình thức cam kết tài
chính có liên quan đến người mua và người bán thông qua việc sử dụng các thông tin liên lạc
điện tử [9].
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 138
Briggs và Brooks (2011) cho rằng, thanh toán điện tử là một hình thức liên kết giữa các
tổ chức, cá nhân được hỗ trợ bởi các ngân hàng cho phép trao đổi tiền điện tử [10].
Ở góc độ khác, Peter và Babatunde (2012) xem hệ thống thanh toán điện tử là một
phương thức chuyển khoản qua Internet [11].
Tóm lại, theo các định nghĩa trên, hệ thống thanh toán điện tử có thể chỉ đơn giản là một
tập hợp các thành phần và quy trình cho phép hai hoặc nhiều bên tham gia giao dịch và giá trị
tiền trao đổi thông qua phương tiện điện tử.
Thanh toán di động (M-payment)
Thanh toán di đô ̣ng là dịch vụ thanh toán hiê ̣n đại dựa trên nền tảng công nghê ̣ viễn
thông không dây của mạng điê ̣n thoại di đô ̣ng. Dịch vụ này cho phép khách hàng sử sụng thực
hiê ̣n các giao dịch thanh toán, chuyển tiền thông qua các thiết bị di đô ̣ng như điê ̣n thoại di
đô ̣ng, máy tính bảng hay các thiết bị di đô ̣ng cá nhân tại bất cứ đâu, bất cứ khi nào mô ̣t cách
nhanh chóng mà không cần thông qua các kênh thanh toán truyền thống qua ngân hàng như
tiền mă ̣t, séc hay thẻ [18].
4.Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở mô hình TAM của Davis (1989) kết hợp với kết quả của một số nghiên cứu
như đã trình bày ở mục 1.4, đề tài đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến việc ứng dụng dịch vụ
thanh toán điện tử trên thiết bị di động như sau:
Tính dễ sử dụng là mức độ niềm tin của cá nhân trong việc sử dụng dịch vụ sẽ mang lại
sự tự do thoải mái (Davis, 1989; Davis, 1993) [12]. Dịch vụ thanh toán trực tuyến trên thiết bị
di động là một dịch vụ với nhiều tính năng ưu việt nhằm giảm việc thanh toán các giao dịch
bằng tiền mặt truyền thống. Các nghiên cứu khác nhau trên thế giới cho thấy tính dễ sử dụng
cảm nhận thông qua ảnh hưởng tới tính dễ sử dụng cảm nhận sẽ ảnh hưởng đến quyết định sử
dụng của khách hàng (Venkatesh & Davis,2000 [13]; Venkatesh và cộng sự, 2003 [14];
Klopping & Mickinney, 2004 [15]). Nhóm nghiên cứu đề xuất giả thuyết:
H1:Tính dễ sử dụng cảm nhâ ̣n (SD) có tác động cùng chiều với quyết định sử dụng
(QD)
Tính hữu ích cảm nhận là cảm nhận của khách hàng trong mối quan hệ với những lợi
thế tiềm năng cho quyết định của họ. Yếu tố này đã được nghiên cứu trong nhiều nghiên cứu
liên quan đến việc áp dụng các công nghệ mới. Điều này phù hợp với các nghiên cứu trước
đây, cái mà đã từng được phát hiện ra sự nhận thức của tính hữu dụng để có một mối liên hệ
tích cực và mạnh mẽ với những hành vi có mục đích (Taylor và Todd, 1995[16]; Wang et al,
2008;.. Koenig-Lewis et al, 2010).
H2: Tính hữu ích cảm nhận (HI) có tác động cùng chiều với quyết định sử dụng (QD)
Tính bảo mâ ̣t là mức đô ̣ niềm tin của khách hàng đối với sự an toàn trong viê ̣c đảm bảo
các thông tin của họ trong khi sử dụng dịch vụ. Dịch vụ thanh toán trên thiết bị di đô ̣ng hiê ̣n
nay các nhà cung cấp đã trang bị thêm các lớp bảo mâ ̣t cao, thông tin cá nhân thì được mã hoá
do đó khắc phục được tình trạng tài khoản người dùng chịu rủi ro nếu bị hack hoặc xâm nhập
bất hợp pháp của các phương pháp thanh toán cũ. (Chung và Kwon, 2009; Doner và Tellez,
2008; Luo và cô ̣ng sự, 2010; Luakkamen, 2005)
H3: Tính bảo mâ ̣t (BM) có tác đô ̣ng cùng chiều với quyết địng sử dụng (QD)
Chi phí giao dịch là mức đô ̣ tin tưởng của khách hàng vào khoản phí thanh toán các
giao dịch của viê ̣c sử dụng dịch vụ thanh toán trực tuyến trên thiết bị di đô ̣ng. Chi phí giao
dịch ảnh hưởng thông qua giá trị cảm nhâ ̣n để ảnh hưởng tới quyết định sử dụng. Người dùng
sẵn sàng chi trả mô ̣t mức chi phí phù hợp với những gì họ nhâ ̣n được từ sự thoả mãn dịch vụ.
Các nghiên cứu trước đây cho thấy chi phí giao dịch có tác đô ̣ng đến dự định sử dụng của
khách hàng (Yang, 2005). Chi phí giao dịch sẽ thông qua ảnh hưởng tới dự định sử dụng để
ảnh hưởng tới quyết định sử dụng dịch vụ của khách hàng.
H4: Chi phí giao dịch (CP) có tác đô ̣ng cùng chiều với quyết định sử dụng (QD)
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất của nhóm tác giả
5.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập dữ liệu: Nghiên cứu được thực hiê ̣n thông qua 01 bảng câu hỏi
với thang đo cấp bậc Likert với 5 điểm và mức độ đồng ý phát biểu tăng dần từ 1 đến 5.
Đối tượng khảo sát của nghiên cứu này là những người dân đang sinh sống và làm việc
tối thiểu sáu tháng trên địa bàn thành phố Hà Nô ̣i, với điều kiện họ có sử dụng thiết bị di
động.
Dữ liệu phân tích được thu thập theo phương pháp chọn mẫu phi xác suất theo phương
pháp lấy mẫu thuận tiện trong khoảng thời gian từ 10/2018 đến 12/2018.
Nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Trong đó:
Thực hiện việc thu thập, tìm hiểu, đánh giá và tổng hợp tài liệu, tham khảo các thang đo
và có điều chỉnh để phù hợp với bài nghiên cứu.
Tiến hành thông qua việc thu thập dữ liệu điều tra bảng câu hỏi và xử lý bằng phần
mềm SPSS để phân tích dữ liệu bằng các kỹ thuật: Phân tích mô tả, kiểm định Cronbach’s
Alpha, phân tích khám phá EFA, phân tích hồi quy bội.
Phương pháp xử lý dữ liê ̣u: Sau khi thu thâ ̣p dữ liê ̣u tiến hành: mã hoá dữ liê ̣u, sử dụng
phần mềm SPSS phân tích nhân tố và mô hình hồi quy đa biến nhằm tìm ra các nhân tố quan
trọng, và mức đô ̣ ảnh hưởng của các nhân tố đó đến quyết định sử dụng dịch vụ .
Công cụ đo lường: Thang đo Liker từ 1-5 được xây dựng cụ thể qua bảng hỏi khảo sát
gồm 6 phần, với 25 câu hỏi.
Phương pháp thu thập thông tin: Dữ liê ̣u được thu thâ ̣p thông qua phiếu điều tra online
được gửi đến cho người dân trên địa bàn thành phố Hà Nô ̣i. Nhóm nghiên cứu thực hiê ̣n hình
thức gửi link khảo sát online qua tin nhắn messenger, đăng lên các hô ̣i nhóm trên Facebook và
đăng link khảo sát lên trang cá nhân Facebook của các thành viên trong nhóm nghiên cứu để
nhờ những người dân đang sinh sống trên địa bàn Hà Nô ̣i điền giúp.
Quy mô mẫu: Sau khi gửi link khảo sát, thu lại được 242 phiếu hợp lê ̣ (số phiếu hoàn
thành đầy đủ các câu hỏi trong bảng khảo sát và không có sai sót khi điền phiếu khảo sát) ;
Sau khi lọc số phiếu hợp lê ̣ thì lấy ra được 186 phiếu để tiến hành nhâ ̣p dữ liê ̣u.
Đây là bước đầu tiên, hay còn gọi là bước chuẩn bị thông tin để tiến hành các bước phân
tích dữ liê ̣u ở những phần sau
6.Kết quả nghiên cứu
6.1.Kết quả đánh giá sơ bộ thang đo kiểm định hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha
TÓM TẮT
Nghiên cứu này khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến ý định giảm sử dụng
túi nilon của người dân tại Việt Nam dựa trên việc sử dụng phương pháp chọn
mẫu thuận tiện với 507 người tiêu dùng tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
thành khác. Kết quả phân tích hồi quy cho thấy tất cả 3 yếu tố trong mô hình
nghiên cứu đều ảnh hưởng tới ý định giảm sử dụng túi nilon với mức độ tác động
của các nhân tố lần lượt là: Áp lực xã hội đối với việc sử dụng túi nilon, nhận
thức của người tiêu dùng về túi nilon, sự ủng hộ đối với việc tính phí túi nilon.
Bên cạnh đó, quá trình kiểm định sự khác nhau về ý định giảm sử dụng túi nilon
theo giới tính, độ tuổi, trình độ, thu nhập, đa phần có sự khác biệt giữa các nhóm
đối tượng theo các đặc điểm nhân khẩu học này. Với các nhân tố trên, nhóm tác
giả đưa ra một số đề xuất đối với các nhà hoạch định chính sách, nhằm có các
chiến lược lâu dài giúp giảm lượng tiêu thụ túi nilon tại Việt Nam. Bên cạnh đó,
qua kết quả của bài nghiên cứu, nhóm tác giả nhận thấy một số hạn chế của đề
tài và đưa ra phương hướng nghiên cứu tiếp theo.
Từ khóa: Túi nilon, hành vi sử dụng, người dân, Việt Nam.
1.Giới thiệu
Túi nilon được đánh giá là một trong những yếu tố gây ô nhiễm môi trường khó xử lý
nhất hiện nay. Mọi biện pháp xử lý từ tiêu hủy đến tái chế đều rất khó khăn và thậm chí tốn
kém. Hiện nay, hình thức xử lý chủ yếu ở Việt Nam là chôn lấp hoặc đốt. Cách giải quyết này
xuất phát từ sự thiếu hiểu biết và nhận thức sai lệch ở một bộ phận người dân. Và gây ra hậu
Áp lực xã hội
v
Hành vi giảm
sử dụng túi nilon
Kiểm soát hành vi
Ý thức
(+)
(+)
Kiểm soát hành vi
BEH1: “Muốn sử dụng ít túi nilon hơn trong Erkan Ari và Veysel
tương lai” Yilmaz (2017)
Hành vi BEH2: “Sử dụng ít túi nilon hơn nếu túi tại quầy (BEH1, BEH2, BEH3,
giảm sử không phát miễn phí” BEH4).
BEH
dụng túi BEH3: “Sử dựng ít túi nilon hơn nếu mang túi
nilon đựng cá nhân sẽ được giảm giá bán”
BEH4: “Sử dụng ít túi nilon hơn nếu các sản
phẩm thay thế có giá thành tương đương”
H2(+)
H3(+)
H4(+)
SV: Bùi Phan Cúc Nguyệt, Nguyễn Hồng Thắng, Võ Thị Xuân Hảo,
Bùi Ngọc Bảo Duy, Nguyễn Ngọc Thái Sang
Trường Đại học Ngoại thương cơ sở II
GVHD: ThS. Hà Hiền Minh
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1.Lý do chọn đề tài
Hình ảnh thương hiệu tác động tích cực đến tính tổng thể thương hiệu, ảnh hưởng đến
quyết định mua hàng và hành vi mua hàng của khách hàng (Zhang, 2015) làm tăng sự phổ
biến và khiến thương hiệu có sức sống hơn, hình ảnh thương hiệu giúp thu hẹp khoảng cách
giữa thương hiệu và người tiêu dùng dựa trên sự phát triển lớn mạnh về xúc cảm, từ đó tác
động và làm tăng sức mua. Từ lâu, hình ảnh thương hiệu được rất nhiều bài nghiên cứu đáng
tin cậy đo lường không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Các bài nghiên cứu này chủ yếu
nhìn nhận tác động của giá cả, không gian xung quanh, dịch vụ khách hàng đến hình ảnh
thương hiệu, bên cạnh đó nhóm tác giả chúng tôi nhận thấy rằng ngoài ba yếu tố trên thì một
yếu tố mới, yếu tố CSR cũng tác động đáng kể đến hình ảnh thương hiệu.
CSR (Corporate Social Responsibility) là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, là
những cam kết của doanh nghiệp nhằm thực hiện những mục tiêu kinh doanh, góp phần vào
quá trình phát triển kinh tế, song song đó là nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân
người lao động và gia đình họ, đồng thời có các hành động tích cực vì cộng đồng và vì môi
trường sống, góp phần cải thiện phúc lợi xã hội (Kotler và Lee, 2005). Xét trên thị trường
Việt Nam, tầm quan trọng của CSR đang được nhận thức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc gửi
đi thông điệp: “Nền kinh tế Việt Nam sẽ và phải lấy doanh nghiệp tư nhân làm nền tảng phát
triển. Nhưng liệu tương lai sẽ là gì nếu doanh nghiệp chỉ lo tạo lợi nhuận mà không màng tới
CSR, thực ra là các giá trị nhân văn?” Vì thế, việc đo lường yếu tố CSR cho hình ảnh thương
hiệu là thật sự cần thiết.
McDonald's là một tập đoàn kinh doanh hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh phục vụ chủ
yếu là bánh burger theo công thức Mỹ và hiện nay đã phát triển thành một trong những dự án
kinh doanh thức ăn nhanh thành công nhất thế giới. McDonald’s bước chân vào Việt Nam vào
năm 2014. Từ tham vọng nắm trong tay thị phần Việt Nam thì đến nay McDonald’s đang
giậm chân tại chỗ với 18 cửa hàng tại cả hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM. Cũng theo
CNBC, McDonald's và Burger King hiện chỉ chiếm được khoảng 2,8% thị phần ngành kinh
doanh đồ ăn nhanh tại Việt Nam, trong khi đó KFC có 11,4% còn Pizza Hut chiếm được
21,3%.
Đặt ra câu hỏi lớn liệu McDonald’s đã mắc phải sai lầm khi xây dựng hình ảnh thương
hiệu chưa phù hợp với thị trường Việt Nam hay còn những lí do khác. Vì nếu nhiều người
Việt quay lưng với McDonald’s một phần là do nhận thấy một hình ảnh thương hiệu
McDonald’s chưa thật sự tích cực. Nên sự thất bại của McDonald’s có mối liên hệ chặt chẽ
đến hình ảnh thương hiệu đã xây dựng. Chính vì những lý do trên, nhóm tác giả quyết định
nghiên cứu về “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định mua hàng của khách hàng đối với chuỗi cửa
hàng McDonald's tại Việt Nam” với vai trò của biến trung gian là hình ảnh thương hiệu đồng
thời đặc biệt xem trọng yếu tố mới “CSR”.
1.2.Tình hình nghiên cứu
1.2.1.Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Có rất nhiều bài viết trên thế giới đã tìm ra các nhân tố ảnh hưởng có thể đến hình ảnh
thương hiệu. Một nghiên cứu của Yamen Koubaa (2008) điều tra thực nghiệm từ người tiêu
dùng hàng điện tử ở Nhật Bản chỉ ra rằng thông tin về nguồn gốc xuất xứ của một sản phẩm
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 168
(COO) có ảnh hưởng đến nhận thức của khách hàng về sản phẩm đó. Một công trình khác của
Gupta & Pirsch (2008) nghiên cứu về mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội doanh nghiệp bán
lẻ và hình ảnh của doanh nghiệp với khách hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi doanh
nghiệp hoàn thành tốt CSR sẽ làm tăng sự hài lòng và trung thành của khách hàng. Một công
trình gần đây của Ayaz, Manzoor, & Khan (2016) đưa ra nhận định rằng tên thương hiệu, giá
cả, dịch vụ khách hàng và các yếu tố môi trường xung quanh có ảnh hưởng đến hình ảnh của
một nhà hàng.
Mặt khác, công trình của Ogba & Tan (2009) cho thấy tác động của hình ảnh thương
hiệu đến sự trung thành và cam kết của khách hàng với thương hiệu. Kết quả nghiên cứu này
cho rằng rằng hình ảnh thương hiệu có thể ảnh hưởng tích cực đến lòng trung thành của khách
hàng đối với các sản phẩm và về lâu sẽ tăng sự thỏa mãn của họ về sản phẩm, từ đó có thể
thúc đẩy sự cam kết của khách hàng. Bài đăng của Rehman & Ishaq (2017) cho thấy sự quan
trọng của hình ảnh thương hiệu trong quá trình đưa ra ý định mua hàng của người tiêu dùng
trong ngành công nghiệp bán lẻ.
Cũng liên quan đến chủ đề về ý định mua hàng, công trình của Wang & Yang (2008)
nghiên cứu về ảnh hưởng của COO trong mối quan hệ giữa cá tính thương hiệu và ý định mua
hàng. Kết quả cho thấy hình ảnh COO tốt có thể tăng cường tác động tích cực của cá tính
thương hiệu đối với ý định mua hàng. Sau đó, Chao-Sen Wu (2015) đã thêm nhân tố về
quảng cáo có ảnh hưởng trong việc hình thành ý định mua hàng. Ở nghiên cứu khác, Shaouf
và Lu (2016) đã chứng minh sự ảnh hưởng của cảm xúc đến ý định mua hàng. Kết quả cho
thấy niềm tin của khách hàng với trang web và niềm vui mua sắm chính là những nhân tố có
tác động trực tiếp và tích cực đến ý định mua hàng của người tiêu dùng. Bài viết của Nur,
Indras và Afia vào năm 2017 lại chỉ ra rằng các nhân tố nhân khẩu học mà cụ thể là độ tuổi
và học vấn có ảnh hưởng đến ý định mua hàng.
Có thể thấy, các nghiên cứu xung quanh các đề tài này rất đa dạng, tuy vậy hầu hết các
nghiên cứu vẫn chỉ trong phạm vi tìm hiểu riêng rẽ, chưa khai thác sâu vào mối quan hệ giữa
hình ảnh thương hiệu và ý định mua hàng.
1.2.2.Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, một số luận văn nổi bật như “Xây dựng thương hiệu và giải pháp phát
triển thương hiệu cho các doanh nghiệp Việt Nam” đã đưa ra những chiến lược marketing cho
các doanh nghiệp, tuy nhiên bài viết chỉ đưa ra những cái nhìn tổng quát. Một luận văn khác
là “Phát triển thương hiệu megabuy.vn của công ty cổ phần đầu tư phát triển công nghệ Thời
Đại Mới thông qua các hoạt động truyền thông online” của Nguyễn Thị Thanh Thảo đưa ra
giải pháp phát triển hình ảnh thương hiệu cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông qua mạng
Internet.
Mặt khác, trong chủ đề về ý định mua hàng lại phong phú hơn. Có thể nói đến như luận
án của Lê Thùy Hương (2014) đã chứng minh sự quan tâm về sức khỏe, nhận thức về sản
phẩm sạch, sự tham khảo thông tin và truyền thông quảng cáo có ảnh hưởng lớn đến ý định
mua sản phẩm sạch tại Việt Nam. Một công trình khác của Phạm Thị Sang (2015) nghiên cứu
và đã khẳng định mối quan hệ giữa các biến thương hiệu, sự phụ thuộc và tiện lợi, tính năng
sản phẩm, giá, ảnh hưởng xã hội với ý định mua điện thoại thông minh Đà Nẵng. Song song
đó, một nghiên cứu mở rộng lý thuyết hành vi có hoạch định của Hà Ngọc Thắng (2015) cho
rằng thái độ và nhận thức kiểm soát hành vi của người tiêu dùng có ảnh hưởng tích cực đến ý
định mua trực tuyến.
Nhìn chung, các nghiên cứu tại Việt Nam vẫn về hai chủ đề này vẫn còn ít và cũng chưa
có nghiên cứu nào chỉ ra mối quan hệ giữa hai nhân tố này. Hầu hết các bài viết đều là luận
văn, luận án với quy mô nhỏ bị giới hạn nên giá trị sử dụng và tính khái quát vẫn chưa cao,
chưa thể áp dụng vào các ngành khác. Như vậy, nhóm tác giả chúng tôi tin rằng đề tài của
chúng tôi mang tính mới và sẽ giải quyết được một số vấn đề mà nghiên cứu trước đây tại
Việt Nam đang vấp phải, đưa ra phát hiện mới đi sâu vào chủ đề hình ảnh thương hiệu và tác
3.2.Nghiên cứu sơ bộ
3.2.1.Thiết kế bảng hỏi
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 172
Nội dung chính của bảng khảo sát gồm 54 câu hỏi được chia thành 2 phần:
Phần đầu tiên là 4 câu hỏi về thông tin cá nhân bao gồm: giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp
và thu nhập hằng tháng.
Phần thứ hai gồm 50 câu hỏi ứng với 50 biến quan sát được sử dụng thang đo Likert 5
điểm với 1 là “rất không đồng ý”, 2 là “không đồng ý”, 3 là “không chắc”, 4 là “đồng ý”, 5
là “rất đồng ý”, với các nhân tố như: giá cả, chất lượng dịch vụ khách hàng, không gian nhà
hàng, trên thương hiệu, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hình ảnh thương hiệu và ý định
mua hàng.
3.2.2.Khảo sát thử nghiệm
Nhóm tác giả thực hiện khảo sát thử nghiệm với 70 đối tượng thông qua bảng hỏi được
gửi online thông qua mạng xã hội Facebook từ ngày 20/12/2018 đến ngày 05/01/1019
3.3.Nghiên cứu chính thức
3.3.1.Phương pháp thu thập dữ liệu và cỡ mẫu
Trong nghiên cứu này, phương pháp thu thập dữ liệu chính là khảo sát trực tiếp qua bản
hỏi giấy và gián tiếp thông qua trực tuyến. Trong khoảng thời gian khảo sát kéo dài từ
13/01/2019 đến 02/03/2019, nhóm chúng tôi đã thu thập được tổng số 279 mẫu với 260 mẫu
đạt yêu cầu. Trong đó, đối với khảo sát trực tiếp, nhóm tác giả đã thu được 31 phiếu trả lời
hợp lệ. Đối với hình thức khảo sát gián tiếp nhóm đã gửi đi 248 và thu về được 229 mẫu hợp
lệ. Theo tính toán thì số mẫu tối thiểu cần thu là 250 để đảm bảo tính đại diện.
3.3.2.Phương pháp phân tích dữ liệu
3.3.2.1.Phân tích thống kê mô tả
Trước tiên, nhóm tác giả tiến hành phân tích thống kê mô tả với dữ liệu sau khi đã
được làm sạch và mã hóa. Thống kê mô tả cho phép các nhà nghiên cứu trình bày các dữ liệu
thu được dưới hình thức cơ cấu và tổng kết. Các thống kê mô tả sử dụng trong nghiên cứu này
để phân tích, mô tả dữ liệu bao gồm các tần số, tỷ lệ, giá trị trung bình và độ lệch chuẩn trên
mẫu điều tra và các thang đo.
3.3.2.2.Kiểm định độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha
Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha trước khi phân
tích nhân tố EFA để loại các biến không phù hợp để phân tích và đánh giá độ tin cậy của
thang đo giả (Đình Thọ & Mai Trang, 2009). Với phương pháp này, các tiêu chí sau cần được
thỏa mãn: hệ số Alpha lớn hơn hoặc bằng 0,7, hệ số tương quan biến – tổng Corrected Item –
Total Correlation có giá trị từ 0,3 trở lên.
3.3.2.3.Phân tích nhân tố khám phá EFA
Phân tích EFA gồm 4 bước chính như sau:
Đầu tiên là kiểm định Barlett hoặc kiểm định KMO (Kaiser - Meyer - Olkin), Hệ số
KMO phải có giá trị trong khoảng từ 0,5 đến 1. Ở kiểm định Barlett, hệ số ý nghĩa phải có ý
nghĩa thống kê ở mức 5% (Hair, Black, Babin, & Anderson, 2010).
Thứ hai là phân tích EFA sử dụng phép trích nhân tố Principal Component Analysis
(PCA). Theo tiêu chuẩn Kaiser, những nhân tố có Eigenvalue nhỏ hơn 1 sẽ bị loại khỏi mô
hình. Bên cạnh đó, tổng phương sai trích phải lớn hơn 50% (Anderson & Gerbing, 1988).
Thứ ba là thực hiện xoay nhân tố sử dụng phép quay vuông góc Varimax với hệ số tải
nhân tố phải lớn hơn hoặc bằng 0,5 (Hair, Black, Babin, & Anderson, 2010).
Cuối cùng là đặt tên theo ý nghĩa của biến rồi tạo nhân tố đại diện cho từng nhóm để
chuẩn bị cho việc đọc kết quả.
3.3.2.4.Phân tích tương quan Pearson
Mục đích của phân tích tương quan hệ số Pearson là kiểm tra mối tương quan tuyến
tính chặt chẽ giữa các phụ thuộc với các biến độc lập. Dấu hiệu nghi ngờ hiện tượng đa cộng
tuyến là dựa vào giá trị sig tương quan giữa các biến độc lập nhỏ hơn 0,05 và giá trị tương
quan Pearson lớn hơn 0,3.
3.3.2.5.Phân tích mô hình SEM AMOS
.2 .2
.1 .1
.0 .0
.2
.2
-.1 -.1
.1
.1
-.2
-.2
.0 .0
-.1 -.1
-.2 -.2
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Spread_HNXI_MSCI Spread_HNXI_SP500
Trend Trend
Cycle Cycle
Hodrick-Prescott Filter (lambda=270400)
.10 Hodrick-Prescott Filter (lambda=270400)
.05 .12
.08
.00
.04
.15
-.05 .00
.10
-.04
-.10
.05 .12 -.08
-.15 .08 -.12
.00
.04
-.05
.00
-.10
-.04
-.15 -.08
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
-.12
Spread VNI Sp500 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Trend
Cycle Spread VNI MSCI Trend Cycle
Hình 1. Mô hình làm mượt Spread HNXIndex và VNIndex với chỉ số MSCI và SP500
Có thể nhận thấy rằng, điểm chung của các đồ thị trên là đường xu hướng của tất cả các
đồ thị đều hướng về 0, và các mức độ chênh lệch đều dao động quanh đường xu hướng này.
Điều này cho thấy rằng thị trường chứng khoán Việt Nam đang hội nhập rất tốt nhưng còn
nhiều rủi ro và chưa thể sớm đạt được hội nhập toàn phần.
Theo phương pháp dựa vào thông tin
Thị trường chứng khoán càng hội nhập thì tỷ suất sinh lời của thị trường chịu tác động
của các yếu tố khu vực hay toàn cầu nhiều hơn là các yếu tố địa phương. Để đo lường mức độ
hội nhập thị trường cổ phiếu, hai chỉ số C và β được sử dụng.
Hồi quy mô hình đơn biến mối tương quan giữa tỷ suất sinh lời chỉ số S&P 500 với tỷ
suất sinh lời chỉ số VNIndex và HNXIndex
Hai chỉ số C và β được xác định bằng cách hồi quy các mô hình đơn biến có dạng:
VNI t =C+ β∗SP 500t + U t
HNI t =C+ β∗SP 500t +U t
Ký hiệu: VNI và HNI: Tỉ suất lợi nhuận của chỉ số VNIndex và HNXIndex
SP500: Tỉ suất lợi nhuận của chỉ số S&P500
Trong đó, hệ số C thể hiện giá trị trung bình của tỷ suất lợi nhuận chỉ số VNIndex/
HNXIndex không phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận của chỉ số S&P500, hệ số β thể hiện sự
thay đổi của tỷ suất lợi nhuận chỉ số VNIndex/ HNXIndex theo tỷ suất lợi nhuận chỉ số
S&P500, và U là sai số ngẫu nhiên. Bằng phương pháp hồi quy liên tục sử dụng rolling
window với 18 quan sát một lần trên cơ sở dữ liệu tuần từ ngày 31/05/2009 đến 30/12/2018,
kết quả được thể hiện trong các biểu đồ dưới đây.
0.5 1.0
0.0 0.5
-0.5 0.0
-0.5
-1.0
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
-1.0
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
C
.02 C
.02
.01
.01
.00
.00
-.01
-.01
-.02 -.02
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
Hình 2. Sự biến động của hệ số β và C trong mối tương quan giữa tỷ suất sinh lời của
S&P500 và VNIndex
Với 2 biểu đồ trên, có thể thấy được rằng thị trường chứng khoán Việt Nam có dấu hiệu
hội nhập nhưng biểu đồ của chỉ số C luôn dao động quanh mức 0, nhưng biểu đồ của chỉ số β
trên thị trường chứng khoán luôn nằm dưới mức 1, thể hiện rằng khả năng nội tại của thị
trường đang yếu, nhưng đồng thời thị trường cũng chịu ít tác động từ thị trường quốc tế. Phải
đến trong năm 2018, cả 2 biểu đồ mới cho thấy dấu hiệu hội nhập, nhưng các giao động này
vẫn có biên độ rất lớn, thể hiện rằng Việt Nam mới phần nào bắt đầu quá trình tham gia hội
nhập tài chính, và hội nhập tài chính cũng mới có bước đầu tác động đến thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Rolling Coefficients
RETURN_SP500
3 Rolling Coefficients
RETURN_SP500
2 3
1 2
0 1
0
-1
-1
-2
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
-2
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
C
. 04 C
.04
. 03
.03
. 02
.02
. 01
.01
. 00
.00
-.01
-.01
-.02 -.02
-.03 -.03
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
Hình 3. Sự biến động của hệ số β và hệ số C trong mối tương quan giữa tỷ suất sinh lời
của S&P500 và HNXIndex
Tương tự với biểu đồ sự biến động của chỉ số VNIndex, biểu đồ sự biến động của 2 hệ
số trong mô hình của HNXIndex cũng có những biểu hiện hội nhập, dù rất ngắn hạn và vẫn
còn nhiều biến động. Biên độ dao động của cả 2 hệ số này đều khá lớn và chưa ổn định, nên
từ biểu đồ có thể kết luận rằng hiện tại, dù hoạt động chưa ổn định nhưng thị trường chứng
khoán Việt Nam đang có xu hướng hội nhập trong tương lai.
Hồi quy mô hình đơn biến mối tương quan giữa tỷ suất sinh lời chỉ số MSCI và tỷ suất
sinh lời chỉ số VNIndex:
Hai chỉ số C và β được xác định bằng cách hồi quy mô hình đơn biến có dạng:
VNI t =C+ β∗MSCI t +U t
HNI t =C+ β∗MSCI t +U t
Ký hiệu: VNI/ HNI: Tỉ suất lợi nhuận của chỉ số VNIndex và HNXIndex
MSCI: Tỉ suất lợi nhuận của chỉ số MSCI
0.8 1.2
0.4 0.8
0.0 0.4
0.0
-0.4
-0.4
-0.8
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 -0.8
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
C
.02 C
.02
.01
.01
.00
.00
-.01 -.01
-.02 -.02
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
Hình 4. Sự biến động của hệ số β và C trong mối tương quan giữa tỷ suất sinh lời của
chỉ số MSCI với VNIndex
Tương tự như mô hình đầu tiên, thị trường chứng khoán Việt Nam có thể được coi là
đang tiến gần đến hội nhập khi chỉ sốC dao động quanh 0 và chỉ số β dao động quanh 1. Năm
2018, chỉ số β mới bắt đầu có xu hướng dao động và tiến gần về 1. Từ 2 biểu đồ trên, chúng
ta có thể thấy rằng đến năm 2018, thị trường chứng khoán Việt Nam mới bắt đầu có dấu hiệu
hội nhập.
Rolling Coefficients
RETURN_HNXI
1.5 Rolling Coefficients
RE TURN_HNX I
1.0
1.5
0.5
1.0
0.0
0.5
-0.5 0.0
-1.0 -0.5
-1.5 -1.0
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
-1.5
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
C
.02 C
.02
.01
.01
.00
.00
-.01
-.01
-.02 -.02
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
Hình 5. Sự biến động của hệ số β và hệ số C trong mối tương quan giữa tỷ suất sinh lời
của MSCI và HNXIndex
Thị trường chứng khoán Việt Nam có thể được coi là đang tiến gần đến hội nhập khi
chỉ sốC dao động quanh 0 và chỉ số β dao động quanh 1 khi năm 2018, chỉ số β mới bắt đầu
có xu hướng dao động và tiến gần về 1. Từ 2 biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy rằng đến năm
2018, thị trường chứng khoán Việt Nam mới bắt đầu có dấu hiệu hội nhập.
2.2.1.2. Chỉ số về lượng
Mức độ hội nhập được đánh giá bằng chỉ số về lượng thông qua số lượng doanh nghiệp
nước ngoài niêm yết trên TTCK Việt Nam và số lượng doanh nghiệp Việt Nam được niêm yết
trên sàn chứng khoán nước ngoài.
TÓM TẮT
Hiện nay, để đánh giá chất lượng giáo dục của các trường đại học,một
trong những yếu tố hàng đầu là hiệu quả của hoạt động nghiên cứu khoa học. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy hoạt động nghiên cứu khoa học vẫn chưa được nhiều sự
quan tâm từ sinh viên. Số lượng sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học là rất ít.
Bài viết này sử dụng các công cụ định lượng để đo lường tác động của các nhân
tố đến ý định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên tại thành phố Đà Nẵng
nói riêng và sinh viên Việt Nam nói chung, nhằm tìm ra các yếu tố tác động đến
sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học và đề xuất các kiến nghị giúp nâng cao
hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học trong nhà trường.
Từ khóa: Nghiên cứu khoa học; Ý định tham gia.
Abstract: Nowadays, to assess the quality of education of universities, one
of the leading factors is the effectiveness of scientific research activities.
However, the fact that scientific research activities have not received much
attention from students. The number of students participating in scientific
research is very few. This article uses quantitative tools to measure the impact of
factors to the intention of participating in scientific research of students in Da
Nang city in particular and Vietnamese students in general, in order to find out
the factors affecting students to participate in scientific research and propose
recommendations to improve the effectiveness of scientific research activities in
the school.
Keywords: Scientific Research; Intent to participant.
Nhà trường
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 198
Giảng viên hướng dẫn
Năng lực
Ý định tham gia
Nhận thức
Sở thích
Trong mô hình nghiên cứu đề xuất 7 nhân tố: Nhà trường, Giảng viên hướng dẫn, Năng
lực, Nhận thức, Sở thích, Động cơ thực hiện và Ý định tham gia nghiên cứu khoa học.
Nhà trường
Nhà trường là nơi sinh viên sẽ nhận được phần thưởng cho sự học hỏi và phát triển cá
nhân. Các phần thưởng và lợi ích mà nhà trường đem lại cho sinh viên như hỗ trợ chi phí
nghiên cứu, tài liệu học tập, dữ liệu học tập và giải thưởng cho sinh viên có thành tích nghiên
cứu xuất sắc sẽ thúc đẩy các nhu cầu tâm lý, và vì vậy sẽ ủng hộ cho động lực (Ames, 1992).
Giảng viên hướng dẫn
Theo Patrick và Ryan (2002), Giảng viên tạo ra một sự kết nối với sinh viên bằng cách
động viên về mặt cảm xúc như quan tâm, thân thiện, thấu hiểu, đồng thời, sinh viên sẽ tin
tưởng vào giá trị của giảng viên và xây dựng mối quan hệ cá nhân với họ. Sinh viên có xu
hướng chọn giảng viên hướng dẫn đề tài của mình thông qua mối quan hệ này.
Năng lực
Nhu cầu năng lực được định nghĩa là mong ước vốn có của một cá nhân nhằm cảm thấy
hiệu quả trong khi tương tác với mô trường (Deci & Ryan, 2000). Cụ thể, con người có xu
hướng khám phá và thao tác môi trường, tham gia trong các nhiệm vụ đầy thử thách nhằm
kiểm tra và thể hiện kỹ năng của bản thân (Phan Thị Phú Quyến, 2016).
Sở thích
Sở thích ở đây được hiểu là sự yêu thích khoa học của sinh viên. Khi sinh viên có một
niềm đam mêm với khoa học sẽ thúc đẩy được động cơ tham gia nghiên cứu khoa học.
Nhận thức
Nhận thức của sinh viên khi tham gia nghiên cứu khoa học là những kết quả sinh viên
sẽ đạt được khi tham gia nghiên cứu khoa học. Kết quả ở đây có thể là những kiến thức
chuyên môn, kinh nghiệm trong việc nghiên cứu, giải thưởng về vật chất và tinh thần, cũng
như là cơ hội đạt được học bổng sau đại học.
Động cơ thực hiện
Động cơ thực hiện nghiên cứu khoa học của sinh viên được hiểu là việc sinh viên thể
hiện niềm vui, hứng thú trong hoạt động nghiên cứu khoa học, ngoài ra sinh viên còn được
rèn luyện những kĩ năng nghiên cứu và để chứng tỏ cho người khác thấy được năng lực của
mình.
Các giả thuyết của mô hình
Để kiểm chứng tác động của các nhận tố trong mô hình đề xuất, hệ thống giả thuyết
nghiên cứu được xây dựng tương ứng với sự tác động của từng nhân tố trong mô hình dến ý
định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên.
H1: Có mối liên hệ giữa nhà trường và ý định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh
viên.
H2: Có mối liên hệ giữa giảng viên hướng dẫn và ý định tham gia nghiên cứu khoa học
của sinh viên.
H3: Có mối liên hệ giữa nhu cầu năng lực và ý định tham gia nghiên cứu khoa học của
sinh viên.
H4: Có mối liên hệ giữa sở thích và ý định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên.
H5: Có mối liên hệ giữa nhu cầu nhận thức và ý định tham gia nghiên cứu khoa học
của sinh viên.
H6: Có mối liên hệ giữa động cơ thực hiện nghiên cứu khoa học và ý định tham gia
nghiên cứu khoa học của sinh viên.
3. Phương pháp phân tích
Ngoài các chỉ tiêu thống kê mô tả, bài viết sử dụng chủ yếu các kỹ thuật thống kê: kiểm
định độ tin cậy thang đo; phân tích nhân tố; kiểm định sự tương quan giữa các nhân tố, phân
tích mô hình hồi quy.
3.1 Kiểm định độ tin cậy bằng hệ số Cronbach’s Alpha
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 199
Là một kỹ thuật nhằm kiểm định tính đại diện của một tập câu hỏi cho một nhân tố
muốn đo lường. Một tập biến có độ chọn thang đo khi có đô ̣ tin câ ̣y Anpha từ 0,6 trở lên, tốt
nhất là 0,7 (Trọng 2008) và biến quan sát có hê ̣ số tương quan biến tổng từ 0,3 trở lên.
3.2 Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Phân tích nhân tố khám phá EFA là một kỹ thuật nhằm xác định số nhân tố trong một
tập hợp các câu hỏi đại diện cho các nhân tố muốn tìm kiếm và đo lường. Nghiên cứu sử dụng
phép trích Principal Axis Factoring với phép quay Promimax. Tổng phương sai trích >= 50%
và hê ̣ số KMO >= 0,5, Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê (Sig < 0,05) (Gerbing &
Anderson 1988); hê ̣ số tải nhân tố của biến quan sát >= 0,5 (Hair & cô ̣ng sự ,1998).
3.3 Kiểm định sự tương quan giữa các nhân tố
Nhằm kiểm tra sự tương quan và đo mức độ kết hợp tuyến tính giữa các nhân tố độc lập
với nhân tố phụ thuộc. Từ đó chúng ta sẽ chọn những nhân tố độc lập thực sự có tương quan
với nhân tố phụ thuộc và đưa những nhân tố đó vào hồi quy. Thông qua các chỉ tiêu hệ số
tương quan r, hệ số phóng đại VIF. Nếu mô ̣t mô hình nhâ ̣n được giá tri r>0 thì các nhân tố có
mối liên hệ tương quan tuyến tính thuận.
3.4 Phân tích mô hình hồi quy
Được dùng để kiểm định mô hình hồi quy và các hệ số hồi quy. Dựa vào mô hình hồi
qui, ta có thể dự đoán được giá trị của nhân tố phụ thuộc dựa vào giá trị của các nhân tố độc
lập. Dựa vào mức xác suất R2 hiệu chỉnh để xác định các mức độ sự biến thiên của nhân tố
phụ thuộc được giải thích bởi nhân tố độc lập. Thêm vào đó, qua giá trị của Sig (P-value) của
bảng ANOVA dùng để đánh giá sự phù hợp (tồn tại) của mô hình. Giá trị Sig nhỏ (thường
<5%) thì mô hình tồn tại. Giá trị Sig trong bảng Coefficients cho biết các tham số hồi qui có ý
nghĩa hay không (với độ tin cậy 95% thì Sig<5% có ý nghĩa).
4. Thiết kế bảng hỏi
Nội dung của bảng hỏi được xây dựng dựa trên quá trình tổng quan và dịch thuật từ các
nghiên cứu của tác giả: Phan Thị Phú Quyến (2016), Huỳnh Thanh Nhã (2016), Vưu Thị
Thùy Trang (2012), Ames và Archer (2016), Azad và Seyyed (2007), Martyn Standage, Joan
L. Dupa và Nikos Ntoumanis (2003), Ertugrul Ozdemir (2003).
Phần I: Các biến độc lập và biến phụ phụ thuộc
Phần này bao gồm các câu hỏi về sáu biến độc lập là: Nhà trường (4 câu hỏi), Giảng
viên hướng dẫn (5 câu hỏi), Năng lực (5 câu hỏi), Sở thích (3 câu hỏi), Nhận thức (5 câu hỏi),
Động cơ thực hiện (6 câu hỏi). Và 4 câu hỏi cho biến phụ thuộc là Ý định tham gia nghiên
cứu khoa học.
Phần II: Thông tin đáp viên
Phần này bao gồm 6 câu hỏi được đánh số thứ tự từ 1 đến 6, nội dung của các câu hỏi
xoay quanh về vấn đề “Hồ sơ nhân khẩu học” của đáp viên.
Toàn bộ bảng câu hỏi bao gồm 32 câu hỏi thành phần thuộc phần I và 6 câu hỏi thuộc
phần II.
5. Quy mô và phương thức điều tra mẫu nghiên cứu
Quá trình thu thập dữ liệu đã thu được 308 phiếu trả lời, trong đó có 100 phiếu trả lời
bằng bản cứng và 208 phiếu trả lời trực tuyến (online Google Form). Sau khi kiểm tra, tác giả
đã loại ra 64 bản trả lời không hợp lý, bao gồm các bản thiếu nhiều dữ liệu và các bản mà sinh
viên tham gia khảo sát đã trả lời không suy nghĩ hoặc cố tình không hợp tác. Cuối cùng có
244 phiếu trả lời hợp lệ được đưa vào phân tích dữ liệu.
6. Công cụ phân tích
Tác giả đã sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 22 để tiến hành kiểm định thang đo và
phân tích nhân tố.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 200
7. Kết quả nghiên cứu
7.1 Kết quả thống kê mô tả
Bảng 1. Bảng thống kê mô tả ý định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên
Sinh viên đã từng tham gia nghiên cứu khoa học hay
Tần số Tần suất (%)
chưa?
Đã từng 90 29.22
Chưa nhưng dự định đăng kí 154 50.00
Chưa và không có ý định đăng kí 64 20.78
Tổng 308 100.00
Đầu tiên, các sinh viên được hỏi về việc đã từng tham gia nghiên cứu khoa học hay
chưa, kết quả cho thấy có 244 sinh viên trả lời là đã từng hoặc chưa nhưng dự định tham gia,
64 sinh viên trả lời là chưa và không có ý định tham gia. Và 64 quan sát này đã bị loại bỏ vì
không phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
Bảng 2. Bảng thống kê mô tả về giới tính
Giới tính Tần số Tần suất (%)
Nam 91 37.3
Nữ 153 62.7
Tổng 244 100.0
Trong 244 sinh viên được điều tra, phân bổ theo giới tính nữ chiếm đến 62.7% và nam
là 37.3%. Mặc dù có mất cân đối về mẫu nghiên cứu theo giới tính tuy nhiên hiện nay tỷ lệ
chung của các trường Đại học tại thành phố Đà Nẵng thì nữ chiếm tỷ lệ hơn 70% nên cơ cấu
mẫu như vậy là chấp nhận được.
7.2 Kết quả tác động của các nhân tố đế ý định tham gia nghiên cứu khoa học
7.2.1 Đánh giá độ tin cậy thang đo
Độ tin cậy của thang đo được đánh giá bằng phương pháp nhất quán nội tại qua hệ số
Cronbach Alpha. Việc sử dựng phương pháp này trước khi phân tíc nhân tố EFA là để loại bỏ
các biến không phù hợp vì các biến rác này có thể tạo ra các yếu tố giả (Nguyễn Đình Trọng
và Nguyễn Thị Mai Trang, 2009)
Hệ số Cronbach Alpha là một phép kiểm định thống kê về mức độ chặt chẽ mà các biến
đo quan sát trong thang đo tương quan với nhau (Hoàng Trọng, 2005). Tiêu chuẩn chọn là các
biến phải có hệ số tương quan biến tổng (item total correlation) > 0.3 (Nunnally & Burnstein,
1994), hệ số Cronbach Alpha từ 0.6 là chấp nhận được trong các nghiên cứu thuộc lĩnh vực
kinh tế xã hội (Bagozzi et al., 1994).
Bảng 1. Bảng phân tích độ tin cậy lần cuối
Cronbach’s
Trung bình thang đo nếu Phương sai thang Tương quan biến-
Biến quan sát Alpha nếu loại
loại biến đo nếu loại biến tổng
biến
1. Nhà trường : Cronbach’s Alpha=0.700
NT1 10.13 4.246 .448 .658
NT2 10.48 4.308 .415 .678
NT3 10.45 3.928 .556 .591
NT4 10.59 3.905 .521 .612
2. Giảng viên hướng dẫn: Cronbach’s Alpha=0.864
GVHD1 11.36 4.100 .771 .801
GVHD2 11.36 4.527 .767 .806
GVHD3 11.25 4.606 .664 .845
GVHD4 11.43 4.617 .653 .849
3. Năng lực: Cronbach’s Alpha=0.752
NL1 10.52 6.201 .436 .752
NL2 10.33 5.563 .575 .679
NL3 10.37 5.016 .635 .642
NL4 10.43 5.704 .550 .693
4. Sở thích: Cronbach’s Alpha=0.718
Nghiên cứu này chủ yếu nghiên cứu những vấn đề mang tính định tính, nên để định
lượng thì tác giả sử dụng thang đo Liker – thang điểm 5 (từ 1 – Hoàn toàn không đồng ý, 5 –
Hoàn toàn đồng ý). Kết quả phân tích độ tin cậy về Giảng viên hướng dẫn ban đầu cho thấy
hệ số Cronbach’s Alpha là 0.718, đảm bảo độ tin cậy cần thiết. Tuy nhiên nếu loại biến
GVHD5 thì sẽ làm tăng độ tin cậy của thang đo Cronbach’s Alpha là 0.864 (cao hơn trước khi
loại biến) và có hệ số tương quan biến tổng dao động từ 0.801 – 0.849 đều lớn hơn 0.3 nên
biến này được loại khỏi nhân tố Giảng viên hướng dẫn. Tương tự, ta cũng loại biến NL5 ra
khỏi nhân tố Năng lực, loại biến NhT5 ra khỏi nhân tố Nhận thức và loại hai biến DCTH5,
DCTH6 ra khỏi nhân tố Động cơ thực hiện.
Dữ liệu bảng 3 là kết quả kiểm định thang đo lần cuối cùng của các nhân tố sau khi đã
loại hết các biến rác theo tiêu chuẩn trên, các nhân tố còn lại bao gồm: Nhà trường (4); Giảng
viên hướng dẫn (4); Năng lực (4); Sở thích (3); Nhận thức (4); Động cơ thực hiện (4); Ý định
tham gia nghiên cứu khoa học (4). Tất cả các thang đo đều có độ tin cậy Cronbach’s Alpha
lớn hơn 0.6, đồng thời tất cả các biến quan sát đều có hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0.3.
Như vậy, các thang đo là đáng tin cậy và có 27 biến được giữ lại để đưa vào phân tích nhân tố
khám phá EFA.
7.2.2 Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
Phân tích nhân tố khám phá EFA sử dụng phương pháo trích Principal Components với
phép xoay Varimax và điểm dừng khi tríc các nhân tố có Eigenvalue lớn hơn hoặc bằng 1 cho
tất cả các khái niệm nghiên cứu trong mô hình lý thuyết. Phép quay Varimax thực hiện xoay
nguyên góc các nhân tô để tối thiểu hóa số lượng biến có hệ số lớn tại cùng một nhân tố, vì
vậy sẽ tăng cường khả năng giải thích các nhân tố. Tiêu chuẩn chọn khi phân tích nhân tố là
các biến phải có hệ số tải nhân tố (factor loading) lớn hơn 0.5, tổng phương sai trích lớn hơn
hoặc bằng 50% (Gerbing & Anderson, 1988). Sự khác biệt giá trị hệ số chuyển tải của 1 biến
trong nhân tố không nhỏ hơn 0.3 để đảm bảo sự phân biệt giữa các nhân tố (Jabnoun & Al-
Tamimi, 2002).
Kết quả EFA các nhân tố ảnh hưởng đến ý định nghiên cứu khoa học
Sau khi kế thừa kết quả kiểm định thang đó Cronbach’s Alpha, dữ liệu nghiên cứu lần
lượt được phân tích EFA cho đến khi dữ liệu đáp ứng được các tiêu chuẩn phân tích EFA. Các
nhân tố độc lập bao gồm: Nhà trường (4); Giảng viên hướng dẫn (4); Năng lực (4); Sở thích
(3); Nhận thức (4); Động cơ thực hiện (4).
Qua bảng 4 cho thấy, ta có KMO = 0.779, Sig. = 0.000, có 6 nhân tố được rút trích ra
với tổng phương sai rút trích bằng 51.534% > 50%, do đó kết quả phân tích nhân rố EFA là
phù hợp và có ý nghĩa thống kê. Tuy vậy, các biến NT2, NT1, NL1 có hệ số tải nhân tố nhỏ
hơn 0.5 (lần lượt là 0.377, 0.398, 0.484), lần lượt loại từng biến không đạt yêu cầu, biến nào
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 202
có trọng số thấp nhất thì loại trước. Trước tiên, chúng ta sẽ loại NT2 và thực hiện EFA. Quá
trình được thực hiện lặp lại như trên cho đến khi hệ số tải nhân tố của tất cả các biến quan sát
còn lại > 0.5.
Bảng 2. Kết quả EFA các nhân tố ảnh hưởng đến ý định nghiên cứu khoa học lần đầu
Nhân tố
Biến quan sát
1 2 3 4 5 6
DCTH4 0,967
DCTH2 0,848
DCTH1 0,76
DCTH3 0,74
GVHD2 0,85
GVHD1 0,842
GVHD3 0,649 0,315
GVHD4 0,616 0,319
NL3 0,821
NL4 0,649
NL2 0,637
NL1 0,484
NT4 0,726
NT3 0,687
NT1 0,31 0,398
NT2 0,377
ST1 0,741
ST2 0,596
ST3 0,541
NTh2 0,675
NTh1 0,585
NTh4 0,527
NTh3 0,502
KMO (Kaiser Meyer Olkin Measure of Sampling Adequacy) = 0.779
Sig. = 0.000
Eigenvalues 4.525 3.357 2.448 1.715 1.313 1.208
Phương sai trích (%) 12.298 23.580 31.635 38.619 45.441 51.534
Bảng 3. Kết quả EFA các nhân tố ảnh hưởng đến ý định nghiên cứu khoa học lần cuối
Nhân tố
Biến quan sát
1 2 3 4 5 6
DCTH4 0,965
DCTH2 0,849
DCTH1 0,761
DCTH3 0,74
GVHD2 0,86
GVHD1 0,841
GVHD3 0,652
GVHD4 0,631
NL3 0,845
NL4 0,676
NL2 0,578
ST1 0,771
ST2 0,617
ST3 0,526
NTh2 0,669
NTh1 0,603
NTh4 0,53
NTh3 0,502
NT4 0,736
NT3 0,631
KMO (Kaiser Meyer Olkin Measure of Sampling Adequacy) = 0.768
Sig = 0.000
Eigenvalues 4.019 3.255 2.276 1.648 1.242 1.196
Phương sai trích (%) 14.125 26.780 34.844 42.470 49.446 55.259
Hình 4. Mô hình các nhân tố tác động đến Ý định tham gia nghiên cứu khoa học của
sinh viên tại Đà Nẵng
0.356
Sở thích Ý định tham gia
0.238
Nhà trường
Căn cứ vào giá trị của các nhân tố trong mô hình các nhân tố tác động đến ý định tham
gia nghiên cứu khoa học của sinh viên tại Đà Nẵng cho thấy quan hệ của các nhân tố trong
mô hình là quan hệ thuận phù hợp với các nghiên cứu thực nghiệm trước. Trong đó, nhân tố
Giảng viên hướng dẫn có tác động mạnh nhất với tốc độ βPP=0.380.
Các nhân tố tác động trực tiếp đến Ý định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên
tại Đà Nẵng lần lượt theo giá trị của các trọng số ước lượng: Mạnh nhất là nhân tố Giảng viên
hướng dẫn với giá trị trọng số 0.380; thứ hai là nhân tố Sở thích cũng sẽ khiến sinh viên tham
gia nghiên cứu khoa học tương ứng với giá trị trọng số 0.331 và cuối cùng nhân tố Nhà
trường không có vai trò lớn đến ý định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên, xếp hạng
thấp nhất tương ứng với giá trị trọng số là 0.215.
Về Giảng viên hướng dẫn, sự quan tâm của giảng viên cũng như là năng lực hướng dẫn
có tương quan dương với Ý định tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên. Khi thực hiện
nghiên cứu khoa học, phần lớn các sinh viên đều thấy khó khăn trong việc tìm một đề tài phù
hợp với thực tiễn hiện nay hay việc tìm kiếm dữ liệu tham khảo, trình bày lý thuyết một cách
khoa học, sự giúp đỡ của giảng viên hướng dẫn không chỉ tạo cho sinh viên cảm giác an tâm
khi tham gia nghiên cứu mà còn tạo ra sự tự tin cho sinh viên. Kết quả là yếu tố Giảng viên
hướng dẫn là tiêu chí được sinh viên xem xét khi tham gia nghiên cứu khoa học. (mức tác
động là 0.372)
Về Sở thích có mức độ tác động là 0.356 (tác động thuận chiều) đến ý định tham gia
nghiên cứu khoa học của sinh viên. Không nằm ngoài sự đoán, những sinh viên được khảo sát
về ý định tham gia nghiên cứu khoa học dựa vào sở thích của cá nhân. Các sinh viên có niềm
đam mê khoa học, việc tham gia nghiên cứu khoa học sẽ làm thỏa mãn nhu cầu đam mê
đó.Ngoài ra, sự ngưỡng mộ các sinh viên có thành tích về nghiên cứu khoa học cũng là một lý
do để sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học.
Về Nhà trường, có tác động thuận chiều đến Ý định tham gia nghiên cứu khoa học của
sinh viên. Mức độ ảnh hưởng của nhân tố này ở mức 0.238, thấp hơn so với hai nhân tố trên.
Tuy nhiên, không thể không nhắc đến sự quan trọng của nhà trường đến ý định tham gia
nghiên cứu khoa học sinh viên. Ngoài việc thông báo cho sinh viên biết về nghiên cứu khoa
học, nhà trường còn hỗ trợ cho sinh viên về vật chất lẫn tinh thần, chẳng hạn như thư viện nhà
trường là một nơi chứa đựng kiến thức khổng lồ cho sinh viên khám phá, tìm tòi và sáng tạo.
8. Kết luận và hàm ý chính sách
Nhà trường
Các biến quan sát đánh giá về Nhà trường sử dụng thang đo LiKet 5 mức độ. Theo kết
quả ở bảng 4-1 thì nhìn chung, đánh giá của sinh về việc nhà trường hỗ trợ kinh phí cho sinh
viên khi tham gia nghiên cứu khoa học là chưa cao, trung bình chỉ đạt được từ 3.30 đến 3.75.
Do vậy, nhà trường cần phải chú trọng hơn về việc hỗ trợ kinh phí cho sinh viên.
Ngoài ra, nhà trường cũng cần đa dạng hóa nguồn tài liệu, dữ liệu, hoàn thiện cơ sở vật
chất để hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên.
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT, ngày 31/12/2014 về
việc "Quy định chế độ làm việc đối với giảng viên", truy cập ngày 20/1/2019 từ
SV: Lê Thanh Nhân, Nguyễn Ngọc Anh Thư, Cao Bội Ngọc,
Trần Minh Tiến, Hoàng Minh Tú
Trường Đại học Ngoại thương Cơ sở II
GVHD: TS Nguyễn Thu Hằng
TÓM TẮT
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành kiểm hình mối tương quan giữa thông báo
điều chỉnh mức cổ tức bằng tiền mặt hiện tại và sự thay đổi lợi nhuận trong trong
tương lai của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn năm 2008 đến 2018 dựa trên lý thuyết
phát tín hiệu cổ tức. Nhóm nghiên cứu đưa ra bằng chứng bác bỏ lý thuyết phát
tín hiệu cổ tức trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngoài ra, nhóm
nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng ủng hộ cho giả định có sự phản ứng của
thị trường dựa trên thông tin về lợi nhuận tương lai mà thông báo cổ tức mang
lại.
Từ khóa: Cổ tức bằng tiền, lí thuyết phát tín hiệu của cổ tức, lợi nhuận tương lai.
1.Giới thiệu đề tài nghiên cứu
1.1.Lý do chọn đề tài
Chi trả cổ tức được coi là một hoạt động tài chính cơ bản và quan trọng của hầu hết các
doanh nghiệp trên toàn thế giới. Điều này bắt nguồn từ mục tiêu nhất quán của các công ty
đều là tối đa hóa lợi ích của các cổ đông. Do vậy, phần lợi nhuận của hoạt động kinh doanh
thường sẽ được phân phối cho cổ đông dưới dạng cổ tức, một phần được giữ lại dùng để tái
đầu tư cho các dự án tương lai. Tùy vào mục đích của nhà quản trị và tình hình cụ thể của
doanh nghiệp, các hình thức chi trả cổ tức như bằng tiền mặt, cổ tức bằng cổ phiếu hoặc mua
lại cổ phiếu sẽ được cân nhắc sử dụng. Tuy nhiên, cổ tức bằng tiền mặt vẫn là hình thức được
ưa chuộng và sử dụng rộng rãi bởi hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới. Trong thực tế,
nghiên cứu ảnh hưởng của cổ tức bằng tiền đã trở thành đề tài kinh điển của các nhà nghiên
cứu ở khắp các thị trường tài chính.
Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán bắt đầu hình thành từ những năm 2000 và có
những bước phát triển rất nhanh chóng trong khoản thời gian gần đây, cả về quy mô và thanh
khoản thị trường. Các nhà đầu tư cũng đã tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm và nhạy cảm
hơn với các thông tin được công bố trên các phương tiện truyền thông, nhiều trong số đó là
các thông tin về chi trả cổ tức. Dẫn đến các nhà quản trị doanh nghiệp cũng chú ý hơn trong
việc sử dụng cổ tức như một công cụ đưa tín hiệu đến thị trường. Đã có những nghiên cứu của
các tác giả Việt Nam đánh giá tác động của cổ tức đến giá cổ phiếu hay giá trị doanh nghiệp
được tiến hành trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu được
thực hiện liên quan đến khía cạnh lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp – một nội dung mà
nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng rất quan trọng khi quyết định đầu tư vào một
công ty. Chính vì vậy, việc tìm hiểu liệu thông tin chi trả cổ tức, cụ thể là kiểm định liệu mức
chi trả cổ tức bằng tiền có dự báo được lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp hay không là
một vấn đề tương đối mới và cần thiết được đặt ra trong thời điểm hiện nay.
1.2. Tổng quan nghiên cứu
1.2.1. Nghiên cứu nước ngoài
Lintner (1956) là người đầu tiên nghiên cứu cách thức các nhà quản trị quyết định chi trả cổ tức.
Nghiên cứu cho thấy rằng các nhà quản trị mong muốn có mức chi trả cổ tức ổn định. Còn Miller và
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 209
Modigliani (1961) cho rằng nguyên nhân của việc chi trả cổ tức là bởi vì nó mang thông tin về dòng tiền
trong tương lai. Bhattacharya (1979) khẳng định rằng chi phí giao dịch phát sinh từ việc trả cổ tức là chi
phí sử dụng cổ tức làm tín hiệu. Các nghiên cứu của Brickley (1983), John và Williams (1985), Miller
và Rock (1985), Bernheim (1991), Healy và Palepu (1988), Aharony and Dotan (1994), Fama và French
(2001), Nissim và Ziv (2001), Arnott and Asness (2003) cũng lần lượt đưa ra những bằng chứng ủng hộ
mối quan hệ đồng biến giữa điều chỉnh cổ tức và lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng
có nhiều nghiên cứu đưa ra bằng chứng bằng chứng không ủng hộ lý thuyết phát tín hiệu cổ tức như
Benartzi (1997) hay nhóm các tác giả Grullon, Michaely, and Swaminathan (2002), Brav, Graham,
Harvey, và Michaely (2005) hay Jensen, Lundstrum và Miller (2010).
1.2.2. Nghiên cứu Việt Nam
Thực tế, số lượng các nghiên cứu tại Việt Nam về lý thuyết phát tín hiệu cổ tức còn hạn chế. Tuy
nhiên, nhóm tác giả đã tiến hành xem xét những nghiên cứu ,trong đó có thể kể đến: các nhân tố ảnh
hưởng đến chính sách cổ tức của các doanh nghiệp (DN) niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK)
VN của Đinh Bảo Ngọc và Nguyễn Chí Cường (2014), nghiên cứu cổ tức tác động lên giá cổ phiếu của
Phùng Tất Hữu (2015), Đặng Quỳnh Anh và Phạm Yến Nhi (2015), Bùi Nguyên Khá và Phan Thị Nhã
Trúc (2017) với đề tài phân tích những tác động chính sách cổ tức đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp bất động sản Việt Nam.
1.3. Tính mới của đề tài
Một trong những bài nghiên cứu đầu tiên ở thị trường Việt Nam thật sự quan tâm và đề
cập đến tác động của thay đổi cổ tức bằng tiền đến lợi nhuận của doanh nghiệp trong tương
lai- một yếu tố mà nhà đầu tư có thể cân nhắc trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư.
1.4. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu ảnh hưởng của sự điều chỉnh mức chi trả cổ tức bằng tiền lên lợi nhuận tương
lai của doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE).
Đánh giá tác động, mức độ ảnh hưởng của việc điều chỉnh mức cổ tức lên chiều hướng
thay đổi lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp.
Đưa ra những nhận định nhằm mục đích tham khảo cho những nghiên cứu trong tương
lai cũng như đề xuất kiến nghị cho những nhà đầu tư.
1.5. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung kiểm định lý thuyết phát tín hiệu cổ tức trên thị trường chứng khoán
Việt Nam thông qua sự kiện điều chỉnh mức chi trả cổ tức của các công ty niêm yết trên
HOSE trong giai đoạn 2009-2017.
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian : Nhóm nghiên cứu thu thập số liệu về cổ phiếu và báo cáo tài chính của các
doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trên sàn chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).
Thời gian : Nhóm tác giả thu thập số liệu trong khoảng thời gian từ 2009 đến 2017.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp nghiên cứu tại bàn, kết hợp thống kê, phân tích, so sánh, tranh luận,
sử dụng phần mềm Stata 13.0 và Microsoft Excel,...nhóm nghiên cứu quan sát sự kiện thông
báo điều chỉnh mức chi trả cổ tức của 378 công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh.
1.7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Bài nghiên cứu gồm 5 chương (không bao gồm Phụ lục và Danh mục tài liệu tham
khảo)
Chương 1: Giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước (đây)?
Chương 3: Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
2. Cơ sở lý thuyết
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 210
2.1 Tổng quan về cổ tức
2.1.1 Khái niệm
Cổ tức thường được định nghĩa là "phân phối lợi nhuận (của quá khứ hoặc hiện tại) các
tài sản thực giữa cổ đông của các công ty theo tỷ lệ họ sở hữu" (Frankfurter và Wansley,
2003). Theo khoản 3 điều 4, Luật doanh nghiệp 2014 đưa ra khái niệm về cổ tức như sau: “Cổ
tức là khoản lợi nhuận ròng được trả cho mỗi cổ phần bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản khác từ
nguồn lợi nhuận còn lại của công ty cổ phần sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài chính.”
2.1.2 Các hình thức trả cổ tức
Có 3 hình thức chi trả cổ tức chính: Cổ tức bằng tiền mặt, cổ tức bằng cổ phiếu (cổ
phiếu thưởng) và mua lại cổ phiếu.
2.1.3 Động cơ trả cổ tức
Thứ nhất, động cơ của việc chi trả cổ tức là do Lý thuyết tín hiệu dựa trên giả thuyết về
thông tin bất cân xứng. Theo đó, các nhà đầu tư thường thiếu thông tin và ít hiểu rõ công ty
hơn so với ban quản trị công ty, do đó, họ có thể không đánh giá đúng giá trị cổ phiếu.
Thứ hai, một động cơ đáng lưu ý đằng sau việc chi trả cổ tức có thể được giải thích
bằng Lý thuyết dòng tiền tự do. Cụ thể, cổ đông thường không muốn công ty giữ lại quá nhiều
tiền mặt.
Thứ ba, một động cơ khác để giải thích cho việc trả cổ tức là Lý thuyết đại diện, được
phát triển bởi Jensen và Meckling năm 1976. Theo họ, chủ sở hữu và người quản lí tồn tại
mâu thuẫn về lợi ích, do đó chi trả cổ tức được xem là một biện pháp hiệu quả để giải quyết
các vấn đề đại diện.
2.1.4 Chính sách trả cổ tức
Theo Berk Demarzo (Corporate Finance, 4th edition, 2017), chính sách cổ tức là tập
hợp các nguyên tắc mà một công ty sử dụng để quyết định số tiền trong lợi nhuận mà công ty
sẽ chi trả cho các cổ đông.
Có ba cách tiếp cận chính đối với cổ tức: Chính sách cổ tức sử dụng phần còn dư, chính
sách cổ tức tiền mặt ổn định và chính sách cổ tức dung hòa (Corina, Ioanas; Mirela, Nichita;
Mihaela, Gruiescu, 2009).
Đa phần các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn sử dụng cổ tức tiền mặt như công cụ
chính để phân phối lợi nhuận (Đinh Bảo Ngọc và Nguyễn Chí Cường, 2014). Do vậy, trong
bài nghiên cứu này, khái niệm cổ tức được hiểu xuyên suốt chính là cổ tức bằng tiền
2.1.5 Quy trình trả cổ tức
Sơ đồ 2.1. Quy trình chi trả cổ tức
Ngày công bố Ngày hưởng quyền Ngày GDKHQ Ngày đăng kí Ngày
cuối cùng cuối cùng thanh toán
Nếu TSSL chỉ số thị trường, biến động của lãi suất hay biến động của tỷ giá hối đoái tác
động đến TSSL cổ phiếu riêng lẻ hay danh mục cổ phiếu, các hệ số tương ứng γ1, γ2, γ3 sẽ có ý
nghĩ thống kê, dấu và độ lớn của 3 hệ số này thể hiện chiều hướng và mức độ tác động của
các nhân tố này.
3.3.2 Mô hình (3): Mô hình GARCH(1,1) ước lượng biến động TSSL
Mô hình GARCH (1,1) tiếp tục được sử dụng và được điều chỉnh để phù hợp với mục
tiêu nghiên cứu phân tích tác động của biến động lãi suất và tỷ giá với biến động TSSL của cổ
phiếu ngân hàng riêng lẻ hoặc danh mục cổ phiếu, có phương trình như sau:
rt = γ 0 + ε t
σ2t = α0 + α1ε2t-1 +βσ2t-1 +θ1INT2t + θ2FX2t
Trong đó:
Ký hiệu Tên biến
rt TSSL của các cổ phiếu tại thời điểm t
γ0 Hệ số chặn (tung độ gốc)
εt Thành phần ngẫu nhiên hay yếu tố nhiễu
σt2 Phương sai có điều kiện
α0 Biến động trung bình dài hạn
α1, β, θ1, θ2 Hệ số góc (hay hệ số độ dốc)
εt-12 Giá trị quá khứ của cú sốc, đại diện bởi các biến trễ của hạng nhiễu bình phương
σt-12 Các giá trị quá khứ của chính bản thân nó, đại diện bởi các biến trễ
INTt Biến động lãi suất phi rủi ro hay chỉ số trái phiếu
FXt Biến động của tỷ giá hối đoái
Tại phương trình trung bình, TSSL của cổ phiếu ngân hàng riêng lẻ hoặc danh mục
phiếu bằng với giá trị trung bình trong dài hạn của nó cộng với yếu tố sai số ngẫu nhiên.
Trong phương trình phương sai thay đổi có điều kiện, tác giả đưa thêm vào 2 biến thể hiện sự
biến động của lãi suất và tỷ giá tại hối đoái thời điểm hiện tại ngoài các biến độ trễ của các cú
sốc trong quá khứ và biến động có điều kiện trong quá khứ của TSSL.
Hệ số α0> 0 và có ý nghĩa thống kê cho thấy có một thành phần không thay đổi theo thời
gian trong quá trình tạo ra TSSL (bao gồm tác động của biến động lãi suất và biến động tỷ giá
hối đoái).
Hệ số θ1và θ2 khác 0 và có ý nghĩa thống kê cho thấy sự tác động tức thời của 2 nhân tố
này lên biến động của TSSL cổ phiếu ngân hàng riêng lẻ hoặc danh mục cổ phiếu
4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
4.1.Kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu
Kết quả kiểm định tính dừng Augmented Dickey – Fuller (ADF) cho thấy tất cả chuỗi
dữ liệu đều là chuỗi dừng tại mức ý nghĩa 1%. Chi tiết được trình bày tại bảng 4.2 và Phụ lục
2.
Bảng 4.2: Kiểm định ADF – Kiểm định tính dừng chuỗi dữ liệu
STT Biến t-statistic Trạng Thái
1 ACB -27.81234*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
2 CTG -42.96017*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
3 EIB -41.10632*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
4 MBB -43.29424*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
5 NVB -52.51603*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
6 SHB -46.88249*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
7 STB -40.44389*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
8 VCB -41.16342*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
9 FX -49.37453*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 229
10 INT -30.80509*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
11 MRK -27.03207*** Dừng ở mức ý nghĩa 1%
Chú ý : ***,**,* là kết quả của mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 1%,5%,10%
Nguồn: Phầnmềm Eviews 8.0
4.2.Phân tích kết quả hồi quy mô hình (1): Hồi quy OLS cơ bản
Phương trình hồi quy tổng thể như sau:
rt = β0 + β1MRKt + β2INTt + β3FXt + μt
Kết quả hồi quy mô hình OLS được trình bày ở bảng 4.4: Ước lượng hồi quy OLS của
cổ phiếu ngân hàng riêng lẻ và danh mục cổ phiếu ngân hàng. Ngoải ra sau khi hồi quy OLS,
tác giả thực hiện các kiểm định sự phù hợp của mô hình: kiểm định phương sai sai số thay
đổi, kiểm định tự tương quan và kiểm định phân phối chuẩn của phần dư.
Tác động của TSSL chỉ số thị trường VNINDEX đến TSSL cổ phiếu ngân hàng
Hệ số β 1 đo lường tác động của TSSL thị trường đến TSSL cổ phiếu ngân hàng. Dựa
vào bảng trên tác động của TSSL thi trường có ý nghĩa thống kê ở tất cả các biến nghiên cứu
với tỷ lệ 8/8. Tác động của TSSL thị trường mang dấu dương và có ý nghĩa thống kê ở mức
1%, riêng cổ phiếu NVB có mức ý nghĩa 5%. Các biến có ý nghĩa thống kê lần lượt là : cổ
phiếu ACB với hệ số là 0.890742, cổ phiếu CTG với hệ số là 1.218423, cổ phiếu EIB với hệ
số là 0.590233 , cổ phiếu MBB với hệ số là 0.958015, cổ phiếu SHB với hệ số là 1.303079, cổ
phiếu STB với hệ số là 0.860924, cổ phiếu VCB với hệ số là 1.367015. Qua đó có thể thấy
TSSL thị trường mà ở đây là chỉ số VNINDEX có tác động mạnh và giải thích TSSL của các
cổ phiếu ngân hàng. TSSL của thị trường biến động cùng chiều với TSSL của cổ phiếu ngân
hàng.
Tác động của biến động lãi suất thị trường đến TSSL cổ phiếu ngân hàng
Hệ số β 2 đo lường tác động của biến động lãi suất đến TSSL của các cổ phiếu ngành
ngân hàng. Tác động của biến động lãi suất có ý nghĩa 1/8 cổ phiếu ngân hàng. Biến có ý
nghĩa thống kê là cổ phiếu STB với hệ số (0.009202) với mức ý nghĩa 1%. Qua đó có thể thấy
biến động lãi suất có ảnh hưởng đến TSSL tuy nhiên ở mức độ yếu hơn so với TSSL của thị
trường và đều mang dấu âm thể hiện sự biến động ngược chiều của lãi suất và TSSL cổ phiếu
ngân hàng.
Tác động của biến động tỷ giá hối đoái đến TSSL cổ phiếu ngân hàng
Hệ số β 3 đo lường tác động của biến động tỷ giá hối đoái đến TSSL của các cổ phiếu
ngành ngân hàng. Tác động của biến động tỷ giá hối đoái có ý nghĩa 1/8 cổ phiếu ngân hàng.
Biến có ý nghĩa thống kê là cổ phiếu CTG với hệ số (0.819348) với mức ý nghĩa 1%. Qua đó
có thể thấy biến động của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến TSSL cổ phiếu ngân hàng và cùng
mức độ như ảnh hưởng từ biến động của lãi suất.
Qua mô hình OLS đã được chạy ở trên ta đã có thể trả lời được vấn đề nghiên cứu thứ
nhất. Biến động của lãi suất và tỷ giá hối đoái có tác động đến TSSL các cổ phiếu ngân hàng.
Biến động lãi suất có tác động đến TSSL của cổ phiếu ngân hàng tuy nhiên ở mức độ yếu, chỉ
có ý nghĩa đối với 1/8 cổ phiếu, đó là cổ phiếu ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín - STB.
Biến động của tỷ giá hối đoái cũng có tác động đến TSSL của cổ phiếu ngân hàng nhưng theo
bài nghiên cứu sự tác động của biến này chỉ có ý nghĩa với 1/8 cổ phiếu, cụ thể là ngân hàng
TMCP Công Thương Việt Nam - CTG. Đặc biệt giá trị của hệ số TSSL chỉ số giá thị trường
có giá trị dương thể hiện sự biến động cùng chiều và có ý nghĩa đối với cả 8 ngân hàng TMCP
tại Việt Nam, cho thấy sự ảnh hưởng mạnh và khả năng giải thích đáng kể của biến TSSL chỉ
số thị trường đối với TSSL cổ phiếu ngân hàng. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu đến
từ Flannery và cộng sự (1997) rằng rủi ro thị trường và lãi suất đều ảnh hưởng đến TSSL
chứng khoán nhưng rủi ro thị trường ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đến các cổ phiếu ngân hàng so
với ảnh hưởng từ rủi ro lãi suất. Kết quả cũng phù hợp với nghiên cứu của Kasman và cộng
sự (2011) khi nghiên cứu về tác động của lãi suất và tỷ giá hối đoái đến TSSL cổ phiếu ngân
Chú ý : ***,**,* là kết quả của mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 1%, 5%, 10%
Nguồn: Phần mềm
Eviews 8.0
4.3.Phân tích kết quả hồi quy mô hình (2): GARCH(1,1) ước lượng TSSL
Mô hình GARCH (1,1) gồm 2 phương trình:
rt = γ0 + γ1 MRKt + γ2 INTt + γ3 FXt + εt
σ2t = α0+ α1ε2t-1 + βσ2t-1
Tác giả kiểm định hiệu ứng ARCH trước khi tiến hành hồi quy mô hình GARCH(1,1)
từ phần dư xuất ra từ phương trình OLS ở mô hình 1 với giả thiết:
H0: Phần dư không có hiệu ứng ARCH
H1: Phần dư có hiệu ứng ARCH
Nếu chấp nhận giả thiết H0 hay phần dư xuất ra từ phương trình OLS không có hiệu ứng
ARCH thì phương sai thay đổi có điều kiện không tồn tại do đó không thể hồi quy phương sai
thay đổi có điều kiện theo các cú sốc trong quá khứ. Nếu phần dư từ phương trình OLS có s ự
tương quan hay phương sai có điều kiện thay đổi, giả thiết H 0 bị bác bỏ hay phần dư có hiệu
ứng ARCH thì mô hình GARCH được tiến hành.
Kết quả kiểm định hiệu ứng ARCH được trình bày tại bảng 4.4 cho thấy có 6 trên tổng
8 cổ phiếu ngân hàng có hiệu ứng ARCH với mức ý nghĩa 1%, ngoại trừ cổ phiếu t ừ 2 ngân
hàng không xuất hiện hiệu ứng ARCH đó là cổ phiếu CTG và VCB. Theo đó tác giả tiến hành
hồi quy GARCH(1,1)
Từ kết quả của các hệ số ước lượng của mô hình GARCH(1,1) được trình bày chi tiết ở
bảng 4.5, ta có những kết luận sau :
Hệ số γ 1 để đo lường hiệu quả của TSSL thị trường so với TSSL cổ phiếu ngân hàng.
Kết quả cho thấy hệ số γ 1 mang dấu dương nghĩa là tác động cùng chiều, có ý nghĩa thống kê
ở cả 6/6 cổ phiếu và có ý nghĩa thống kê mạnh ở mức 1%. Vậy tương tự như ước lượng mô
hình OLS phía trên, mô hình GARCH cũng thể hiện được biến TSSL chỉ số thị trường có tác
động mạnh lên TSSL của các cổ phiếu ngân hàng.
Hệ số γ 2 đo lường hiệu quả của biến động lãi suất so với TSSL cổ phiếu ngân hàng. Từ
bảng 4.5 ta có thể thấy hệ số γ 2 có nghĩa thống kê đối với 2/6 cổ phiếu ( cổ phiếu ACB và cổ
phiếu STB với mức ý nghĩa 1%) và tất cả biến đều mang dấu âm cho thấy sự tác động ngược
chiều. So với mô hình OLS thì ở mô hình này GARCH(1,1) đã xuất hiện thêm mã cổ phiếu
ACB có ý nghĩa thống kê nhưng vẫn có tác động yếu hơn so với biến động của chỉ số thị
trường.
Hệ số γ 3 đo lường hiệu quả của biến động tỷ giá hối đoái so với TSSL cổ phiếu ngân
hàng. Từ kết quả thấy rằng hệ số γ 3 có ý nghĩa thống kê đối với 2/6 cổ phiếu (cổ phiếu MBB
với mức ý nghĩa 10%, cổ phiếu STB với mức ý nghĩa 5%). Nhưng khác với biến biến động lãi
suất trong mô hình GARCH(1,1) mã cổ phiếu MBB đã có ý nghĩa thống kê, còn mã ACB lại
không có ý nghĩa thống kê đối với biến động của tỷ giá.
TÓM TẮT:
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu về mức độ hài lòng của sinh viên đối
với các cửa hàng tiê ̣n lợi phục vụ 24h trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Dữ
liê ̣u thu thập từ 275 sinh viên đã và đang sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tại các
cửa hàng tiê ̣n lợi 24h ở thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả phân tích bằng phần
mềm hỗ trợ SPSS 20.0 cho thấy rằng, giá cả là nhân tố có tác động mạnh mẽ nhất
đến sự hài lòng của sinh viên, tiếp đến là nhóm nhân tố về nhân viên và hàng hóa,
cuối cùng là dịch vụ hỗ trợ, cơ sở vật chất và phân phối. Nghiên cứu này cũng
góp phần bổ sung vào thực tiễn quản lý, giúp nhà quản trị đưa ra chiến lược và
quyết định phù hợp nhằm nâng cao sự hài lòng của sinh viên đối với các cửa
hàng tiê ̣n lợi phục vụ 24h trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Từ khóa: Cửa hàng tiện lợi phục vụ 24h, sự hài lòng, sinh viên, Thành phố Hồ
Chí Minh
1.Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, thị trường bán lẻ tại Viê ̣t Nam đã có bước chuyển mình
mạnh mẽ và được xem là thị trường giàu tiềm năng, thu hút nhiều đại gia bán lẻ nước ngoài.
Căn cứ theo số liệu năm 2017 của Bộ Công thương, các nhà bán lẻ ngoại tại Việt Nam chiếm
17% thị phần, nhà bán lẻ trong nước chiếm 83% thị phần. Tuy nhiên, có hơn 70% nhà bán lẻ
ngoại đang tập trung vào mở rộng mô hình cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini,… gần các tuyến
đường, khu dân cư, trường học,... như Shop&Go, Circle K, B’smart, Ministop, Family Mart,
…
Mặc dù có lợi thế cạnh tranh trên sân nhà nhưng việc hàng loạt các chuỗi cửa hàng tiê ̣n
lợi ngoài nước mọc lên ồ ạt đang khiến cho cửa hàng tiê ̣n lợi Viê ̣t đối mă ̣t với nhiều thách
thức. Theo tác giả thống kê, chỉ tính trên một đoạn đường dài 500m tại phố Bùi Viện (quận 1)
nhưng đã có hơn chục cửa hàng tiện lợi phục vụ 24h của các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy
nhiên, đáng chú ý là lượng khách mua sắm và dành nhiều thời gian tại các cửa hàng tiện lợi
phục vụ 24h chủ yếu là sinh viên. Theo nghiên cứu của Nielsen Việt Nam năm 2015, khách
hàng chủ yếu tại Shop&Go và Circle K là sinh viên. Bên cạnh đó, dựa vào thống kê mà tác
giả tổng hợp được, chỉ tính riêng các khu vực trong phạm vi 800m quanh đại học Giao thông
vận tải, Hutech, Ngoại thương tại Bình Thạnh thì đã có gần 15 cửa hàng trong số hơn 20 cửa
hàng tiện lợi phục vụ 24h được xây dựng tại đây. Ngoài ra, khi ngồi tại các cửa hàng tiện lợi
phục vụ 24h như Family Mart, Ministop, Circle K, Shop & Go, B’s Mart,… tác giả tổng hợp
được trung bình khoảng 65% khách hàng đến mua sắm và dành nhiều thời gian tại các cửa
hàng này để ăn uống, học tập và làm việc là đối tượng sinh viên.
Thành phố Hồ Chí Minh còn được xem là một trọng điểm thu hút hàng trăm ngàn sinh
viên về đây học tập và sinh hoạt hàng năm. Việc lựa chọn những địa điểm gần các trường Đại
học, Cao đẳng để kinh doanh cũng như việc xây dựng, điều chỉnh các chiến lược phù hợp để
thu hút lượng khách hàng mục tiêu có thể thấy rằng, hiện nay hầu hết các cửa hàng tiện lợi
phục vụ 24h đang tập trung hướng đến sinh viên. Đối mặt với mức tăng 37,4% mỗi năm trong
3 năm tới (năm 2021) của chuỗi cửa hàng tiện lợi ở Việt Nam (theo đơn vị khảo sát IGD) và
sự cạnh tranh khốc liệt hiện nay thì hệ thống cửa hàng tiện lợi phục vụ 24h cần phải đưa ra
các chiến lược mới để duy trì lượng khách hàng chủ yếu tại cửa hàng, tạo dựng niềm tin cho
sinh viên để đứng vững và giành được thị phần. Do đó, tác giả đưa ra nghiên cứu “Đánh giá
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 239
sự hài lòng của sinh viên đối với các cửa hàng tiê ̣n lợi phục vụ 24h trên địa bàn Thành Phố
Hồ Chí Minh” để đo lường sự hài lòng của sinh viên, từ đó giúp nhà quản trị đề ra chiến lược
kinh doanh đúng đắn nhằm thu hút việc lựa chọn, sử dụng và nâng cao sự hài lòng, trung
thành của sinh viên với loại hình của doanh nghiê ̣p.
2.Tổng quan nghiên cứu
2.1. Tổng quan về cửa hàng tiện lợi
Cửa hàng tiện lợi hay cửa hàng tiện ích là cụm từ được xuất phát từ các thuật ngữ nước
ngoài: “Convenience store” hay “C-store” trong Tiếng Anh, “konbini” trong Tiếng Nhật,…
Tại Việt Nam, theo Khoản 10 Điều 3 Nghị định 09/2018/NĐ-CP về quy định chi tiết Luật
thương mại và Luật Quản lý ngoại thương thì khái niệm cửa hàng tiện lợi được quy định như
sau: “Cửa hàng tiện lợi là cơ sở bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng nhanh, bao gồm: thực phẩm, đồ
uống, dược phẩm không kê đơn, thực phẩm chức năng và các sản phẩm bổ dưỡng sức khỏe,
hóa mỹ phẩm và các sản phẩm khác phục vụ tiêu dùng hàng ngày.”
Cửa hàng tiện lợi phục vụ 24h mang đặc điểm, tính chất của cửa hàng tiện lợi, là mô
hình cửa hàng nhỏ, tọa lạc ở những nơi có vị trí thuận lợi, dễ dàng tiếp cận để mua sắm, cung
cấp các mặt hàng thiết yếu nhưng với số dòng sản phẩm hạn chế và có thời gian mở cửa
24/24h trong cả tuần.
2.2. Tổng quan về sự hài lòng của khách hàng
2.2.1. Sự hài lòng của khách hàng
Theo Philip Kotler (2007), “Sự hài lòng của khách hàng (Customer satisfaction) là mức
độ trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ việc tiêu
dùng sản phẩm/dịch vụ với kỳ vọng của chính họ. Mức độ hài lòng phụ thuộc sự khác biệt
giữa kết quả nhận được và kỳ vọng, nếu kết quả thực tế thấp hơn sự kỳ vọng thì khách hàng
không hài lòng, nếu kết quả thực tế tương xứng với sự kỳ vọng thì khách hàng sẽ hài lòng,
nếu kết quả thực tế cao hơn sự kỳ vọng thì khách hàng rất hài lòng”.
2.2.2. Mô hình chỉ số hài lòng khách hàng Việt Nam (VCSI)
Mô hình chỉ số hài lòng khách hàng (Customer Satisfaction Index Model – CSI) gồm 4
biến nguyên nhân: hình ảnh thương hiệu (image), chất lượng mong đợi (expectations quality),
chất lượng cảm nhâ ̣n (perceived quality) và giá trị cảm nhâ ̣n (perceived value) về sản
phẩm/dịch vụ và biến số về kết quả sự hài lòng tạo nên sự trung thành nếu khách hàng hài
lòng hay sự phàn nàn nếu họ cảm thấy không hài lòng. Mô hình Chỉ số hài lòng của khách
hàng Việt Nam (Vietnamese Customer Satisfaction Index – VCSI) dựa theo quy tắc chuẩn
mực của CSI và được đặt trong quan hệ tương quan giữa biến nguyên nhân và kết quả, được
xem là yếu tố trung tâm trong VCSI.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Căn cứ vào mô hình chỉ số hài lòng dựa trên sự cảm nhận của khách hàng, mô hình giá
trị cảm nhâ ̣n SERVPERF của Cronin, Taylor 1992 và mô hình RSQS về chất lượng dịch vụ
bán lẻ của Dabholkar 1996, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu gồm biến phụ thuộc sự hài
lòng của sinh viên và 6 biến độc lập tác động đến biến phụ thuộc.
Các giả thuyết nghiên cứu:
Giả thuyết H1: Nhân tố “Hàng hóa” ảnh hưởng thuận chiều và có tác động tích cực đến
sự hài lòng của sinh viên.
Giả thuyết H2: Nhân tố “Giá cả” ảnh hưởng thuận chiều và có tác động tích cực đến sự
hài lòng của sinh viên.
Giả thuyết H3: Nhân tố “Nhân viên” ảnh hưởng thuận chiều và có tác động tích cực đến
sự hài lòng của sinh viên.
Giả thuyết H4: Nhân tố “Phân phối” ảnh hưởng thuận chiều và có tác động tích cực đến
sự hài lòng của sinh viên.
TÓM TẮT
Nghiên cứu này kiểm định vai trò của đổi mới công nghệ trong việc thực
hiện đổi mới mô hình kinh doanh và cải thiện kết quả khởi nghiệp của 425 doanh
nghiệp khởi nghiệp tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nghiên cứu đã sử dụng mô hình
cấu trúc tuyến tính bình phương nhỏ nhất từng phần (PLS-SEM). Kết quả kiểm
định cho thấy đổi mới công nghệ tác động dương đến năng lực mới, sản phẩm
mới và thị trường mới, đồng thời góp phần làm tăng kết quả khởi nghiệp. Bên
cạnh đó, các thành phần năng lực mới, sản phẩm mới và thị trường mới góp phần
đổi mới mô hình doanh thu, cấu trúc chi phí và có tác động dương đến kết quả
khởi nghiệp. Cuối cùng, nghiên cứu đã đưa ra hàm ý quản trị cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp, hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo.
Từ khóa: Đổi mới công nghệ; Đổi mới mô hình kinh doanh; Kết quả khởi
nghiệp.
ABSTRACT
This study examines the role of technological innovation in conducting
business model innovation and improving start-up performance of 425 start-up
firms in Ba Ria – Vung Tau province. The partial least squares structural
equation modelling (PLS-SEM) has been applied in this study. The findings show
that technological innovation positively influences new capabilities, new
offerings, new markets, and contributes in increasing start-up performance. In
addition, the components such as new capabilities, new offerings and new
markets contribute in renewing revenue models, cost structures and have positive
influences in start-up performance. Finally, the study proposes managerial
implications for start-up firms, mentions limitations and suggests directions for
further research.
Key words: Technological innovation; Business model innovation; Start-
up performance.
1. Giới thiệu
Vận dụng lý thuyết đổi mới mô hình kinh doanh cho các doanh nghiệp khởi nghiệp
(DNKN) là một chủ đề mới đã thu hút sự quan tâm từ các nhà nghiên cứu (Trimi & Berbegal-
Mirabent, 2012). Đổi mới mô hình kinh doanh (business model innovation – BMI) sẽ tạo ra
lợi thế cạnh tranh, đem lại hiệu quả hoạt động (Aspara & cộng sự, 2010). BMI liên quan chặt
chẽ với tầm nhìn, khả năng sáng tạo và phán đoán trong kinh doanh của doanh nghiệp (Foss
& Saebi, 2016). BMI sẽ giúp DNKN đưa ra các quyết định đúng đắn nhằm gia tăng cơ hội
thành công.
Tại Việt Nam, tỷ lệ hoạt động khởi sự kinh doanh thành công (dưới 3,5 năm) là 12,7%
(GEM1, 2016). Nguyên nhân thất bại của các DNKN là chưa xây dựng chất lượng mối quan
hệ với đối tác và đổi mới mô hình kinh doanh (Nguyễn Quang Thu & cộng sự, 2017). Foss &
1
GEM (Global Entrepreneurship Monitor) là chỉ số khởi nghiệp toàn cầu, bắt đầu hoạt
động từ năm 1999. GEM đánh giá thực trạng khởi nghiệp và phát triển kinh doanh tại các
quốc gia nhằm cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, các
doanh nhân và những người quan tâm trên toàn thế giới.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 248
Saebi (2016) đã tổng hợp các nghiên cứu về BMI ở giai đoạn (2000 – 2015) đề xuất hướng
nghiên cứu cần kiểm định mối quan hệ giữa BMI và kết quả hoạt động (đổi mới, giảm chi phí,
hiệu quả tài chính). Clauss (2016) đã khám phá các thành phần đo lường BMI, kết quả cho
thấy BMI là khái niệm có cấu trúc bậc 3, gồm có 10 thành phần (năng lực mới, công nghệ
mới, đối tác mới, quy trình mới, sản phẩm mới, thị trường mới, kênh phân phối mới, mối quan
hệ khách hàng mới, mô hình doanh thu mới và cấu trúc chi phí mới). Nghiên cứu của Nguyễn
Quang Thu & cộng sự (2018) đã kế thừa các thành phần của BMI từ nghiên cứu Clauss
(2016) để kiểm định mối quan hệ giữa BMI và kết quả khởi nghiệp của các DNKN tại tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu. Kết quả cho thấy các thành phần của BMI tác động dương đến kết quả khởi
nghiệp.
Từ phân tích trên cho thấy, chưa có nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các thành
phần của BMI. Giữa các thành phần trong mô hình kinh doanh có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Đặc biệt, trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 thì vai trò của đổi mới công nghệ
góp phần quan trọng trong việc đổi mới năng lực, sản phẩm/dịch vụ, thị trường, mô hình
doanh thu, cấu trúc chi phí, từ đó cải thiện kết quả khởi nghiệp là rất quan trọng. Vì vậy,
nghiên cứu được thực hiện theo hướng tiếp cận này. Mục tiêu nghiên cứu là xem xét vai trò đổi
mới công nghệ trong việc thực hiện BMI nhằm cải thiện kết quả khởi nghiệp. Điều này sẽ
giúp cho các DNKN tại Việt Nam giảm tỷ lệ khởi nghiệp thất bại. Nghiên cứu này có 2 đóng
góp mới:
Kiểm định vai trò của đổi mới công nghệ trong việc thực hiện BMI và tác động của nó
đến kết quả khởi nghiệp của DNKN;
Kiểm định mối quan hệ giữa các thành phần trong BMI và tác động của chúng đến kết
quả khởi nghiệp;
Đối tượng khảo sát là chủ các DNKN hoạt động trên tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, loại trừ các
DNKN hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Cấu trúc bài viết sau phần giới thiệu: (1) cơ sở lý
thuyết, (2) dữ liệu và phương pháp nghiên cứu, (3) kết quả và thảo luận, và (4) kết luận và
hàm ý quản trị.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Lý thuyết đổi mới
Theo OECD2 (2005) định nghĩa “đổi mới là sự cải tiến đáng kể về sản phẩm/dịch vụ,
quy trình, phương pháp tiếp thị hoặc phương pháp tổ chức đòi hỏi tính mới trong thực tiễn
kinh doanh mà doanh nghiệp là người đầu tiên phát triển và đã được đáp ứng từ các doanh
nghiệp hoặc tổ chức khác”. Theo OECD (2005) đã phân loại đổi mới thành bốn loại:
- Đổi mới sản phẩm: giới thiệu sản phẩm/dịch vụ được cải tiến mới/đáng kể về đặc tính,
mục đích sử dụng, đặc điểm kỹ thuật, các thành phần và nguyên liệu, phần mềm kết hợp, tính
thân thiện của người sử dụng hoặc các đặc tính chức năng khác.
- Đổi mới quy trình: thực hiện phương pháp sản xuất hoặc phân phối được cải tiến.
- Đổi mới marketing: thực hiện phương pháp tiếp thị mới liên quan đến những thay đổi
đáng kể về thiết kế, đóng gói sản phẩm, khuyến mãi hoặc định giá sản phẩm.
- Đổi mới tổ chức: thực hiện phương pháp tổ chức mới trong thực tiễn kinh doanh, tổ
chức nơi làm việc hoặc quan hệ đối ngoại của doanh nghiệp.
2.2. Lý thuyết VARIM
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and
Development), viết tắt OECD.
VARIM (value-giá trị, adaptability-thích ứng, rareness-khan hiếm, inimitability-không thể bắt chướt, và
monetization-tạo ra tiền)
BMI
H1
Năng lực mới H3 Mô hình
a H3 doanh thu mới
H6
Olympic kinh tế H2
lượng và ứng dụng năm 2019H3c 251
a b
Đổi mới công nghệ Sản phẩm mới H4 Kết quả
H2 a H4 khởi nghiệp
b H4 b
H2 Hc H7
H5
chi phí mới
c
Reichert & Zawislak (2014) đã chứng minh mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực công
nghệ và hiệu quả hoạt động của 133 doanh nghiệp ở Brazil. Đổi mới công nghệ sẽ ảnh hưởng
tích cực đến kết quả hoạt động doanh nghiệp. Giả thuyết H1 được đề xuất:
H1: Đổi mới công nghệ ảnh hưởng dương đến kết quả khởi nghiệp của DNKN.
Đổi mới công nghệ bao gồm đổi mới về sản phẩm/dịch vụ, quy trình mới đối với tổ
chức hoặc thay đổi cách thức sản xuất và phân phối sản phẩm đến khách hàng (Avermaete &
cộng sự, 2003). Khi doanh nghiệp cập nhật và cải tiến công nghệ sẽ phát triển sản phẩm mới.
Khi đó doanh nghiệp cần trang bị năng lực mới cho nhân viên để đáp ứng sự thay đổi công
nghệ và môi trường bên ngoài. Hơn nữa, doanh nghiệp cần tìm kiếm các phân khúc khách
hàng và thị trường mới cho sản phẩm mới (Clauss, 2016). Giả thuyết H 2a, H2b và H2c được đề
xuất:
H2a: Đổi mới công nghệ ảnh hưởng dương đến năng lực mới của DNKN.
H2b: Đổi mới công nghệ ảnh hưởng dương đến sản phẩm mới của DNKN.
H2c: Đổi mới công nghệ ảnh hưởng dương đến thị trường mới của DNKN.
Năng lực mới sẽ giúp doanh nghiệp nắm bắt thị trường phát triển doanh thu mới và chủ
động tìm kiếm cơ hội để tiết kiệm chi phí sản xuất cũng như điều chỉnh chi phí theo giá thị
trường phù hợp (Clauss, 2016). Alam & cộng sự (2013) đã chứng minh mối quan hệ cùng
chiều giữa đổi mới năng lực và kết quả hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất ở Malaysia.
Giả thuyết H3a, H3b và H3c được phát biểu:
H3a: Năng lực mới ảnh hưởng dương đến mô hình doanh thu mới của DNKN.
H3b: Năng lực mới ảnh hưởng dương đến kết quả khởi nghiệp của DNKN.
H3b: Năng lực mới ảnh hưởng dương đến cấu trúc chi phí mới của DNKN.
Doanh nghiệp sản xuất sản phẩm/dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng,
tạo ra doanh thu và góp phần cải thiện kết quả hoạt động cho doanh nghiệp (Clauss, 2016).
Atalay & cộng sự (2013) đã chứng minh mối quan hệ dương giữa đổi mới sản phẩm với kết
quả hoạt động của ngành công nghiệp cung cấp ô tô tại Thổ Nhĩ Kỳ. Hơn nữa, doanh nghiệp
đổi mới sản phẩm nhằm tiết kiệm chi phí để gia tăng lợi thế cạnh tranh so với đối thủ cạnh
tranh trên thị trường. Giả thuyết H4a, H4b và H4c được phát biểu:
H4a: Sản phẩm mới ảnh hưởng dương đến mô hình doanh thu mới của DNKN.
H4b: Sản phẩm mới ảnh hưởng dương đến kết quả khởi nghiệp của DNKN.
H4c: Sản phẩm mới ảnh hưởng dương đến cấu trúc chi phí mới của DNKN.
Đổi mới thị trường tập trung vào phát triển thị trường mục tiêu và xác định cách thức để
doanh nghiệp phục vụ khách hàng tại thị trường mục tiêu tốt nhất đồng thời tạo ra doanh thu
cho doanh nghiệp (Shirokova & Socolova, 2013). Đổi mới thị trường giúp doanh nghiệp đạt
được thị phần tiềm năng và mức độ tăng trưởng doanh thu như mong muốn. Ngoài ra, doanh
nghiệp phát triển thị trường mới để nắm bắt nhiều cơ hội và xem xét chiến lược định giá phù
hợp trên thị trường (Clauss, 2016). Giả thuyết H5a, H5b và H5c được đề xuất:
H5a: Thị trường mới ảnh hưởng dương đến mô hình doanh thu mới của DNKN.
H5b: Thị trường mới ảnh hưởng dương đến kết quả khởi nghiệp của DNKN.
Kết quả khởi nghiệp (STARTPERF) 5 Pirolo và Presutti (2010), Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn
Thị Mai Trang (2009), Kết quả định tính
Bảng 7.Mức độ tác động giữa các khái niệm nghiên cứu
Biến Loại tác Đổi mới Năng Sản phẩm Thị trường Chi phí Doanh
phụ thuộc động công nghệ lực mới mới mới mới thu mới
Trực tiếp 0,272
Năng lực mới
Gián tiếp 0,000
Tổng 0,272
Sản phẩm mới Trực tiếp 0,438
Gián tiếp 0,000
Tổng 0,438
Thị trường mới Trực tiếp 0,327
Gián tiếp 0,000
Tổng 0,327
Chi phí mới Trực tiếp 0,000 0,209 0,204 0,130
Gián tiếp 0,190 0,000 0,000 0,000
Tổng 0,190 0,209 0,204 0,130
Doanh thu mới Trực tiếp 0,000 0,191 0,192 0,128
Gián tiếp 0,180 0,000 0,000 0,000
Tổng 0,180 0,191 0,192 0,128
Kết quả Trực tiếp 0,212 0,248 0,173 0,153 0,277 0,178
khởi nghiệp Gián tiếp 0,278 0,092 0,091 0,059 0,000 0,000
Tổng 0,490 0,340 0,264 0,212 0,277 0,178
Đổi mới công nghệ tác động dương lớn nhất đến kết quả khởi nghiệp (β tổng = 0,49). Kế
đến là năng lực mới (βtổng = 0,34); chi phí mới (β trực tiếp = 0,277); sản phẩm mới (βtổng = 0,264);
thị trường mới (βtổng = 0,212) và cuối cùng là doanh thu mới (β trực tiếp = 0,178) lần lượt ảnh
hưởng theo thứ tự giảm dần đến kết quả khởi nghiệp.
4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu đề xuất có 7 khái niệm nghiên cứu đơn hướng là đổi mới công
nghệ, năng lực mới, sản phẩm mới, thị trường mới, mô hình doanh thu mới, cấu trúc chi phí
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 257
mới và kết quả khởi nghiệp. Thang đo có 25 biến quan sát, kết quả mô hình đo lường cho thấy
giá trị thang đo đều đạt được độ tin cậy (hệ số Cronbach’s Alpha, độ tin cậy tổng hợp) và giá
trị cho phép (phương sai trích, giá trị hội tụ và phân biệt),
Kết quả nghiên cứu đã bổ sung vào khung lý thuyết mối quan hệ dương giữa các thành
phần của BMI và giữa chúng có tác động dương đến kết quả khởi nghiệp. Kết quả nghiên cứu
phù hợp với các nghiên cứu trước. Ví dụ, nghiên cứu của Nguyễn Quang Thu & cộng sự
(2018), các thành phần của BMI tác động dương đến kết quả khởi nghiệp. Hơn nữa, mối quan
hệ giữa các thành phần của BMI chưa được kiểm định từ các nghiên cứu trước đây và kết quả
nghiên cứu đã trả lời vấn đề nghiên cứu của Foss & Saebi (2016) giữa BMI và kết quả hoạt
động của doanh nghiệp. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu đã khẳng định được vai trò của đổi mới
công nghệ trong việc thực hiện BMI và góp phần gia tăng kết quả khởi nghiệp.
5. Kết luận và hàm ý quản trị
5.1. Kết luận
Nghiên cứu này đã kiểm định các thành phần BMI và kết quả khởi nghiệp của các
DNKN tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Kết quả nghiên cứu cho thấy đổi mới công nghệ có vai trò
quan trọng trong việc thực hiện BMI và góp phần gia tăng kết quả khởi nghiệp. Vì vậy, 15 giả
thuyết nghiên cứu đều được chấp nhận.
5.2. Hàm ý quản trị
Các DNKN cần chú trọng đổi mới công nghệ nhằm thực hiện BMI và nâng cao kết quả
khởi nghiệp, Một số hàm ý quản trị cụ thể được đề xuất:
Thứ nhất, DNKN chú trọng đổi mới công nghệ đáp ứng sự thay đổi của môi trường:
DNKN cập nhật các nguồn lực công nghệ, cải tiến thiết bị kỹ thuật so với đối thủ cạnh
tranh và sử dụng các tiềm năng công nghệ mới để mở rộng danh mục sản phẩm/dịch vụ.
DNKN chủ động nâng cao năng lực quản trị, kỹ thuật và đầu tư công nghệ sản xuất theo tiêu
chuẩn quốc tế để thích ứng với cách mạng công nghiệp 4,0.
Thứ hai, DNKN thực hiện đổi mới một số thành phần của mô hình kinh doanh:
Đổi mới sản phẩm: DNKN quan tâm đến các nhu cầu mới chưa được đáp ứng của
khách hàng, cải tiến sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng so với đối thủ cạnh tranh.
Đổi mới năng lực: DNKN tạo điều kiện cho nhân viên được đào tạo để có kiến thức,
khả năng cập nhật và phát triển năng lực mới, xem xét những năng lực mới để thích nghi với
những yêu cầu thay đổi của thị trường.
Đổi mới thị trường: DNKN cần nắm bắt cơ hội phát sinh ở thị trường đang phát triển
hoặc phát triển mới, quan tâm đến các phân khúc thị trường và tìm kiếm khách hàng cho sản
phẩm/dịch vụ.
Đổi mới cấu trúc chi phí: DNKN xem xét chiến lược định giá, chủ động tìm kiếm các
cơ hội để tiết kiệm chi phí sản xuất, kiểm tra thường xuyên và điều chỉnh chi phí sản xuất theo
giá thị trường.
Đổi mới mô hình doanh thu: DNKN phát triển các cơ hội doanh thu mới, cung cấp thêm
các dịch vụ tích hợp để nhận được lợi nhuận dài hạn, bổ sung hoặc thay thế doanh thu giao
dịch một lần bằng mô hình doanh thu định kỳ dài hạn (ví dụ: hợp đồng cho thuê).
5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo
Nghiên cứu này được thực hiện tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên tính đại diện chưa cao.
Do đó, để nâng cao tính đại diện, các nghiên cứu cần được khảo sát (lặp lại) ở nhiều
tỉnh/thành phố khác như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ… là
những nơi có nhiều DNKN.
Nghiên cứu này khảo sát các DNKN thuộc nhiều ngành nghề khác nhau, do đó không
thấy được đặc thù và yêu cầu khác nhau của từng ngành nghề. Để kết quả kiểm định tốt hơn,
cần nghiên cứu cho một ngành nghề cụ thể để thấy được vai trò của đổi mới công nghệ trong
việc tiến hành BMI và nâng cao kết quả khởi nghiệp.
∑ σ k =¿ 1 ¿ ; λ k ≥ 0 ∀ k=1 , … , K ; σ k ≥ 0 ∀ k=1 , … , K
k =1
In which:
k: number of banks
λ: the vector related with activity variables of sub-process T1.
σ: the vector related with activity variables of sub-technology T2.
w: the banks’ policy objectives, consists of w econ and wrisk. wecon is high in the scenario
that bank’s purpose is increase profitability and reduce the concern on risk of lending
activities, and vice versa.
δ: the inefficiency score, is the necessary amount of increasing in outputs to reach the
frontier in the direction that is given by vector g. δ is decomposed into three components, in
which δ1 and δ2 measure the inefficiency score for non-interest and interest income, while the
risk management inefficiency score is measured by δ3.
g: the directional vector that includes two sub-vectors, gTI and gNPL, in which gTI is the
direction vector of total incomes that use to measure economic efficiency and g NPL is the
vector for non-performing loans, an indicator of risk. g TI is the sum of interest income and
non-interest income while gNPL equals to the value of non-performing loans.
3.Application:
Table 1: The average of economic and Figure 1: Average economic and risk
risk management inefficiencies for 11 performances
scenarios
Economic
Risk management
Scenario inefficiency δ1 +
inefficiency δ3
δ2
1 34.65% -27.42%
2 33.64% -12.45%
3 29.73% 9.32%
4 26.54% 19.49%
5 23.02% 26.21%
6 18.61% 31.53%
7 14.41% 35.10%
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 261
8 5.44% 39.88% 50%
9 -2.83% 42.63%
40%
10 -11.13% 44.20%
30%
20%
10%
0%
11 0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1
-10%
-20%
-30%
Using Matlab software, the result of the calculation for the average inefficiency is
shown in Table 1 and illustrated in Figure 1. It shows the influence of policy objectives
changing on the abilities to earn more incomes or resolve more NPLs of commercial banks.
Furthermore, the break-even point of economic and risk management inefficiencies is at the
scenario in which wrisk = 40%. It suggests that government should set regulations in which
banks focus on both earning profit and reducing risks policies, however, the rate on profit
earned should a bit of higher.
The other problem has pointed out in this research is the efficient in terms of economic
and risk performance for 2 types of bank. Table 2 and Figure 2 shows the trends of economic
and risk management inefficiency in SOCBs and JSCBs. It is remarkable to see that JSCBs
have a lot of opportunities to raise the income, although they had to have a strict rule for
borrowing money since the figure of 46.03% in cutting the bad loans at the last scenario. The
data corresponding to the JSCBs noted that they are more sensitive to the change of strategies
in risk management of managers and need to concentrate on risk more than SOCBs.
Table 2: Tradeoff between risk and economic performance for 2 types of banks
SOCBs JSCBs
Scenario Economic Risk Economic Risk
1 21.16% -6.35% 35.43% -13.32%
2 21.16% -6.35% 35.43% -13.32%
3 18.84% 6.79% 31.29% 9.68%
4 16.01% 15.81% 28.05% 20.01%
5 13.18% 22.18% 24.43% 26.79%
6 8.63% 27.74% 20.03% 32.07%
7 7.18% 28.84% 15.44% 35.99%
8 4.28% 30.27% 5.60% 41.25%
9 -2.48% 32.59% -2.87% 44.06%
10 -7.06% 33.43% -11.71% 45.74%
11 -8.25% 33.43% -24.41% 46.03%
Figure 2: Tradeoff between risk and economic performance for 2 types of banks
40% 40%
30% 30%
20% 20%
10% 10%
0% 0%
0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1 0 0.1 0.2 0.3 0.4 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1
-10%
-10%
-20%
-20%
-30%
-30%
Table 3: Changing of economic and risk management inefficiencies for scenario 6 from
2013 to 2017
State-owned commercial banks Joint-stock commercial banks
Year Economic Risk Economic Risk
2013 -2.06% 12.84% 26.52% 23.21%
2014 19.84% 29.42% 34.96% 19.90%
2015 20.96% 40.18% 37.81% 35.34%
2016 2.97% 23.93% 1.52% 36.00%
2017 1.45% 32.32% -0.65% 45.88%
Finally, this study considers the evolution of inefficient in economic and risk
management throughout the period of 5 years. Table 3 and Figure 3 summarized the result for
possible weight on economic for managers is 50%, means that weco = wrisk = 50%. It is
noted that the possible rate on reducing bad loans of both SOCBs and JSCBs saw the average
annual growth rate at 4.87% and 5.67%, respectively. The economic performance of SOCBs
had the annual growth rate at 0.88%, while the JSCBs’ has a negative growth rate at -6.79%,
with the average potential improvement of total income is around 0 in 2017, means that
JSCBs could be considered as efficiency in this year. It is also suggesting that SOCBs has
more opportunities to raise the profit than JSCBs.
Figure 3: Changing of economic and risk management inefficiencies for scenario 6 from
2013 to 2017
40% 40%
30% 30%
20% 20%
10% 10%
0% 0%
2013 2014 2015 2016 2017 2013 2014 2015 2016 2017
-10% -10%
4.Conclusions
In the scope of this study, the efficiencies in terms of economic and risk management in
different policy objectives are to be answered. According to the result, it is clear to see how
policies with related to controlling risks cause a decline in the possible improvement of
income but improve the chances to reduce the ratio of NPLs. The results also showed that the
total income, which included interest income and non-interest income, could be raised by an
average rate of 14%, while NPLs could be reduced by an average rate of 23%. Furthermore,
there are differences between risk management and economic performance between 2 types of
banks, when the JSCBs is more sensitive to the change of risk management policies. In the
last 2 years, when the policies for economic and risk performance is balance, economic
performance of both SOCBs and JSCBs had reach to the production benchmark while the bad
loans that needed to be solved increased, especially JSCBs, warning the manager focus more
on managing risk in lending activities.
Banks’ manager and the State Bank of Vietnam can use this study for their future
policies. Based on the relation of inefficiency score and weigh on risk management, banks’
leader can take advantage from the result in adjusting or remaining their policy objectives to
meet profitability targets, reduce the NPLs as a requirement of government, increase the
income as a desire of investors. SBV can build policies and guidance for each group of
commercial banks when restructuring banking sector based on the result of this research.
REFERENCES
[1] Murty S., Robert Russell R., and Levkoff S.B. (2012). On modeling pollution-generating
technologies. Journal of Environmental Economics and Management, 64(1), 117–135.
[2] Stewart C., Matousek R., and Nguyen T.N. (2016). Efficiency in the Vietnamese banking
system: A DEA double bootstrap approach. Research in International Business and
Finance, 36, 96–111.
[3] Liang C.-J., Yao M.-L., Hwang D.-Y. (2008). The Impact of Non-Performing Loans on
Bank’s Operating Efficiency for Taiwan Banking Industry. Review of Pacific Basin
Financial Markets and Policies, 11(02), 287–304.
[4] Barros C.P., Managi S., and Matousek R. (2012). The technical efficiency of the Japanese
banks: Non-radial directional performance measurement with undesirable output. Omega,
40(1), 1–8.
[5] Zhu N., Wang B., Yu Z. (2016). Technical Efficiency Measurement Incorporating Risk
Preferences: An Empirical Analysis of Chinese Commercial Banks. Emerging Markets
Finance and Trade, 52(3), 610–624.
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đánh giá tác động cơ cấu tài sản
đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của 293 doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2011 – 2017. Biến phụ
thuộc đại diện cho hiệu quả hoạt động kinh doanh là tỷ suất lợi nhuận sau thuế
trên vốn kinh doanh (ROA). Nghiên cứu sử dụng các chỉ tiêu tỷ trọng tài sản cố
định (TANG), tỷ trọng tài sản ngắn hạn (TSNH) và tỷ trọng đầu tư tài chính dài
hạn( ĐTTCDH) đại diện cho cơ cấu tài sản của doanh nghiệp. Ngoài ra, nghiên
cứu còn sử dụng các biến kiểm soát bao gồm: quy mô doanh nghiệp (LTA), tốc độ
tăng trưởng (SGROWTH), hệ số nợ (LEV), khả năng thanh toán (LIQUID) và
ngành kinh doanh (PN1) . Kết quả nghiên cứu chỉ ra cả 3 chỉ tiêu đại diện cho cơ
cấu tài sản đều có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các nhân tố như Hệ số nợ (LEV), Ngành kinh
doanh(PN1) có tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp; quy mô doanh nghiệp (LTA) có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động
kinh doanh. Tác động của khả năng thanh toán và tốc độ tăng trưởng đến hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp không có ý nghĩa thống kê. Trên cơ sở kết quả
nghiên cứu, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp, kiến nghị xây dựng cơ cấu tài
sản hợp lý để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và tối đa hóa giá trị cho
các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam.
Từ khóa: Cơ cấu tài sản, hiệu quả hoạt động kinh doanh, thị trường chứng
khoán Việt Nam, mô hình hồi quy.
1. Giới thiệu
Hiệu quả hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp là vấn đề quan trọng liên quan đến
sự tồn tại, phát triển và giá trị của doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh có hiệu quả và không
ngừng nâng cao là nhiệm vụ cơ bản của các doanh nghiệp nhằm hướng tới mục tiêu chiến
lược tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường nhiều cạnh
tranh và toàn cầu hóa càng ngày càng mở rộng như hiện nay thì vấn đề đạt được hiệu quả hoạt
động kinh doanh tốt trở thành bài toán cấp thiết đối với các doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu có tính chất tổng hợp chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu
tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Một trong những yếu tố có mối quan hệ mật thiết đến
hiệu quả hoạt động kinh doanh đã được các nghiên cứu trước đây chỉ ra là cơ cấu tài sản và
khả năng sử dụng tài sản. Tuy nhiên trên thực tế, đối với phần lớn các DN ở Việt Nam do
tiềm lực tài chính còn hạn chế, khả năng đầu tư công nghệ, gia tăng năng lực sản xuất còn
yếu. Đây là một thách thức to lớn khi các DN Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với các
DN nước ngoài có trình độ công nghệ hiện đại, năng lực sản xuất lớn trong điều kiện xu
hướng hội nhập kinh tế ngày càng mạnh mẽ. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản khiến hiệu quả
kinh doanh của các DN còn thấp. Hơn nữa, nhiều DN gặp sai lầm khi theo đuổi mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận trong ngắn hạn mà bỏ qua chiến lược đầu tư dài hạn nhằm đảm bảo khả năng
tăng trưởng bền vững gặp rất nhiều khó khăn do sự thiếu ổn định về doanh thu và lợi nhuận
đặc biệt trong điều kiện khủng hoảng kinh tế kéo dài. Bởi vậy, bên cạnh việc xác định chiến
lược kinh doanh đúng đắn, quản trị tốt nguồn nhân lực chất lượng cao, tổ chức tốt hoạt động
tài chính… các doanh nghiệp cần quan tâm đến đầu tư và phân bổ cơ cấu tài sản hợp lý.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 266
Xuất phát từ những lý do nêu trên, nhóm tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng và
tác động của cơ cấu tài sản đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết
trên sàn chứng khoán ở Việt Nam. Từ đó đề xuất những biện pháp làm cơ sở giúp cho các nhà
quản trị tài chính của doanh nghiệp trong việc xây dựng cơ cấu tài sản phù hợp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và nhằm tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Bài nghiên cứu
gồm 6 phần: Mở đầu, Cơ sở lý thuyết, Tổng quan vấn đề nghiên cứu, Xây dựng mô hình
nghiên cứu, Kiến nghị và Kết luận.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Cơ cấu tài sản của doanh nghiệp.
Cơ cấu tài sản phản ánh mức độ đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp được đo
lường bằng tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Cơ cấu tài sản
của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm hoạt động kinh doanh cũng như khả năng
trang bị tài sản của doanh nghiệp. Theo đó, các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành sản
xuất đòi hỏi trang bị tài sản cố định tương đối lớn thường có cơ cấu tài sản tập trung ở bộ
phận tài sản dài hạn hay tài sản cố định. Mức độ đầu tư vào tài sản cố định sẽ quyết định đến
quy mô, năng lực sản xuất và khả năng tiết kiệm các khoản chi phí biến đổi trong hoạt động
kinh doanh. Ngoài các tài sản phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động đầu tư góp vốn ra ngoài doanh nghiệp hình thành các khoản
đầu tư tài chính. Để phản ánh cơ cấu tài sản, doanh nghiệp thường sử dụng các chỉ tiêu chủ
yếu sau:
Tài sản ngắn
Tỷ lệ đầu tư vào
= hạn
tài sản ngắn hạn Tổng tài sản
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng vốn đầu tư vào tài sản ngắn hạn trong tổng tài sản của
doanh nghiệp. Chỉ tiêu này vừa thể hiện cơ cấu đầu tư, vừa thể hiện quy mô đầu tư về tài sản
ngắn hạn trong tổng số tài sản hiện có của doanh nghiệp.
Tỷ lệ đầu tư vào Tài sản dài hạn
=
tài sản dài hạn Tổng tài sản
Tỷ lệ đầu tư vào tài sản dài hạn phản ánh số vốn đầu tư vào tài sản dài hạn chiếm bao
nhiêu phần trăm trong tổng số tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu tỷ lệ đầu tư vào tài sản dài
hạn còn phản ánh năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Hai chỉ tiêu cơ cấu tài sản thể hiện tính cân đối giữa tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn
trong doanh nghiệp. Không có một tỷ lệ chuẩn nào quy chiếu cho các doanh nghiệp mà tùy
thuộc vào ngành nghề kinh doanh, thời kì kinh doanh và chiến lược kinh doanh mà độ lớn của
các chỉ tiêu này khác nhau. Ngay cả trong cùng một ngành, cơ cấu tài sản của các doanh
nghiệp cũng có nhiều sự khác biệt do chiến lược kinh doanh và thời kì phát triển khác nhau.
Các khoản đầu tư
Tỷ lệ đầu tư tài sản
= tài chính
tài chính
Tổng tài sản
Tỷ lệ đầu tư tài chính phản ánh tỷ trọng tài sản tài chính trong tổng tài sản của doanh
nghiệp. Các khoản đầu tư tài chính có thể bao gồm đầu tư tài chính ngắn hạn và dài hạn. Khi
các doanh nghiệp đạt đến một quy mô kinh doanh nhất định, ngoài hoạt động kinh doanh
chính, công ty thường đầu tư một lượng vốn lớn thông qua các hoạt động góp vốn vào các
công ty con, công ty liên kết khi đó tỷ lệ đầu tư tài chính thường rất cao.
2.2. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Theo quan điểm của nhà kinh tế học người Anh- Adam Smith thì hiệu quả hoạt động
kinh doanh là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, đối với mỗi doanh nghiệp thì đó là
doanh thu tiêu tụ hàng hóa, đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì đó là tốc độ tăng thu nhập
quốc dân và tổng sản phẩm xã hội. Quan điểm này chỉ phù hợp khi tốc độ tăng kết quả kinh
doanh nhanh hơn tốc độ tăng chi phí bỏ ra, hoặc yếu tố đầu vào của sản xuất; ngược lại, quan
ROA 2047 .0594774 .0429881 .0938744 -1.010573 .839057 1.578319 .7219445 20.55394
TANG 2047 2.114483 .1595153 10.53713 0 235.7515 4.98331 10.7529 166.2378
TSNH 2047 .5979591 .6382419 .2291906 .0307465 .999937 .3832881 -.4292728 2.249996
ĐTTCDH 2047 .2440898 .0170764 .8357888 0 15.29746 3.424104 8.282195 100.9199
LTA 2047 13.312 13.18418 1.526711 9.585793 19.10697 .1146868 .4041944 3.091825
LEV 2047 .4849485 .5105701 .2097211 .0154376 1.024485 .4324606 -.2237549 2.212249
SGROWTH 2047 45.35274 .0665991 1992.578 -1.039213 90130 43.93513 45.17634 2042.904
LIQUID 2047 2.248502 1.499813 2.712294 0 41.21461 1.206267 6.306606 61.69895
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata
Biến phụ thuộc ROA của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt
Nam ở mức trung bình là 0.059, cao nhất ở mức 0.8391 và thấp nhất ở mức -1.0106. Các biến
TANG, TSNH, ĐTTCDH, LTA, LEV, SGROWTH, LIQUID có giá trị trung bình lần lượt là
2.1144; 0.598; 0.2441; 13.312; 0.4849; 45.3527; 2.2485.
Biến SGROWTH có hệ số biến thiên lớn thể hiện giá trị của biến này có dao động lớn
hơn các biến còn lại.
Độ chênh lệch giữa giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của biến TANG là khá lớn (giá trị
cao nhất là mức 235.7515 và giá trị thấp nhất là mức 0). Nhận thấy các doanh nghiệp niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam phần lớn sử dụng vào đầu tư vào tài sản cố định cho
các hoạt động của doanh nghiệp. Điều kiện để các doanh nghiệp đủ yêu cầu huy động vốn
trên thị trường chứng khoán được kiểm soát bởi Ủy ban chứng khoán, quy định, kiểm kê rõ
ràng, các doanh nghiệp có quy mô lớn đủ điều kiện tham gia vào thị trường. Số lượng lớn
doanh nghiệp đầu tư tài sản cố định nhiều trong các lĩnh vực xây dựng, bất động sản, các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh chủ lực tại Việt Nam nên chiếm đa phần tỷ trọng đầu tư tài sản cố
định.
Độ chênh lệch giữa giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của biến ĐTTCDH là rất lớn (giá
trị cao nhất là mức 15.29746 và giá trị thấp nhất là mức 0). Nhận thấy các doanh nghiệp niêm
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 272
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam sử dụng chủ yếu sử dụng và đầu tư vào tài chính
dài hạn cho các hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp niêm yết với quy mô lớn, tài
chính mạnh đa phần đều lựa chọn đầu tư tài chính vào các công ty liên doanh, liên kết hay các
công ty được đánh giá với tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Với quan điểm này các công ty đã
lựa chọn cho mình nhiều hoạt động đầu tư tài chính như một xu hướng tất yếu của thị trường
doanh nghiệp nhỏ đầu tư nhỏ, doanh nghiệp lớn đầu tư lớn; đây cũng là phương pháp giúp
nâng cao tính liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành và các doanh nghiệp có liên quan
khác.
ROA 1.0000
LIQUID
LIQUID 1.0000
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata
Biến phụ thuộc ROA có tương quan âm với 3 biến LTA, LEV nhưng có tương quan
dương với các biến độc lập còn lại: TANG, TSNH, ĐTTCDH, SGROWTH, LIQUID.
Kết quả tính toán hệ số tương quan còn được dùng để đánh giá mức độ đa cộng tuyến
trong mô hình. Kết hợp với việc tính toán hệ số VIF đều khá nhỏ (giá trị VIF lần lượt tương
ứng trong ba mô hình là 1,18; 1,25 và 1,14) cho kết luận các mô hình nghiên cứu không có
hiện tượng đa cộng tuyến.
Nhóm nghiên cứu sử dụng tiêu chuẩn kiểm định Fisher-type để kiểm định tính dừng của
các biến. Do mẫu dữ liệu có dữ liệu trống nên việc sử dụng tiêu chuẩn Fisher-type là phù hợp.
Kết quả kiểm định trên mẫu dữ liệu cho kết luận tất cả các biến đều dừng ở mức ý nghĩa 1%.
Như vậy kết quả ước lượng mô hình hồi quy trên các biến là tin cậy.
4.4. Phương pháp ước lượng và kiểm định mô hình
Bài nghiên cứu này sử dụng ba phương pháp: Pooled OLS, FEM và REM để ước lượng
mô hình hồi quy với dữ liệu bảng.
Phương pháp bình phương nhỏ nhất (Pooled OLS): Phương pháp này còn được coi là
phương pháp hồi quy thông thường khi không xét đến các yếu tố không gian và thời gian của
dữ liệu bảng
Phương pháp hồi quy tác động cố định (Fixed Effects Model): Với giả định, mỗi đơn vị
chéo đều có những đặc điểm riêng biệt và có thể ảnh hưởng đến các biến giải thích; FEM
phân tích mối tương quan này giữa sai số của mỗi đơn vị với các biến giải thích qua đó kiểm
soát và tách ảnh hưởng của các đặc điểm riêng biệt (không đổi theo thời gian) ra khỏi các biến
giải thích để có thể ước lượng những ảnh hưởng thực của biến giải thích lên biến phụ thuộc.
Phương pháp hồi quy tác động ngẫu nhiên (Random Effects Model): Điểm khác biệt
giữa mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên và mô hình ảnh hưởng cố định được thể hiện ở sự biến
sigma_u .05785404
sigma_e .06659219
rho .43012824 (fraction of variance due to u_i)
Mô hình 2:
sigma_u .05719054
sigma_e .06634721
rho .42628459 (fraction of variance due to u_i)
Mô hình 3:
Random-effects GLS regression Number of obs = 2,047
Group variable: CODE Number of groups = 293
sigma_u .0578494
sigma_e .06638241
rho .43163634 (fraction of variance due to u_i)
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata
sigma_u .05673487
sigma_e .06659219
rho .42057912 (fraction of variance due to u_i)
Mô hình 2a:
Random-effects GLS regression Number of obs = 2,047
Group variable: CODE Number of groups = 293
sigma_u .05600444
sigma_e .06634721
rho .41606662 (fraction of variance due to u_i)
Mô hình 3a:
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 279
Random-effects GLS regression Number of obs = 2,047
Group variable: CODE Number of groups = 293
sigma_u .05675306
sigma_e .06638241
rho .42227407 (fraction of variance due to u_i)
Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu từ phần mềm Stata
Giá trị p – value (F và χ2) của thống kê là 0 do đó, với mức ý nghĩa 5% mô hình hồi quy
là phù hợp. Sau khi thêm biến Ngành kinh doanh (PN1), kết quả thu được là hệ số hồi quy có
ý nghĩa thống kê. Như vậy có sự khác biệt giữa ngành bất động sản so với các ngành khác.
Điều này cho thấy quy mô ngành Bất động sản có tác động tương đối lớn đến các ngành khác.
Khi ngành Bất động sản có tín hiệu tăng trưởng tốt kéo theo sự phát sinh nhu cầu thị trường
các ngành xây dựng, dịch vụ, thương mại,... gia tăng, thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
5. Một số đề xuất từ kết quả nghiên cứu
Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm tối đa
hóa hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam trong thời gian tới như sau:
Một là, Doanh nghiệp cần quan tâm đến việc đầu tư tài sản cố định nhằm tăng cường
năng lực sản xuất.
Qua kết quả nghiên cứu, có thể thấy để đánh giá năng lực sản xuất của doanh nghiệp,
một trong những thước đo quan trọng là tỷ trọng đầu tư tài sản cố định của các doanh nghiệp.
Trong giai đoạn 2011-2017, tại các ngành kinh doanh khác nhau có thể thấy được sự biến
động không nhỏ trong vấn đề đầu tư tài sản cố định tác động đến hiệu quả kinh doanh. Vì vậy,
có khả năng gia tăng tài sản dài hạn sẽ giúp DN có hiệu quả cao hơn nên khuyến khích các
DN nghiên cứu tăng đầu tư vào TSDH. Doanh nghiệp cũng cần xây dựng các kế hoạch tài
chính trong việc đầu tư, phân bổ, sử dụng, bảo dưỡng, nâng cấp tài sản nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng tài sản. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần theo dõi bước tiến của thị trường
với các kênh cung ứng tích hợp công nghệ, được khách hàng ưa chuộng, từ đó xây dựng, kết
hợp sản phẩm của mình với các công cụ hỗ trợ công nghệ hiện đại, phục vụ thị trường không
chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài.
Hai là, Các doanh nghiệp cần tập trung quản lý tốt tài sản lưu động để đảm bảo hoạt
động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên, liên tục và hiệu quả.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 280
Tài sản lưu động - tài sản ngắn hạn tác động trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, là yếu tố quan trong giúp gia tăng hiệu quả kinh doanh. Nguyên nhiên vật
liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất phải được cung ứng và đảm bảo nguồn cung đều đặn phù
hợp với dây chuyền sản xuất kinh doanh. Về quản trị hàng tồn kho đóng vai trò quan trọng,
tạo độ an toàn trong giai đoạn sản xuất- dự trữ và tiêu thụ sản phẩm khi mà quá trình này chưa
đồng bộ cao. Quản trị hàng tồn kho tốt sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí liên quan đến
hàng tồn kho như chi phí cơ hội, chi phí nhân công, chi phí quản lý hàng tồn kho, chi phí
hỏng hóc, sửa chữa. Doanh nghiệp cũng cần có chiến lược tăng vòng quay sản phẩm, chú
trọng marketing và bán hàng, đưa ra cách phân khúc thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm
trong và ngoài nước.
Ba là, Cần giám sát, quản lý chặt chẽ các khoản đầu tư tài chính.
Theo nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam cũng chịu khá nhiều tổn thất từ
việc đầu tư tài chính không hiệu quả do đầu tư thua lỗ, không có kế hoạch, không đánh giá và
giám sát kịp thời các khoản đầu tư khiến cho các khoản chi đầu tư gây ra khoản thâm hụt
nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Khắc phục những sai sót trong công tác đánh giá lựa chọn các khoản mục đầu tư, chưa
theo sát kịp thời quá trình của các công ty con, công ty liên kết hay dự án đầu tư. Xây dựng
phương hướng dự phòng, khắc phục rủi ro hay các chiến lược rút vốn đầu tư khi thấy các
khoản đó không hiệu quả.
- Phân bổ cơ cấu tài sản, có kế hoạch với số vốn đầu tư tài chính, đánh giá kỹ lưỡng
tránh đầu tư sai lầm dẫn đến ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh chính của doanh
nghiệp. Khi xem xét đến việc đầu tư tài chính cần chuẩn bị nguồn lực tài chính tốt, ổn định,
xây dựng một chiến lược đầu tư dài hạn, nâng cao trình độ quản lý của công ty, chọn thời
điểm đầu tư khi công ty đã có quy mô ổn định mạnh.
- Nên quan tâm đến các dự án, các công ty liên doanh liên kết, hỗ trợ cho hoạt động sản
xuất chính của công ty. Với các dự án này, doanh nghiệp sẽ dễ dàng quản lý và xem xét tình
hình biến động hay xu hướng thị trường hơn để chuẩn bị tốt mọi tinh huống và đạt được hiệu
quả kinh doanh tốt nhất.
Bốn là, Các doanh nghiệp cần hoàn thiện cơ chế, chính sách một cách phù hợp nhằm
tăng cường quản lí đối với từng bộ phận tài sản .
Một trong những bài học quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh tốt là
thông qua hiệu quả sử dụng các nguồn lực phục vụ hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp
khi đầu tư vào tài sản ngắn hạn, tài sản dài hạn, tài sản đầu tư tài chính cần quan xét thị
trường, phân tích SWOT của nội tại doanh nghiệp, đưa ra các chiến lược, kế hoạch đầu tư,
quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài sản. Nâng cao năng suất sử dụng tài sản để tối
ưu hóa tỷ suất lợi nhuận: đầu tư cho việc nâng cao năng lực quản lý của các cấp từ nhân viên
đến lãnh đạo. Về dài lâu, nên có kế hoạch tu sửa, bảo dưỡng, nâng cấp tài sản còn giúp kéo
dài thời gian sử dụng tài sản, giữ ổn định nâng suất sản phẩm, tiết kiệm được nhiên liệu và
điện năng tiêu thụ.
Năm là, Những kiến nghị với Chính phủ về các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Mục tiêu đạt hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp cần có nhiều yếu tố tác động,
đặc biệt là sự hỗ trợ của Chính phủ trong môi trường kinh doanh và hành lang pháp lý.
- Nhà nước cũng tạo môi trường vĩ mô ổn định, phát triển, môi trường kinh doanh
thuận lợi, tỷ lệ tăng trưởng GDP đều đặn, khống chế tình trạng lạm phát. Chính phủ cần tăng
cường quản lý, nắm bắt kịp thời các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong các chính
sách mới, các chương trình hợp tác kinh tế toàn cầu, các thủ tục giấy tờ thông qua để doanh
nghiệp nhanh chóng nắm bắt thời cơ, thúc đẩy sản xuất, tăng hiệu quả kinh doanh.
- Các chính sách liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp, xây dựng cộng đồng doanh
nghiệp nhằm bổ sung vốn, gắn kết doanh nghiệp, tiến tới một cộng đồng doanh nghiệp Việt
vững mạnh trong từng lĩnh vực kinh doanh. Các định chế tài chính- ngân hàng tạo điều kiện
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 281
cho các doanh nghiệp phát triển, có sự chỉ đạo các ngân hàng nên có cách chính sách ưu đãi
linh hoạt hơn cho các doanh nghiệp.
- Bên cạnh đó, đưa các chương trình hợp tác quốc tế, phá bỏ rào quan thuế quan giữa
các quốc gia tạo điều kiện mở rộng kinh doanh cho các doanh nghiệp. Nhà nước điều chỉnh
chính sách thuế hợp lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển; đặc biệt các doanh
nghiệp phát triển công nghệ tiên tiến, doanh nghiệp start up.
- Chính phủ cần quan tâm hơn nữa đến việc tăng cường các chính sách, hành lang pháp
lý, cơ chế quản lý, giám sát thông tin tài chính của doanh nghiệp trên thị trường nhằm đảm
bảo minh bạch, thuận lợi, thông tin chính sách giúp các doanh nghiệp huy động vốn hiệu quả,
hỗ trợ các quyết định đúng đắn của các nhà đầu tư.
6. Kết luận
Đối với các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam đang hoạt
động trong nền kinh tế gặp nhiều khó khăn như hiện nay, việc xây dựng được một cơ cấu tài
sản hợp lý nhằm hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề cấp thiết và
mang tính thực tiễn cao.
Bài nghiên cứu sử dụng mô hình kinh tế lượng phân tích số liệu tài chính của 293 công
ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 7 năm từ 2011 - 2017.Qua
quá trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đưa ra được kết luận rằng: Tỷ trọng tài sản cố định
(TANG), Tỷ trọng tài sản ngắn hạn(TSNH) và Tỷ trọng đầu tư tài chính dài hạn(ĐTTCDH)
có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngoài ra, các
nhân tố như Hệ số nợ (LEV), Ngành kinh doanh (PN1) có tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp; còn Quy mô doanh nghiệp (LTA) có tác động tích cực
đến hiệu quả hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên khả năng thanh toán (LIQUID) và tốc độ tăng
trưởng (SGROWTH) không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đề xuất giải pháp xây dựng một cơ cấu tài sản
hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của 293 doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam đang hoạt động trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn.
Trong bài nghiên cứu này vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Do điều kiện thu thập dữ liệu nên
bài nghiên cứu mới chỉ lựa chọn những công ty được niêm yết đồng nhất về mặt thời gian và
đầy đủ thông tin minh bạch trong báo cáo tài chính. Do đó, bài nghiên cứu chỉ lựa chọn 293
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 7 năm (2011 –
2017). Số liệu còn hạn chế về thời gian và không gian. Chính vì vậy, mẫu nghiên cứu chưa
mang tính đại diện cao. Hơn nữa, các số liệu lấy từ báo cáo tài chính của các công ty đôi khi
còn có sự trùng lặp giữa các báo cáo tài chính hợp nhất.
Đề tài nghiên cứu có thể được mở rộng để cung cấp rõ hơn những kết quả thực nghiệm,
đồng thời nâng cao độ chính xác của bộ dữ liệu và tìm ra những biện pháp để khắc phục
những hạn chế của kết quả nghiên cứu hiện tại. Việc mở rộng có thể được thực hiện bằng
những cách sau: Mở rộng nghiên cứu riêng cho từng nhóm ngành kinh doanh. Tiếp tục nghiên
cứu thêm những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tài sản, nghiên cứu thêm cả nhân tố vi mô như
đối thủ cạnh tranh, thị trường hoạt động của các công ty và những nhân tố vĩ mô như chính
sách của Nhà nước trong mục tiêu từng giai đoạn phát triển, yếu tố chính trị ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
7. Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Đặng Phương Mai và Tiến sĩ Cù Thu Thủy,
giảng viên Học viện Tài chính, đã hỗ trợ đáng kể trong quá trình tiến hành nghiên cứu này.
Các cô đã nhiệt tình giảng dạy, cung cấp cho chúng tôi hiểu biết sâu sắc về các lý thuyết về cơ
cấu tài sản, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu bằng phần mềm STATA. Hai cô luôn ủng
hộ chúng tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này, đưa ra những nhận xét chi tiết và những
đề xuất thấu đáo trong quá trình hoàn thành đề tài.
18000
16000
14000
12000
10000
8000
6000
4000
2000
90
88
86
84
82
80
78
76
(Ng
uồn: Niên giám thống kê – Tổng cục Thống kê)
Hình 4: Thu nhập quốc dân của Việt Nam giai đoạn 1990- 2017
VIET NAM GROSS NATIONAL INCOME
2500
2000
1500
1000
500
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thông qua các hệ số trace statistic nhận thấy các biến
không có quan hệ dài hạn với nhau. Do đó bài nghiên cứu chỉ sử dụng mô hình hồi quy đơn
OLS trong ngắn hạn để tìm ra mối liên hệ giữa các biến số.
4.3. Kiểm tra mối quan hệ giữa Ln(GNI) và Ln(FDI)
. reg lnGNI lnFDI
Source | SS df MS Number of obs =
27
-------------+------------------------------ F(1, 25) =
152.45
Model | 3.86160812 1 3.86160812 Prob > F =
0.0000
Residual | .633244735 25 .025329789 R-squared =
0.8591
-------------+------------------------------ Adj R-squared =
0.8535
Total | 4.49485285 26 .172878956 Root MSE = .
15915
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 291
-----------------------------------------------------------------------
lnGNI | Coef. Std. Err. t P>|t| [95% Conf.
Interval]
-------------
+------------------------------------------------------------lnFDI
| .3862952 .0312861 12.35 0.000 .3218604 .4507301
_cons | 4.813335 .2632504 18.28 0.000 4.271161
5.355509
Qua kết quả hồi quy cho thấy với mức ý nghĩa 5%, ta được hệ số ước lượng
β1=0,3862952. Có nghĩa là khi đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 1% thì thu nhập quốc dân
tăng 0,386%
chi2(1) = 1.80
Prob > chi2 = 0.1796
Ta sử dụng kiểm định Hettest để kiểm định hiện tượng PSSS thay đổi giữa Ln(FDI) và
Ln(GNI). Theo quy tắc khi Prob> chi2 > 0,05 thì không có hiện tượng PSSS thay đổi. Và khi
đó các hệ số hồi quy ước lượng sẽ có tính chính xác cao hơn. Như vậy, dựa vào kết quả kiểm
định, ta có Prob < 0,05 nên không có hiện tượng PSSS thay đổi giữa FDI và GNI.
4.3.3.Cách khắc phục khuyết tật tự tương quan
Nhóm nghiên cứu sử dụng hiệu chỉnh Robust để khắc phục tự tương quan
. reg lnGNI lnFDI,robust
-----------------------------------------------------------------------
LE | Coef. Std. Err. t P>|t| [95% Conf.
Interval]
-------------+---------------------------------------------------------
lnFDI | 1.550247 .1226884 12.64 0.000 1.297565
1.802928
_cons | 60.94158 1.032337 59.03 0.000 58.81544
63.06771
Qua kết quả hồi quy cho thấy với mức ý nghĩa 5%, ta được hệ số ước lượng
β1=1,550247. Có nghĩa là khi đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 1% thì tuổi thọ trung bình tăng
155,02%
4.4.1.Kiểm định tự tương quan Bgodfrey
. bgodfrey
Ta sử dụng kiểm định Bgodfrey để kiểm định hiện tượng tự tương quan giữa Ln(FDI)
và LE. Nhận thấy, Prob < 0,05 vì vậy có sự tự tương quan giữa FDI và LE.
4.4.2. Kiểm định PSSS thay đổi Hettest
. hettest
chi2(1) = 1.47
Prob > chi2 = 0.2258
Ta sử dụng kiểm định Hettest để kiểm định hiện tượng PSSS thay đổi giữa Ln(FDI) và
LE. Dựa vào kết quả kiểm định, ta có Prob < 0,05 nên không có hiện tượng PSSS thay đổi
giữa FDI và LE.
4.4.3. Cách khắc phục khuyết tật tự tương quan
Nhóm nghiên cứu sử dụng hiệu chỉnh Robust để khắc phục tự tương quan
reg LE lnFDI,robust
-----------------------------------------------------------------------
D2.SE | Coef. Std. Err. t P>|t| [95% Conf.
Interval]
-------------+---------------------------------------------------------
lnFDI | -.0286996 .0913689 -0.31 0.756 -.2172759 .
1598766
_cons | .235998 .7758883 0.30 0.764 -1.365357
1.837353
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 294
Qua kết quả hồi quy cho thấy với mức ý nghĩa 5%, ta được hệ số ước lượng β1 =
-0,0286996. Có nghĩa là khi đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 1% thì tỷ lệ đi học giảm 28,7%.
Prob > 0.05 cho thấy mô hình không có ý nghĩa thống kê. Có thể tạm kết luận với số liệu
thống kê tại Việt Nam trong giai đoạnh 1990-2017, FDI giải thích không tốt cho tỉ lệ học sinh
tiểu học đi học.
KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ năm 1990 – 2017 (28 quan sát) và áp dụng mô
hình kinh tế lượng để nhận định tác động trong ngắn hạn của đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đến các biến số của chỉ số phát triển con người (HDI) là thu nhập quốc dân (GNI), tuổi
thọ trung bình (LE) và tỷ lệ đi học (SE).
Kết quả ước lượng cho thấy, xét trên 3 yếu tố của chỉ số phát triển con người trong giai
đoạn 1990 – 2017, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động mạnh nhất đến tuổi thọ trung bình
của dân cư Việt Nam, tiếp theo đó là thu nhập quốc dân. Mặc dù, mô hình mắc phải hiện
tượng tự tương quan và phương sai sai số thay đổi, nhưng nhìn chung, mô hình đã đưa ra một
cách tổng quát sự tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến các nhân tố khá phù hợp với
thực tế. Qua kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra kết luận rằng:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động tích cực đến thu nhập quốc dân. Việc gia
tăng nguồn vốn FDI vào Việt Nam thúc đẩy hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng và các hoạt
động sản xuất kinh doanh trong nước. Từ đó, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo công ăn việc làm và
nâng cao mức lương của dân cư.
Thứ hai, nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ cùng chiều của đầu tư trực tiếp nước ngoài và
tuổi thọ trung bình của người dân. Ta có thể thấy với sự chú trọng của toàn xã hội vào vấn đề
y tế đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người, giảm nghèo đói và bệnh tật, từ đó
nâng cao tuổi thọ người dân. Và với nhận định này thì dự kiến mức tuổi thọ trung bình của
Việt Nam vẫn sẽ tăng trong tương lai và FDI sẽ là một trong những nhân tố tác động tích cực
đến yếu tố này.
Thứ ba, kết quả chạy hồi quy cho thấy FDI chưa giải thích tốt cho tỉ lệ đi học tại Việt
Nam. Điều này nhóm nghiên cứu lý giải có thể do các nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung cho
nhóm ngành công nghiệp sản xuất, chưa có tác động lan tỏa tới dịch vụ giáo dục tại Việt
Nam.
Qua đó, nhóm tác giả đưa ra một số giải pháp, đặc biệt hướng tới tăng hiệu quả đầu tư
vào giáo dục và đào tạo trong thời gian tới, để kỳ vọng một mối quan hệ tích cực của đầu tư
trực tiếp nước ngoài đến các nhân tố của chỉ số phát triển con người:
Rà soát các khoản đầu tư và tăng chất lượng đầu tư. Ngoài việc tăng cường đầu tư,
Chính phủ, các cơ quan liên quan cùng các doanh nghiệp cần có những biện pháp quản lý và
giám sát quá trình đầu tư nhằm đảm bảo các khoản đầu tư được sử dụng đúng mục đích, hiệu
quả. Đồng thời, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, gây lãng phí mà không đem lại lợi ích thiết
thực.
Tích cực đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng và hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông
qua nguồn vốn FDI, các doanh nghiệp cần có những chiến lược kinh doanh và sử dụng vốn
hiệu quả. Từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm trong
nước, tác động tích cực đến công ăn việc làm của dân cư và tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững.
Nâng cao chất lượng giáo dục, bởi mục đích tăng cường đầu tư cho giáo dục là cải thiện
chất lượng giáo dục. Đồng thời, Chính phủ và Nhà nước cần có những biện pháp phù hợp để
khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Kiến nghị Chính
phủ nên có những chính sách tuyên truyền rõ ràng về tầm quan trọng của giáo dục tới chất
lượng thực hiện nguồn vốn FDI tại Việt Nam. Từ đó có thể kết nối được vai trò của FDI tới tỷ
lệ đi học của học sinh.
TÓM TẮT
Hiện nay, cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghệ 4.0)
đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cuộc
cách mạng này đã trở thành chủ đề nóng và được nhiều người nghiên cứu, phân
tích và bàn luận trên nhiều khía cạnh, góc nhìn khác nhau. Thực tế cho thấy, cách
mạng công nghiệp 4.0 bắt đầu có ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau tới các
lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị tại Việt Nam. Trong bối cảnh ấy,
việc nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về hoạt động của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo, coi đó như một giải pháp phù hợp, một cách thức ứng phó hiệu quả
để tranh thủ được các cơ hội mà cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cho Việt
Nam là điều rất cần thiết.
Qua quá trình nghiên cứu về thực trạng hoạt động của doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo hiện nay ở Việt Nam, chúng tôi đã thu thập được dữ liệu
về những khó khăn cũng như nhân tố có tác động đến sự thành công cuả doanh
nghiệp khởi nghiệp. Từ đó đề xuất các giải pháp và các khuyến nghị chính sách
nhằm thúc đẩy hỗ trợ phát triển hoạt động của doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo ở Việt Nam.
Từ khóa: công nghệ 4.0, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, nhân tố ảnh hưởng.
1.Giới thiệu
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, khởi nghiệp trở thành những nội dung quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế. Đây là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân,
động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như nghị quyết Trung
ương 5 khóa XII đã chỉ rõ. Mặt khác, khởi nghiệp còn là động lực quyết định đến sự phát triển
của đất nước.Và trở thành nhu cầu thực tiễn cũng như cứu cánh cho nền kinh tế Việt Nam.
Bởi, hai khía cạnh: 1. Khi nói đến tinh thần quốc gia khởi nghiệp và doanh nghiệp hay cá
nhân khởi nghiệp là nói đến tư duy sáng tạo, sáng tạo không ngừng của cả một quốc gia
dân tộc, cũng như của từng doanh nghiệp, cá nhân khởi nghiệp. 2.Việc trở thành một
quốc gia khởi nghiệp là giải pháp cấp bách cho nền kinh tế Việt Nam. Vì một thực tế là cả
khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đều không thể giải
quyết hết lượng lao động dư thừa trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Khu vực doanh
nghiệp nhà nước đang có xu hướng thu hẹp quy mô hoạt động, còn khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài vẫn thiên về sử dụng lao động trình độ thấp.
Trong những năm qua chương trình quốc gia khởi nghiệp trở thành một trong những ưu
tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam với mục đích quy tụ các nhân tố khởi nghiệp về một
mối, phát triển mạng lưới khởi nghiệp “chân rết” tới từng địa phương, đóng góp vào tiềm lực
kinh tế, tạo công ăn việc làm cho xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.Để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp để tạo ra nhiều việc phải làm,
trong đó cần có các chính sách, biện pháp khuyến khích/hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp một
cách có hiệu quả, hiệu lực. Ngày 18/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Hỗ
trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”. Đề án hướng tới mục
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 297
tiêu tạo dựng hình ảnh quốc gia khởi nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu, rộng với một loạt hỗ trợ như không gian làm việc, các hoạt động đào tạo, cơ chế
thuế đặc thù, góp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây thực sự là những đòn
bẩy quan trọng của Chính Phủ nhằm giúp doanh nghiệp khởi nghiệp.
Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp khởi
nghiệp còn yếu kém, tỷ lệ thành công là rất ít so với tiềm năng.
Để khuyến khích hoạt động khởi nghiệp thì một loạt các vấn đề được đặt rađòi hỏi cần
được phân tích, đánh giá, nhận diện và giải đáp một cách nghiêm túc, khoa học trong bối cảnh
mới hiện nay. Điều đó cũng gợi mở cho chúng tôi nghiên cứu: “Giải pháp phát triển hoạt
động của Doanh nghiệp sáng tạo ở Việt Nam” nhằm đưa ra đề xuất, chính sách, giải pháp thúc
đẩy hoạt động khởi nghiệp sáng tạo trong công cuộc phát triển đất nước.
2.Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có đối tượng là các dự án, tổ chức hoặc doanh nghiệp tiến
hành hoạt động theo mô hình kinh doanh mới...
Ở đây, đề tài không đi nghiên cứu dự án khi chưa thành lập tổ chức/doanh nghiệp, và
cũng không nghiên cứu các tổ chức NGO, các hội, viện... mà sẽ tập trung nghiên cứu các
doanh nghiệp sau khi thành lập theo mô hình của khởi nghiệp sáng tạo.
Thời gian: Dữ liệu thứ cấp từ năm 2016-2018
Dữ liệu sơ cấp được điều tra từ tháng 11/2018-3/2019 bởi các DN thành lập từ năm
2015 trở lại đây.
Phương pháp Nghiên cứu định tính
Phương pháp NCĐT được tiến hành nhằm tìm hiểu rõ một số khía cạnh về khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo đối với một số chủ thể tham gia trong hệ sinh thái khởi nghiệp – mà nghiên
cứu tài liệu và từ kinh nghiệm của nhóm thực hiện đề tài còn chưa rõ ràng.
Trong đó chúng tôi lại chọn 2 phương pháp NCĐT chủ yếu:
Thảo luận nhóm mục tiêu
Phỏng vấn chuyên sâu
Việc thảo luận nhóm mục tiêu được thực hiện với một số nhóm khởi nghiệp thuộc vườn ươm
và các nhóm khởi nghiệp thuộc trường đại học.
Phương pháp chọn mẫu: Phi ngẫu nhiên - Thuận tiện
Địa điểm thực hiện: Hệ sinh thái Khởi nghiệp Best B (các DN)
Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội (các nhóm khởi nghiệp từ trường ĐH).
Thời gian mỗi cuộc thảo luận tiến hành: 2h/cuộc
Kết quả thu thập được:
Khó khăn mà doanh nghiệp khởi nghiệp đang gặp phải
Hỗ trợ trực tiếp mà DN nhận được từ hệ sinh thái khởi nghiệp
Hỗ trợ gián tiếp DN nhận được
Các khía cạnh hỗ trợ cụ thể
Lĩnh vực DN VN hiện nay chọn khởi nghiệp
Phỏng vấn chuyên sâu được thực hiện bằng các cuộc xin ý kiến của nhóm nghiên cứu đối với:
Chuyên gia từ cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo: Ông Lê
Văn Khương (Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ DN nhỏ và vừa Phía bắc), Ông Nguyễn Văn Trúc
(Bộ KHCN)…
Chuyên gia từ các Quỹ đầu tư, vườn ươm Khởi nghiệp: Ông Hà Anh Tuấn (The Vuon),
ông Lê Anh Cường (Hệ sinh thái BestB)
Cố vấn khởi nghiệp: Nguyễn Đặng Tuấn Minh – KisStartup, Bùi Kiều An, ACT group,
Nguyễn Thị Thủy – Quỹ Khởi nghiệp Minh Trí Quận Cầu Giấy
Chính sách
Nhà nước
$KhokhanDN Frequencies
Responses Percent of Cases
N Percent
Khó khăn của DNa Khó khăn của DN: Không tự tin phát
38 7.1% 17.7%
triển TT
Khó khăn của DN: Không tự tin phát
26 4.9% 12.1%
triển sản phẩm
Khó khăn của DN: Nhóm sáng lập 37 6.9% 17.2%
Khó khăn của DN: Nguồn tài chính 183 34.1% 85.1%
Khó khăn của DN: Gặp nhà đầu tư
66 12.3% 30.7%
gọi vốn
Khó khăn của DN: Thiếu kiến thức, 136 25.4% 63.3%
kỹ năng khởi nghiệp
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 301
Khó khăn của DN: Công nghệ thay
29 5.4% 13.5%
đổi nhanh
Khó khăn của DN: Khó khăn khác 21 3.9% 9.8%
Total 536 100.0% 249.3%
a. Dichotomy group tabulated at value 1.
Trong đó về nguồn tài chính đối với họ là vấn đề khó khăn nhất (có 85% DN cho ý kiến
trên).
Nguyên nhân có thể là, vì trong giai đoạn này doanh nghiệp đang tập trung cao độ về
mặt công nghệ, đồng thời nhóm sáng lập chủ yếu cũng là những người tìm đến nhau về mặt
công nghệ và tiềm năng thị trường. Thực sự họ không phải là những người có tiềm lực về tài
chính.
Tiếp theo là về kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp (63.3%). Nhóm nghiên cứu đã phỏng
vấn sâu, đối với cụ thể một số doanh nghiệp thì họ cho biết kỹ năng khởi nghiệp, chẳng hạn là
lập kế hoạch kinh doanh hoặc nghiên cứu thị trường là vấn đề cực kỳ khó khăn đối với họ.
Số liệu khảo sát cũng cho thấy, các DN có thể trong giai đoạn đầu họ khá tự tin trong
phát triển sản phẩm (12,1% DN không nghĩ rằng họ khó khăn vấn đề đó). Đây cũng chính là
lý do chính đưa họ đến việc khởi nghiệp nên việc họ đang đầy sự tâm huyết, tự tin cũng là
điều dễ hiểu.
Khó khăn tiếp theo cũng cần đặc biệt lưu ý là việc gặp gỡ các nhà đầu tư thực sự dường
như còn là quá xa lạ đối với các doanh nghiệp, trong khi điều này ở nước ngoài thì đây lại
không phải vấn đề đáng lo ngại.
Đi sâu vào kiểm định sự khác biệt giữa các doanh nghiệp trong và ngoài vườn ươm:
Trong số các biến được kiểm định, biến khó khăn của DN về việc gặp gỡ nhà đầu tư khi
gọi vốn là khác nhau đáng kể trong vườn ươm.
H0:Không khác biệt trong việc khó khăn gọi vốn giữa DN không thuộc vườn ươm và
DN vườn ươm
H1: Có sự khác biệt
Kết quả kiểm định trong SPSS cho trong bảng sau:
Crosstab
Khó khăn của DN: Gặp nhà đầu tư gọi Total
vốn
Sai Đúng
Count 67 47 114
Không thuộc vườn ươm
TaiVuonUo % within TaiVuonUom 58.8% 41.2% 100.0%
m Count 62 19 81
Thuộc vườn ươm
% within TaiVuonUom 76.5% 23.5% 100.0%
Count 129 66 195
Total
% within TaiVuonUom 66.2% 33.8% 100.0%
Chi-Square Tests
Value df Asymp. Sig. (2- Exact Sig. (2- Exact Sig. (1-
sided) sided) sided)
Pearson Chi-Square 6.679a 1 .010
b
Continuity Correction 5.909 1 .015
Likelihood Ratio 6.846 1 .009
Fisher's Exact Test .014 .007
Linear-by-Linear
6.645 1 .010
Association
N of Valid Cases 195
a. 0 cells (0.0%) have expected count less than 5. The minimum expected count is 27.42.
b. Computed only for a 2x2 table
Cụ thể hơn đối với từng khía cạnh được khảo sát như sau:
- Đánh giá về sự rõ ràng, nhất quán của các chính sách về đầu tư, kinh doanh, khởi
nghiệp….
Bảng 2: Mức độ hài lòng về Môi trường KD: Sự rõ ràng, nhất quán của Chính sách
Frequency Percent Valid Percent Cumulative Percent
Rất không hài lòng 35 15.8 15.8 15.8
Không hài lòng 89 40.3 40.3 56.1
Valid Bình thường 60 27.1 27.1 83.3
Hài lòng 37 16.7 16.7 100.0
Total 221 100.0 100.0
Hình 5.1. Sự hài lòng về chính sách môi trường kinh doanh
- Đánh giá về năng lực thực thi của các cơ quan quản lý liên quan
Bảng 3: Mức độ hài lòng về Môi trường KD: Năng lực của các cơ quan thực thi
- Đánh giá về mức độ minh bạch thông tin, điều rất quan trọng đối với DNKN
Bảng 5: Mức độ hài lòng về Môi trường KD: Thông tin minh bạch
Hình 5.4: Mức độ hài lòng về thông tin minh bạch trong môi trường kinh
doanh
Hình 5.5: Mức độ hài lòng về vấn đề bình đẳng trong cạnh tranh
Qua các dữ liệu từ bảng thống kê trên, có thể thấy các doanh nghiệp đánh giá về môi
trường kinh doanh dành cho doanh nghiệp khởi nghiệp là rất đáng suy nghĩ.Môi trường chính
sách, thực thi, minh bạch thông tin vẫn tiếp tục là những dấu hỏi lớn đối với cơ quan quản lý.
5.2.2. Các yếu tố về sự hỗ trợ của các thành phần trong hệ sinh thái khởi nghiệp đối với
doanh nghiệp ĐMST
5.2.2.1. Sự hỗ trợ chung của Nhà nước đối với doanh nghiệp KNST
Bảng câu hỏi khảo sát xin ý kiến doanh nghiệp đánh giá mức hỗ trợ của Nhà nước từ 0
đến 4 (từ không được hỗ trợ đến hỗ trợ rất nhiều, kết quả cho thấy Nhà nước có dành sự hỗ
trợ cho DN ở các khía cạnh: Đào tạo, truyền thông, cho vay ưu đãi, hỗ trợ gọi vốn, kết nối đầu
tư….
Tuy vậy, mức độ hỗ trợ được doanh nghiệp cho rằng còn quá ít ỏi (sự hỗ trợ trung bình
là 1.11/4 điểm
Descriptive Statistics
N Minimum Maximum Mean Std. Deviation
Nhà nước hỗ trợ TB 221 0 3 1.11 .501
Nhà nước hỗ trợ cho Thuộc vườn ươm 100 1.59 .933 .093
vay ưu đãi Không thuộc vườn ươm 121 .35 .543 .049
Kết quả kiểm định cho thấy sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước dành cho tất cả các
doanh nghiệp đều rất thấp (dưới 2/4 điểm).Tuy vậy, lại có sự khác biệt có ý nghĩa đối với
doanh nghiệp trong và ngoài vườn ươm (Hệ số Sig <5% - có sự khác biệt về mức hỗ trợ tài
chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc vườn ươm và các doanh nghiệp còn lại.
- Đối với hỗ trợ đào tạo kiến thức và kỹ năng khởi nghiệp: Các doanh nghiệp thuộc và
không thuộc vườn ươm
Group Statistics
TaiVuonUom N Mean Std. Deviation Std. Error Mean
Thuộc vườn ươm 100 1.13 1.308 .131
Nhà nước hỗ trợ đào tạo
Không thuộc vườn ươm 121 1.46 1.310 .119
Kết quả kiểm định cho thấy sự hỗ trợ về đào tạo của Nhà nước dành cho tất cả các
doanh nghiệp đều rất thấp (dưới 1.5/4 điểm). Tuy vậy, lại có sự khác biệt có ý nghĩa đối với
doanh nghiệp trong và ngoài vườn ươm (Hệ số Sig <7%) - có sự khác biệt về mức hỗ trợ đào
tạo của Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc vườn ươm và các doanh nghiệp còn lại. Có thể
các doanh nghiệp không thuộc vườn ươm lại chịu khó tìm tòi các khóa đào tạo hỗ trợ của Nhà
nước thông qua nhiều chương trình khác nhau hoặc qua các kênh khác nhau (online và
offline).Hoặc các doanh nghiệp trong vườn ươm tự đào tạo hoặc được đào tạo thông qua vườn
ươm nên đánh giá mức hỗ trợ của Nhà nước ít hơn. Và để biết rõ hơn, bài nghiên cứu sẽ test
thêm về sự hỗ trợ đào taọ của chính các vườn ươm đối với doanh nghiệp mà họ ươm mầm ở
phần sau.
5.2.2.2. Sự hỗ trợ của các vườn ươm đối với doanh nghiệp KNST
Một số nguồn truyền thông cho biết, sự tham gia vào cuộc của một số vườn ươm gần
đây thực sự đã mang lại nhiều tích cực cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Trong nghiên cứu
này chúng tôi cũng xem xét các khía cạnh hỗ trợ của các vườn ươm trên các khía cạnh về đào
tạo, truyền thông,…. đối với doanh nghiệp khởi nghiệp từ dữ liệu thu thập được.
- Sự hỗ trợ của vườn ươm về khía cạnh đào tạo:
Kết quả cho thấy, thậm chí vườn ươm còn hỗ trợ doanh nghiệp với con số 1.11/4. Có thể
sự hỗ trợ đã rất lệch, vườn ươm chỉ hỗ trợ (thậm chí rất ít) các doanh nghiệp do họ ươm tạo,
mà không có khả năng để hỗ trợ các doanh nghiệp còn lại.
Descriptive Statistics
N Minimum Maximum Mean Std. Deviation
Vườn ươm hỗ trợ TB 221 0 2 1.10 .473
Valid N (listwise) 221
Chúng tôi tiếp tục quan tâm tới sự hỗ trợ của vườn ươm cho doanh nghiệp khởi nghiệp
về khía cạnh đào tạo các kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp và có giả thuyết như sau:
H0: Không có sự khác biệt trong hỗ trợ của vườn ươm dành cho các doanh nghiệp thuộc
và không thuộc vườn ươm.
H1: Có sự khác biệt về hỗ trợ đào tạo trung bình.
Group Statistics
TaiVuonUom N Mean Std. Deviation Std. Error Mean
Thuộc vườn ươm 100 1.82 1.048 .105
Vườn ươm hỗ trợ đào tạo
Không thuộc vườn ươm 121 .04 .200 .018
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhận diện và đánh giá tác động của các nhân tố nội tại đến cơ
cấu nguồn vốn của các công ty cổ phần bất động sản niêm yết ở Việt Nam. Từ đó
đưa ra một số khuyến nghị từ kết quả nghiên cứu nhằm hoàn thiện chính sách huy
động vốn trong doanh nghiệp. Dựa trên các lý thuyết về cơ cấu nguồn vốn và
những nghiên cứu thực nghiệm đã có, áp dụng cho mẫu nghiên cứu là 54 doanh
nghiệp bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn
2013- 2017. Nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp cơ bản trong hồi quy mô
hình dữ liệu bảng, sau đó sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát
(GLS) để khắc phục các khuyết tật của mô hình. Từ đó thiết lập mô hình nhằm
đánh giá tác động của các nhân tố bên trong tới tỷ lệ nợ, tỷ lệ nợ ngắn hạn và tỷ
lệ nợ dài hạn của doanh nghiệp. Kết quả ước lượng chỉ ra, khả năng sinh lời có
tác động ngược chiều tới cơ cấu nguồn vốn, trong khi đó, quy mô doanh nghiệp
và hình thức sở hữu doanh nghiệp có tác động thuận chiều tới tỷ lệ nợ. Tuy nhiên,
sự tác động của quy mô doanh nghiệp, hình thức sở hữu, thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp, khả năng thanh toán và tuổi của doanh nghiệp đến tỷ lệ nợ, tỷ lệ
nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ dài hạn là khác nhau. Điều đó cho thấy tác động của các
nhân tố là khác nhau tới kỳ hạn nợ của doanh nghiệp.
Từ khóa: Bất động sản, cơ cấu nguồn vốn, đánh giá tác động.
1. Mở đầu:
Cơ cấu nguồn vốn là khái niệm phản ánh thành phần và tỷ trọng của từng nguồn vốn
chiếm trong tổng nguồn vốn tại một thời điểm mà doanh nghiệp đang sử dụng để tài trợ cho
tài sản của mình. Việc xác định một cơ cấu vốn tối ưu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
hoạt động của doanh nghiệp.
Trên thực tế, cơ cấu nguồn vốn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như đặc điểm của
doanh nghiệp, cũng như lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động, các biến động vĩ mô của nền
kinh tế, các yếu tố văn hóa, chính trị, tôn giáo,... Do đó, các nhà quản trị tài chính luôn quan
tâm đến các nhân tố tác động đến cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố này đến cơ cấu nguồn vốn.
Thị trường bất động sản (BĐS) là một trong những thị trường quan trọng của nền kinh
tế, liên quan trực tiếp tới một lượng tài sản lớn cả về quy mô, tính chất cũng như giá trị của
các mặt trong nền kinh tế quốc dân. Song song với những thành tựu đáng ghi nhận, thị trường
BĐS vẫn đang tồn tại nhiều bất cập, nhất là nhu cầu về vốn. Với đặc điểm là một ngành đòi
hỏi vốn lớn và phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn vay, trong khi tín dụng ngày càng bị thắt chặt
và mặt bằng lãi suất cao. Điều nay đòi hỏi các doanh nghiệp BĐS cần tìm ra một cơ cấu
nguồn vốn sao cho tối đa hóa được giá trị doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo an toàn tài chính
cho doanh nghiệp. Vì những lý do trên, chúng em lựa chọn nghiên cứu đề tài “Đánh giá tác
động của các nhân tố đến cơ cấu nguồn vốn của các công ty cổ phần bất động sản niêm
yết ở Việt Nam”. Với mục đích tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn các công
ty cổ phần (CTCP) bất động sản niêm yết ở Việt Nam, đánh giá mức độ ảnh hưởng, chỉ ra
những bất cập, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Nguồn: Nhóm nghiên cứu thực hiện phân tích trên phần mềm Stata 14.
Kết quả bảng 3 cho thấy, biến số TLEV (tỷ lệ nợ) cho thấy rằng, trung bình doanh
nghiệp sử dụng 54% nợ trong cơ cấu nguồn vốn, tỷ lệ nợ tối đa mà doanh nghiệp sử dụng là
91,8% cho thấy doanh nghiệp có vốn kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào nợ vay, tính tự chủ tài
chính thấp. Do đó, doanh nghiệp sẽ dễ gặp rủi ro khi lãi suất cho vay tăng mạnh. Trong khi đó
tỷ lệ nợ tối thiểu là 1,1% chứng tỏ có một số doanh nghiệp sử dụng tỷ lệ nợ rất thấp trong
tổng nguồn vốn huy động.
Tỷ lệ nợ ngắn hạn (SLEV) và tỷ lệ nợ dài hạn (LLEV): Bình quân tỷ lệ nợ ngắn hạn là
37,2%, cao nhất là 100%, thấp nhất là 3,54%. Trong khi đó, tỷ lệ nợ dài hạn bình quân đạt
18,9%, mức cao nhất là 78,2% và thấp nhất là 0%. Như vậy, trong giai đoạn nghiên cứu, các
CTCP BĐS niêm yết có khuynh hướng huy động nợ ngắn hạn trong cơ cấu nguồn vốn để tài
trợ cho hoạt động của mình. Vì đây là giai đoạn thị trường BĐS nóng trở lại, nhu cầu vốn
ngắn hạn tài trợ cho hoạt động kinh doanh cao. Bên cạnh đó, một phần bởi thị trường trái
phiếu doanh nghiệp Việt Nam chưa phát triển, các ngân hàng thương mại là nguồn vốn chủ
yếu bên ngoài tài trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp chủ yếu
huy động nhiều nguồn vốn nợ ngắn hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh.
Ma trận hệ số tương quan:
Bảng 4: Thống kê mô tả các biến trong mô hình
TLEV SLEV LLEV SIZE TANG LIQUID ROA GROWTH UNIQUE TAX NDTS AGE SOE
TLEV 1.0000
SLEV 0.3956 1.0000
LLEV 0.4902 -0.4585 1.0000
SIZE 0.1924 -0.1472 0.2535 1.0000
TANG -0.1055 -0.1559 0.0401 -0.2138 1.0000
LIQUID -0.0964 -0.5581 0.5380 -0.0438 -0.0587 1.0000
ROA -0.2269 -0.2221 -0.0718 0.0345 -0.1056 0.1681 1.0000
GROWTH 0.0490 0.0558 -0.0133 -0.0616 -0.0093 -0.0482 -0.1589 1.0000
UNIQUE 0.0277 0.1234 -0.0727 0.0056 -0.0388 -0.1165 -0.1066 0.0321 1.0000
TAX -0.0336 -0.0669 -0.0762 0.1575 -0.1065 0.0884 0.2764 -0.0836 -0.0200 1.0000
NDTS 0.0188 -0.0676 0.0860 -0.0280 0.1033 0.0095 0.0251 -0.0131 -0.0181 0.0533 1.0000
AGE 0.0771 -0.0822 0.0912 0.1501 -0.0740 -0.0248 0.1271 -0.0614 0.0113 0.2133 0.1039 1.0000
SOE 0.0633 -0.0373 0.0934 -0.0731 -0.0346 -0.0175 0.0270 -0.0153 -0.0084 0.1334 0.2883 0.2403 1.0000
t statistics in parentheses
*0.1**0.05*** p<0.01
Nguồn: Nhóm nghiên cứu thực hiện phân tích trên phần mềm Stata 14.
Kết quả hồi quy tại bảng 5 cho thấy, các biến số: GROWTH, UNIQUE, NDTS không
có ý nghĩa về mặt thống kê tại cả ba mô hình. Đề tài sẽ không tiến hành thảo luận về các biến
số này vì chưa có đủ cơ sở về mặt thống kê để kết luận. Các biến số còn lại có đủ cơ sở về
mặt thống kê với mức ý nghĩa đến 10% nên sẽ lần lượt được thảo luận sau đây:
Tác động của quy mô doanh nghiệp (SIZE): Quy mô doanh nghiệp có tác động cùng
chiều tới tỷ lệ nợ và tỷ lệ nợ dài hạn, kết quả này là nhất quán với lý thuyết đánh đổi cấu trúc
vốn và có kết quả tương đồng với nghiên cứu của Trần Đình Khôi Nguyên và Ramachandran
(2006). Điều đó chứng tỏ quy mô doanh nghiệp càng lớn, tiềm lực tài chính càng mạnh thì rủi
ro phá sản càng thấp. Ngoài ra, doanh nghiệp có quy mô lớn thường có danh tiếng tốt hơn trên
thị trường nợ, có được niềm tin từ chủ nợ nên khả năng tiếp cận vốn vay dễ dàng và giảm
được chi phí giao dịch khi phát hành nợ dài hạn. Tuy nhiên, sự tác động của quy mô doanh
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 321
nghiệp đến tỷ lệ nợ ngắn hạn là ngược chiều, có nghĩa là trong ngắn hạn, doanh nghiệp có quy
mô càng lớn sẽ ưa thích sử dụng vốn chủ sở hữu hơn là vay nợ. Điều này ủng hộ lý thuyết trật
tự phân hạng, khi các doanh nghiệp có quy mô lớn đồng nghĩa với lợi nhuận giữ lại và lượng
tiền nhàn rỗi lớn, họ sẽ tận dụng triệt để lượng vốn sẵn có này để tài trợ cho hoạt động của
mình.
Tác động của cơ cấu tài sản (TANG): Tỷ lệ tài sản cố định hữu hình trên tổng tài sản có
tác động ngược chiều tới tỷ lệ nợ ngắn hạn và có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa đến 10%.
Điều đó cho thấy, tài sản thế chấp là một điều kiện tốt, quan trọng để các chủ nợ xem xét
quyết định cấp tín dụng. Khi tỷ lệ tài sản cố định hữu hình chiếm tỷ trọng lớn, doanh nghiệp
có cơ hội thế chấp các tài sản này để tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài dễ dàng hơn, nói cách
khác, khi đó doanh nghiệp sẽ tăng được năng lực vay nợ. Tuy nhiên, đối với nhu cầu vốn tài
trợ ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ có xu hướng sử dụng nguồn vốn nội bộ hơn là vốn vay bên
ngoài vì phải trả chi phí cao. Thông thường tài sản cố định sẽ có ý nghĩa quan trọng khi doanh
nghiệp lựa chọn nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển.
Tác động của khả năng sinh lời (ROA): Nghiên cứu cho thấy, khả năng sinh lời (ROA)
có mối tương quan ngược chiều với tỷ lệ nợ, tỷ lệ nợ ngắn hạn và tỷ lệ nợ dài hạn ở mức ý
nghĩa tới 10%, kết quả này được hỗ trợ từ lý thuyết trật tự phân hạng. Điều này một lần nữa
khẳng định, những doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao thường có xu hướng tài trợ bằng
nguồn vốn nội bộ hơn là nguồn vốn bên ngoài. Bởi lẽ, việc sử dụng nguồn vốn bên ngoài như
vay thêm nợ làm tăng gánh nặng tài chính, trong khi đó, việc phát hành thêm cổ phiếu sẽ
khiến quyền sở hữu của các cổ đông bị pha loãng. Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp có
lợi nhuận cao thường dùng lợi nhuận giữ lại để tài trợ cho nhu cầu vốn của chính doanh
nghiệp. Ngược lại, những doanh nghiệp có mức lợi nhuận thấp phải gia tăng vay nợ để đảm
bảo cho hoạt động kinh doanh.
Tác động của hình thức sở hữu của doanh nghiệp (SOE): Kết quả hồi quy cho thấy,
những CTCP BĐS niêm yết có cổ phần vốn Nhà nước chi phối có tác động tích cực đến tỷ lệ
nợ và tỷ lệ nợ dài hạn với mức ý nghĩa tới 10%. Đây là kết quả phản ánh thực tế nền kinh tế
Việt Nam, bởi lẽ tỷ lệ sở hữu cổ phần của Nhà nước được xem như yếu tố đặc thù tác động tới
cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Khi đó, doanh nghiệp thường có lợi thế vay vốn, đặc biệt
là nợ vay dài hạn.
Tác động của thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TAX): Mức thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu dao động từ 20% đến 22%. Tác động của nhân tố
này là ngược chiều tới tỷ lệ nợ và tỷ lệ nợ dài hạn. Kết quả này cho thấy các CTCP BĐS niêm
yết ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu đã không tận dụng triệt để được lợi ích từ thuế thu
nhập.
Tác động của khả năng thanh toán (LIQUID): Kết quả hồi quy cho thấy, khả năng
thanh toán ngắn hạn có tác động ngược chiều tới tỷ lệ nợ và tỷ lệ nợ ngắn hạn, song có tác
động thuận chiều tới tỷ lệ nợ dài hạn. Như vậy, các doanh nghiệp có tính thanh khoản cao sẽ
ít sử dụng nợ ngắn hạn, thay vào đó là doanh nghiệp huy động nợ dài hạn. Vì các tài sản có
tính thanh khoản cao của doanh nghiệp được sử dụng để tài trợ cho hoạt động đầu tư hoặc
hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời doanh nghiệp vẫn có khả năng đáp ứng tốt đối với
những khoản nợ vay dài hạn.
Tác động của tuổi doanh nghiệp (AGE): Bảng kết quả hồi quy cho thấy tuổi của doanh
nghiệp có tác động ngược chiều tới tỷ lệ nợ ngắn hạn, tuy nhiên tác động của nhân tố này tới
tỷ lệ nợ dài hạn lại là thuận chiều. Như vậy, các doanh nghiệp có thâm niên hoạt động trên thị
trường càng lâu thì vị trí được khẳng định, uy tín được nâng cao, nên khả năng vay vốn dài
hạn từ các định chế tài chính trung gian cao. Tuy nhiên, do khó khăn trong hoạt động kinh
doanh BĐS trong giai đoạn vừa qua, cùng với việc hàng loạt dự án BĐS huy động nợ ngắn
hạn tài trợ cho hoạt động đầu tư dài hạn nên các ngân hàng thương mại cũng tạm dừng cho
vay vốn ngắn hạn ngay cả với những doanh nghiệp đã hoạt động khá lâu trên thị trường.
4.Một số khuyến nghị từ kết quả nghiên cứu
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 322
Nghiên cứu các nhân tố tác động đến cơ cấu nguồn vốn của các CTCP BĐS niêm yết ở
Việt Nam giai đoạn 2013- 2017 đã minh chứng được rằng: Khả năng sinh lời có tác động
ngược chiều tới tỷ lệ nợ, tỷ lệ nợ ngắn hạn và tỷ lệ nợ dài hạn. Thêm vào đó, quy mô doanh
nghiệp và hình thức sở hữu doanh nghiệp có tác động thuận chiều tới tỷ lệ nợ. Nghiên cứu
này một lần nữa minh chứng cho lý thuyết trật tự phân hạng và làm cơ sở cho các nhà quản trị
tài chính xây dựng cơ cấu nguồn vốn hợp lý cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự tác động của
quy mô doanh nghiệp, hình thức sở hữu, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, khả năng
thanh toán và tuổi của doanh nghiệp đến tỷ lệ nợ, tỷ lệ nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ dài hạn là khác
nhau. Điều đó cho thấy tác động của các nhân tố là khác nhau tới kỳ hạn nợ của doanh
nghiệp.
Do đó, các khuyến nghị được nghiên cứu xây dựng trên cơ sở mô hình đánh giá các
nhân tố tác động tới tỷ lệ nợ, tỷ lệ nợ ngắn hạn và tỷ lệ nợ dài hạn của các CTCP BĐS niêm
yết trong giai đoạn nghiên cứu nhằm hoàn thiện cơ cấu nguồn vốn của các doanh nghiệp này
như sau:
Thứ nhất: Xây dựng cơ cấu nguồn vốn mục tiêu hợp lý đối với doanh nghiệp
Xây dựng cơ cấu nguồn vốn mục tiêu của doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc
tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Hoạch định cơ cấu nguồn vốn cần phải tuân thủ các nguyên
tắc: Nguyên tắc đảm bảo tính tương thích giữa nguồn tài trợ và thời gian sử dụng tài sản;
nguyên tắc đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro; nguyên tắc đảm bảo quyền kiểm soát; nguyên
tắc tài trợ linh hoạt; nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn. Thêm vào đó, mỗi doanh
nghiệp có những đặc điểm riêng biệt nên việc hoạch định cơ cấu nguồn vốn nên căn cứ vào
các yếu tố nội tại của từng doanh nghiệp.
Thứ hai, định kỳ thực hiện phân tích lại chính sách huy động vốn.
Cơ cấu nguồn vốn mục tiêu được xây dựng trên cơ sở số liệu quá khứ, do đó, khi có
những thay đổi trọng yếu trong hoạt động kinh doanh và quản trị tài chính thì cần thực hiện
phân tích lại chính sách huy động vốn của doanh nghiệp. Những thay đổi trọng yếu mà các
CTCP BĐS niêm yết cần quan tâm đó là:
+ Hiệu quả kinh doanh: Khi có sự thay đổi quan trọng về hiệu quả kinh doanh như
doanh thu tăng lên, giá thành sản phẩm giảm xuống sẽ làm gia tăng tỷ suất sinh lời kinh tế của
tài sản (BEP). Khi BEP lớn hơn chi phí sử dụng vốn vay thì việc sử dụng đòn bẩy tài chính sẽ
khuyếch đại dương hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Việc gia tăng nợ vay sẽ làm gia
tăng lợi ích cho chủ sở hữu. Ngược lại, khi khả năng sinh lợi giảm sút, doanh nghiệp cần giảm
hệ số nợ nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông.
+ Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp: Việc sử dụng nợ vay sẽ đem lại cho doanh
nghiệp lợi ích từ tấm chắn thuế. Khi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giảm đi thì lợi ích
này cũng giảm theo, do đó, doanh nghiệp cần thực hiện phân tích lại chính sách huy động vốn
để xây dựng cơ cấu nguồn vốn mục tiêu.
+ Chính sách đầu tư: Khi chính sách đầu tư thay đổi sẽ tác động rất lớn đến rủi ro kinh
doanh, chi phí sử dụng vốn và cơ cấu nguồn vốn mới của doanh nghiệp. Do đó, việc điều
chỉnh cơ cấu nguồn vốn phù hợp với chính sách đầu tư của doanh nghiệp là việc làm cần thiết.
Thứ ba, tái cấu trúc nguồn vốn theo hướng gia tăng năng lực tự chủ tài chính của
doanh nghiệp.
Thực tế hiện nay, cơ cấu nguồn vốn của các CTCP BĐS niêm yết huy động chủ yếu nợ
vay ngắn hạn làm gia tăng rủi ro cho doanh nghiệp. Kết quả hổi quy mô hình cho thấy, khả
năng sinh lời có tác động không đồng thuận tới tỷ lệ nợ, tỷ lệ nợ ngắn hạn và tỷ lệ nợ dài hạn.
Do vậy, các doanh nghiệp cần quan tâm đến việc gia tăng nguồn vốn CSH thông qua tích luỹ
lợi nhuận tái đầu tư và bổ sung vốn góp từ CSH.
Để gia tăng vốn CSH, các CTCP BĐS niêm yết cần khai thác triệt để nguồn vốn nội
sinh từ lợi nhuận để lại. Đây chính là nguồn lực tài chính giúp doanh nghiệp chủ động đáp
ứng nhu cầu vốn, nắm bắt kịp thời các cơ hội trong kinh doanh, giữ được quyền kiểm soát và
tránh được áp lực phải thanh toán đúng kỳ hạn. Để có thể khai thác được nguồn vốn này, các
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 323
doanh nghiệp cần thực hiện những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Bên
cạnh đó, cần có chính sách phân phối lợi nhuận hợp lý nhằm đẩy mạnh tích luỹ lợi nhuận để
lại tái đầu tư.
Ngoài việc huy động tối đa nguồn vốn bên trong từ lợi nhuận để lại, các doanh nghiệp
có thể tìm phương án huy động nguồn vốn CSH từ bên ngoài thông qua phát hành cổ phiếu,
gọi vốn góp liên doanh, liên kết. Hình thức này giúp doanh nghiệp có khả năng huy động khối
lượng vốn lớn đáp ứng yêu cầu gia tăng quy mô kinh doanh.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần quản lý chặt chẽ các khoản nợ nhằm cải thiện mức độ
phụ thuộc tài chính. Theo đó, các CTCP BĐS niêm yết cần có biện pháp rà soát các khoản nợ
phải thu, có biện pháp thu hồi nợ hiệu quả để tạo nguồn thanh toán nợ phải trả. Các doanh
nghiệp cần có kế hoạch thanh toán nợ đúng hạn nhằm nâng cao uy tín tín dụng, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tiếp cận nguồn vốn vay trong tương lai.
Thứ tư, nâng cao tính minh bạch trong công bố thông tin và báo cáo tài chính của
doanh nghiệp.
Lý thuyết chi phí đại diện cho thấy, vấn đề bất cân xứng thông tin và thiếu minh bạch về
thông tin trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp là một trong những trở ngại đối với
hoạt động huy động vốn của doanh nghiệp. Để nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn từ
bên ngoài, các CTCP BĐS niêm yết cần nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng thông
tin trên báo cáo tài chính và vai trò của công bố thông tin đối với các đối tượng liên quan.
Thông tin trên báo cáo tài chính trung thực còn góp phần làm tăng tính thanh khoản của
chứng khoán và giảm chi phí phát hành đối với các doanh nghiệp.
Thứ năm, nâng cao vai trò của quản trị tài chính trong doanh nghiệp.
Trước tiên, các CTCP BĐS niêm yết cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia
vào hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp. Hiện nay, tại không ít các CTCP BĐS niêm
yết vẫn gộp chức năng tài chính và chức năng kế toán, vai trò của Giám đốc tài chính chưa
được quan tâm đúng mức với tư cách là người điều hành hoạt động tài chính của doanh
nghiệp. Nâng cao vai trò quản trị tài chính được hiểu theo nghĩa về cơ cấu tổ chức, về chất
lượng nhân sự để đảm bảo tốt nhất vai trò của công tác quản trị tài chính tại doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, việc hoàn thiện các công cụ hỗ trợ quản trị tài chính và hệ thống thông tin
hỗ trợ ra quyết định là một giải pháp có vai trò trọng yếu. Các công cụ hỗ trợ quản trị tài
chính gồm: Hoàn thiện hệ thống quy phạm nội bộ trong doanh nghiệp, hoàn thiện hệ thống kế
toán quản trị doanh nghiệp, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ giúp doanh nghiệp nhận
diện được rủi ro. Đồng thời, cần xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin tập trung trong toàn doanh
nghiệp. Từ đó giúp các nhà quản trị tài chính có đầy đủ, kịp thời thông tin cho quá trình ra
quyết định quản trị.
mean-squared error
correlatinon coeffcient
Trong đó, pi là các giá trị dự đoán của mô hình và ai là các giá trị thực tế trong tập dữ
liệu.
Chúng tôi lựa chọn các biến dùng làm điều kiện phân lớp dựa trên mô hình F – SCORE
bao gồm: RSSTACC, CHINV, SOFTASSETS, ISSUE, CHCS, CHROA. Ngoài ra, sử dụng
thêm hai biến để tăng mức độ phù hợp của các chỉ số với khả năng sai phạm của doanh
nghiệp bất động sản tại Việt Nam là BEP và RECTA. Ký hiệu và cách tính toán của các biến
như sau:
Kế toán dồn tích (RSSTACC)
Theo Healy, P. M. (1985), tổng dồn tích bao gồm cả các khoản dồn tích có thể điều
chỉnh được (Discretionary Accurals - DA) và các khoản dồn tích không thể điều chỉnh được
(Non-Discretionary Accurals –NDA). Theo kết quả nghiên cứu của Beneish, M. D. (1997)
chứng minh rằng tổng kế toán dồn tích chia cho tổng tài sản rất hữu ích trong việc xác định
các doanh nghiệp vi phạm nguyên tắc kế toán chung (GAAP), đây cũng là kết luận trong
nghiên cứu của Dechow, P. M., Ge, W., Larson, C. R., Sloan, R. G. (2011).
RSSTACC =(∆WC + ∆ NCO+ ∆ FIN )/( Averagetotalassets).
WC=( Currentassets−CashandCashEquivalent−Short−termInvestment ) −( CurrentLiabilities−DebtinCur
Ngoài ba phương pháp phân lớp dựa trên cây quyết định như trên, chúng tôi thực hiện
hai phương pháp phân lớp sử dụng mô hình hồi quy logistic để so sánh hiệu quả của phân lớp
dựa trên cây quyết định so với sử dụng mô hình hồi quy logistic.
Phân lớp sử dụng mô hình hồi quy Logistic với ước lượng biên:
Phương pháp này sử dụng mô hình hồi quy Logistic với ước lượng biên (multinomial
logistic regression model with a ridge estimator). Kết quả thực hiện như sau:
Mô hình hồi quy ứng với lớp 0 (Class 0)
3.5136 + 0.1046RSSTACC – 1.8537CHINV + 3.3118CHREC - 3.498SOFTASSETS
-0.1113ISSUE - 0CHCS – 2.9123CHROA + 8.6435BEP – 6.1589RECTA
Kết quả về độ đo của phương pháp:
Số mẫu phân lớp đúng là 282 chiếm 62.9464 %
Số mẫu phân lớp sai là 166 chiếm 37.0536 %
Kết quả đánh giá của một số độ đo :
Kappa statistic: 0.2486
Mean absolute error: 0.4313
Root mean squared error: 0.4724
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 337
Relative absolute error: 87.0095 %
Root relative squared error: 94.9 %
Coverage of cases (0.95 level): 100%
Mean rel. region size (0.95 level): 99.2188 %
Total Number of Instances: 448
Ma trận confusion :
a b <-- classified as
168 77 a=0
89 114 b=1
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu này đánh giá hiệu quả của việc chi tiêu ngân sách của Việt
Nam cho bảo vệ môi trường trước thực trạng suy thoái môi trường đang ngày
càng nghiêm trọng dựa trên nguồn số liệu tổng hợp của cả nước trong giai đoạn
từ 2007-2017. Các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng môi trường là
lượng khí thải CO2 trong không khí, tổng diện tích rừng và thiệt hại hàng năm
gây ra bởi thiên tai. Kết quả mô hình hồi quy cho thấy chi tiêu của ngân sách nhà
nước trong giai đoạn nghiên cứu có tác động tích cực đến tăng diện tích rừng.
Tuy nhiên, nó lại không có hiệu quả làm giảm lượng CO2 và thiệt hại do thiên tai
như kỳ vọng, có thể xuất phát từ các nguyên nhân cấp phép đầu tư không chọn lọc
cho các dự án công nghệ thấp, gây ô nhiễm cao, ảnh hưởng ô nhiễm từ nước láng
giềng.
Từ khóa: Chi NSNN cho bảo vệ môi trường, Khí CO2, Diện tích rừng, Thiệt
hại do thiên tai.
ABSTRACT
This paper aims to evaluate the efficacy of Vietnam government expenditure
on the speedily deteriorating environment, using national data from 2007 to 2017.
The criteria used to resemble the environment performance include CO 2 emission,
total forest area and annual damage caused by disasters. The results of the
regression analysis indicate that government’s spending during the study period
has positive impacts on increasing forest. However, public spending has no
impact in improving the atmosphere by reducing the amount of CO 2 area and
reducing the extent of damage caused by natural disasters as expected. The cause
of this may contribute to being affected by the pollution of neighboring countries
and licensing non-selective investment for a number of investment projects using
low technology leading to high pollution emission.
Key words: Vietnam’s budget spending on environmental protection, CO 2
emissions, area forest, damage caused by disasters.
1.Giới thiệu
Suy thoái môi trường hiện nay đang là một vấn đề nhức nhối đối với hầu hết các nền
kinh tế trên thế giới. Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển kéo theo các vấn nạn về môi trường
ngày càng tăng cao. Theo Tổ chức Khí tượng thế giới, tính đến năm 2018, nhiệt độ Trái Đất
đã tăng thêm 1 độ C chỉ trong vòng 3 năm trở lại đây cùng với mực nước biển dâng cao; cháy
rừng nghiêm trọng tại nhiều quốc gia như Mỹ, Australia, Trung Quốc; các hình thái thời tiết
cực đoan cũng xuất hiện với tần suất ngày một dày hơn. Tình hình môi trường thế giới đang
diễn biến ngày càng phức tạp và trở nên khó lường, và Việt Nam cũng không nằm ngoài tình
trạng đó. Theo kết quả công bố tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos (Đại học Yale và
Columbia của Mỹ) cho thấy: Việt Nam đứng thứ 123/132 nước về chất lượng không khí.
Cùng với đó, thành phố Hà Nội cũng là một trong hai thành phố ô nhiễm bụi nặng nề nhất
Đông Nam Á. Không dừng lại ở đó, đối với môi trường đất, nhịp độ gia tăng dân số, tốc độ
phát triển công nghiệp và hoạt động đô thị hoá cũng đã khiến cho diện tích đất canh tác ngày
càng bị thu hẹp, chất lượng đất bị suy thoái nghiêm trọng. Năm 2008, Cục Cảnh sát môi
trường - Bộ Công an Việt Nam phối hợp với Bộ Tài nguyên môi trường Việt Nam phát hiện
1800
1600
1400
1200
1000
800
600
400
200
0
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Hình 1: Ngân sách Trung ương cho bảo vệ môi trường giai đoạn 2007-2017
(đơn vị: tỷ đồng)
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Mô tả biến phụ thuộc:
Ký hiệu Biến số Đơn vị tính
FORE Diện tích rừng hiện có Nghìn Hecta
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 344
CO2 Lượng khí thải CO2 mỗi năm Tấn
DAMA Thiệt hại do thiên tai Tỷ đồng
14500
14000
13500
13000
12500
12000
11500
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Hình 2: Tổng diện tích rừng hiện có giai đoạn 2007- 2017
( Đơn vị: Nghìn Hecta)
( Nguồn: Tổng cục thống kê)
Lượng khí thải CO2 mỗi năm
250000
200000
150000
100000
50000
0
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Hình 3: Lượng khí thải CO2 trong giai đoạn 2007- 2017
( Đơn vị: Triệu tấn)
( Nguồn: World Bank)
60000
50000
40000
30000
20000
10000
0
2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Liu và Ảnh hưởng Khảo sát và Sản phẩm sẵn Việc sử dụng sản phẩm sẵn có và
cộng sự của các thuộc phân tích có trang web dễ sử dụng ảnh hưởng
(2013) tính trang web định lượng Trang web dễ đến sự hấp dẫn thị giác.
đối với sự thôi 318 mẫu chủ sử dụng Bên cạnh đó, sự hấp dẫn thị giác
thúc mua hàng yếu là nhóm Sự hấp dẫn thị cùng với việc sử dụng web tác
ngẫu hứng trực sinh viên đại giác động đến cảm nhận tức thì của
tuyến: một học tại Trung Tính ngẫu người mua.
nghiên cứu về Quốc hứng Sự hấp dẫn thị giác cùng với sự
nhận thức của Đánh giá sự ngẫu hứng khi mua hàng tác động
người tiêu đúng đắn đến tiêu chuẩn đánh giá khi mua.
dùng Cảm nhận tức Cuối cùng nhờ những yếu tố của
thì bản thân người mua đã ảnh hưởng
đến việc mua hàng ngẫu hứng của
người tiêu dùng.
Wu và Xác định các Khảo sát và Sử dụng công Sử dụng công nghệ tác động đến
cộng sự yếu tố của phân tích nghệ và sự tin trải nghiệm mua sắm trên trang
(2015) hành vi mua định lượng tưởng của web.
hàng ngẫu 496 mẫu với trang web. Thiết kế trang web và sự tin tưởng
hứng trực 70% là nữ Trải nghiệm tác động đến nhận thức cảm nhận
tuyến: một bằng cách mua sắm trên của người tiêu dùng.
quan điểm của tiếp cận bảng trang web. Nhận thức cảm nhận tác động đến
người mua câu hỏi trực Nhận thức cảm trải nghiệm mua sắm.
hàng ngẫu tuyến. nhận. Trải nghiệm mua sắm; sự tin
hứng và người Thiết kế trang tưởng và nhận thức cảm nhận tác
là thành viên web. động đến việc mua hàng ngẫu
của hệ thống hứng.
trang web.
Sự hấp dẫn thị giác H3b Đánh giá sự đúng đắn H5c
Sự thôi thúc mua hàng ngẫu hứng
H1b
H4b H4c H5d
Ghi chú: * loại qua Cronbach’s Alpha và EFA và ** không có giá trị
Các thang đo còn lại được đưa vào phân tích CFA. Kết quả ước lượng cho các biến
quan sát đều đạt yêu cầu, cụ thể như sau: Chi-square/df = 1.379 (< 3); CFI = 0.973 (≥ 0.9);
RMSEA = 0.036 (≤ 0.05); GFI = 0.927 (≥ 0.9); P- value = 0.000 (<0.05), TLI = 0.967 (≥ 0.9),
vì thế, có thể kết luận rằng mô hình này thích hợp với dữ liệu nghiên cứu.
Ngoài ra, dựa vào kết quả của bảng 3, hệ số tải chuẩn hóa của các biến dao động từ
0.663 đến 0.890, phương sai trích của các thang đo AVE đạt giá trị từ 0.511 đến 0.654 và các
trọng số chưa chuẩn hóa đều đạt giá trị P- value bé hơn 0.05 (có ý nghĩa thống kê) nên các
thang đo đạt giá trị hội tụ. Đồng thời, độ tin cậy tổng hợp CR có giá trị từ 0.775 đến 0.850, từ
đó, có thể kết luận rằng các thang đo này đạt độ tin cậy.
3.3.Kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính
Sau khi thực hiện kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính lần 1, kết quả cho thấy tác
động có ý nghĩa thống kê với giá trị P – value nhỏ hơn 0.05 (0.000). Bên cạnh đó, cả CFI
(0.954), GFI (0.913) và TLI (0.947) đều lớn hơn 0.9 (Bentler và cộng sự 1980) và Chi-square
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 357
= 1.617 (< 3) (Segar và cộng sự, 1993), từ đó, có thể kết luận thang đo rất tốt. Hơn thế nữa,
chỉ số RMSEA đã cải thiện rất nhiều và đạt giá trị khá tốt là 0.046 (< 0.05) (MacCallum và
cộng sự, 1996). Từ đó, có thể kết luận mô hình phù hợp với dữ liệu thu thập.
Ngoài ra, kết quả ước lượng mô hình SEM cho thấy hầu hết các mối quan hệ đều có
trọng số hồi quy dương đúng với quy ước của các giả thuyết và đều có ý nghĩa về mặt thống
kê (P - value < 0.05), trừ mối quan hệ của hai cặp nhân tố (sự hấp dẫn thị giác, đánh giá sự
đúng đắn) và (đánh giá sự đúng đắn, sự thôi thúc mua hàng ngẫu hứng) là không có ý nghĩa
thống kê (do P - value > 0.05).
Bảng 11. Kết quả kiểm định mô hình cấu trúc tuyến tính
Hệ số Kiểm định giả
Mối quan hệ P
chuẩn hóa thuyết
Sản phẩm sẵn có → Sự hấp dẫn thị giác 0.181 0.018 Ủng hộ H1a
Trang web dễ sử dụng → Sự hấp dẫn thị giác 0.510 < 0.001 Ủng hộ H1b
Sự hấp dẫn thị giác → Niềm tin 0.605 < 0.001 Ủng hộ H2
Tính ngẫu hứng → Đánh giá sự đúng đắn 0.552 < 0.001 Ủng hộ H3a
Sự hấp dẫn thị giác → Đánh giá sự đúng đắn -0.053 0.458 ***
Niềm tin → Sự thôi thúc mua hàng ngẫu hứng 0.187 0.007 Ủng hộ H5a
Đánh giá sự đúng đắn → Sự thôi thúc mua hàng
-0.073 0.448 ***
ngẫu hứng
Tính ngẫu hứng → Sự thôi thúc mua hàng ngẫu
0.618 < 0.001 Ủng hộ H5b
hứng
Ghi chú: *** không ủng hộ giả thuyết
3.4.Thảo luận kết quả nghiên cứu
Từ kết quả kiểm định ở bảng 4, sự thôi thúc mua hàng ngẫu hứng trực tuyến chỉ chịu tác
động của hai yếu tố, lần lượt là niềm tin (β = 0.187) và tính ngẫu hứng (β = 0.618). Điều này
cho thấy, quyết định mua hàng ngẫu hứng của mỗi người tiêu dùng chịu ảnh hưởng rất lớn từ
yếu tố tính ngẫu hứng trong bản thân nội tại của họ. Nói cách khác, tính ngẫu hứng trong mua
sắm của người tiêu dùng càng cao thì việc họ chi trả cho hành vi mua hàng ngẫu hứng trực
tuyến đạt khả năng càng cao. Ngoài ra, niềm tin cũng chính là yếu tố tác động rất lớn đến việc
người tiêu dùng ra quyết định có nên mua hàng ngẫu hứng trực tuyến hay không. Điều này
nói lên, hành vi mua hàng ngẫu hứng sẽ luôn được người tiêu dùng chấp nhận hơn khi trang
web TMĐT đó được họ tin tưởng. Còn đối với những trang web lạ, người tiêu dùng có xu
hướng đề phòng trong việc mua sắm, cũng như hạn chế đưa ra quyết định mua hàng ngẫu
hứng trên những trang web này.
Đổng thời, sản phẩm sẵn có (β = 0.181) và trang web dễ sử dụng (β = 0.510) là hai nhân
tố tác động đến sự hấp dẫn thị giác. Cả hai yếu tố đều có tác động không quá chênh lệch nhau,
từ đó cho thấy việc đa dạng chủng loại các mặt hàng sản phẩm và luôn luôn sẵn có cho người
tiêu dùng mua trên trang web TMĐT là rất cần thiết. Vì, nếu trong trường hợp khách hàng
chưa muốn mua sản phẩm này thì có thể lần sau quay trở lại trang web mua hàng, họ vẫn thấy
được sản phẩm mình thích, khiến sự hấp dẫn thị giác tăng lên trong mắt người tiêu dùng. Bên
cạnh đó, khi con người đang sống trong thời đại internet như hiện nay thì việc lập tài khoản
để mua hàng online là điều bất cứ trang web TMĐT nào cũng bắt buộc phải có. Thao tác này
sẽ giúp cho người tiêu dùng dễ dàng thanh toán hơn và mua sắm một cách tự do hơn. Đồng
thời, thiết kế trang web tiện dụng hay dễ nắm bắt cũng là những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn thị
giác đối với người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, biến niềm tin chịu tác động mạnh từ yếu tố sự hấp dẫn thị giác với β =
0.605. Đúng như vậy, ngày nay, người tiêu dùng hiện đại luôn có những nhìn nhận tích cực
hơn đối với những trang web TMĐT có thiết kế bắt mắt, thông tin chi tiết rõ ràng, hấp dẫn. Vì
vậy, người tiêu dùng gia tăng sự tin tưởng với trang web TMĐT này chính nhờ vào những
thiện cảm này, từ đó, hành vi mua hàng ngẫu hứng trực tuyến có thể xảy ra dễ dàng hơn.
Với các chỉ số VIF của biến tổng doanh thu và tổng chi phí tương ứng với giá trị 13.67
và 12.19 đều lớn hơn 2. Do đó, mô hình bị hiện tượng đa cộng tuyến
Tiếp đên, nhóm tác giả kiểm định phương sai có bị thay đỗi hay không. Bằng kiểm định
kiểm định Breusch và Pagan Lagrangian với giả thuyết H0: Phương sai đồng nhất.
Như vậy, HHI chịu tác động của 2 biến là thu nhập ròng từ lãi (NET) và thu nhập ròng
ngoài lãi (NON). Chỉ số HHI nhận giá trị [0 ; 0.5]. Nếu HHI = 0 nghĩa là cơ cấu thu nhập của
ngân hàng hoàn toàn tập trung và một nguồn thu nhập duy nhất. Nếu HHI = 0.5 tức là ngân
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 374
hàng đang đa dạng hoá thu nhập ở mức tối đa (Trịnh Thị Thuý Hồng & cộng sự, 2018). Đặc
điểm của các ngân hàng thương mại của VN đang tập trung chủ yếu là cho vay nên HHI chịu
tác động mạnh mẽ của phần phân số , do vậy nếu HHI = 0 nghĩa là ngân
hàng chỉ đang tập trung vào duy nhất nguồn tiền lãi từ các hoạt động tín dụng (chủ yếu là cho
Với HHI là mức độ đa dạng hoá thu nhập của các ngân hàng thương mại; NET, NON và
NETOP lần lượt là thu nhập ròng từ lãi, thu nhập ròng ngoài lãi và tổng thu nhập của ngân
hàng thương mại (NETOP = NON + NET). Chỉ số HHI nhận giá trị [0 ; 0.5]. Nếu HHI = 0
nghĩa là cơ cấu thu nhập của ngân hàng hoàn toàn tập trung và một nguồn thu nhập duy nhất.
Nếu HHI = 0.5 tức là ngân hàng đang đa dạng hoá thu nhập ở mức tối đa (Trịnh Thị Thuý
Hồng & cộng sự, 2018). Qua đó, chỉ số HHI càng cao thì mức độ đa dạng hoá thu nhập của
các ngân hàng càng cao. Nghiên cứu kỳ vọng ngân hàng đa dạng hoá thu nhập càng cao
(nghĩa là HHI càng cao) thì hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại càng cao).
Giả thuyết 1: Mức độ đa dạng hóa thu nhập có ý nghĩa tác động tích cực đến khả năng sinh lời
(H1).
SIZE – Quy mô ngân hàng: quy mô ngân hàng được đo lường bằng cách lấy logarithm
tổng tài sản của ngân hàng đó. Dữ liệu được nằm dưới dạng logarithm vì đây là đặc điểm có
xu hướng mạnh và nó lấn át các thành phần còn lại (Phạm Thị Tuyết Trinh, 2016). Việc quy
mô ngân hàng lớn sẽ tạo ra các khoản thu về từ các dịch vụ liên quan (Elsas & cộng sự, 2010;
Chiorazzo & cộng sự, 2008). Giả thuyết 2: Quy mô ngân hàng có ý nghĩa tác động tích cực
đến khả năng sinh lời (H2).
LOAN – Cấu trúc tài sản: đo lường bằng cách lấy tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng tài sản.
Đây là chỉ tiêu cho thấy tác động của hoạt động cho vay trên HQHĐ kinh doanh của ngân
hàng (Chiorazzo & cộng sự, 2008). Lợi nhuận ngân hàng sẽ tăng khi các khoản cho vay tăng,
nghĩa là ngân hàng đang tập trung cho vay hơn là chú ý đến các hoạt động khác. Giả thuyết 3:
Cấu trúc tài sản có ý nghĩa tác động tích cực đến khả năng sinh lời (H3).
NPL – Chất lượng tài sản: đo lường bằng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Các khoản nợ
được liệt kê là nợ xấu nếu nó nằm trong nhóm nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5. Hầu hết các tác giả
đều đồng ý rằng tỷ lệ nợ xấu càng cao sẽ càng ảnh hưởng đến chất lượng tài sản trong bảng
cân đối kế toán, làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng. Khi cho vay thì các
ngân hàng phải trích lập dự phòng, mức độ nợ xấu càng cao ngân hàng càng trích lập dự
phòng nhiều.
Khi trích lập như vậy làm cho khả năng sinh lời của ngân hàng giảm. Giả thuyết 4: Chất
lượng tài sản có ý nghĩa tác động tích cực đến khả năng sinh lời (H4). Tức là tăng tỷ lệ nợ xấu
thể hiện chất lượng tài sản cho vay giảm.
EQUITY – Độ phù hợp vốn: đo lường bằng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. Nếu
tỷ lệ này cao thì cho thấy rằng ngân hàng đang e ngại rủi ro và chấp nhận rủi ro ở mức độ
thấp, còn những ngân hàng có tỷ lệ này cao có khuynh hướng mạo hiểm hơn trong rủi ro.
Theo giả thuyết cơ bản về lợi nhuận và rủi ro là “High risk high return” tức là việc chấp nhận
rủi ro sẽ nhận được khoản lợi nhuận thu về lớn hơn, đồng nghĩa với việc tỷ lệ này thấp thì lợi
nhuận của ngân hàng tăng bằng cách chấp nhận rủi ro ở mức vừa phải. Giả thuyết 5: Độ phù
hợp vốn có ý nghĩa tác động tiêu cực đến khả năng sinh lời (H5).
DTL – Cấu trúc tài trợ: đo lường bằng tiền gửi khách hàng trên tổng nợ phải trả. Trong
đó tổng nợ phải trả của ngân hàng thì nguồn vốn từ tiền gửi khách hàng được cho là nguồn tài
trợ ổn định và rẻ hơn so với các nguồn tài trợ khác (Hồ Thị Hồng Minh & Nguyễn Thị Cành,
2015). Như vậy, tỷ lệ tiền gửi khách hàng càng cao thì càng gia tăng khả năng sinh lời của
ngân hàng. Giả thuyết 6: Tỷ lệ tiền gửi khách hàng có ý nghĩa tác động tích cực đến khả năng
sinh lời (H6).
GDP – Tăng trưởng kinh tế: trong điều kiện nền kinh tế bất ổn, ngân hàng sẽ xiết chặt
các khoản cho vay, hạn chế cho vay và giảm lãi suất huy động, ngoài ra còn tăng dự phòng rủi
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 377
ro tín dụng và làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng. Ngược lại, nếu tình hình kinh tế khả
quan thì thu nhập của người dân ổn định nên khoản tiền tiết kiệm chạy vào ngân hàng sẽ tăng
lên và các doanh nghiệp mở rộng đầu tư có nhu cầu vay vốn và qua đó làm tăng khả năng sinh
lời của ngân hàng. Như vậy, chu kỳ kinh tế ảnh hưởng đến biên lợi nhuận thuần (thông qua
hoạt động cho vay) và dự phòng rủi ro tín dụng (thông qua chất lượng danh mục khoản cho
vay) (Hồ Thị Hồng Minh & Nguyễn Thị Cành, 2015). Giả thuyết 7: Tăng trưởng kinh tế có ý
nghĩa tác động tích cực đến khả năng sinh lời (H7).
INF – tỷ lệ lạm phát: ngân hàng như là một doanh nghiệp đặc biệt với hàng hoá kinh
doanh là tiền tệ, nên tỷ lệ lạm phát tác động trực tiếp đến khả năng sinh lời của ngân hàng.
Khi lạm phát giảm thì sức mua của đồng Việt Nam tăng, lúc này giá vàng và ngoại tệ sẽ giảm,
do đó các ngân hàng thuận lợi trong việc huy động vốn, cho vay và thực hiện các hoạt động
dịch vụ ngân hàng. Revell (1979) cho rằng tác động của lạm phát đến hiệu quả kinh doanh
ngân hàng tuỳ thuộc vào tác động của lạm phát đến lương và chi phí hoạt động khác của ngân
hàng. Giả thuyết 8: Lạm phát có ý nghĩa tác động tiêu cực đến khả năng sinh lời (H8).
2.4.Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp ước lượng là Mô hình tác động cố định (Fixed Effect Model) và
Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effect Model). Ngoài ra, nghiên cứu cũng sử dụng
phương pháp Bình phương tổi thiểu tổng quát khả thi (Feasible Generalized Least Squares)
nhằm khắc phục hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi của mô hình nghiên cứu.
3.Kết quả nghiên cứu
3.1.Thống kê mô tả
Bảng 1: Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max
ROA 361 0.0123181 0.036837 -.0551175 0.4189922
HHI 360 0.3236387 0.095013 0.157133 0.4999333
SIZE 361 17.83281 1.422758 13.572 20.90697
LOAN 361 0.5238616 0.1446793 0 0.9807194
NPL 360 0.0226928 0.0225545 0 0.3245743
EQUITY 361 0.1127184 0.0765575 0.018257 0.7210388
DTL 360 0.6864842 0.1810091 0.2689155 2.701887
GDP 384 11.1311 0.1651547 10.82198 11.34998
INF 384 0.0827 0.0620895 0.0063 0.2297
Nguồn: Kết quả được tính toán từ phần mềm Stata
Bảng 1 cho thấy giá trị trung bình, tối đa và tối thiểu của ROA, quy mô ngân hàng, tỷ lệ
cho vay, DIVI và tỷ lệ vốn chủ sở hữu của 32 ngân hàng thương mại được trình bày trong
Bảng số 4. 1. Giá trị của ROA hoành hành trong khoảng (-0.0551, 0.4189) với giá trị trung
bình 0.1231 thể hiện rằng các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đang sử dụng tài sản của họ
một cách hiệu quả để tạo thu nhập. Quy mô của ngân hàng có giá trị trung bình là 17.8328 với
giá trị tối đa là 20.9069. Tỷ lệ cho vay được đo lường thông qua tổng cho vay và ứng trước
tổng tài sản của các ngân hàng, giá trị trung bình là 52.4% cho thấy phần lớn các ngân hàng
đã đầu tư gần 50% tài sản của họ vào các khoản cho vay và ứng trước. Đầu tư tối đa vào cho
vay đã đạt tới 90% cho các ngân hàng thương mại trong khi giá trị cho vay và ứng trước tối
thiểu là 36%. Điều đó có nghĩa là một số ngân hàng đang đầu tư dưới 50% tài sản của họ vào
hoạt động cho vay là nguồn thu nhập chính của ngân hàng, họ cần đầu tư nhiều tài sản hơn
vào các khoản vay và ứng trước để có thêm doanh thu. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu được đo thông
qua vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng có giá trị trung bình là 11.27% cho
thấy phần lớn các ngân hàng đang sử dụng chính sách phòng ngừa rủi ro để tránh rủi ro mặc
định. Giá trị tối đa của tỷ lệ vốn chủ sở hữu là 72%. Giá trị trung bình của HHI là 0 .32 cho
thấy mức độ đa dạng hóa thu nhập thấp cho các ngân hàng thương mại trong khi giá trị tối đa
0.5 cho thấy một số ngân hàng đã đạt được sự đa dạng hóa hoàn toàn trong các hoạt động tạo
thu nhập của họ.
3.2.Tương quan giữa các biến
Bảng 2: Ma trận tương quan giữa các biến trông mô hình
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 378
ROA HHI SIZE LOAN NPL EQUITY DTL GDP INF
ROA 1.0000
HHI 0.0947 1.0000
SIZE -0.1231 0.0308 1.0000
LOAN -0.1194 0.1411 0.1626 1.0000
NPL 0.0406 0.0365 0.0465 -0.0626 1.0000
EQUITY 0.1221 0.0303 -0.6373 -0.0729 0.0356 1.0000
DTL -0.1467 0.1170 0.1625 0.3329 0.0188 0.0678 1.0000
GDP -0.2181 -0.0024 0.5379 0.0755 0.0668 -0.2911 0.2515 1.0000
INF 0.0992 -0.0884 -0.2358 -0.1388 0.1679 0.2079 -0.1516 -0.4406 1.0000
Nguồn: Kết quả được tính toán từ phần mềm Stata
Phân tích hệ số tương quan là một trong những bước quan trọng để phân tích chiều
tương quan cũng như mức độ tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập trong mô
hình hồi quy, đồng thời cho thấy mức độ tương quan giữa các biến độc lập.
Bảng 2 cho thấy SIZE, LOAN, DTL, GDP có tác động ngược chiều đến ROA. Các biến
độc lập còn lại tác động cùng chiều đến ROA. Biến HHI có tương quan khá mạnh với ROA
(hệ số tương quan là 0.0947).
3.3.Kết quả ước lượng
Bảng 3: Kết quả ước lượng mô hình Pooled OLS, FEM, REM
Pooled OLS FEM REM
Biến Hệ số hồi quy Std. Err. Hệ số hồi quy Std. Err. Hệ số hồi quy Std. Err.
HHI 0.000308** 0.0001468 0.0002488* 0.0001342 0.0002644** 0.0001321
SIZE 0.0021511 0.0019996 0.0066947 0.005166 0.0029433 0.0030488
LOAN -0.0235261 0.0143663 0.0089626 0.0185193 -0.0048062 0.0160589
NPL 0.0698851* 0.086207 0.1039662 0.0826376 0.087877 0.0800014
EQUITY 0.0549867* 0.0331391 0.0755644** 0.0340072 0.0633444** 0.031363
DTL -0.0208084* 0.0116678 -0.0104178 0.0111257 -0.0135766 0.0107942
GDP -0.0475219*** 0.0153729 -0.0729816*** 0.0269118 -0.0536789*** 0.0179006
INF -0.013552 0.0351079 -0.0096548 0.0309682 -0.0104931 0.0307173
Constant 0.052321*** 0.1594355 0.6980141*** 0.2182795 0.5610123 0.1636735
R2 0.0851 0.0498 0.0763
Ghi chú: Biến phụ thuộc: ROA; ***, **, * tương đương mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%
Nguồn: Kết quả được tính toán từ phần mềm Stata
Kết quả ước lượng mô hình theo phương pháp Pooled OLS cho thấy chỉ có hệ số hồi
quy của Constant và GDP ở mức ý nghĩa 1%, hệ số số hồi quy của HHI ở mức ý nghĩa 5% và
hệ số hồi quy của NPL và EQUITY ở mức ý nghĩa 10%. Mức độ giải thích của mô hình thấp
(R2 = 8.51%) với ý nghĩa là các biến độc lập giải thích được 8.51% biến thiên của biến phụ
thuộc.
Kết quả ước lượng mô hình theo mô hình FEM cho thấy chỉ có hệ số hồi quy của
Constant và GDP ở mức ý nghĩa 1%, hệ số số hồi quy của EQUITY ở mức ý nghĩa 5% và hệ
số hồi quy của HHI ở mức ý nghĩa 10%. Mức độ giải thích của mô hình thấp (R2 = 4.98%) với
ý nghĩa là các biến độc lập giải thích được 4.98% biến thiên của biến phụ thuộc.
Kết quả ước lượng mô hình theo mô hình REM cho thấy chỉ có hệ số hồi quy của
Constant và GDP ở mức ý nghĩa 1% và hệ số số hồi quy của HHI và EQUITY ở mức ý nghĩa
5%. Mức độ giải thích của mô hình thấp (R2 = 7.63%) với ý nghĩa là các biến độc lập giải
thích được 7.63% biến thiên của biến phụ thuộc.
3.4.Lựa chọn mô hình
3.4.1.Pooled OLS và FEM
Ta tiến hành kiểm định để lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS và FEM
Giả thiết H0: Mô hình Pooled OLS phù hợp với mẫu nghiên cứu
Giả thiết H1: Mô hình FEM phù hợp với mẫu nghiên cứu
Bảng 4: Kết quả kiểm định F – test
Thống kê F P-value
4.54 0.0000
Nguồn: Kết quả được tính toán từ phần mềm Stata
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 379
Ở mức ý nghĩa 1%, ta có p-value = 0.0000 <1% nên bác bỏ giả thiết H 0, nên ta chọn mô
hình FEM.
3.4.2.FEM và REM
Nhóm nghiên cứu dùng kiểm định Hausman để lựa chọn giữa mô hình FEM và REM
với giả thuyết như sau:
H0: thành phần ngẫu nhiên và các biến độc lập không tương quan, mô hình REM phù hợp
hơn.
H1: thành phần ngẫu nhiên và các biến độc lập có tương quan, mô hình FEM phù hợp hơn.
Bảng 5: Kết quả kiểm định Hausman
Chi2: 3.46 Prob > Chi2= 0.9021
[60]TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẾN
CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TẠI VIỆT NAM
IMPACT OF FOREIGN DIRECT INVESTMENT ON HUMAN
DEVELOPMENT INDEX IN VIET NAM
SV: Nguyễn Thị Thanh Thanh, Nguyễn Thị Hồng,
Nguyễn Đình Minh Hiếu
Học Viện Tài Chính
GVHD: Lưu Huyền Trang
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu xem xét tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến
chỉ số phát triển con người thông qua ba chỉ tiêu là tuổi thọ trung bình, số lượng
học sinh đi học trung học phổ thông và thu nhập quốc dân tại Việt Nam trong giai
đoạn 1990 - 2017. Nhóm nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy OLS đã tìm ra mối
quan hệ cùng chiều giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và thu nhập quốc dân, đầu
tư trực tiếp nước ngoài và tuổi thọ trung bình, đầu tư trực tiếp nước ngoài và số
lượng học sinh đi học trung học phổ thông. Dựa trên kết quả thực nghiệm đó,
nhóm nghiên cứu phân tích cụ thể sự tác động của các biến số và đưa ra một số
giải pháp để nâng cao hơn nữa đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho
lĩnh vực xã hội của Việt Nam.
Từ khóa: đầu tư trực tiếp nước ngoài, chỉ số phát triển con người, tỉ lệ đi học,
tuổi thọ trung bình, thu nhập quốc dân bình quân đầu người.
ABSTRACT
The purpose of this paper is to consider the impacts of foreign direct
investment (FDI) on human development indicators including three indicators:
The average lifespan, high school attendance quantity and national income in
Vietnam from 1990 to 2017. Our team has utilized the regression model OLS and
found out the propotional relationship between foreign direct investment and
national income, foreign direct investment and the average lifespan, the direct
foreign investment and variable high school attendence quantity. Based on these
empirical results, we have specifically scruntinised the impacts of these variables
and proposed some pragmatic solutions with a view to enhancing the contribution
of foreign direct investment to the social sector in Vietnam.
Key words: Foreign Direct Investment, Human Development Index, School
Enrollment, Life Expectancy.
1.Giới thiệu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nguồn vốn có vai trò quan trọng trong sự tăng
trưởng kinh tế các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Lượng
vốn FDI chảy vào có xu hướng tăng qua các năm và được minh chứng là có tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế. Theo Cục đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), sau 30 năm
kể từ khi Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài (năm 1987), nguồn vốn FDI
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 385
trở thành một nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tính đến
tháng 11 năm 2018, cả nước đã tiếp nhận trên 25.690 dự án FDI đến từ 127 quốc gia và vùng
lãnh thổ, với vốn đăng ký (còn có hiệu lực) là 322,9 tỷ USD, vốn FDI thực hiện khoảng hơn
170 tỷ USD. Khu vực FDI hiện nay đóng góp khoảng 25% tổng vốn đầu tư cho xã hội và 20%
GDP của cả nước. Các số liệu thống kê quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam từ năm 2000
đến nay cho thấy, quy mô nền kinh tế của nước ta đã lớn gấp nhiều lần, trong đó khu vực FDI
góp phần ngày càng nhiều hơn về: Vốn đầu tư, thu ngân sách nhà nước, GDP, xuất khẩu,
nhập khẩu, việc làm, thu nhập...
Tầm quan trọng của FDI ngày càng tăng đã dẫn đến nhiều nghiên cứu thực nghiệm điều
tra tác động của FDI đối với nền kinh tế. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều nghiên cứu về
FDI. Tiêu biểu, Nguyễn Phi Lân (2006) bằng việc sử dụng mô hình GMM kết luận mối quan
hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế là tích cực. Năm 2009, Trần Quang Tiến chỉ ra FDI làm
nâng cao cơ sở hạ tầng nước ta. Ngoài ra, Phạm Thị Hoàng Anh & Lê Hà Thu sử dụng mô
hình VAR nghiên cứu tác động FDI đến tăng trưởng kinh tế và cho thấy tác động tích cực của
FDI đến các nhân tố như tổng vốn đầu tư, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, lực lượng
lao động và xuất khẩu. Nhìn chung, các nghiên cứu đều chỉ ra tính tích cực của mối quan hệ
của FDI đến các yếu tố tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chỉ đánh giá về mặt
kinh tế thì chưa đủ, bởi lẽ, các quốc gia đều hướng tới sự phát triển bền vững, nghĩa là ngoài
tăng trưởng đơn thuần về mặt kinh tế, các nước còn xem xét đến các mặt xã hội và môi
trường. Do vậy, mục tiêu của bài nghiên cứu là nhằm đánh giá tác động của FDI đến cả yếu tố
kinh tế và phát triển con người. Nghiên cứu thực nghiệm điều tra ảnh hưởng FDI đến sự tiến
bộ của phúc lợi xã hội tại quốc gia nhận đầu tư. Mục đích của bài là điều tra mối quan hệ giữa
các chỉ số của HDI (Human Development Index) là tuổi thọ trung bình từ lúc sinh (Life
Expectancy), tỷ lệ đi học (School Enrollment), thu nhập quốc dân (Gross National Index ) và
vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam.
2.Tổng quan nghiên cứu
Ở tất cả các quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
đóng vai trò rất quan trọng, thậm chí chúng còn được coi là động lực của tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Mối tương quan giữa dòng vốn FDI và sự phát triển kinh tế đã nhận được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong nhiều năm qua. Các nghiên cứu cho hai kết quả về
mối quan hệ nhân quả giữa mức tăng trưởng FDI và chỉ số GDP. Một mặt, các dòng vốn FDI
có thể kích thích tăng trưởng cho các quốc gia bằng cách tăng vốn cổ phần, tạo cơ hội việc
làm mới và tăng sự chuyển giao công nghệ (Borensztein và cộng sự, 1998; De Gregorio,
2003, De Mello, 1997). Nghiên cứu của Herzer (2008) nhận thấy rằng vốn đầu tư nước ngoài
có tác động tích cực lâu dài đến sản lượng trong nước tại 14 quốc gia công nghiệp hóa giai
đoạn 1971 đến 2005. Kết quả cũng chỉ ra rằng quan hệ nhân quả dài hạn là hai chiều giữa vốn
đầu tư nước ngoài và sản lượng trong nước. Li và Liu (2005) nhận thấy rằng FDI không chỉ
ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng mà còn gián tiếp tác động đến nguồn lực con người. Sử
dụng một mẫu lớn như nhau, Borensztein et al. (1998) cũng đã tìm thấy kết quả tương tự, tức
là, vốn FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế với sự tác động mạnh nhất thông qua
sự tương tác giữa FDI và nguồn nhân lực. De Mello (1999) đã tìm thấy những tác động tích
cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế ở cả các nước phát triển và đang phát triển và kết luận
rằng sự tăng trưởng dài hạn ở các nước nhận đầu tư nhờ sự lan tỏa của công nghệ và kiến thức
kinh tế từ các nước đầu tư. Các tác giả đã xác nhận rằng FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả
trong ngắn hạn và dài hạn. Mặt khác, FDI có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, thu
hút đầu tư trong nước, tăng sự cạnh tranh trong nước và gây ra sự phụ thuộc về mặt chính trị
(Aitken và Harrison, 1999; Lipsey, 2002). Quan điểm thứ ba đó là không tồn tại mối quan hệ
nhân quả giữa FDI và kinh tế sự tăng trưởng được ủng hộ Sê-tô.
Ngoài các nghiên cứu liên quan tới các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế, trong một vài
năm gần đây, những ảnh hưởng của dòng vốn FDI đến các vấn đề xã hội ngày càng nhận
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các vấn đề xã hội được đề cập tới các công bố
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 386
khoa học bao gồm bất bình đẳng, đói nghèo, sự phát triển về giáo dục, phát triển con người…
Tác động của toàn cầu hóa đối với bất bình đẳng thu nhập là một trong những vấn đề nhận
được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu khi mà toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng từ
những năm 1990. Đã có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa đầu tư FDI và bất bình
đẳng thu nhập trong các quốc gia (Chakrabarti, 2000, Ngụy và Ngô, 2001, Carneiro và
Arbache, 2003) cho thấy rằng mức độ đầu tư trực tiếp FDI tăng cao dẫn đến bất bình đẳng
trong thu nhập cũng tăng theo. Theo đó, Choi (2004) tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa FDI
và bất bình đẳng thu nhập giữa các quốc gia. Dựa trên dữ liệu Mexico 1975 đến 1988,
Feenstra và Hanson (1997) thấy rằng mức lương ở Mexico gắn liền với dòng vốn đầu tư nước
ngoài. Mah (2002) cũng đã điều tra tác động của dòng vốn FDI vào hệ số Gini tại Hàn Quốc
và kết luận rằng toàn cầu hóa có xu hướng xấu đi trong phân phối thu nhập. Taylor và
Driffield (2004) cũng vậy, dựa trên kinh nghiệm phân tích , họ nhận thấy rằng dòng vốn FDI
đã góp phần làm tăng bất bình đẳng tiền lương với cấp độ công nghiệp ba chữ số tại Vương
quốc Anh trong lĩnh vực sản xuất từ 1983 đến 1992. Zhang & Zhang (2003) lập luận rằng
ngoại thương và FDI ở Trung Quốc là những yếu tố quan trọng góp phần đến sự bất bình
đẳng trong khu vực. Trong khuôn khổ xuyên quốc gia, Tsai (1995) nghiên cứu mối liên hệ
giữa FDI và bất bình đẳng khi sử dụng mẫu của 33 quốc gia đang phát triển và nhận thấy rằng
FDI chỉ làm gia tăng bất bình đẳng ở một số nước châu Á.
FDI ở nước nhận đầu tư cũng có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến giảm nghèo. Tác
động gián tiếp của FDI tới giảm nghèo là thông qua tăng trưởng kinh tế dẫn đến cải thiện mức
sống do sự gia tăng GDP, cải thiện công nghệ và năng suất, cũng như môi trường kinh tế. Khi
xem xét mối quan hệ giữa FDI và nghèo đói, FDI giúp tăng trưởng việc làm và giảm người
sống dưới mức nghèo khổ do sự cải thiện lực lượng lao động, trong đó có sự cải thiện về trình
độ và chuyên môn, sự gia tăng nhu cầu sử dụng nguồn lao động có tác động trực tiếp đến
nghèo đói (Nguyen, 2003). Đầu tư FDI tác động trực tiếp và gián tiếp đến giảm nghèo không
giống nhau trong mọi điều kiện và có thể thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Đó là số lượng
và chất lượng đầu tư, các điều kiện của lĩnh vực đầu tư, cải tiến công nghệ, và cách nước nhận
đầu tư chi tiêu hiệu quả các khoản đầu tư. Thêm vào đó, những yếu tố này còn bị ảnh hưởng
bởi các điều kiện kinh tế và chính trị- một trong những yếu tố quyết định quan trọng nhất về
tác động của FDI đến nghèo đói (Shahbaz & Aamir, 2008). Do đó, nếu một quốc gia muốn
đạt được kết quả tốt hơn trong giảm nghèo thông qua FDI, thì cần cân nhắc đến yếu tố đảm
bảo ổn định chính trị để thu hút nguồn vốn đầu tư FDI.
So với các nghiên cứu về mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế, các nghiên cứu
dành cho việc kiểm tra tác động của FDI đối với sự phát triển của con người còn tương đối ít.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, các tài liệu về sau này đã cho rằng mục đích cuối cùng của các
chính sách đầu tư nên là cải thiện sự phát triển của con người. Arcelus, Sharma và Srinivasan
(2004) xem xét hiệu quả của FDI đối với sự phát triển của con người bằng cách sử dụng chỉ
số HDI cho cả các quốc gia thu nhập trung bình và thấp. Trong giai đoạn mẫu 1975-1999,
nhóm tác giả thấy rằng FDI có tác động tích cực đến sự phát triển của con người đối với cả
hai nhóm quốc gia. Srinivasan (2005) nghiên cứu ảnh hưởng của dòng vốn nước ngoài đến ba
thành phần là thu nhập quốc dân, tuổi thọ trung bình từ khi sinh và chỉ số giáo dục của HDI
và thấy rằng tác động của vốn nước ngoài đối với sự phát triển của con người phụ thuộc vào
một số yếu tố, trong đó quan trọng nhất là dòng vốn đầu vào để mở rộng quy mô.
Gohoun và Soumare (2012) điều tra tác động của FDI đến thu nhập quốc dân (GNI),
một yếu tố quyết định quan trọng đối với sự phát triển của con người, trong giai đoạn 1990-
2007 ở khu vực châu Phi bằng cách sử dụng dòng vốn FDI và HDI của UNDP (United
Nations Development Programme) làm biến số chính. Kết quả đã cung cấp bằng chứng cho
mối quan hệ tích cực và có ý nghĩa giữa FDI và GNI. Ngoài ra, nhóm tác giả báo cáo rằng, tác
động của dòng vốn FDI vào phúc lợi xã hội là mạnh nhất đối với các khu vực nghèo.
Nghiên cứu điều tra tác động dài hạn của FDI đối với một số khía cạnh phát triển của
con người trong giai đoạn năm 1972-2013. Mối quan hệ cân bằng dài hạn được xác nhận bằng
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 387
kiểm định đồng liên kết Johansen (1988), kết quả cho thấy FDI có tác động tích cực, và có ý
nghĩa thống kê đối với tỉ lệ đi học và GNI, trong khi đó nó có tác động tiêu cực đến tuổi thọ.
FDI gây ra sự cạnh tranh gay gắt với đầu tư trong nước, dẫn đến căng thẳng trong công việc
và mất an ninh kinh tế, gây suy giảm sức khỏe cộng đồng (Herzer &Nunnenkamp, 2012).
Aahad M. Osman-Cani et al. (1998) đã tìm thấy kết quả thú vị liên quan đến chiến lược
nguồn nhân lực đóng góp trong phát triển kinh tế của Singapore,nghiên cứu kết luận rằng
Singapore phát triển được là nhờ đầu tư vào vốn nhân lực, đặc biệt là giáo dục. Pedro Flores-
Crespo (2007) áp dụng Amartya – một cách tiếp cận của Sen để tìm ra tác động của giáo dục
và phát triển con người đến kinh tế phát triển trong trường hợp của Mexico, kết luận rằng việc
đầu tư thành lập trường đại học kỹ thuật ở một khu vực nghèo Mexico đã giúp sinh viên trẻ
tốt nghiệp để có được việc làm và có những đóng góp tương đối cho sự phát triển kinh tế
vùng. J.Shola Omotola (2008) xác định rằng nghèo đói có thể làm chậm sự phát triển con
người dẫn đến hậu quả làm chậm phát triển kinh tế như trong trường hợp của Nigeria. J.Beesn
Cox và cộng sự, (2005) đã xác định các yếu tố phát triển con người, tức là văn hóa xã hội,
chính trị, kinh tế và công nghệ ở các nước đang phát triển. Như vậy, đầu tư trực tiếp FDI tác
động gián tiếp đến sự phát triển con người thông qua tăng trưởng kinh tế và chuyển giao kĩ
thuật, khoa học- công nghệ. Kristine Sydhagen et al. (2007) lập luận rằng cần đào tạo kỹ năng
lao động để phát triển kinh tế, điều này đã áp dụng cho khu vực châu Phi cận Sahara và các
nền kinh tế đang phát triển thông qua nguồn vốn đầu tư FDI.
Hiện nay, các nghiên cứu tổng quan về tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế khá
nhiều, tuy nhiên các nghiên cứu đi sâu phân tích tác động của FDI đến sự phát triển con người
là khá khan hiếm tại Việt Nam. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hoa (2004) là một trong
số rất ít nghiên cứu dùng cả hai phương pháp định tính và định lượng để đánh giá tác động
của FDI đến HDI. Nghiên cứu này chỉ lượng hóa được tác động của FDI tới tăng trưởng của
các tỉnh Việt Nam nhằm mục đích cuối cùng là tìm mối quan hệ giữa FDI và xóa đói giảm
nghèo. Các nghiên cứu định lượng khác để kiểm định tác động của FDI hầu như rất ít. Sự
thiếu vắng các nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định lượng thông qua mô hình hóa
có thể là do thiếu các dữ liệu cần thiết hoặc và thiếu tin tưởng vào số liệu sẵn có. Các nghiên
cứu khác chưa phân tích được tác động của FDI đến các khía cạnh toàn diện hơn của chỉ số
phát triển con người: SE, LE và GNI. Đó chính là khoảng trống mà nhóm nghiên cứu muốn
thực hiện trong nghiên cứu này.
3.Xây dựng mô hình nghiên cứu
3.1.Các biến số
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Theo WTO, Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy
ra khi nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước
thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt
FDI và các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư và tài sản do
nhà đầu tư quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.
Theo các nghiên cứu trước đó, như Arturo (2001) nghiên cứu vai trò FDI đối với vốn
con người; Sharma and Gani (2004); Santosa (2014) với bài viết về tác động của FDI đến phát
triển xã hội ở Indonesia và các quốc gia Đông Nam Á; Cao, Trinh & Nguyen (2017) về tác
động của FDI đến HDI (IHDI) ở các quốc gia khu vực Châu Á;…đều cho thấy tác động của
FDI đến các nhân tố: HDI, LE, SE và GNI.
Chỉ số phát triển con người (HDI): Được phát triển từ năm 1990 bởi nhà kinh tế người
Pakistan Manbub ul –Haq và nhà kinh tế người Ấn Độ Amartya Sen. HDI chứa đựng 3 yếu tố
phản ánh tương ứng với ba khía cạnh thuộc về năng lực phát triển của con người: Năng lực tài
chính (thu nhập- được đo bằng thu nhập bình quân đầu người), năng lực trí lực (giáo dục –
được đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đi học) và năng lực thể lực (y tế và chăm sóc
sức khỏe – được đo bằng tuổi thọ bình quân). Năm 2013, Gittens and Pilgrim cho thấy tác
động tích cực của HDI đến FDI trong giai đoạn 1970 – 2010 ở các quốc gia đang phát triển.
18000
16000
14000
12000
10000
8000
6000
4000
2000
Hình 2: Tuổi thọ trung bình từ lúc sinh của Việt Nam giai đoạn 1990 – 2017
(Đơn vị: Năm)
90
88
86
84
82
80
78
76
6000
5000
4000
3000
2000
1000
Nhận xét:
Tuổi thọ trung bình tính từ thời điểm sinh của Việt Nam có xu hướng tăng dần đều qua
các năm.
KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ năm 1990 – 2017 (28 quan sát) và áp dụng mô
hình hồi quy đơn OLS để nhận định tác động trong ngắn hạn của đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đến các biến số của chỉ số phát triển con người (HDI) là thu nhập quốc dân (GNI), tuổi
thọ trung bình (LE) và tỷ lệ đi học (SE).
Kết quả ước lượng cho thấy, xét trên 3 yếu tố của chỉ số phát triển con người trong giai
đoạn 1990 – 2017, thì đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động mạnh nhất đến số lượng học sinh
đi học trung học phổ thông tại Việt Nam, tiếp theo đó là thu nhập quốc dân và tuổi thọ trung
bình của dân cư. Nhìn chung, mô hình đã đưa ra một cách tổng quát sự tác động của đầu tư
trực tiếp nước ngoài đến các nhân tố khá phù hợp với thực tế. Qua kết quả nghiên cứu, nhóm
tác giả đưa ra kết luận rằng:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tác động tích cực đến chỉ số phát triển con người
(HDI) một cách toàn diện trên cả ba khía cạnh. Cụ thể:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động tích cực đến thu nhập quốc dân bình
quân đầu người. Việc gia tăng nguồn vốn FDI vào Việt Nam thúc đẩy hoạt động xây dựng cơ
sở hạ tầng và các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Từ đó, giảm tỷ lệ thất nghiệp,
tạo công ăn việc làm và nâng cao mức thu nhập của dân cư.
Thứ hai, nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ cùng chiều của đầu tư trực tiếp nước ngoài và
tuổi thọ trung bình của người dân. Ta có thể thấy với sự chú trọng của toàn xã hội vào vấn đề
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 393
y tế đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống con người, giảm nghèo đói và bệnh tật, từ đó
nâng cao tuổi thọ người dân. Và với nhận định này thì dự kiến mức tuổi thọ trung bình của
Việt Nam vẫn sẽ tăng trong tương lai và FDI sẽ là một trong những nhân tố tác động tích cực
đến yếu tố này.
Thứ ba, kết quả chạy hồi quy cho thấy FDI tác động tích cực đến số lượng học sinh đi
học trung học phổ thông tại Việt Nam. Điều này cho thấy rằng việc nguồn vốn FDI chảy vào
giúp người lao động có điều kiện cho con cái được học hết cấp trung học phổ thông. Người
dân cũng ý thức được tầm quan trọng của việc tốt nghiệp trung học phổ thông, do đây cũng là
một trong những yêu cầu đối với lực lượng lao động trong ngành FDI nói riêng và thị trường
lao động nói chung.
Qua đó, nhóm tác giả đưa ra một số giải pháp, đặc biệt hướng tới tăng hiệu quả đầu tư
trong thời gian tới, để kỳ vọng một mối quan hệ tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
các nhân tố của chỉ số phát triển con người:
Rà soát các khoản đầu tư và tăng chất lượng đầu tư. Ngoài việc tăng cường đầu tư,
Chính phủ, các cơ quan liên quan cùng các doanh nghiệp cần có những biện pháp quản lý và
giám sát quá trình đầu tư nhằm đảm bảo các khoản đầu tư được sử dụng đúng mục đích, hiệu
quả. Đồng thời, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, gây lãng phí mà không đem lại lợi ích thiết
thực.
Tích cực đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng và hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông
qua nguồn vốn FDI, các doanh nghiệp cần có những chiến lược kinh doanh và sử dụng vốn
hiệu quả. Từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm trong
nước, tác động tích cực đến công ăn việc làm của dân cư và tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững.
Nâng cao chất lượng giáo dục, bởi mục đích tăng cường đầu tư cho giáo dục là cải thiện
chất lượng giáo dục. Đồng thời, Chính phủ và Nhà nước cần có những biện pháp phù hợp để
khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Kiến nghị Chính
phủ nên có những chính sách tuyên truyền rõ ràng về tầm quan trọng của giáo dục trong chiến
lược thu hút nguồn vốn FDI tại Việt Nam. Từ đó có thể kết nối hơn nữa được vai trò của FDI
tới tỷ lệ đi học của học sinh trong thời gian tới.
Cần có chiến lược thu hút FDI có chọn lọc, đảm bảo các dự án FDI có tác động tích cực
và toàn diện tới sự phát triển của con người thay vì chỉ chạy theo các dự án vì mục tiêu lợi
nhuận.
Tuy nhiên, bài nghiên cứu vẫn còn hạn chế. Do điều kiện thu thập số liệu nên nhóm
nghiên cứu mới chỉ sử dụng số liệu từ năm 1990 – 2017, do đó mẫu nghiên cứu chưa đủ lớn.
Bên cạnh đó, dữ liệu nghiên cứu được tổng hợp từ các nguồn khác nhau từ trong nước đến
nước ngoài nên không tránh khỏi sai lệch. Trong thời gian tới, nhóm nghiên cứu dự kiến mở
rộng thêm để kiểm chứng tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến các nhân tố của chỉ số
phát triển con người tại các tỉnh thành ở Việt Nam để đưa ra được đánh giá một các cụ thể,
chính xác và hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Alejandro P.S (2014) FDI and Human Development: What is the Role of Governance?,
Pakistan Journal of Applied Economics, 27, 1-49.
[2] Andreas Johnson (2006) The Effects of FDI Inflows on Host Country Economic Growth,
Electronic Working Paper Series, 58, 1- 57
[3] Cao T.H.V, Trinh Q.L, Nguyen T.A.L (2017). The effect of HDI on Inequality- Adjusted
HDI (IHDI) in Asian countries, Foreign Trade University, 1-18.
[4] Đinh Văn Hải, Lương Thu Thủy (2014) Giáo trình Kinh tế phát triển, Nhà xuất bản Tài
chính, Hà Nội.
[5] Gaston Gohou (2009) Impact of FDI on poverty reduction in Africa: Are there regional
differences?, Impact of FDI on Welfare and Regional Integration in Africa, 2, 1-45.