Professional Documents
Culture Documents
Hoạt độ của nước nguyên chất theo quy ước là một đơn vị:
aw(H2O) = 1
Hoạt độ nước của bất kỳ dung dịch hay thực phẩm nào cũng đều nhỏ hơn 1.
Hoạt độ nước có liên quan đến tổng số nước có trong sản phẩm. Độ ẩm sản phẩm
cao thường chứa nhiều nước tự do, do đó hoạt độ nước cao.
Bảng 1.1. Hoạt độ nƣóc ở 25oC của một số dung dịch
Dung dịch, g chất tan/100g dung dịch
aw
Saccaroza Glucoza Fructoza NaCl KCl CaCl2
0,99 10 9 9 1,7 2,3
0,90 44 31 33 8,1 10 9,3
0,85 59 48(1) 47 14,2 17 15
0,80 68(1) 58(2) 58 19,1 25,8 19,1
0,75 70(2) 65(2) 64 23,1 22,3
0,70 26,5 27,4
Sự sẫm màu của thực phẩm có thể do enzym và phi enzym gây ra. Sự sẫm màu phi
enzym là do các phản ứng caramen hóa, phản ứng maillard, phản ứng giữa sản phẩm oxi
hóa lipit với protein, v.v... Thông thường các sắc tố màu sẫm phi enzym được tạo ra trong
thực phẩm có hàm ẩm thấp hoặc trung bình khi aw > 0,5.
Phản ứng melanoidin tăng mạnh trong khoảng aw = 0,5 – 0,75 và đạt cực đại khi aw
= 0,75. Nghiên cứu các mô hình phản ứng cazein – glucoza ở to và aw khác nhau, người ta
thấy lượng nitơ amin bị mất nhiều ở aw = 0,65 – 0,70 (tại nhiệt độ 37oC, 70oC và 90oC) và
giảm xuống khi ở độ ẩm cao hơn hay thấp hơn.
Ở rau quả và các sản phẩm thực vật, phản ứng sẫm màu xảy ra cực đại ở aw = 0,65
– 0,75.
1.2. CÁC GLUXIT
Gluxit hay cacbonhydrat là hợp phần chủ yếu của các chất khô trong rau quả.
Chúng vừa là vật liệu xây dựng vừa là thành phần chính tham gia các quá trình trao đổi
chất. Gluxit là nguồn dự trữ năng lượng cho các quá trình sống của rau quả tươi khi tồn
trữ.
Gluxit của rau quả chủ yếu là các thành phần đường dễ tiêu hóa như saccaroza,
glucoza và fructoza, nên được cơ thể hấp thụ nhanh và triệt để.
Các loại rau quả khác nhau có thành phần các chất gluxit khác nhau. Gluxit trong
khoai tây chủ yếu là tinh bột, trong đậu non là tinh bột và đường, trong rau lá là
xenluloza, trong quả chín là đường.
Với quả hô hấp đột biến, gluxit được tích tụ dưới dạng tinh bột, tinh bột dần dần
chuyển thành đường trong quá trình chín của quả. Ở quả hô hấp không đột biến , gluxit
được tích tụ dưới dạng đường.
Các mô rau quả khác nhau cũng chứa gluxit khác nhau. Mô bì nhiều xenluloza và
pectin, nhu mô nhiều đường hoặc tinh bột.
Các gluxit trong rau quả thường có ở cả ba dạng: monosacarit (glucoza và
fructoza), disacarit (saccaroza) và polysacarit (tinh bột, xenluloza, hemixenluloza,
pectin). Monosacarit và disacarit có vị ngọt nên gọi chung là các chất đường. Polysacarit
là các polyme thiên nhiên cấu thành từ các monome là hexoza và pentoza.
1.2.1. Các chất đƣờng
Đường tự do trong rau quả chủ yếu ở dạng D-glucoza, D-fructoza và saccaroza.
Glucoza còn ở dạng liên kết trong phân tử của sacaroza, tinh bột, xenluloza,
fremixenluloza và glucozit. Fructoza còn có trong thành phần của saccaroza và inulin.
Các loại đường có độ ngọt khác nhau:
β-fructoza C6H12O6 180%
Saccaroza C12H22O11 100%
β-glucoza C6H12O6 82%
α-glucoza C6H12O6 74%
Mantoza C12H22O11.H2O 60%
α-mantoza HOCH2(CHOH)4CHO 32%
β-lactoza C12H22O11 32%
α-lactoza C12H22O11 16%
Rafinoza C18H32O16.5H2O 1%
Tất cả các đường đều tan trong nước, và độ tan tăng khi nhiệt độ tăng. Các đường
đều hút ẩm mạnh, nhất là fructoza. Trong khí quyển bão hòa hơi nước, fructoza có thể hút
30% nước (theo khối lượng đường), glucoza là 15%, saccaroza là 13%.
Khi nồng độ đường trong sản phẩm quá cao, chúng có thể kết tinh, đặc biệt khi hạ
nhiệt độ. Vì vậy, quả dùng nấu mứt cần có độ axit cao, nếu không thì phải bổ sung axit để
tránh hiện tượng "lại đường".
Saccaroza trong dung dịch axit yếu có thể bị thủy phân tạo ra D-glucoza và D-
fructoza, với lượng bằng nhau, gọi là đường khử.
Khi tồn trữ rau quả tươi, saccaroza dần dần bị thủy phân thành đường khử, dưới
tác dụng của enzym invectaza. Ngược lại, trong quá trình sinh trưởng của rau quả chủ yếu
xảy ra quá trình tổng hợp saccaroza từ đường khử.
Khi đun nóng lâu và ở nhiệt độ cao, các rau quả chứa đường có thể xảy ra hiện
tượng caramen hóa. Phản ứng caramen hóa bắt đầu ở 120oC, tăng nhanh và tạo màu đen ở
160 – 200oC, còn ở 400oC thì cháy hoàn toàn. Ở giai đoạn đầu, các chất tạo thành thường
làm rau quả có mùi thơm (mùi rau rán) và có màu vàng cháy.
Trong chế biến rau quả, các quá trình xử lý nhiệt rất ít khi đến 160oC (trừ quá trình
rán, sấy phun, nướng). Vì vậy phản ứng caramen hóa thường chỉ xảy ra ở giai đoạn đầu.
Sự sẫm màu của các sản phẩm rau quả chế biến, qua xử lý nhiệt nhẹ, thường là do
tác dụng giữa đường và axit amin (phản ứng maillard hay phản ứng melanoidin). Kết quả
là các melanoidin được tạo ra, làm giảm chất lượng sản phẩm, cả về màu sắc, mùi vị và
giá trị dinh dưỡng. Phản ứng này xảy ra mạnh giữa các axit amin hòa tan (glixin, alanin,
asparagin) với các đường mono có các nhóm cacbonyl tự do (fructoza, glucoza, mantoza,
xiloza). Phản ứng xảy ra mạnh nhất khi tỉ lệ khối lượng phân tử giữa axit amin và đường
bằng 1:2. Saccaroza chỉ có thể tham gia phản ứng sau khi đã thủy phân thành đường khử.
Các axit amin có khả năng hòa tan kém (xistin, tirozin) cũng kém hoạt động.
Phản ứng maillard còn tạo ra hàng loạt sản phẩm trung gian (như andehyt)...,
chúng làm cho sản phẩm có mùi khác biệt.
Phản ứng này bắt đầu ngay ở 30oC, tăng nhanh ở 60oC, rất nhanh ở 100 – 120oC.
Nó xảy ra trong môi trường axit hay kiềm, đặc biệt khi lượng nước bằng 30% so với
lượng hoạt chất. Phản ứng không xảy ra khi nước chiếm 90%. Do đó, rau quả cô đặc lâu
ở các nồi hở thường có màu xấu, mùi vị kém tự nhiên. Phản ứng xảy ra không chỉ ngay
khi gia nhiệt mà còn tiếp tục trong quá trình tồn trữ. Vì vậy, nhiều loại thực phẩm tồn trữ
càng lâu, màu càng sẫm.
Trong các chủng loại rau quả khác nhau, số lượng và tỉ lệ các loại đường khác
nhau, làm cho rau quả có vị ngọt khác nhau. Quả hạch (mơ, mận, đào) có ít saccaroza,
còn glucoza và fructoza bằng nhau. Trong quả có múi (cam, chanh, quýt, bưởi), chuối
tiêu, dứa thì đường chủ yếu là saccaroza. Trong quả nhân, dưa hấu, lượng fructoza
thường cao. Trong nho, chuối bom, đường chủ yếu là glucoza.
1.2.2. Tinh bột (C6H10O5)n
Tinh bột là một polyme tự nhiên mà monome là glucoza. Tinh bột không phải là
một hợp chất đồng thể mà gồm hai polysacarit khác nhau: amiloza mạch thẳng và
amilopectin mạch nhánh. Nhìn chung, tỉ lệ amiloza và amilopectin trong đa số tinh bột là
1/4. Tinh bột gạo nếp, ngô nếp gần như 100% là amilopectin, của khoai tây, gạo tẻ, ngô tẻ
78 – 83% là amilopectin. Trong quả, amilopectin không có hoặc có rất ít , riêng tinh bột
chuối có 83% là amilopectin. Trong đậu xanh, dong, riềng amiloza chiếm 80% tinh bột.
Tinh bột tồn tại trong thực vật dưới dạng hạt tinh bột. Hạt tinh bột trong mỗi loại
thực vật có hình dạng và kích thước đặc trưng, do vậy có tính chất cơ lí (nhiệt độ hồ hóa,
khả năng hấp thụ xanh metylen...) khác nhau. Kích thước hạt tinh bột càng lớn (từ 20µm
trở lên) thì củ càng bở xốp khi nấu chín. Khi tồn trữ lâu các loại quả, kích thước hạt tinh
bột có thể giảm, do vậy củ trở nên quánh hoặc sượng. Khối lượng riêng của tinh bột là 1,5
– 1,6, do vậy khi trộn củ đã nghiền trong nước, tinh bột lắng xuống đáy. Tinh bột hồ hóa
ở 62 – 73oC, tùy thuộc vào thành phần amiloza và amilopectin. Trong dung dịch, tinh bột
cản trở sự đối lưu. Khi gặp iốt, tinh bột cho màu xanh, đun nóng thì mất màu nhưng để
nguội màu xanh lại hiện ra. Khi thủy phân hoàn toàn, tinh bột cho glucoza. Các sản phẩm
trung gian là amilodextrin, dextrin và mantoza.
Tinh bột chứa nhiều trong các hạt cốc (60 – 75%), các loại đậu (50 – 60%), củ
(khoai tây 15 – 18%, khoai lang 12 – 26%, sắn 20%), chuối xanh (15 – 20%)... Trong các
loại rau quả khác, tinh bột đều có nhưng hàm lượng thấp và thay đổi theo quy luật riêng.
Với các loại rau đậu, hàm lượng tinh bột tăng lên trong quá trình già chín, đồng thời hàm
lượng đường giảm đi. Với các loại quả thì ngược lại, khi xanh tinh bột nhiều hơn khi
chín. Ví dụ, chuối tiêu khi xanh già chứa 20,6% tinh bột, nhưng khi chín chỉ còn 1,95%,
trong khi hàm lượng đường tăng từ 1,44% lên 16,48%.
Trong thực tế sản xuất của công nghiệp thực phẩm, ứng với mỗi sản phẩm thực
phẩm thường đòi hỏi một dạng tinh bột hoặc dẫn xuất nhất định. Vì vậy, để có các loại
hình tinh bột phù hợp, người ta phải biến hình tinh bột. Mục đích của biến hình tinh bột
nhằm:
- Cải biến các tính chất của sản phẩm;
- Tăng giá trị cảm quan;
- Tạo mặt hàng mới;
Có nhiều cách biến hình tinh bột, nhưng chúng được gộp lại thành ba nhóm:
- Biến hình vật lý (trộn với chất rắn trơ, hồ hóa sơ bộ, gia nhiệt khô ở nhiệt độ
cao);
- Biến hình hóa học (axit, kiềm, oxi hóa, bổ sung phosphat, tạo liên kết ngang);
- Biến hình enzym (α-amilaza, β-amilaza).
1.2.3. Xenluloza
Xenluloza (C6H10O5)n có trong rau quả ở các phần vỏ (thành tế bào, vỏ quả, vỏ
hạt) và mô nâng đỡ. Xenluloza có cấu tạo mạch thẳng, liên kết 2000 – 10000 phân tử
glucoza. Các phân tử xenluloza hình sợi liên kết với nhau bằng cầu hydro tạo thành bó
gọi là mixen. Nhiều mixen liên kết thành chùm sợi. Những chùm sợi liên kết với nhau
bằng hemixenluloza, protopectin (đôi khi cả licnin và cutin) tạo thành mô vỏ rắn chắc và
quả cứng khi chúng còn xanh. Trong quá trình chế biến, xenluloza nhiều sẽ gây khó khăn
như truyền nhiệt kém, cản trở đối lưu, dễ gây cháy sản phẩm, cản trở quá trình chà và
đồng hóa.
Khi tồn trữ rau quả, xenluloza ít biến đổi. Tuy nhiên, có nghiên cứu cho thấy, khi
tồn trữ cải bắp, xenluloza giảm đi, có thể nó đã bị phân hủy. Hoặc trong mô nạc một số
quả có nhiều thạch bào (na, ổi, lê...), khi bảo quản quả chín dần và xảy ra hiện tượng
nghịch gỗ hóa vỏ thạch bào, tức xenluloza bị thủy phân.
Hàm lượng xenluloza trong quả là 0,5 – 2,7%, có khi tới 6% (dứa 0,5 – 0,8%; cam,
bưởi 0,5 – 1,4%; hồng 0,5 – 2,5%; ổi chín 0,5 – 6%); trong rau 0,2 – 2,8% (cà, cải bắp
0,2 – 1,5%, măng 0,2 – 3%) và có khi cao hơn (dưa chuột 4 – 5%).
1.2.4. Hemixenluloza
Hemixenluloza hay semixenluloza (bán xenluloza) có trong thành tế bào rau quả
nhưng kém bền hơn xenluloza. Khác với xenluloza, hemixenluloza vừa là vật liệu cấu
trúc thành tế bào vừa là nguyên liệu dự trữ năng lượng cho các quá trình trao đổi chất
trong rau quả.
Hemixenluloza rau quả chủ yếu là pentozan, khi thủy phân sẽ cho arabinoza,
mantoza, galactoza và xiloza. Pentozan không bị thủy phân trong đường tiêu hóa của
người, nên có nhiều hay ít trong rau quả cũng không ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng
của chúng. Trong quả chứa 0,3 – 2,7% và trong rau 0,2 – 3,1% pentozan, khi đun sôi lâu
trong axit clohydric đậm đặc, từ pentozan sẽ thu được frucfurol. Tính chất này cần được
áp dụng để xử lý phế liệu rau quả (núm rau, núm quả, lõi bắp ngô, v.v...).
1.2.5. Các chất pectin
Các chất pectin là hợp chất gluxit cao phân tử nhưng phân tử lượng của nó thấp
hơn nhiều so với xenlulose và hemixenlulose, từ 20000 - 200000. Các chất pectin đóng
vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi nước khi chuyển hóa các chất và trong quá
trình chín của rau quả. Chất pectin trong rau quả ở hai dạng: dạng không hòa tan
(protopectin) và dạng hòa tan (axit pectic hay axit polygalacturonic).
Protopectin thường ở trong tập hợp với hemixenlulose và xenlulose. Nó không hòa
tan trong nước nhưng dễ bị thủy phân bởi enzym hay axit thành pectin. Trong rau quả,
protopectin là vật liệu gắn kết các chùm sợi xenlulose ở thành tế bào và nằm ở gian bào
để gắn các tế bào, tạo nên sự rắn chắc của quả khi còn xanh.
Trong quá trình chín, dưới tác dụng của protopectinase với sự tham gia của axit
hữu cơ, protopectin bị thủy phân thành pectin hòa tan (nằm trong dịch bào), làm cho
cường lực liên kết các tế bào giảm, thành tế bào trở nên mỏng hơn, quả trở nên mềm dần.
Sự chuyển protopectin còn lại trong quả chín thành pectin có thể thực hiện bằng
cách gia nhiệt. Khi đó, môi trường axit của quả sẽ tham gia vào quá trình này, ngoài
pectin còn thu được araban. Quá trình này làm cho rau quả mềm hơn khi chần hay gia
nhiệt đến 80 - 85oC.
Dung dịch pectin có tính keo cao, độ nhớt và độ bền của keo lớn, gây khó khăn
cho nhiều quá trình chế biến như: lọc, làm trong, cô đặc nước quả, v.v…
Pectin là chất không mùi vị. Keo pectin nhờ có các nhóm cacboxyl tự do nên mang
điện tích âm, do vậy dễ bị kết tủa với kim loại tạo thành pectat, ví dụ với canxiclorua tạo
canxipectat. Từ dung dịch nước, pectin có thể bị kết tủa với rượu, axeton, ete hoặc
benzen. Pectin kết hợp với tanin tạo ra hợp chất không tan và kết tủa. Đun nóng trong
nước, pectin bị phá hủy. Một tính chất quan trọng nữa của pectin là tính tạo đông ở nồng
độ thấp (1 - 1,5%) khi có đủ đường (60%) và axit (1%). Tính chất này được ứng dụng
trong sản xuất các loại mứt ướt và bánh kẹo.
Khả năng tạo đông của pectin tùy thuộc nguồn pectin, mức độ metoxyl hóa và
phân tử lượng của pectin. Pectin quả tốt hơn pectin rau, pectin từ bã cam, bưởi tốt hơn từ
bã táo, v.v...
Các loại rau quả khác nhau có hàm lượng pectin khác nhau: táo 1,5 - 3,5%; chanh
2,5 - 4%; cam 3,5 - 12,4%; cà rốt, bí ngô 2,5%; cùi bưởi 3,1%; vỏ múi bưởi 5,8%; vỏ hạt
5,3%; bã tép 5,2%.
Trong quá trình phát triển và già chín của rau quả, hàm lượng pectin luôn biến đổi,
thường cao nhất khi chín tới, sau đó giảm đi do bị demetoxyl hóa và depolyme hóa. Khi
quả bị thối rửa, pectin bị phân hủy sâu hơn.
1.3. CÁC AXIT HỮU CƠ
Axit hữu cơ tạo cho rau quả có vị và mùi nổi hơn bất cứ thành phần nào khác. Axit
hữu cơ cùng tham gia vào quá trình oxi hóa khử trong rau quả như gluxit và trong quá
trình hô hấp (chu trình tricacboxilic, còn gọi là chu trình Krebs). Vì vậy, sau khi tồn trữ
lâu dài, giá trị cảm quan về mùi vị của một số rau quả giảm đi rõ rệt.
Axit hữu cơ có trong rau quả dưới dạng tự do, dạng muối và este. Một số axit hữu
cơ bay hơi và liên kết với ete tạo ra mùi thơm. Trong rau quả, axit hữu cơ ở dạng tự do là
chính, nhưng trong lá chút chít (lá chua làm gia vị) thì 3,77% là axit tự do và 7,98% là ở
dạng liên kết.
Độ axit chung của rau quả thường không quá 1%. Tuy nhiên một số quả có độ axit
cao: bưởi chua 1,2%, mận chua 1,5%, mơ 1,3%, chanh 6 – 8%.
Độ axit không chỉ phụ thuộc vào loại rau quả mà còn theo giống, độ chín, nơi
trồng và mùa thu hoạch. Ví dụ độ axit của một số giống cam:
- Cam chanh Nghệ An: 0,4%
- Cam chanh Hòa Bình: 0,55%
- Cam chanh Tuyên Quang: 0,6%
- Cam sành Bố Hạ: 0,67%
- Cam sành Hòa Bình: 0,75%
- Cam sành Nghệ An: 1,04%
- Cam chua Hải Dương: 1,18%
Phần lớn các loại rau thuộc loại không chua với pH = 5,5 – 6,5, còn hầu hết các
loại quả và một số rất ít loại rau (cà chua) thuộc loại chua, có pH = 2,5 – 4,5. Do đó pH =
4,6 được chọn làm ranh giới giữa thực phẩm axit cao (chua) và thực phẩm axit thấp (ít
hoặc không chua).
Trong rau quả có nhiều loại axit nhưng mỗi loại rau quả chỉ có 1 – 2 axit chính.
Tuy nhiên, vị chua đặc trưng từng loại rau quả là do tập hợp của axit chính và axit phụ.
Axit chủ yếu của citrus, dứa là axit citric, của nho là axit tatric, của táo là axit malic, của
chuối bom là axit oxalic.
Độ chua không chỉ phụ thuộc vào tổng lượng axit mà còn vào độ phân li. Độ chua
tăng dần theo thứ tự: axit citric, axit axetic, axit tatric, axit malic, axit lactic. Axit tatric
được coi l à chất có vị chua tiêu chuẩn.
pH 2 3 4 5 6 7
Chanh Cam Chuối
Nho Cà chua Bầu
Quất
Sơ ri Mơ Cà rốt Khoai tây
Dứa
Mận Dưa chuột Thịt
Vải Đậu ve Ngô
Dâu tây Nhãn
Đào Đậu tròn
Xoài Khoai lang Măng tây Cá
Một phần sản lượng dứa dùng để ăn tươi, còn phần lớn dùng để chế biến đồ hộp,
nước giải khát, rượu vang, cồn, mứt, kẹo, giấm, citrat, chế phẩm bromelin, thức ăn gia
súc và phân bón. Trên thế giới, dứa được trao đổi chính ở dạng đồ hộp làm từ dứa Caien
(90%). Việt Nam muốn phát triển xuất khẩu sản phẩm dứa phải đổi giống, tập trung
Caien ở các vùng đồi, thay đổi thiết bị, công nghệ, kết hợp giữa làm dứa khoanh với nước
dứa cô đặc, cải tiến bao bì và hạ giá thành sản xuất.
Bảng 2.3. Đặc điểm công nghệ dứa quả (loại 1)
Khối Chiều Đƣờng
Đƣờng Vỏ dày, Mắt
Giống dứa, nơi trồng lƣợng cao quả, kính
kính, cm cm sâu, cm
quả, g cm lõi, cm
Dứa hoa Phú Thọ 500 10 8,5 1 1,2 2
Dứa hoa Tuyên Quang 490 10,5 8,7 1 1 2,35
Khóm Long An 900 15 10,5 - - 2,1
Dứa Caien Phủ Quỳ 3150 24 15 0,3 1 4,5
Dứa Caien Phú Hộ 2050 17,5 13 0,25 1 2,5
Dứa Hà Tĩnh 750 13 10 1 1,5 2
Dứa mật Vĩnh Phúc 1300 15 11 1,5 1,5 2,6
Bảng 2.4. Sự thay đổi thành phần hóa học của dứa hoa Phú Thọ
theo tháng thu hoạch
Tháng Độ axit, Axit hữu cơ Đƣờng tổng Độ khô, Vitamin Chỉ số
thu hoạch % tự do, % số, % % C, mg% đƣờng/axit
1 0,9 0,71 13,5 23,7 51 15
2 0,87 0,74 12,7 22 50 14,6
3 0,75 0,62 14,8 21,4 42,7 19,7
4 0,75 0,67 17,9 19,6 35,5 23,8
5 0,7 0,58 19,5 21,2 28,2 27,8
6 0,78 0,56 18,1 20,5 33,3 25,8
7 0,7 0,6 17,5 19,3 40 25
8 0,8 0,6 16,7 18 29,5 23
9 0,72 0,5 18,4 21,4 44,9 25,5
10 0,72 0,5 18,5 20,8 52,5 25,7
11 0,9 0,7 17,2 22,1 42,1 19,1
12 0,95 0,75 13 23,5 37,6 12,6
Bảng 2.5. Sự thay đổi thành phần hóa học của dứa Victoria nhập nội
theo độ chín
Độ chín
Chỉ tiêu
Ƣơng Chín tới Chín
Độ khô, % 13 15,1 17
Đường tổng số, % 10 11,2 14,1
Đường khử, % 2,4 3,3 3,2
Saccaroza, % 7,6 7,9 10,9
Xenluloza, % 1,8 1,6 1,6
Pectin hòa tan, % 0,13 0,1 0,08
Protopectin, % 0,12 0,1 0,1
Độ axit, % 0,48 0,52 0,5
Độ tro, % 0,48 0,39 0,37
Kali, mg% 250 240 230
Phospho, mg% 45 50 48
Canxi, mg% 26 20 18
2.1.2. Chuối
Chuối có nhiều loại, trong đó có 3 loại chính là: chuối tiêu, chuối goòng và chuối
bom. Ngoài ra còn có chuối ngự, chuối cau, chuối lá, chuối hột, v.v…
Chuối tiêu (chuối già, nhóm Cavendish, Gros Michel) là phổ biến nhất, chất lượng
ngon (nhất là vào mùa lạnh, nhiệt độ 20 – 26oC), thích hợp nhất để ăn tươi. Chuối tiêu có
2 giống chính: tiêu lùn và tiêu cao. Chuối được trao đổi trên thị trường thế giới chủ yếu ở
dạng tươi.
Chuối goòng (chuối tây, chuối sứ, chuối xiêm) là giống đã nhập nội từ lâu đời.
Chất lượng ngon nhất là vào mùa nóng. Cây chuối goòng chịu nước hơn chuối tiêu. Lá
dùng để gói bánh. Hoa chuối và thân cây non dùng làm rau ăn (rau chuối).
Chuối bom (pomme, có hương táo cây, chuối cau lai) mới nhập nội sau 1960 và
tập trung ở vùng 7 xã Cây Gáo thuộc tỉnh Đồng Nai. Quả nhỏ, vỏ và ruột vàng, vị chua
hơn hai loại chuối trên, thích hợp cho chế biến vì biến màu ít hơn hai loại trên. Cây chuối
bom chịu hạn tốt, có thể trồng trên đồi dốc đến 45o.
Về thành phần hóa học, chuối chín chứa 70 – 80% nước, 20 – 30% chất khô, chủ
yếu là đường. Trong đường thì đường khử chiếm 55%. Hàm lượng protein thấp (1 –
1,8%), gồm 17 axit amin nhưng chủ yếu là histidin. Lipit không đáng kể. Axit trong chuối
(khoảng 0,2%) chủ yếu là axit malic và axit oxalic, vì thế chuối có độ chua dịu. Chuối
chứa ít vitamin (carotin, vitamin B, vitamin C, axit pantotenic, axit folic, inositol) nhưng
hàm lượng cân đối; ngoài ra còn có muối khoáng, pectin, hợp chất polyphenol.
Tuy hàm lượng polyphenol trong chuối thấp (1 – 1,84%) nhưng hoạt lực của các
enzym oxi hóa (oxidaza, polyphenoloxidaza) mạnh, nên các hợp chất này bị oxi hóa
mạnh. Do phản ứng enzym và phi enzym của các hợp chất polyphenol xảy ra trong chế
biến và suốt quá trình tồn trữ, hợp chất màu được tạo ra làm cho các sản phẩm chuối bị
biến màu, cường độ màu đậm theo thời gian (xám hồng, đỏ, nâu, đen). Chuối tiêu biến
màu mạnh nhất, chuối bom yếu nhất.
Bảng 2.6. Thành phần hóa học một số giống chuối
Chuối tiêu Chuối tiêu Chuối bom Chuối sứ Chuối ngự
Chỉ tiêu
Phú Thọ Hải Dƣơng Đồng Nai Đồng Tháp Nam Định
Nước, % 76,5 78 70,5 78 75
Lipit, % 0,07 0,1 - - 0,2
Protein, % 1,8 1,09 - - 1,8
Tinh bột, % 0,8 0,7 1,1 2,8 1,1
Đường tổng số, % 18,4 16,2 17,2 17,3 17,1
Saccaroza, % - - 10,4 11,2 -
Fructoza, % - - 3,7 2,3 -
Glucoza, % - - 3,1 3,8 -
Axit, % 0,15 0,1 0,23 0,14 0,1
Tro, % 0,8 1,0 1,1 0,8 0,8
Vitamin C, mg% 65 80 95 58 90
Bảng 2.7. Sự thay đổi thành phần hóa học theo độ chín của chuối tiêu
Chuối
Chỉ tiêu Chuối ƣơng Chuối chín
xanh
Tinh bột, % 0,6 3,52 1,95
Fructoza, % 0,32 3,42 5,69
Glucoza, % 0,12 0,48 4,81
Saccaroza, % 1 6,2 5,98
Xenluloza, % 0,59 0,58 0,5
Pectin, % 0,8 0,82 0,84
Tanin, % 0,21 0,2 0,18
Axit hữu cơ, % 0,79 0,51 0,36
Bảng 2.8. Thành phần hóa học và chất lƣợng chuối tiêu theo vụ
Chỉ tiêu Quý I Quý II Quý III Quý IV
Tinh bột, % 0,45 – 0,9 0,23 - 1 0,2 – 0,45 0 – 0,45
Đường, % 19,5 – 21,5 18,5 - 21 18,5 - 23 19,5 – 22,5
Axit, % 0,22 – 0,24 0,19 – 0,22 0,14 – 0,19 0,2 – 0,24
Vitamin C, mg% 54 – 60 14,5 – 30,7 15,6 – 22 45,5 - 70
Tỷ lệ ruột, % 65 63 67 69
Màu vỏ Vàng Trắng vàng Vàng xanh Vàng
Từ trắng ngà
Màu ruột Vàng Vàng ngà Vàng tơ
đến vàng ngà
Chắc hay Xốp, có ống Xốp, có ống
Trạng thái ruột Đặc, dẻo
chai cứng nhựa hay nẫu nhựa
Hương Thơm Ít thơm Ít thơm Thơm ngát
Ngọt, dư vị Ngọt, dư vị Ngọt hài
Vị Hơi chua
chát chua hòa
Bảng 2.9. Hàm lƣợng polyphenol của chuối theo độ chín
Thành phần Hàm lƣợng theo độ chín, mg%
polyphenol Ƣơng Chín tới Chín
Chuối tiêu
Antoxian 4,5 4,12 3,02
Leucoantoxian 34 80,1 60,1
Flavol 2,28 2,33 0,4
Catexin tự do 190 25 10
Tanit 20 80 80
Tổng số 1200 1840 1640
Chuối goòng
Antoxian 10,5 9 2,67
Leucoantoxian 95 147 140
Flavol 3,9 1,83 1,83
Catexin tự do 158 67 5
Tanit 72 90 100
Tổng số 1140 1140 1100
Bảng 2.12. Sự thay đổi độ khô, gluxit và vitamin theo giống bƣởi
Giống bƣởi Độ khô, % Đƣờng, % Pectin, % Vitamin C, mg% Carotin, mg%
Đoan Hùng 13 11,3 0,14 118 0,14
Phúc Trạch 11 6,6 0,12 92 0,1
Thanh Hà 14 11,7 0,27 77 0,13
Biên Hòa 11 6,2 0,45 105 0,12
Bảng 2.13. Sự thay đổi độ khô và gluxit của cam theo độ chín
Độ chín Độ khô, % Saccaroza, % Đƣờng khử, % Pectin, %
Cam chanh
Ương 9,5 2,5 3,55 1,25
Chín tới 11,5 3,1 4,05 1,02
Chín 12 4,92 4,34 0,87
Quá chín 11,4 3,5 5,18 0,76
Cam sành
Ương 9,8 2,4 4,1 1,47
Chín tới 11,7 3,2 5,01 1,15
Chín 13,1 5,12 4,8 0,95
Quá chín 12,5 4,05 5,15 0,75
2.1.4. Xoài
Xoài là loại quả nhiệt đới rất ngon, có hương vị tổng hợp của đu đủ, dứa và cam. Ở
Việt Nam, xoài có nhiều giống, thu hoạch vào tháng 4 (xoài ở Nam Bộ) và tháng 7 (xoài
ở Cam Ranh, Khánh Hòa và Yên Châu, Sơn La):
- Xoài thơm (hay xoài Sài Gòn): quả có vị ngọt, hương rất thơm;
- Xoài cát (cát đen, cát trắng): quả lớn hơn xoài thơm, thơm ngon, giòn. Xoài cát
Hòa Lộc được đánh giá là ngon nhất trong các giống xoài ở Việt Nam;
- Xoài thanh ca: quả vừa, thơm ngon;
- Xoài mủ: quả nhỏ, có mùi nhựa, giá rẻ;
- Xoài tượng: quả to, ăn xanh với nước mắm đường.
Muỗm và quéo có rải rác ở miền Bắc. Xoài tập trung ở miền tây Nam Bộ, nay
được phát triển ở các trang trại miền đông (nhưng ra quả ít).
Xoài là quả một hạt, hình thận, vỏ dai, khi chín có màu từ phớt xanh đến vàng
cam, thịt quả mọng nước, bám chắc vào hạt. Hạt xoài to, dẹt, chiếm 5 – 10% khối lượng
quả.
Xoài chứa 76 – 80% nước, 11 – 20% đường, 0,2 – 0,54% axit (khi xanh có thể tới
3,1%), carotin 3,1mg%, vitamin B1 0,04%, vitamin B2 0,05%, vitamin PP 0,3%, vitamin
C 13%. Axit trong xoài chủ yếu là axit galic C6H2(OH)3COOH.
Bảng 2.15. Thành phần hóa học của xoài
Thành Giống
phần, % 1 2 3 4 5
Chất khô 18,8 16,76 22,3 12,67 20,07
Đường khử 3,72 3,56 3,27 - 3,16
Saccaroza 8,81 10,06 12,6 - 12,09
Axit 1,44 0,39 0,27 - 0,42
Protein - 0,43 0,73 0,69 0,71
Lipit - - - 0,08 0,15
Xenluloza - - - 0,93 0,59
Tro 0,32 0,47 0,86 0,83 0,39
2.1.7. Đu đủ
Đu đủ là cây nhiệt đới khá đặc biệt. Quả đu đủ xanh được dùng như một loại rau
ăn (ăn nấu hoặc ăn sống), có chứa papain - một enzym thủy phân protein. Các nước như
Malaixia... trồng đu đủ để thu chế phẩm papain, quả dùng để chế biến công nghiệp. Khi
chin, đu đủ có vị ngọt dịu, dùng để ăn tươi, chế biến đồ hộp, mứt, đông lạnh, nước giải
khát. Ở nước ta, đu đủ là cây lâu năm; ở miền tây Nam Bộ có lũ từ tháng 9 đến tháng 11,
nên hàng năm được trồng vào đầu năm, thu quả từ tháng 6 đến tháng 10. Đu đủ có rất
nhiều giống với hình dáng (tròn, dài), màu ruột quả (vàng, cam, tím), kích cỡ khác nhau.
Về cấu tạo, đu đủ chin có 5% vỏ, 18% màng ruột, núm quả và hạt, 77% là cùi quả.
Dầu của hạt đu đủ khô chiếm 30% khối lượng hạt khô.
Trong thịt quả có 85 – 92% nước, 8 – 12% đường, 0,4 – 0,7% protein, 0,1 – 0,7%
lipit, 0,04 – 0,1% axit, 0,6 – 1,2% xenluloza, 0,6 – 1% tro. Đường của đu đủ gồm 48,3%
saccaroza, 29,8% glucoza và 21,9% fructoza, nhưng trước khi phân tích không vô hoạt
enzym invectaza thì không có hoặc có rất ít saccaroza.
Độ axit của đu đủ rất thấp, pH = 5,5 – 5,9, do đó có thể ăn no đu đủ chín mà không
sợ cồn ruột. Có hai axit chín là axit citric và axit malic, có một ít axit ascorbic, axit α-
ketoglutaric, do vậy vị chua thật êm.
Đu đủ chứa 30 – 130mg% vitamin C, 40 – 45mg% vitamin B1, 40 – 45mg%
vitamin B2, 0,2 – 0,8mg% vitamin PP, 13 – 17mg% carotin.
Bảng 2.17. Thành phần hóa học của quả đu đủ
Đƣờng, Lipit, Protein, Axit, Xenluloza, Tro, Độ khô,
Giống
% % % % % % %
Hà Nội 7,3 - 0,55 0,1 0,9 0,6 12
Quảng Ninh 7,1 - 0,62 0,09 1,2 0,55 12,5
Ấn Độ 10 0,1 0,6 - 0,78 0,5 -
Tandania 9,72 0,66 0,43 0,06 0,78 0,53 12,14
Nam Phi 10,73 0,03 0,68 0,09 0,81 0,54 13
Panama 11,12 0,25 0,5 1,85 1 0,9 14,41
Honolulu 10,19 0,05 0,5 0,07 0,66 0,66 12,2
Hệ số hô hấp k là một chỉ tiêu thể hiện mức độ hiếu khí của quá trình hô hấp và
loại chất tham gia quá trình đó.
VCO2 6
Ví dụ: Khi hô hấp hiếu khí và chỉ có hexoza tham gia thì: k = 1
VO2 6
VCO2 2
Còn khi hô hấp yếm khí: k =
VO2 0
Nếu tham gia vào hô hấp hiếu khí có 90% là xenluloza (k = 1) và 10% là axit citric
(k = 1,33) thì: k = (90% x 1) + (10% x 1,33) = 1,03
Sự tăng hệ số hô hấp k là dấu hiệu sinh lý đặc trưng của quá trình chín nhiều loại
rau quả. Trong cùng một loại rau quả, nếu giống nào đó có khả năng tồn trữ tốt hơn thì
thường có cường độ hô hấp mạnh hơn. Điều này thấy rõ trong cải bắp, khoai tây. Khoai
tây giống muộn (bền hơn khi tồn trữ) thải ra 11,6 mgCO2/kg.h, giống chính vụ 7,9
mgCO2/kg.h, giống sớm 6,2 mgCO2/kg.h.
Tuy nhiên, không phải ở tất cả rau quả khi có cường độ hô hấp mạnh thì khả năng
tồn trữ tốt hơn. Các loại rau quả bị giập nát thì cường độ hô hấp tăng, và càng tăng thì khả
năng chống thối hỏng càng cao. Đó là phản ứng tự vệ tự nhiên của cơ thể sống, tạo ra
chất đề kháng, sinh ra các phản ứng oxi hóa các độc tố và tạo ra lớp tế bào bảo vệ nơi vết
thương. Cường độ hô hấp lúc đó còn tùy thuộc mức độ giập (diện tích, độ sâu) và vị trí
giập nát. Ở các rau quả bị sần rám, do việc thấm oxi vào tế bào bị cản trở so với rau quả
lành nên hô hấp có phần yếm khí, CO2 sinh ra tăng lên so với O2 hấp thụ, làm cho hệ số
hô hấp tăng lên.
Bảng 3.2. Cƣờng độ và hệ số hô hấp rau quả ở 15oC (ml/kg.h)
Rau quả VCO2 VO2 Hệ số k
Táo 13,8 12,1 1,15
Quýt 11,9 9,4 1,26
Chanh 4,4 3,3 1,33
Khoai tây 10,1 9,4 1,08
Hành tây 12,7 12 1,06
Cà chua 17,3 16,1 1,07
Ở những độ già chín khác nhau, rau quả có cường độ hô hấp khác nhau. Khi đang
chín, rau quả có cường độ hô hấp cao nhất. Đối với chuối là quá trình rấm chín. Từ lúc
chín đến quá chín, cường độ hô hấp giảm nhanh, đồng thời cũng là giai đoạn giảm khả
năng tự đề kháng, để đi đến thối hỏng. Thời kỳ cường độ hô hấp cực đại thường đặc trưng
bằng sự tăng nhiệt độ đến mức tối đa và cũng thường trùng với giai đoạn chín sử dụng để
ăn tươi tốt nhất của quả nên cũng dễ nhận biết. Chuối thuộc loại quả có cường độ hô hấp
đột biến.
Ở những loại quả không có hô hấp đột biến thì cường độ hô hấp giảm dần.
Trong các loại rau, cà chua có hô hấp đột biến, nhưng đỉnh cực đại khá thấp, còn
phần lớn rau có hô hấp không đột biến.
Ngược lại với rau quả thường có cường độ hô hấp lúc đầu tồn trữ cao và giảm dần
về cuối, các loại củ ở giai đoạn tồn trữ cuối (gần thời kỳ nảy mầm) cường độ hô hấp lại
bắt đầu tăng lên rõ rệt.
Bảng 3.3. Phân loại quả theo hô hấp
Quả hô hấp đột biến Quả hô hấp thƣờng
Bơ Khế
Chuối Điều
Sầu riêng Vải
Sakê Măng cụt
Ổi Cam
Xoài Dứa
Đu đủ Chôm chôm
Hồng xiêm Vú sữa
Mãng cầu xiêm Thanh long
Lạc tiên Ca cao
Mơ Nho
Đào Chanh
Lê Nhãn
Mận
Quả bơ
100
Sự hấp thụ
60
tương đối oxi Trước khi
tăng đột biến
40
20 1 3 5 7 9 11 Ngày
Chanh
0
1 2 3 4
Thời gian, tháng
Hình 3.1. Xu hƣớng hô hấp của quả
Quả bơ – hô hấp đột biến; Quả chanh – hô hấp không đột biến
Giai đoạn cường độ hô hấp tăng đến cực đại đối với các loại rau quả khác nhau
xảy ra ở những thời kỳ không giống nhau. Ví dụ, ở chuối giai đoạn cực đại kéo dài 24 –
60h. Ở các loại quả khác, mức độ thấp hơn nhưng thời gian dài hơn, nhưng với quả citrus
giai đoạn này kéo dài mấy tháng nên không thấy rõ. Nhiệt độ môi trường giảm sẽ làm
giảm mức độ hô hấp cực đại, làm thời gian này trải dài ra nên rau quả được tồn trữ lâu
hơn.
Trong môi trường có ít oxi, môi trường nitơ hay môi trường khí điều chỉnh (MA)
tăng CO2 và giảm O2 tương ứng, mức độ hô hấp cực đại cũng bị ức chế. Ví dụ, khi hàm
lượng CO2 10%, O2 11%, N2 79% thì có thể kéo dài thời gian tồn trữ thêm 30 – 40%.
Ngược lại, một số hydrocacbon không no lại kích thích quá trình hô hấp. Etylen
(C2H4) được công nhận từ lâu là hormone thực vật, nó khởi đầu quá trình chín cũng như
điều chỉnh nhiều khía cạnh sinh trưởng, phát triển và lão hóa của thực vật. Axetylen
(C2H2) cũng có tác dụng làm chín như etylen nhưng hoạt độ chỉ bằng 1/100.
Sau đỉnh cực đại, hô hấp bắt đầu giảm, lúc đó các quá trình trao đổi chất bị phá
hủy, các quá trình phân hủy chất hữu cơ phức tạp tăng lên, quá trình oxi hóa và phosphat
hóa bị tách rời, ti thể và các thành phần khác trong nội bào bị phá hủy. Sự tích tụ
axetaldehyt và rượu làm hoạt lực của dehydrogenaza bị ức chế và tích tụ các sản phẩm
của sự oxi hóa các polyphenol… Tất cả những điều đó gây ra các hiện tượng bệnh lý và
là cơ chế làm cho cơ thể sống bị chết dần. Cơ chế như thế xuất hiện ở thời kỳ cuối của
quá trình tồn trữ rau quả tươi.
Thành phần khí trong mô rau quả tươi có ảnh hưởng lớn đến quá trình hô hấp. Vì
lượng khí này thường chiếm tới 20 – 30% (có khi cao hơn) tổng thể tích rau quả tươi và
nằm chủ yếu ở gian bào và các khoảng trống trong các mô. Một lượng ít khí hòa tan trong
dịch bào lại không ảnh hưởng đến thể tích và thành phần khí trong nội bào.
Thành phần khí của nội bào phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố của bản thân cấu trúc
rau quả và của điều kiện ngoại cảnh. Nó giữ cân bằng động học giữa lượng oxi sử dụng
và lượng oxi xâm nhập vào trong tế bào và mô, cũng như giữa CO2 hình thành do hô hấp
vào và CO2 mất đi do khuếch tán. Nói khác đi, thành phần khí của nội bào tùy thuộc chặt
chẽ vào hàm lượng CO2 và O2 trong khí quyển xung quanh. Nơi gần cuống quả (cà chua,
citrus…) và mắt củ (khoai tây) là những vị trí thoát khí chủ yếu.
100
90
80
70 Măng tây (2,2oC)
60
Cường độ hô hấp,
mgCO2/kg.h 50
Cà chua (20oC)
40 BR LP
30 TR
MG Dưa chuột (12,8oC)
20
10 Xà lách (5oC)
0
1 3 5 7 9 11 13 15 17 19
Số ngày thu hoạch
Lượng CO2 và O2 trong rau quả khác nhau rất nhiều: trong khoai tây 32,4% CO2
và 11,8% O2, trong citrus 42,2% CO2 và 7,6% O2.
Trong quá trình tồn trữ rau quả tươi, lượng CO2 trong nội bào tăng dần và O2 giảm
dần. Đến khi quả quá chín, hô hấp hiếu khí giảm dần, làm cho nhu cầu O2 của tế bào
giảm nên tổng lượng O2 tăng lên và tổng lượng CO2 giảm đi.
Nhiệt độ tăng làm cường độ hô hấp và nhu cầu O2 của rau quả tăng. Nếu lượng O2
không được cung cấp đủ thì sẽ dẫn đến hô hấp yếm khí một phần. Từ đó lượng CO2 tăng
lên và lượng O2 giảm đi trong mô.
Đối với rau quả nhiệt đới và cận nhiệt đới như dứa, chuối, cam… nếu tồn trữ ở
nhịêt độ âm thì chất lượng cấu trúc ban đầu của chúng không hồi phục sau khi làm tan
giá, vì thế các loại rau quả này chỉ bảo quản ở nhiệt độ dương thấp.
Theo F.V. Serevitinov, khi nhân nhiệt độ môi trường tồn trữ lên 1oC thì lượng CO2
của rau quả tươi sinh ra là 1 mg/kg.h. Nếu thay đổi nhiệt độ đột ngột cũng làm cường độ
hô hấp tăng lên quá mức bình thường.
Tỷ lệ CO2/O2 của không khí tồn trữ có tác dụng rất quyết định đến quá trình hô
hấp. Nếu O2 giảm xuống dưới 3,5% thì cường độ hô hấp bắt đầu giảm thấp. Vì thế giảm
O2 tăng CO2 trong không khí bảo quản là một biện pháp làm ngưng trệ quá trình đương
chín và quá chín của rau quả, kéo dài thời hạn tồn trữ. Tuy nhiên, quá trình hô hấp yếm
khí làm giảm chất lượng mùi vị của rau quả tươi do tích tụ rượu, alđehyt, axit axetic và
axit lactic, đồng thời tiêu hao nhiều các chất dinh dưỡng. Do vậy, nếu không cần tồn trữ
dài ngày thì nên bảo quản rau quả tươi ở nơi thoáng mát và khô ráo.
Hơi nước thoát ra từ rau quả khi tồn trữ là sản phẩm của quá trình hô hấp hiếu khí
trong rau quả. Do vậy, nếu môi trường có độ ẩm cao, rau quả thoát ẩm chậm đã hạn chế
một phần quá trình hô hấp hiếu khí, làm cho rau quả có thể tồn trữ lâu hơn. Độ ẩm không
khí càng cao thì rau quả càng ít bốc hơi và lâu khô héo. Tuy nhiên, độ ẩm tương đối của
không khí cao lại là điều kiện cho vi khuẩn và nấm mốc dễ dàng phát triển. Do vậy, trong
các kho tồn trữ, độ ẩm tương đối của không khí thường được khống chế ở 80 – 90%.
Ánh sáng có tác dụng kích thích hô hấp, ví dụ, với cà rốt cường độ hô hấp ở các
điều kiện chiếu sáng khác nhau là:
- Bóng tối: 10,76 mgCO2/kg.h;
- Ánh sáng ngày: 23,76 mgCO2/kg.h;
- Đèn điện mạnh: 24,65 mgCO2/kg.h.
Do đó, cần tồn trữ rau quả ở nơi râm mát, có mái che, tốt nhất là ở nơi tối.
3.2.2. Sự thay đổi thành phần hóa học
Gluxit luôn là thành phần có thay đổi lớn và mạnh nhất trong khi tồn trữ cũng như
trong quá trình sinh trưởng phát triển của rau quả tươi.
Trong nhiều loại rau quả có hô hấp đột biến, sự biến đổi tinh bột thành đường là
một đặc trưng. Hàm lượng tinh bột giảm do quá trình đường hóa, dưới tác dụng của các
enzym nội tại mà chủ yếu là 3 loại phosphorilaza. Tổng lượng đường khi đó tăng lên và
đến khi đạt cực đại nhất định lại giảm xuống.
Sự tích tụ đường trong thời kỳ chín không chỉ do đường hóa tinh bột mà còn do sự
thủy phân hemixenluloza. Khi bị thủy phân, hemixenluloza tạo ra các đường pentoza
(xiloza, manoza, galactoza và arabinoza) và cấu trúc tế bào bị phá hủy.
Chất pectin chiếm một phần ba chất khô của thành tế bào sơ cấp của rau quả.
Trong quá trình chín, protopectin chuyển thành pectin hòa tan, làm cho liên kết giữa các
tế bào và giữa các mô yếu đi và rau quả bị mềm. Khi quá chín, các chất pectin bị phân
hủy đến axit pectic và methanol, làm cho rau quả bị nhũn và cấu trúc bị phá hủy. Nhưng
đối với một số quả hạch có thể thấy hiện tượng ngược lại là lượng protopectin tăng lên
trong quá trình chín dù tổng lượng pectin giảm, và chỉ khi quá chín lượng protopectin
mới giảm đi.
Khi tồn trữ đậu, ngô, khoai còn non, có sự chuyển hóa đường thành tinh bột. Sự
chuyển hóa này có thể tăng 2 – 3 lần nếu tách hạt đậu khỏi quả. Riêng với khoai tây, khi
tồn trữ có những biến đổi đường thành tinh bột và tinh bột thành đường.
Hàm lượng xenluloza trong rau quả hầu như không đổi.
Amilaza
Tinh bột Mantoza
H2 O
H3PO4 Phosphorilaza H2 O Mantaza
Fructoza-6-photphat
Sacaroza-P + UDP
P1
Sacaroza
H2 O Invectaza
Glucoza + Fructoza
Hình 3.3. Sự chuyển hóa tinh bột - đƣờng
ADP – adenozin diphosphat;ATP – adenozin triphosphat;
UTP – uridin triphosphat;UDPG – uridin diphosphat guanozin.
Tùy theo loại rau quả và điều kiện sinh lý, cũng như tùy theo thời gian và nhiệt độ
tồn trữ, tốc độ biến đổi các gluxit có khác nhau. Rau quả ở thời kỳ đang chín và củ ở thời
kỳ nảy mầm có những biến đổi mạnh nhất.
Sự sụt giảm axit là do tiêu hao vào quá trình hô hấp và decacboxyl hóa. Khi đó
axit hữu cơ (ví dụ axit malic) bị phân hủy đến CO2 và CH3CHO (axetaldehyt). Tổng các
axit hữu cơ trong quả giảm đi, tuy nhiên từng loại axit có thể tăng lên, do những nguyên
nhân khác nhau. Hàm lượng axit giảm, cùng với sự giảm lượng tinh bột và sự tăng lượng
đường làm tăng trị số pH và tăng vị ngọt của quả.
Các chất màu thay đổi rõ nhất trong quá trình chín. Thường clorophyl dần dần
giảm đi, trong khi carotin dần dần tăng lên để trở thành chất màu chính của quả chín. Tuy
nhiên, trong chuối tiêu, carotin không đổi trong quá trình chín; còn trong cam, carotin bắt
đầu tăng dần khi trên vỏ không còn màu xanh.
Clorophyl
H+ (-Mg) Clorophylaza
H+ (-Mg)
Feotobit
Hình 3.4. Sự biến đổi của clorophyl
Hàm lượng tanin giảm đi trong quá trình chín và giảm ngày càng nhanh, làm thay
đổi vị (nhất là vị chát) của quả.
Hương thơm được sản sinh do các chất bay hơi được tổng hợp trong quá trình chín
của quả và gồm có alđehyt, rượu, este, lacton, tecpen và hợp chất lưu huỳnh.
Vitamin C giảm mạnh trong quá trình tồn trữ, đặc biệt là với các loại rau quả
không tồn trữ được lâu. Trong quá trình chín, vitamin C của quả giảm nhanh do các quá
trình khử trong các mô bị phá hủy và không khí xâm nhập.
Tecpen Izopren Axetat Axit béo mạch Alđehyt, este
vừa và ngắn xeton tương ứng
Piruvat
Rượu C1 Đường
Phenol Pectin
Gluxit
Chất khoáng
C6, C3 Axit amin Protit Quang hợp Lipit Axit béo no
thơm Vitamin
Cường độ
hô hấp
o
-5 0 10 20 30 C
Hình 4.1. Sự thay đổi cƣờng độ hô hấp theo nhiệt độ tồn trữ
Các đặc tính sinh lý riêng làm cho các quá trình trao đổi chất có thể bị phá hủy và
dẫn đến sự hủy hoại cấu trúc tế bào rau quả. Ví dụ, cà chua tồn trữ dưới 3 – 5oC thì mất
khả năng chín. Hiện tượng tương tự còn thấy ở nhóm quả citrus. Đặc biệt là chuối, nếu
tồn trữ dưới 10oC sẽ sinh hiện tượng thâm đen và mất khả năng chín; tuy nhiệt độ đóng
băng của chuối là -2oC. Nhiệt độ thích hợp để bảo quản chuối xanh già là 12 – 14oC,
chuối chín là 11 – 13oC.
Khái quát, có thể nói các loại rau quả nhiệt đới không thích hợp với nhiệt độ bảo
quản thấp như với rau quả ôn đới, mặc dù nhiệt độ này còn cao hơn điểm đóng băng.
Mỗi loại rau quả, kể cả các giống khác nhau trong cùng một loại có nhiệt độ tồn
trữ thích hợp nhất định, ở đó cường độ hô hấp (hiếu khí) thấp nhất. Nhiệt độ đó gọi là
nhiệt độ bảo quản tối ưu. Nhiệt độ tối ưu này thay đổi theo độ chín của rau quả tồn trữ.
Thông thường, khi quả còn xanh thì nhiệt độ tối ưu cao hơn khi quả chín:
Bảng 4.1. Nhiệt độ tối ƣu của một số rau quả
Rau quả Nhiệt độ tối ƣu, oC
Dưa chuột 10 – 12
Cà chua xanh già 10 – 12
Cà chua chín 1
Cam, bưởi, chanh xanh 4–6
Cam, bưởi, chanh chín 1–2
Một số củ (khoai tây) cần thay đổi nhiệt độ tồn trữ ở từng thời kỳ bảo quản theo sự
phát triển và biến đổi trạng thái sinh lý của chúng.
Ngược lại với việc dùng nhiệt độ thấp tối ưu kéo dài thời hạn tồn trữ, cũng có thể
tăng nhiệt độ để đẩy mạnh các quá trình sinh lý - sinh hóa theo yêu cầu của sản xuất. Ví
dụ, tăng nhiệt độ để đẩy nhanh quá trình chín các lô nguyên liệu cần chín trước để đưa
vào sản xuất; hay cần giảm hàm lượng đường đến mức tối thiểu trong khoai tây để sản
xuất một số sản phẩm.
Ngoài việc duy trì nhiệt độ thích hợp, khi tồn trữ còn cần đảm bảo sự ổn định nhiệt
độ. Sự tăng giảm nhiệt độ đột ngột sẽ làm thay đổi đột ngột cường độ hô hấp, gây ra các
hiện tượng bệnh lý cho rau quả.
I II III
a b
2
2 2
Hình 4.2. Thành phần không khí tồn trữ rau quả
a- Không khí tự nhiên; b- Không khí điều chỉnh
Các giống loại rau quả khác nhau có sự thích hợp với thành phần khí khác nhau.
Loại rau quả “bền CO2” thích hợp với nồng độ CO2 cao. Loại “không bền CO2” thích hợp
với nồng độ CO2 dưới 10%.
Tăng hàm lượng N2 cũng là biện pháp kéo dài thời hạn tồn trữ. Ví dụ: khi tồn trữ
táo với CO2 là 5% và O2 là 3% cho kết quả tốt. Thí nghiệm cũng cho thấy nếu không khí
không có CO2, chỉ có 3% O2 và 97% N2 thì cường độ hô hấp không thay đổi nhiều. Kết
quả tồn trữ cũng tốt nếu bảo quản rau quả trong khí quyển chỉ có N2.
Thành phần I (hình 4.2) thường chỉ áp dụng để bảo quản các loại rau quả “bền
CO2”, còn thành phần II và III cho các loại “kém bền CO2”. Ảnh hưởng của sự thay đổi
thành phần không khí đến trao đổi chất trong rau quả khá phức tạp, trước hết là sự giảm
cường độ hô hấp và làm chậm quá trình chín tiếp. Lượng đường giảm, nhưng rất chậm so
với tồn trữ bình thường. Độ axit có thể không giảm mà còn có khi tăng, do sự tạo ra axit
sucxinic. Clorofin nói chung ổn định. Khi duy trì được thành phần khí thích hợp thì chất
lượng rau quả, xét toàn diện có thể cao hơn tồn trữ lạnh.
Nếu kết hợp tồn trữ lạnh với khí quyển điều chỉnh thì khả năng tồn trữ sẽ tốt hơn
nhiều so với chỉ dùng một biện pháp riêng rẽ.
Bằng con đường thay đổi thành phần khí trong khí quyển, có thể làm cho quả
(chuối, xoài, đu đủ, dứa…) chín nhanh. Thông thường, dùng các khí hydrocacbon không
no như: etylen, axetylen, propylene. Các khí này không có trong thành phần của không
khí tự nhiên.
4.4. SỰ THÔNG GIÓ VÀ LÀM THOÁNG KHÍ
Sự thông gió và làm thoáng khí có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng của rau
quả trong quá trình tồn trữ.
Thông gió là đổi không khí trong phòng tồn trữ bằng không khí từ bên ngoài vào.
Còn làm thoáng khí là tạo ra sự chuyển động của lớp không khí xung quanh khối rau quả
tồn trữ. Sự thông gió cần thiết để thay đổi nhiệt độ, độ ẩm và thành phần khí trong kho
bảo quản.
Trong quá trình tồn trữ, rau quả có thể tự sinh ra sự dư nhiệt và dư ẩm do quá trình
hô hấp. Nhiệt và ẩm này còn có thể do sự biến động của nhiệt độ và độ ẩm ngoài trời. Ví
dụ, ngoài trời ban ngày nóng, ban đêm lạnh; ở trong kho ban đêm nóng hơn bên ngoài,
làm cho ẩm trong kho có thể ngưng đọng ở mái, trần, tường hay nền nhà. Điều này
thường thấy khi gió nồm vào mùa xuân ở phía Bắc.
Có thể thông gió tự nhiên hay thông gió cưỡng bức.
Thông gió tự nhiên được tạo ra theo quy luật của dòng nhiệt. Khi hô hấp, khối rau
quả phát nhiệt làm nóng không khí trong phòng tồn trữ, không khí sẽ giãn nở, nhẹ đi và
cùng hơi nước bốc lên, rồi theo ống thoát ra ngoài. Khoảng trống này được bù đắp bằng
không khí từ bên ngoài, qua ống hút, khe cửa và các chỗ khác. Vận tốc chuyển động của
không khí, tức là hiệu quả của sự thông gió tự nhiên, tùy thuộc vào sự chênh lệch nhiệt độ
tại khối rau quả và bên ngoài, sự chênh lệch chiều cao giữa nơi vào và nơi ra của không
khí.
Để đảm bảo thông gió tự nhiên được tốt, nhất là về mùa hè, rau quả phải tồn trữ ở
các kho thông thoáng, không xếp thành đống quá lớn và quá cao, phải có khoảng cách
thích hợp giữa các lô với nhau và với tường. Không để nguyên liệu đầy hành lang, cản trở
sự thông gió vào phòng.
Thông gió tự nhiên chỉ áp dụng cho các kho tồn trữ thường, nhỏ và xếp chồng
không quá cao.
Để thực hiện thông gió cưỡng bức, thường dùng các loại quạt hút và quạt đẩy. Tuy
phải sử dụng đến thiết bị nhưng đó là điều cần thiết, vì như vậy mới có thể điều chỉnh
được độ ẩm và nhiệt độ ở kho lớn, tiết kiệm được mặt bằng kho (khoảng 2 lần), chất
lượng rau quả tồn trữ tốt hơn, mức giảm khối lượng tự nhiên ít hơn và thời hạn tồn trữ dài
hơn. Không khí thổi vào có thể lấy thẳng từ không khí ngoài trời chỉ qua lọc bụi, hoặc có
thể qua làm mát tại các giàn truyền nhiệt (dẫn nước lạnh hay nước muối lạnh) hay làm ẩm
(qua màng nước phun sương) hoặc làm khô (bằng chất hút ẩm, hay ngưng tụ bớt hơi nước
bằng làm lạnh rồi hâm nóng lại) rồi mới thổi vào phòng. Ưu điểm khác của thông gió
cưỡng bức là có thể điều chỉnh vận tốc gió theo ý muốn. Đối với cải bắp và phần lớn các
loại củ, vận tốc gió thích hợp qua lớp nguyên liệu là 0,1 – 0,15m/s, cực đại là 0,5m/s.
Dòng không khí sẽ luồn lách qua các khe hở trong khối nguyên liệu để qua từng cá thể
rau quả và lấy đi lượng nhiệt và lượng ẩm dư thừa do hô hấp của rau quả sinh ra. Mức độ
trao đổi nhiệt, ẩm và khí giữa nguyên liệu và khí thông gió phụ thuộc vào vận tốc gió và
chênh lệch nhiệt độ, độ ẩm giữa chúng, và vào diện tích tiếp xúc với khối nguyên liệu.
Diện tích tiếp xúc không khí của toàn bộ cá thể trong 1 tấn nguyên liệu như sau:
Khoai tây: 150m2
Cải bắp: 65m2
Cà rốt: 150 – 170m2
Hành tây: 160 – 170m2
Chuối tiêu: 102 – 160m2
Ở các kho tồn trữ rau quả hiện đại, người ta trang bị hệ thống thông gió cưỡng bức
tự động. Nhờ các nhiệt kế tự động (nhiệt ngẫu, điện trở hay thủy ngân tiếp xúc) hoặc các
đầu dò của chúng, đặt giữa khối nguyên liệu sẽ truyền tín hiệu biến đổi nhiệt độ đến trung
tâm điều khiển đóng mở quạt gió và cửa gió dẫn đến từng khu vực nguyên liệu. Trong
khoảng thời gian ngừng giữa hai chu kỳ làm việc của quạt gió, sự thông gió trong khối
rau quả xảy ra theo quy luật của thông gió tự nhiên.
Ánh sáng có tác dụng nhạy cảm đến độ hoạt động của các hệ enzym tác động đẩy
mạnh hô hấp và các quá trình trao đổi chất. Ví dụ, ánh sáng kích thích và đẩy nhanh quá
trình nảy mầm các loại khoai. Ánh sáng còn làm xanh các củ, do tác động chuyển sắc lạp
và vô sắc lạp trong tế bào thành lục lạp.
CHƢƠNG 5: CÁC PHƢƠNG PHÁP TỒN TRỮ RAU QUẢ TƢƠI
Từ nhiều thế kỷ nay, con người đã biết tồn trữ rau quả tươi bằng nhiều phương
pháp thông thường như vùi trong cát, để trong hầm đất, đựng trong bao kín hay vùi trong
băng tuyết. Nhưng các cách này hoặc là không thể áp dụng ở Việt Nam (như bảo quản
trong băng tuyết) hoặc chỉ tồn trữ tạm thời.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, khi những nghiên cứu về các biến đổi của rau quả
và các chế độ bảo quản tối ưu được áp dụng có kết quả trong thực tế thì thiết bị, máy móc
và kho tồn trữ nhằm đáp ứng các nhu cầu bảo quản cũng ra đời. Ngày nay đã có các kho
tồn trữ có dung lượng rất lớn, hiện đại (hệ thống lạnh, sưởi ấm, thông gió, hệ thống vận
chuyển, hệ thống điều khiển tự động các thông số tối ưu của khí quyển trong kho…).
Thành tựu của ngành vật lý, hóa học và sinh học đang được áp dụng có kết quả trong tồn
trữ rau quả.
Tuy nhiên cũng như các ngành công nghiệp khác, song song với việc áp dụng các
phương pháp mới và các kho tồn trữ lớn và hiện đại, vẫn rất phổ biến các phương pháp và
kho tồn trữ đơn giản.
5.1. TỒN TRỮ Ở ĐIỀU KIỆN THƢỜNG
Để tồn trữ ngắn ngày rau quả tươi, người ta dùng kho thường, nghĩa là không có
lạnh hoặc bất kỳ cách xử lý nào khác ngoài hệ thống thông gió.
Thông gió tự nhiên xảy ra theo nguyên tắc đối lưu nhiệt. Không khí nóng nhẹ nên
di chuyển lên trên trong khi không khí lạnh nặng hơn di chuyển xuống dưới, gây ra sự tự
hút - thải. Vận tốc chuyển dịch của không khí tùy thuộc vào chênh lệch áp suất:
v = f(Δp) = f(h.Δγ)
Trong đó: v: vận tốc chuyển dịch của không khí, m/s;
Δp: chênh lệch áp suất, kg/m2;
Δγ: chênh lệch khối lượng giữa không khí lạnh bên ngoài (nặng hơn)
và không khí nóng bên trong (nhẹ hơn), kg/m3;
h: chiều cao giữa miệng hút (ở dưới) và miệng đẩy (ở trên), m.
Vì Δγ nhỏ và h không thể quá cao nên vận tốc thông gió tự nhiên nhỏ, không đảm
bảo sự thông gió tốt. Do vậy cần có sự thông gió cưỡng bức.
h
1
Cöa hai
M¸y lµm c¸nh kÐo
l¹nh
Thanh ch¾n
èng lu«n l-u
chèng ®ãng b¨ng Líp chèng nãng cho sµn
Có nhiều kiểu làm lạnh phòng tồn trữ: đặt dàn bốc hơi (dàn tỏa lạnh) trong phòng
tồn trữ, đặt dàn nước muối, thổi không khí lạnh và làm lạnh vỏ không khí bao quanh
phòng tồn trữ.
Trong phương pháp làm lạnh bằng dàn nước muối, dàn bốc hơi nhúng trong bể
nước muối và nước muối lạnh sẽ truyền lạnh cho không khí phòng tồn trữ. Theo phương
pháp này, nhiệt độ các vị trí khác nhau trong phòng được làm lạnh đồng đều nếu đặt dàn
bốc hơi ngay trong phòng tồn trữ.
Một phương pháp làm lạnh là quạt không khí qua dàn bốc hơi vào phòng tồn trữ.
Phương pháp này đảm bảo nhiệt độ lạnh đồng đều hơn cả. Ngoài ra, phương pháp này
còn điều chỉnh được độ ẩm trong phòng (không dưới 90%) bằng cách dùng thêm bloc
làm ẩm không khí.
Phương pháp hiện đại là làm lạnh vỏ không khí bao quanh phòng tồn trữ.
1 2
N-íc
1 6
2
3 5
Hỗn hợp có dạng nhũ tương, có hàm lượng chất khô 12%, khi dùng có thể pha
loãng nước để có độ khô 4%, 6%, 8% hay 12%.
Người ta còn dùng dạng sáp là chế phẩm của este sacaroza và axit béo pha với
cacboximetylsitozan (CMS) hay cacboximetylxelluloza ( CMC) với các tên thương mại
là Prolong, Semperfresh. Khi dùng sáp Semperfresh ở nồng độ dung dịch 2,5 – 3% thì
chuối chín sau 11 ngày (đối chứng 6 ngày) ở 25oC, độ ẩm 70%, hao hụt 14,3 – 14,5%.
Nếu ở nồng độ 6% và tồn trữ ở 25oC, độ ẩm 90% thì sau 12 ngày chuối vẫn xanh và hao
hụt chỉ 8,2%.
Một màng sáp có tên Protexan cũng được dùng. Đó là một dung dịch không màu,
không mùi vị và không ảnh hưởng đến sức khỏe, dùng để bảo quản táo. Sau khi nhúng
quả vào dung dịch này và trải ra ngoài, một màng mỏng bảo vệ quanh quả được tạo ra sau
khi dung môi bay hơi. Ngoài việc dùng để bảo quản táo, có thể dùng nó cho các loại rau
quả khác, trong hoàn cảnh không có kho tồn trữ lạnh.
Cách dùng Protexan như sau: pha với nước theo tỷ lệ 1:3, trộn đều để được dung
dịch đồng nhất. Nhúng quả (chứa trong lưới, khay thưa, băng tải lưới) vào dung dịch.
Dung môi bay hơi nhanh và trên mặt quả định hình màng mỏng bảo vệ. Một lít dung dịch
Protexan dùng cho 200 – 400kg táo. Protexan sẽ không có tác dụng nếu bề mặt quả không
sạch và không đảm bảo là những quả tốt.
Để trong tủ lạnh và giữ trong bao gói nguyên thủy. Protexan có thể giữ được tác
dụng trong 18 tháng.
5.4. TỒN TRỮ RAU QUẢ TƢƠI BẰNG HÓA CHẤT
Phương pháp tốt nhất để kéo dài thời hạn tồn trữ rau quả tươi hiện nay là hạ thấp
nhiệt độ môi trường tồn trữ, kết hợp với điều chỉnh không khí, làm chậm lại quá trình
sinh hóa xảy ra trong rau quả mà không phải dùng đến hóa chất hay phương tiện bảo
quản khác. Bởi vì dùng một loại hóa chất nào đó đều ít nhiều làm giảm khả năng tự đề
kháng của rau quả tươi và ảnh hưởng đến chất lượng của nó, mặt khác có khi còn ảnh
hưởng đến sức khỏe người dùng.
Tuy nhiên, để tồn trữ rau quả tươi mà không có phương tiện tồn trữ lạnh, hoặc
những trường hợp mà việc hạ nhiệt độ thấp không giải quyết được đầy đủ các yêu cầu của
quá trình bảo quản, việc dùng các hóa chất để chống nảy mầm và chống thối mốc ngày
càng được áp dụng ở quy mô lớn.
5.4.1. Chống nảy mầm
Các tổ chức sinh dưỡng của một số thực vật (củ, thân củ, bầu, thân hành, rễ phình)
có thời kỳ ngủ dài nên tồn trữ được lâu. Kết thúc thời kỳ ngủ, khi gặp điều kiện ngoại
cảnh thuận lợi, nhất là nhiệt độ, rau củ quả sẽ mọc mầm. Khoai tây bị triệt mầm ở 5oC trở
xuống. Khoai mỡ không mọc mầm trong 5 tháng nếu giữ ở 13oC nhưng mọc lại ở 15oC
trở lên. Không dùng hóa chất để triệt mầm củ hành sau thu hoạch vì khu phân sinh của nó
ở sâu trong củ.
Có nhiều chất dùng để chống nảy mầm.
M-1 là este metylic của axit α-naptilaxetic (C10H7CH2COOH) được dùng để triệt
mầm khoai tây. Người ta dùng M-1 ở dạng bột có hàm lượng 3,5%, trộn với đất sét mịn
rắc lên khoai tây (3kg bột M-1 cho 1 tấn khoai tây). Hơi este metylic của axit α-
naptilaxetic bốc ra từ từ và liên tục để thấm trên bề mặt khoai tây.
Hóa chất này chỉ kìm hãm sự tạo thành mầm mà không diệt nấm nên cần xử lý
nấm trước. Sau khi xử lý M-1 đúng liều, nếu xếp hay rải ra không khí một thời gian thì
dư lượng hóa chất trên mặt khoai sẽ bay hơi đi và khoai lại tiếp tục mọc mầm.
MH-40 (hydrazit axit maleic) cũng dùng để chống nảy mầm. Nó có tác dụng mạnh
đến điểm sinh trưởng của rau quả. Người ta dùng dung dịch 0,25% của muối natri MH-40
phun lên cây ngoài đồng ruộng 3-4 tuần trước khi thu hoạch. MH-40 có thể dùng cho
khoai tây, hành, cà rốt và một số rau củ khác. Liều lượng dùng như nhau, mỗi hecta cần
1000 lit dung dịch. Không nên phun quá sớm hoặc quá muộn.
CIPC (clorofam, 3-clo-izopropyl phenyl cacbamat) được dùng dạng sương mù hay
dạng hạt.
IPC (profam, isopropyl phenyl cacbamat) dùng riêng hoặc kết hợp với CIPC.
Người ta còn dùng rượu nonilic để chống nảy mầm cho khoai tây. Dưới tác dụng
của hơi nonanol các mầm khoai mới nhú sau 13 – 15 ngày sẽ bị đen rồi khô đi. Nhưng cứ
2 tuần phải xử lý một lần và nhiệt độ tồn trữ khoai không dưới 8oC.
5.4.2. Diệt vi sinh vật
Để diệt vi sinh vật gây thối hỏng rau quả trong khi tồn trữ, ngày nay đã dùng nhiều
hóa chất khác nhau.
Xông hóa chất: SO2 dùng cho nho, nhãn, vải. Với nho, dư lượng 5 – 18ppm SO2
là đủ để khống chế hư hao. Xử lý 1% SO2 trong 20 phút là có hiệu quả.
Với nhãn, tỷ lệ SO2 hữu hiệu là 1,5 – 2% trong 20 phút. SO2 không những diệt
nầm ngoài vỏ mà còn diệt enzym trong cùi quả, bảo vệ màu sắc vỏ của vải, nhãn.
Còn có thể xông axetaldehyt với nồng độ 0,5% trong 24 giờ, giảm 92% hư hỏng so
với đối chứng. Axetaldehyt không để lại dư lượng hay mùi vị lạ cho quả.
2-Aminobutan (2-AB) dùng để chống nấm cho khoai tây, quả nhóm citrus.
Gói giấy tẩm hóa chất: Tẩm diphenyl vào giấy bọc cam và các quả có múi. Hóa
chất này bốc hơi chậm, có tác dụng bảo vệ quả chống vi sinh vật.
Bảng 5.8. Ảnh hƣởng liều lƣợng chiếu xạ đến vi sinh vật
Liều lƣợng, kGy Mức độ tác động
0,01 Chết người và các động vật cao cấp khác
0,01 – 0,25 Hạn chế nảy mầm, ra rễ của khoai, hành
0,15 – 0,35 Diệt giun sán và khả năng sinh sản của côn trùng
1 – 10 Diệt phần lớn côn trùng, vi sinh vật
15 – 50 Diệt toàn bộ côn trùng, vi sinh vật
5 – 10 Diệt Salmonella
50 Diệt Clostridium botulinum
50 - 100 Phân hủy enzym
Bảng 5.9. Phân loại liều lƣợng theo yêu cầu tồn trữ
Mục đích Đối tƣợng Liều lƣợng, kGy
Liều thấp (<1kGy)
Kiểm soát Táo 0,15 – 0,3
bệnh Mơ, đào 0,05 – 0,2
Bơ 0,015 – 0,025
Chanh 0,15 – 0,23
Cam 0,2
Nho 0,05
Cà chua 0,3 – 0,45
Dứa, hành, tỏi, gừng 0,05 – 0,15
Kìm hãm Măng tây 0,015 – 0,025
mọc, mọc Chuối 0,03 – 0,05
mầm hay chín Nấm 0,2 – 0,3
Lê 0,25 – 0,35
Khoai tây 0,02 – 0,03
Liều trung bình (1 – 10kGy)
Kéo dài thời Dâu tây, cá 1,5 – 3
hạn tồn trữ, Hải sản (tươi, khô, đông lạnh) 2–5
diệt vi khuẩn Thịt gia cầm 2–5
Chế phẩm đậu các loại để làm kem 2–8
Chế phẩm khoai, dứa để làm kem 2–5
Nâng cao chất Nho (cho ngọt hơn) 2–7
lượng Rau khô (để nấu chóng mềm) 2-7
Liều cao (10 – 50kGy)
Khử trùng Gia vị, nguồn thực vật (ớt, gừng) 10 – 50
Chế phẩm enzym 10 – 50
Thịt gia cầm, hải sản 30 – 50
Thức ăn chế biến sẵn, thức ăn điều dưỡng 30 - 50
Chú ý: - Nếu kết hợp với muối, làm lạnh thì giảm liều lượng chiếu xạ;
- Sau chiếu xạ, nếu tồn trữ lạnh thì thời hạn tồn trữ dài hơn.
Trong tồn trữ rau quả tươi ngày nay, chất đồng vị phóng xạ thường được dùng để
chống nảy mầm khoai tây, hành tỏi và để kéo dài thời hạn tồn trữ nhiều loại rau quả, do
có tính sát trùng bề mặt và tiêu diệt vi sinh vật.
Tia bức xạ có thể làm mất khả năng tích tụ ATP, thậm chí phá vỡ liên kết ATP,
giảm hoạt độ của enzym tổng hợp ARN và AND - những yếu tố sinh năng lượng và sinh
sản trong phát triển tế bào.
Tác dụng tiêu diệt vi sinh vật của tia ion hóa không xảy ra ngay khi chiếu xạ mà là
vài giờ sau đến vài ngày, nhưng với sâu mọt lại xảy ra ngay tuy vẫn tiếp tục diễn ra trong
thời gian tiếp theo. Tác dụng ngày càng mạnh khi có oxi và độ ẩm cao. Nhiệt độ cao làm
giảm tính bền của tia bức xạ vì lúc này tốc độ hình thành các ion và các phản ứng hóa học
xảy ra nhanh.
Một số thành phần hóa học có tính bảo vệ vi sinh vật khi chiếu xạ là xistin (có khả
năng liên kết với nhóm – OOH sinh ra), các liên kết chứa sunfit-xisteamin (tạo liên kết
bền với AND, liên kết với oxi), các axit hữu cơ, đường và etanol.
Tác dụng không tốt của tia bức xạ đối với rau quả tươi là làm giảm sức đề kháng
của nó vì các nguyên nhân sau:
- Làm giảm khả năng tạo màng bảo vệ (da non) ở các vết thương;
- Làm mềm quả vì chia cắt mạch xenluloza và protopectin;
- Làm tăng độ thẩm thấu của tế bào, do vậy đẩy nhanh quá trình trao đổi chất làm
các thành phần dinh dưỡng bị hao tổn;
- Phá hoại một số cân bằng trao đổi chất, chủ yếu là trao đổi năng lượng, do đó hạn
chế sự oxi hóa, làm cho khả năng tự đề kháng của rau quả đối với vi sinh vật bị giảm;
- Hình thái tế bào dài ra, có chỗ phình to, có chỗ teo lại kỳ dị;
Rau quả chiếu xạ lúc đầu có mùi vị đặc trưng mà người ta gọi là “mùi phóng xạ”.
Mùi này mất dần trong quá trình tồn trữ. Theo kiểm nghiệm hóa học và lâm sàng, sản
phẩm không có độc tố và cũng không gây tác dụng độc hại với người.
Để hạn chế mùi vị lạ này, hiện nay đang nghiên cứu các phương pháp có kết quả
sau đây:
- Chiếu xạ ở -20oC để hạn chế các quá trình oxi hóa và hóa học khác;
- Chiếu trong chân không để làm mất đi các chất bay hơi gây “mùi phóng xạ”
- Chiếu trong môi trường không có oxi để chống quá trình hình thành các hợp chất
có mùi, đồng thời hạn chế các quá trình oxi hóa khác;
- Cho chất hấp thu mùi (như than hoạt tính) vào trong túi cùng sản phẩm đem
chiếu;
- Chiếu liều lượng cao nhưng thời gian rút ngắn…
Với rau quả pH < 4,5 liều chiếu xạ là 1 – 3Mrad;
Với rau quả pH > 4,5 liều chiếu xạ là 4,5Mrad.
Nguồn bức xạ dùng rộng rãi hơn cả là từ Co60 vì số lượng sản xuất được nhiều,
chu kỳ bán rã vừa phải (3 – 5 năm), khả năng xuyên thấu lớn. Co60 được sản xuất từ
coban thiên nhiên, trong các lò phản ứng hạt nhân.
Trong công nghiệp tồn trữ, người ta dùng Co60 ở dạng thỏi có kích thước
1x1x8cm, được bọc bằng hai vỏ thép không gỉ. Trong thiết bị nguồn phát xạ người ta
dùng số thỏi có đủ công suất chiếu yêu cầu. Với Cs137 vì năng lượng phát xạ thấp hơn
Co60 nên chỉ dùng cho chiếu xạ lưu động, chiều dày vỏ thép không cần dày (3 – 4 lần nhỏ
hơn so với Co60). Cs137 có chu kỳ bàn rã là 30 năm, đang được dùng ngày một nhiều.
Ngày nay ở nhiều nước đã có hệ thống lưu động dùng nguồn bức xạ Co60 với
cường độ phóng xạ là 30000 – 40000 Ci (curi), năng suất 1 – 2 tấn rau quả/h, còn các
trạm chiếu xạ cố định có cường độ 150000 – 250000 Ci. Tại Honolulu (Hawai, Mỹ) đã
vận hành hệ thống chiếu xạ cho rau quả nhiệt đới (đu đủ, xoài) và cận nhiệt đới (cam,
chanh), dùng nguồn Co60 cường độ phóng xạ 250000 Ci, năng suất 1,6tấn/h. Tại thành
phố Hồ Chí Minh, trung tâm chiếu xạ Vinagamma đã đưa vào vận hành từ mấy năm nay,
chủ yếu là chiếu xạ thủy hải sản (đông lạnh, khô) xuất khẩu. Các sản phẩm của Phân viện
công nghệ sau thu hoạch như bột tôm, bột cá, bột môn, các bán chế phẩm rau quả như
pure dứa, pure xoài, pat đậu xanh… qua chiếu xạ cho kết quả tốt.
Ghi chú: Ci (curi) là đơn vị cường độ phóng xạ, đặc trưng sức mạnh của nguồn
phóng xạ, biểu thị số hạt nhân phân rã trong 1s. Nguồn có cường độ 1 Ci xảy ra 3,7.1010
lần phân rã/s.