Professional Documents
Culture Documents
3. NAM CAO
-Là nhà văn hiện thực lớn, cũng đã có biết bao nhà phê bình và cũng đã tốn biết bao
bút giấy để viết về ông. Nhân đây giới thiệu với mọi người một vài nhận định về con
người này và văn chương của ông.
*Đây là những nhận định về con người Nam Cao:
- “Nam Cao lạnh lùng quá, kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó nhọc (…) thật
ra mặt anh ta lạnh nhưng lòng anh ta sôi nổi” (Nhận xét của nhà văn Tô Hoài)
- "Con người Nam Cao mảnh khảnh,thư sinh,ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi
lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt"(Nguyễn
Đình Thi)
- Nam Cao "biến mình thành kẹp chả dưới tay mình ,tự đem mình ra quat dưới than
hồng "(Nguyễn Minh Châu)
- "Nam Cao thường lấy bản thân mình ra để mà kiểm nghiệm"(Nguyễn Minh Châu)
- "Năm năm cho một sự nghiệp không lẫn với ai,năm năm trung thành với hướng đi
không nghiêng ngả... năm năm cày xới để tự biếm họa ,tự khẳng định,để có Nam
Cao như hiện nay ta có"(GS Phong Lê)
*Nhận xét về văn của Nam Cao:
- “Dù viết về đề tài nào ,truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư tưởng chung:nổi
băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do
cuộc sống đói nghèo đẩy tới”(?)
- “Viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao đã mạnh dạn phân tích và mổ
xẻ tất cả,không né tránh như Thạch Lam; không cực đoan, phiến diện như Vũ Trọng
Phụng, cũng không thi cị hóa như Nhất Linh, Khái Hưng, ngòi bút của Nam Cao luôn
luôn tỉnh táo đúng mực” (Hà Minh Đức)
- “Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối đi riêng, nghĩa là không đếm xỉa gì đến sở
thích của độc giả. Nhưng tài năng của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn
mới sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài năng
của mình, thiên chức của mình”(Hà Minh Đức)
- “Trong các trang truyện của Nam Cao ,trang nào cũng có những nhân vật chính
hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt
buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp đến sau
cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người” (Nguyễn Minh Châu)
- “Trong văn xuôi trước cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc
soi mói như của Nam Cao”( Nhà văn Lê Định Kỵ)
*Bình luận về tuổi trẻ Việt Nam: Một năm khởi đầu từ mùa xuân.Một đời khởi đầu từ
tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội. (Hồ Chí Minh)
*Ca ngợi mùa xuân: Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới, Bạn đời ơi vui chút với
trời hồng! Hết lạnh rồi, gió bấc với mưa đông. (Tố Hữu)
*Kết hợp giữa tài và đức: Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó. (Hồ Chí Minh)
*Tự hào về đất nước: Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa, đâu trời đẹp
hơn. (Nguyễn Đình Thi)
*Sử dụng ngôn ngữ thơ để tạo hình: Nhịp điệu của câu thơ là nhịp điệu của sóng gió
và cũng là nhịp điệu náo nức xôn xao và biết bao sung sướng êm ái trong lòng
người trở về quê cũ, nơi đã nuôi mình. (Tố Hữu)
*Tính chính xác của ngôn ngữ văn học: Đối tượng mà anh muốn nói đến dù là cái gì
cũng chỉ có 1 từ để biểu hiện nó. (Môpat xăng - Pháp)
*Nhận xét về bài thơ Thu Vịnh: Trong ba bài thơ, bài này mang cái hồn của cảnh vật
mùa thu hơn cả, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao. Mang cái thần của cảnh mùa
thu. Cái hồn, cái thần của cảnh mùa thu là nằm ở trong bầu trời, ở trên trời thu.
(Xuân Diệu)
*Nhận xét về Thu Điếu: Bài thơ Thu Vịnh có thần hơn hết nhưng ta vẫn phải công
nhận bài Thu điếu là điển hình ơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam. (Xuân
Diệu)
- M.Gorki nói: văn học “giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin
vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý.”
- Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng
lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.
(Nam Cao – Trăng sáng)
* Bút chiến với nhóm Tự lực văn đoàn: Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết.
Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời. (Vũ
Trọng Phụng)
*Nhận định về ”chất thép”trong thơ Hồ Chí Minh: Khi Bác nói trong thơ có thép ta
cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có lẽ phải hiểu 1 cách rất linh hoạt mới
đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép mới có tinh thần thép.
* Ý kiến về văn chương: Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại
không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên
chú ở con người. (Nguyễn văn Siêu)
XUÂN DIỆU
1. "Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, đặc sắc, độc đáo của nền thơ hiện đại Việt Nam…
cho tới nay và những năm tháng trước mắt liệu có ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh
vực thơ tình? Và không ai có thể thay thế được Xuân Diệu"
(Tố Hữu)
2. Nhà thơ nữ lừng danh, bà Bra-gri-a-ma ở chân núi Vi-to-sa (Bungari) khi tuyển
thơ tình trên thế giới, bà đã khoe với các bạn Việt Nam: "Tôi mở đầu tuyển tập hàng
trăm tác giả này bằng nhà thơ Nga Puskin và kết thúc bằng nhà thơ Xuân Diệu - Việt
Nam, Xuân Diệu là nhà thơ tình lớn của phương Đông vậy!"
3."Xuân Diệu là cả một viện nghiên cứu văn học trong anh"
(Chế Lan Viên)
4. "Nhà thơ Xuân Diệu mất đi, thấy có mang theo một mảng đời văn tôi"
(Nguyễn Tuân)
5. "Đau lòng thay! Mất một nhà thơ lớn. Mất một người bạn và về thơ anh là bậc đàn
anh của tôi"
(Hoàng Trung Thông)
6. “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông
xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”
(Thế Lữ - Lời tựa cho tập "Thơ thơ")
7. Hoài Thanh là người đầu tiên cho rằng “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ
mới”.
8. "Nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong thơ mới thôi, thì gần như tất cả sẽ
gọi Xuân Diệu".
9. Nguyễn Đăng Mạnh: "Xuân Diệu không quan niệm tình yêu chỉ là sự giao cảm
xác thịt mà còn là sự giao cảm của những linh hồn mà đấy mới là cái khát vọng cao
nhất, cái đích cao nhất trong tình yêu".
10. Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô
khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông
cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru
người trong nhạc, vừa thức người bằng ý. Chế Lan Viên-"Lời nói đầu tuyển tập
thơ Tố Hữu"
11. Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ cảu ông
xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian ( Thế Lữ )
Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công
tác vận động của người cách mạng.
Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó
là thi sĩ.
(Lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản, 1946)
6. Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo.
Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực.
Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người
nông dân nghèo khổ.
(Chặng đường mới của chúng ta, 1961, Hoàng Trung Thông)
7. Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí
quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca.
(Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959, Đặng Thai Mai)
8. Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời
mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống
sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời
mình, mà đem xây dựng nó.
Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắm rất
vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc.
… Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn
bài là chính… Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn
là lông cánh đẹp.
(Lời nói đầu cho tuyển tập 1938 – 1963 của Tố Hữu, Văn học, 1964, Chế Lan Viên)
9. Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình. Vậy thì dân tộc ấy có
năng khiếu thơ thông qua nhà thi sĩ. Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi,
đã bị san phẳng bởi những phương tiện tuyên truyền, không còn có một năng khiếu
về hình tượng như thế nữa; không còn suối nguồn ở bản thân mình nữa. Nhưng Tố
Hữu đắm mình trong dân tộc của mình, đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà
sáng tạo ra các hình thể. Người ta càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một
cách rất hay về thơ.
(Lời tựa tập thơ Máu và hoa, xuất bản ở Pháp, năm 1975, Pierre Emmanuel)
10. Tập thơ Máu và hoa này xuất bản vào mùa thu năm 1975. tôi tin rằng tạp chí
Châu âu (Europe) sẽ đón chào nó như một sự kiện văn học.
Jacques Gaucheron
Con đường của Tố Hữu
(trong tập Máu và hoa (Sang et Fleurs) EFR, Paris, 1975)
11. Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của
chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều
máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có
chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ.
(Tố Hữu với chúng tôi, 1975, Xuân Diệu)
12. Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng,
lại hết sức linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một khác, mỗi nơi một khác, kể cả
những lúc chỉ là sự im lặng giữa các dòng thơ. Phải chăng đây chính là bản sắc
riêng của thơ Tố Hữu.
(Chuyện thơ, 1978, Hòai Thanh)
13. Thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, càng ngày càng mới, vì nó thể hiện thế giới quan
cách mạng của chủ nghĩa Mác, hệ tư tưởng vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là
những tư tưởng càng ngày càng trở thành cách nhìn, nếp sống phổ biến của những
con người mới của thời đại.
(Bình luận văn học, 1964, Như Phong)
14. Vũ Trọng Phụng có nói : « Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các
nhà văn có cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết thực sự là ở đời (…). Các ông
muốn theo tiểu thuyết tùy thời, chỉ nói cái thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối.
Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thực, tránh thành ra nguy hiểm vì sự thật mất
lòng ».
1. Ðời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng
đi sâu, càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng
Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân
Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm
vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.
(Hoài Thanh)
2. Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á,...đã khơi lại cái mạch sầu mấy
nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này
(Hoài Thanh)
3. Xuân Diệu có nhận xét: Chàng than nỗi tháng ngày vùn vụt, bảo rằng hoa xuân
không đậu, đời thoảng mùi ôi, trong khi mình chưa sống hết tuổi xuân, đang độ trẻ
măng của đời người! Cái tiếc sớm, cái thương ngừa áy chẳng qua là sự trá hình của
lòng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống.
4. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất
của tâm hồn mình"
(Xuân Diệu)
- "Trong thơ Bác, trữ tình và tự sự, lãng mạn và hiện thực, cổ động và giáo dục,phản
ánh và triết lí... đã kết hợp với nhau thật chặt chẽ, 1 cách nghệ thuật"
- "Nếu chỉ dừng lại ở 3 câu thơ đầu thì thơ HCM không khác gì thơ Liễu Tông
Nguyên đời Đường:
Thiên sơn điêu phi tận
Vạn kính nhân tông diệt
Cô thuyền xuy lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
(Nghìn non chim bay hết
Muôn nẻo dấu người mất
Trên thuyền cô độc lão già
Một mình cầu sông tuyết lạnh)
(Hoài Thanh)
3. "Tảo giải"
- "Căn cứ vào cách viết mà nói, trong bài thơ này có 1 sự hòa hợp kì diệu giữa bút
pháp tượng trưng và bút pháp hiện thực..."
(Đặng Thai Mai)
- "Thế rồi cả 1 phương đông sáng rực, màu trắng biến thành màu đỏ, cách mạng
thắng lợi đang quét sạch những tàn dư của bóng tối ban đêm. Và trời đất là cả 1
vùng hơi ấm để đưa con người tới mục đích thắng lợi và tới cõi thơ"
(Đặng Thai Mai)
4. "Vãn cảnh":
- "Có những câu có thể coi là quá giản dị, nhưng tại sao tôi đọc đi đọc lại vẫn thấy
một cái gì trong đó mà mình chưa rút hết, ví dụ như là cảnh chiều hôm hoa hồng
bên ngoài nở rồi rụng"
(Xuân Diệu)
- "Nổi niềm của một bông hoa bị bỏ quên: bao nhiêu bông hoa bị bỏ quên trong trời
đất! Nhất là khi trời đất chưa phải là trời đất của các loài hoa và hương hoa còn phải
bay vào trong tù để tìm bạn. Làm sao thấy hết được chiều sâu của 1 bài thơ như
vậy! Chiều sâu của một cái nhìn, một tấm lòng tinh tế, chi li mà bao la như trời biển"
(Hoài Thanh)
5. "Tuyên ngôn độc lập": - Bác có nói: "Tôi tuy viết nhiều nhưng chưa lần nào tạo
được bài viết hữu ích như lần này" - Đồng chí Trường Chinh nhận xét: "Về văn
phong ,cách nói và cách viết của Hồ Chủ Tịch có những nét rất độc đáo: nội dung
khảng khái, thấm thía đi sâu vào tình cảm của con người, chinh phục cả trái tim và
khối óc con người ta: hình thức sinh động, giản dị ,giàu tính dân tộc và tính nhân
dân."
2. - “Dù viết về đề tài nào, truyện của Nam Cao cũng thể hiện một tư tưởng chung:
nổi băn khoăn đến đau đớn trước thực trạng con người bị hủy hoại về nhân phẩm do
cuộc sống đói nghèo đẩy tới” - “Viết về người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao
đã mạnh dạn phân tích và mổ xẻ tất cả, không né tránh như Thạch Lam; không cực
đoan, phiến diện như Vũ Trọng Phụng, cũng không thi vị hóa như Nhất Linh, Khái
Hưng, ngòi bút của Nam Cao luôn luôn tỉnh táo đúng mực”
( Hà Minh Đức)
- “Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối đi riêng, nghĩa là không đếm xỉa gì đến sở
thích của độc giả. Nhưng tài năng của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn
mới sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài năng
của mình, thiên chức của mình”
(Hà Minh Đức)
- “Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những nhân vật chính
hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt
buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp đến sau
cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người”
(Nguyễn Minh Châu)
-“Trong văn xuôi trước cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc
soi mói như của Nam Cao”
( Nhà văn Lê Định Kỵ)
Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên
lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khôn cùng của chúng. Ở đó trái tim
thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhòai giữa
biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm
trôi, tình yêu và cách trở ,ra đi và trở lại,chảy trôi phiêu bạt và trụ vững kiên gan, tổ
ấm và dòng đời, sóng và bờ ,thuyền và biển,nhà ga và con tàu, trời xanh và bom
đạn, gió Lào và cát trắng, cỏ dại và nắng lửa, thủy chung và trắc trở, xuân sắc và
tàn phai, ngọn lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm..."
(Chu Văn Sơn)
2. "Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật rất thành
thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình yêu. Chị quanh co không
giấu diếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một
suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt
lõi thơ Xuân Quỳnh"
(Võ Văn Trực)