Professional Documents
Culture Documents
MAN308_Bai4_v1.0014102228 79
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
Nhận diện chiến lược và mục tiêu mà Trung Nguyên đang theo đuổi?
80 MAN308_Bai4_v1.0014102228
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
Chiến lược kinh doanh thường được ví như kim chỉ nam dẫn dắt mọi hoạt động của
doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Việc xác định được một hệ thống chiến
lược và kế hoạch thống nhất, khoa học, hợp lý và linh hoạt là một trong những điều
kiện tiền đề giúp cho doanh nghiệp đạt được những mục tiêu tài chính ngắn hạn và
những mục tiêu tăng trưởng trong dài hạn. Ngoài việc xác định rõ hướng đi, đích đến,
chiến lược kinh doanh còn giúp doanh nghiệp nắm bắt và tận dụng các cơ hội kinh
doanh, tránh né hoặc giảm nhẹ tác động của các nguy cơ, đe dọa; góp phần nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn lực và làm căn cứ để ra các quyết định trong quá trình tổ
chức kinh doanh sau này.
Hệ thống chiến lược trong doanh nghiệp đơn ngành và đa ngành về cơ bản là giống
nhau về các thức xây dựng, nội dung và triển khai. Tuy nhiên, trong doanh nghiệp đơn
ngành hệ thống chiến lược thường đơn giản nhằm hỗ trợ doanh nghiệp triển khai trong
một lĩnh vực kinh doanh đơn nhất. Ngược lại, trong doanh nghiệp đa ngành, hệ thống
chiến lược thường phức tạp và được tổ chức thành nhiều cấp hơn.
Trong doanh nghiệp đa ngành, hệ thống chiến lược được chia thành ba cấp: chiến lược
cấp doanh nghiệp (Corporate-level strategy), chiến lược cấp đơn vị kinh doanh
(Business-level strategy) và chiến lược cấp chức năng (Functional-level strategy).
Trong khi đó doanh nghiệp đơn ngành chỉ có hai cấp xây dựng chiến lược là cấp
doanh nghiệp và cấp chức năng. Sự khác biệt có thể được hình dung cụ thể hơn trong
Sơ đồ 4.1 và 4.2 dưới đây:
Sơ đồ 4.1. Chiến lược cấp doanh nghiệp và chiến lược cấp chức năng
trong một doanh nghiệp đơn ngành
Sơ đồ 4.2. Chiến lược cấp doanh nghiệp, cấp đơn vị kinh doanh
và chiến lược cấp chức năng trong một doanh nghiệp đa ngành
MAN308_Bai4_v1.0014102228 81
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
Trong đó, việc ra quyết định chiến lược ở các cấp xây dựng chiến lược khác nhau có
một số điểm đặc trưng riêng biệt như sau:
Bảng 4.1: Ra quyết định chiến lược trong doanh nghiệp
Chiến lược ở các cấp khác nhau vẫn có tác động lẫn nhau. Chiến lược ở cấp cao hơn
mang tính định hướng và là căn cứ để xây dựng chiến lược ở cấp thấp hơn, trong khi
chiến lược ở cấp thấp được xây dựng để nhằm góp phần đạt được mục tiêu đề ra trong
chiến lược ở cấp cao hơn.
82 MAN308_Bai4_v1.0014102228
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
MAN308_Bai4_v1.0014102228 83
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
lập. Do đó một ngành/lĩnh vực được lựa chọn để đa dạng hóa phải đủ sức hấp dẫn để
mang lại tỷ suất lợi nhuận cao và hỗ trợ cho các lĩnh vực kinh doanh nhiều hơn là khi
chúng kinh doanh độc lập.
Theo quan điểm của Hitt – Ireland – Hoskission (Strategic management – Competitiveness
and Globalization, Hitt – Ireland – Hoskission, 7th edition, South-Western, 2007), đa
dạng hóa có thể chia ra làm hai dạng cơ bản là đa dạng hóa liên quan (ràng buộc hoặc
theo chuỗi) hoặc đa dạng hóa không liên quan.
Doanh nghiệp sử dụng chiến lược đa dạng hóa liên
quan mong muốn tạo ra và tận dụng được lợi thế kinh
tế nhờ quy mô giữa các lĩnh vực kinh doanh. Lợi thế
này có được do sự tiết kiệm chi phí sản xuất được tạo
ra do sự chia sẻ nguồn lực hoặc chuyển giao năng lực
cạnh tranh cốt lõi cấp doanh nghiệp đã được hình
thành và phát triển trong một lĩnh vực kinh doanh nào
đó cho các lĩnh vực kinh doanh khác. Việc tạo và
chuyển giao giá trị này có thể được thực hiện thông
qua hai cách thức: chia sẻ các hoạt động để tạo ra sự
liên hệ trong quá trình tổ chức sản xuất và chuyển giao
năng lực cạnh tranh cốt lõi của doanh nghiệp. Trong đó, để tạo ra lợi thế kinh tế nhờ
quy mô người ta bắt buộc phải chia sẻ các tài sản hữu hình như nhà xưởng, máy móc
thiết bị và các tài sản hữu hình khác giữa các lĩnh vực kinh doanh; các tài sản vô hình
như bí quyết công nghệ… có thể được chia sẻ nhưng thường ít hơn. Tuy nhiên, nếu
chỉ chuyển giao bí quyết công nghệ mà không bao gồm các tài sản hữu hình khác thì
đó là chuyển năng lực cạnh tranh cốt lõi ở cấp doanh nghiệp chứ không phải sự chia
sẻ hoạt động.
Các doanh nghiệp muốn tạo ra giá trị thông qua việc chia sẻ các hoạt động cơ bản
thường lựa chọn chiến lược đa dạng hóa liên quan ràng buộc. Sự liên hệ trong quá
trình tổ chức sản xuất được tạo ra nhờ sự chia sẻ các hoạt động cơ bản như hệ thống
phân phối, giao hàng và các hoạt động hỗ trợ khác. Doanh nghiệp mong muốn tạo ra
giá trị thông qua việc chuyển giao năng lực cạnh tranh cốt lõi để tạo ra sự liên hệ ở
cấp doanh nghiệp thường theo đuổi chiến lược đa dạng hóa liên quan theo chuỗi.
Chiến lược đa dạng hóa không liên quan thường hướng việc đầu tư tài chính vào
những ngành có triển vọng lợi nhuận tốt trong danh mục đầu tư thay vì theo đuổi việc
đầu tư mở rộng hoạt động trong cùng chuỗi giá trị, hoặc phù hợp với chuỗi giá trị hiện
tại của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp đa dạng hóa không liên quan thường tìm
kiếm những doanh nghiệp có nhu cầu mua bán, sáp nhập và có triển vọng lợi nhuận
cao trong các ngành công nghiệp khác nhau. Những doanh nghiệp được chọn làm mục
tiêu thường là những doanh nghiệp đang được định giá thấp dưới giá trị tài sản thực,
những doanh nghiệp đang lâm vào tình cảnh túng quẫn hoặc những doanh nghiệp có
triển vọng lợi nhuận cao nhưng thiếu vốn đầu tư.
Với chiến lược này, một trở ngại lớn mà hiển nhiên các doanh nghiệp đa dạng hóa
phải vượt qua đó là họ phải có một đội ngũ quản lý cấp cao có khả năng hoạch định,
tổ chức, khuyến khích, ủy quyền và kiểm soát hữu hiệu. Điều này là hoàn toàn cần
thiết vì việc quản lý hoạt động kinh doanh đa ngành phức tạp hơn rất nhiều lần hoạt
động kinh doanh trong một ngành đơn nhất. Các hình thức cụ thể của hoạt động mua
84 MAN308_Bai4_v1.0014102228
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
bán doanh nghiệp nhằm thực hiện chiến lược đa dạng hóa sẽ được trình bày cụ thể
trong phần chiến lược tăng trưởng bằng cách liên kết bao gồm mua bán – sáp nhập,
giành quyền kiểm soát, liên doanh và liên minh chiến lược.
Nhìn chung, chiến lược đa dạng hóa (liên quan hay không liên quan) cũng cần phải
dựa trên những nền tảng cơ bản chung là những nguồn lực dư thừa và có khả năng tận
dụng vào kinh doanh; khả năng quản lý ở các lĩnh vực kinh doanh mà doanh nghiệp
đa dạng hóa.
MAN308_Bai4_v1.0014102228 85
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
86 MAN308_Bai4_v1.0014102228
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
bất động sản để huy động lượng tiền mặt cần thiết, cơ cấu lại các tuyến sản phẩm,
đóng cửa các nhà máy cũ kỹ, các lĩnh vực kinh doanh phân tán, tự động hóa quá trình,
cắt giảm lao động và thiết lập hệ thống kiểm soát chi phí.
Theo Fred R.David, chiến lược cắt giảm có thể trở thành một chiến lược cạnh tranh rất
hữu hiệu trong một số trường hợp sau đây: doanh nghiệp có năng lực riêng biệt nhưng
thất bại trong việc đạt được các mục tiêu cả ngắn hạn và dài hạn; khi doanh nghiệp
ở vị thế cạnh tranh yếu hơn trong ngành; khi doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả;
khi doanh nghiệp không có khả năng phản ứng với môi trường; hay thậm chí là khi
doanh nghiệp tăng trưởng quá nhanh và quá rộng đến mức việc cấu trúc lại tổ chức là
cần thiết...
MAN308_Bai4_v1.0014102228 87
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
88 MAN308_Bai4_v1.0014102228
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
khác biệt hóa sản phẩm cố gắng tự làm khác biệt hóa càng nhiều mặt hàng càng tốt.
Nó càng bắt chước các đối thủ của mình ít bao nhiêu thì càng bảo vệ được khả năng
cạnh tranh bấy nhiêu và sự hấp dẫn thị trường của nó càng mạnh mẽ và rộng khắp.
Những công ty có thể lựa chọn chỉ phục vụ các
đoạn thị trường mà ở đó có lợi thế khác biệt hóa đặc
biệt. Cuối cùng, trong việc quyết định theo đuổi khả
năng riêng biệt nào, công ty khác biệt hóa sản phẩm
tập trung vào chức năng tổ chức cung cấp các
nguồn gốc của lợi thế khác biệt hóa sản phẩm của
mình. Sự khác biệt hóa sản phẩm là cơ sở cho sự
đổi mới và khả năng công nghệ phụ thuộc vào chức
năng nghiên cứu và phát triển.
Sự khác biệt hóa sản phẩm bảo vệ công ty khỏi các đối thủ cạnh tranh ở mức độ mà
khách hàng có lòng trung thành đối với nhãn hiệu sản phẩm của công ty. Lòng trung
thành đối với nhãn hàng là một tài sản vô hình rất có giá trị vì nó bảo vệ công ty trên
tất cả các mặt. Sự khác biệt hóa sản phẩm và lòng trung thành với nhãn hiệu cũng có
thể tạo ra hàng rào gia nhập đối với các công ty đang tìm cách gia nhập ngành.
Để duy trì sự khác biệt hóa và lợi thế của mình, các công ty khác biệt hóa phải tập
trung nhiều vào hoạt động nghiên cứu và phát triển, hoạt động truyền thông, giao tiếp
để cung cấp những thông tin về tính chất độc đáo và sự khác biệt về sản phẩm của
mình so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, doanh nghiệp còn cần phải
quan tâm đến vấn đề chi phí, vì sự khác biệt hóa quá lớn trong chi phí có thể làm sự
khác biệt hóa về sản phẩm bị lu mờ.
MAN308_Bai4_v1.0014102228 89
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
tranh với các doanh nghiệp chi phí thấp và khác biệt hóa đang có xu hướng lớn hơn
lên. Chiến lược trọng tâm hóa tạo ra một cơ hội cho nhà kinh doanh tìm cách lấp đầy
"khoảng trống" nhu cầu cần thiết của khách hàng.
Các lợi thế cạnh tranh của công ty trọng tâm hóa bắt nguồn từ nguồn gốc khả năng
riêng biệt của nó – hiệu quả, chất lượng, đổi mới, hoặc tính thích nghi với khách hàng.
Nó được bảo vệ trước các đối thủ cạnh tranh ở chừng mực mà nó có thể cung cấp
hàng hóa và dịch vụ mà các đối thủ không thể thực hiện được. Khả năng này cũng tạo
cho người tập trung một sức mạnh đối với người mua vì họ không thể có được sản
phẩm tương tự ở một nơi nào đó khác. Tuy nhiên, công ty lại có những bất lợi khi đàm
phán với nhà cung cấp do khối lượng và tần suất mua hàng nhỏ; chi phí sản xuất
thường cao hơn mức trung bình ngành do quy mô sản xuất nhỏ; sự biến mất của nhu
cầu do sự thay đổi công nghệ hay thay đổi trong sở thích của người tiêu dùng.
4.2.2. Chiến lược cạnh tranh theo vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Một cách tiếp cận hoạch định chiến lược kinh doanh khá phổ biến hiện nay là trên
quan điểm định vị chiến lược, căn cứ vào yếu tố then chốt là quy mô và vị thế cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Theo quan điểm này người ta tạm chia các
doanh nghiệp thành bốn nhóm theo vị thế cạnh tranh trong một ngành, hay một khu
vực thị trường: các doanh nghiệp thủ lĩnh (các doanh nghiệp dẫn đầu), các doanh
nghiệp thách thức, các doanh nghiệp đi sau và các doanh nghiệp đang tìm chỗ đứng
trên thị trường.
4.2.2.1. Chiến lược cạnh tranh ở vị thế dẫn đầu
Trong thị trường một doanh nghiệp được công nhận
là thủ lĩnh sẽ là người có nhiều điều kiện chi phối
năm tương quan thế lực trong ngành, tạo ra nhiều
lợi thế và có vị thế cạnh tranh mạnh trên thị trường.
Nếu mục tiêu của các doanh nghiệp này là tăng
trưởng nhanh và chiến lược tập trung, thì các nhà
lập hoạch định chiến lược có thể chọn một trong hai
mục tiêu tăng trưởng: tìm cách mở rộng qui mô của toàn thị trường như thu hút thêm
khách hàng, nghiên cứu tìm ra công dụng mới của sản phẩm hoặc tăng số lượng sản
phẩm trong một lần sử dụng; hoặc tranh giành, gia tăng thị phần để tăng trưởng nhanh.
Ngoài ra, các doanh nghiệp đứng đầu cũng cần bảo vệ thị trường, liên tục cảnh giác
trước sự tấn công của các đối thủ thách thức mạnh hơn thông qua bốn chiến lược bao
quát nhằm bảo vệ thị trường như:
"Chiến lược đổi mới" các doanh nghiệp đứng đầu thị trường luôn cố gắng dẫn đầu
ngành trong các lĩnh vực như phát triển các loại sản phẩm mới, dịch vụ và các
kênh và phương pháp phân phối mới.
"Chiến lược củng cố” đây cũng là phương cách chủ động nhằm bảo toàn sức mạnh
trên thị trường. Những điều được chú trọng là giữ mức giá hợp lý và đưa ra các sản
phẩm với quy mô, hình thức và mẫu mã mới.
"Chiến lược đối đầu" thường bao gồm việc phản ứng nhanh, nhạy và trực tiếp
trước đối thủ thách thức thông qua các cuộc chiến về giá cả, khuyến mãi...
"Chiến lược người dẫn đầu" doanh nghiệp thủ lĩnh cũng thường áp dụng chiến
lược người đứng đầu trong trường hợp ngành suy thoái.
90 MAN308_Bai4_v1.0014102228
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
MAN308_Bai4_v1.0014102228 91
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
92 MAN308_Bai4_v1.0014102228
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
Các chiến lược chức năng có vai trò hỗ trợ chiến lược kinh doanh tổng thể;
Các chiến lược chức năng chỉ rõ những công việc mà các nhà quản trị chức năng
phải làm để bảo đảm hiệu suất cao hơn trong các lĩnh vực chức năng tương ứng
của họ;
Các chiến lược chức năng sẽ tạo ra sự khác biệt, đặc trưng, giúp công ty đạt được
lợi thế cạnh tranh.
MAN308_Bai4_v1.0014102228 93
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
Process – Quá trình: Những thủ tục, cơ chế và chuỗi các hoạt động mà theo đó sản
phẩm/dịch vụ được thực hiện.
Profit – Lợi nhuận: Lợi nhuận không phải là trên hết. Đôi khi doanh nghiệp phải biết
hi sinh lợi nhuận, thậm chí là chấp nhận lỗ để thu hút và giữ chân khách hàng.
Packaging – Bao gói: Hình thức và kiểu dáng của bao bì có ý nghĩa ngày càng lớn
trong việc thu hút khách hàng, vẫn những sản phẩm với những tính năng như trước
nhưng được bao gói bắt mắt và phù hợp hơn với nhu cầu khách hàng sẽ giúp doanh
nghiệp thành công.
Pace – Tốc độ tiến triển: Để thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng,
doanh nghiệp cần biết cách rút ngắn chu kỳ sống của sản phẩm bằng cách cải tiến sản
phẩm truyền thống, cung cấp cho thị trường những sản phẩm có tính năng mới phù
hợp hơn.
94 MAN308_Bai4_v1.0014102228
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
Hệ thống sản xuất: Hệ thống sản xuất đề cập tới năng lực, vị trí, cách thức bố trí,
cách thiết kế sản phẩm hoặc dịch vụ, hệ thống làm việc, mức độ tự động hóa, hệ thống
liên kết dọc và các yếu tố liên quan khác.
Kế hoạch và kiểm soát hoạt động vận hành: Những chiến lược liên quan đến
kế hoạch và kiểm soát hoạt động vận hành bao gồm kế hoạch sản xuất tổng hợp;
cung cấp nguyên liệu; quản lý hàng tồn kho, chi phí, chất lượng; và bảo trì nhà máy,
thiết bị.
MAN308_Bai4_v1.0014102228 95
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
96 MAN308_Bai4_v1.0014102228
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
MAN308_Bai4_v1.0014102228 97
Bài 4: Các loại chiến lược của doanh nghiệp
98 MAN308_Bai4_v1.0014102228