You are on page 1of 53

CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC

Cho Cao học không chuyên Triết thuộc ĐHQG Hà Nội

Câu 1. Trình bày khái niệm và các hình thức cơ bản của thế giới quan. Khái quát
lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật.

Trả lời:

a) Khái niệm thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm, quan điểm của con người về thế
giới, về con người và vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.

- Nguồn gốc của TGQ: là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, là kết quả
của cả những yếu tố chủ quan và khách quan, của cả hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn.

- Nội dung của TGQ: phản ánh thế giới qua ba góc độ: các đối tượng khách
quan bên ngoài chủ thể, bản thân chủ thể, mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể.

- Hình thức của TGQ: những quan điểm rời rạc/ hệ thống lý luận chặt chẽ.

- Cấu trúc của TGQ: hai yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở
trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan và chỉ gia nhập vào thế giới quan khi nó
thống nhất với niềm tin để hình thành lý tưởng – động cơ thôi thúc con người hoạt
động.

- Vai trò của thế giới quan: Con người hoạt động bao giờ cũng dựa vào một thế
giới quan nhất định.

⇒ Triết học trang bị cho con người hê ̣ thống những quan điểm về thế giới; hệ thống này
định hướng cho toàn bộ cuô ̣c cuô ̣c sống của con người.

b) Các hình thức cơ bản của TGQ:

- Sự phát triển của thế giới quan đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản:

Ø Thế giới quan huyền thoại:

1
- TGQ huyền thoại đặc trưng cho tư duy nguyên thủy, được thể hiện rõ nét
qua các câu chuyện thần thoại, phản ánh nhận thức về thế giới của con người trong
xã hội công xã nguyên thủy.

- TGQ có nội dung pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo, nó giải
thích nguồn gốc các hiện tượng tự nhiên và xã hội bằng sự sáng tạo và quy định của
thần thánh.

- Nhược điểm: trình độ nhận thức thấp, chủ yếu là sản phẩm của nhận thức
cảm tính nên những gì trừu tượng thường được con người hình dung dưới những
dạng sự vật cụ thể.

Ø Thế giới quan tôn giáo:

- TGQ có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với
thế giới, đối với con người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn,
sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy.

- TGQ tôn giáo chủ yếu thể hiện qua các giáo lý của các tôn giáo.

- Đặc trưng: niềm tin cao hơn lý trí, tuyệt đối hóa yếu tố thần thánh và hạ thấp
vai trò của con người.

- Nhược điểm:

+ TGQ tôn giáo ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của
con người còn rất thấp, thể hiện sự yếu đuối, bất lực, sợ hãi của con người trước
những lực lượng tự nhiên cũng như lực lượng xã hội dẫn đến con người thần thánh
chúng, quy chúng về những sức mạnh siêu nhiên và tôn thờ chúng.

+ TGQ tôn giáo vừa là biểu hiện sự nghèo nàn của hiện thực, vừa là sự phản kháng
chống lại sự nghèo nàn ấy.

Ø Thế giới quan triết học:

- TGQ được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các khái niệm,
các phạm trù, các quy luật. Nó không chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con

2
người về thế giới và về bản thân con người mà còn chứng minh các quan điểm,
quan niệm đó bằng lý luận.

- Được thể hiện chủ yếu qua các học thuyết triết học, triết học là hạt nhân lý
luận của TGQ.

- Ưu điểm: TGQ triết học đề cao vai trò của chân lý và tính chất của nó là do
các học thuyết triết học quy định. TGQ triết học chỉ hình thành khi nhận thức của
con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa và khi các
lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng để chỉ
đạo cuộc sống.

Ø Thế giới quan còn có thể chia thành TGQ duy tâm và TGQ duy vật,
TGQ khoa học và TGQ phản khoa học.

c) Khái quát lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật

- Thế giới quan duy vật là TGQ thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất,
thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh
thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con người trong cuộc sống hiện thực.

- Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa
duy vật đã được hình thành và phát triển với ba hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy
vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Ø Thế giới quan duy vật chất phác:

- Thời gian: thể hiện rõ nét ở thời cổ đại

- Đặc điểm:

+ Đây là thế giới quan thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác của những nhà duy
vật.

+ Tuy thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất nhưng các nhà duy vật đã quan niệm vật
chất là một hay một số chất đầu tiên sinh ra vũ trụ như: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ
theo phái ngũ hành, nước theo Talet, nguyên tử theo Democritus, … và con người là hiện
thân của một hay một số chất đầu tiên ấy.

3
+ Sự ra đời của thế giới quan duy vật thời cổ đại đã đánh dấu bước chuyển từ giải thích
thế giới dựa trên thần linh sang giải thích thế giới dựa vào giới tự nhiên, định hướng cho
con người nhận thức thế giới phải xuất phát từ chính bản thân thế giới.

- Hạn chế:

+ Nhận thức mang nặng tính trực quan, phỏng đoán, chưa có được những căn cứ
khoa học vững chắc.

+ Tuy thừa nhận tính thứ nhất của vật chất, CNDV giai đoạn này đã đồng nhất vật
chất với một hay một số chất cụ thể, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của vũ trụ.
Từ đó, không hiểu được bản chất của các hiện tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa
tinh thần với vật chất. Không có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các
vấn đề xã hội, dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để.

+ Chỉ dừng lại ở việc giải thích thế giới chứ chưa đóng được vai trò cải tạo thế giới.

Ø Thế giới quan duy vật siêu hình:

- Thời gian: Biểu hiện rõ nét vào thế kỷ 17 – 18 ở các nước Tây Âu, với các
đại diện như: Bacon, Descartes, Holbach, …

- Đặc điểm:

+ Đây là thời kỳ cơ học cổ điển đạt được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục
phát triển quan điểm của chủ nghĩa duy vật cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu
sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc của cơ học cổ điển.

+ Đây là phương pháp nhận thức thế giới như một cỗ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ
phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó chỉ là sự
tăng, giảm đơn thuần về số lượng và do những nguyên nhân bên ngoài gây ra. Các nhà
duy vật siêu hình đề cao con người, đề cao các giá trị của con người song quan niệm con
người cũng chỉ như một cỗ máy.

- Nhược điểm:

+ Các nhà duy vật siêu hình phủ nhận vai trò của đấng sáng tạo, thừa nhận bản chất của
thế giới là vật chất. Thế giới là vô số những sự vật cụ thể tồn tại cạnh nhau trong một

4
khoảng không gian trống rỗng, vĩ đại. Xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh tại không vận
động, không biến đổi và hoàn toàn cô lập, tách rời với các sự vật khác.

+ Quá trình phát triển được xem như là sự tăng trưởng đơn thuần về mặt số lượng chứ
không có sự thay đổi về chất lượng. Tìm nguồn gốc của sự vận động và phát triển ở bên
ngoài sự vật chứ không tìm trong sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự
vật.

- Tuy góp phần chống thế giới quan duy tâm, giúp con người đạt được một số
hiệu quả trong nhận thức từng lĩnh vực hẹp nhưng vì phát triển tư tưởng về vật chất
của các nhà duy vật thời cổ đại và phương pháp nhận thức siêu hình nên các nhà
duy vật thời này còn mang nặng tư duy máy móc.

Ø Thế giới quan duy vật biện chứng:

- Thời gian: Thế giới quan duy vật biện chứng được Karl Marx và Engels xây
dựng vào giữa thế kỷ 19, sau đó Lenin và những người kế tục ông phát triển.

- Đặc điểm:

+ Thế giới quan duy vật biện chứng là kết quả kế thừa tinh hoa các quan điểm về thế giới
trước đó, trực tiếp nhất là quan điểm duy vật của Feuerbach và phép biện chứng của
Hegel; là kết quả sử dụng tối ưu thành tựu của khoa học và tổng kết các sự kiện lịch sử
diễn ra ở các nước Tây Âu.

+ Thế giới quan DVBC được thể hiện ở nội dung và bản chất của CNDVBC, bao bồm các
quan điểm duy vật về thế giới nói chung và các quan điểm duy vật về xã hội nói riêng;
CNDVBC giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn, ở sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng, ở quan niệm duy vật
triệt để và ở tính thực tiễn – cách mạng của nó.

- Ưu điểm:

+ Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận
thức khoa học và thực tiễn cách mạng.

5
+ Thế giới quan DVBC không chỉ đem lại cho con người một bức tranh trung thực về thế
giới mà còn đem lại cho con người một định hướng, một phương pháp tư duy khoa học để
con người tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới.

Câu 2: Nội dung cơ bản và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng? Tại sao
nói chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học?

Trả lời:

- Chủ nghĩa duy vật biện chứng là thế giới quan triết học khoa học, một trong những
bộ phận hợp thành của triết học macxit; do Mac, Enghen sáng lập từ những năm 40 thế kỉ
19, được Lênin và những người macxit khác phát triển thêm. Triết học của chủ nghĩa Mac
là chủ nghĩa duy vật. Nhưng Mac không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà
đưa nó lên một trình độ cao hơn bằng cách tiếp thu có phê phán những thành quả của triết
học cổ điển Đức, nhất là của hệ thống triết học Hêghen, với thành quả chủ yếu là phép
biện chứng, tức là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển. Tuy nhiên, phép
biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm. Vì vậy, để sử dụng phép biện chứng
đó, Mac, Enghen đã cải tạo nó, đặt nó trên cơ sở duy vật. Chính trong quá trình cải tạo
phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phát triển tiếp chủ nghĩa duy vật, trên cơ sở khái
quát những thành tựu khoa học tự nhiên và thực tiễn xã hội giữa thế kỉ 19, Mac, Enghen
đã sáng tạo phép biện chứng duy vật.

1. Nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng:

Nội dung của CN DVBC chủ yếu thể hiện qua quan điểm duy vật về thế giới nói
chung và quan điểm duy vật về xã hội nói riêng.

· Quan điểm duy vật về thế giới:

- CN DVBC khẳng định rằng: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống
nhất ở tính vật chất.

+ Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác. Như vậy, vật chất là thực tại khách quan tồn tại độc lập

6
với ý thức, quyết định ý thức và được ý thức phản ánh. Vật chất tồn tại thông qua Vận
động (vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận
động xã hội).

- Sự thống nhất ở tính vật chất:

+ Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất đó là Thế giới vật chất. Thê giới vật
chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.

+ Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra và
cũng không mất đi.

+ Tất cả các sự vật hiện tượng trên thế giới đều là những dạng tồn tại cụ thể của vật
chất hay thuộc tính của vật chất. Thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận
động.

+ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất chặt
chẽ với nhau, cùng phát triển theo quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật
chất. Trong thế giới vật chất không có gì ngoài những quá trình vật chất đang vận
động biến đổi và có mối liên hệ cơ hữu và thống nhất với nhau, là nguyên nhân và
kết quả của nhau.

+ Ý thức là một đặc tính của bộ não người, là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào bộ não người.

ð Những nội dung trên không phải là sự sáng tạo thuần túy từ tư duy của các nhà
duy vật biện chứng mà nó là sự khái quát của thành tựu khoa học tự nhiên.

· Quan điểm duy vật về xã hội:

- Xã hội theo quan điểm của CN DVBC là tổng hợp những con người hiện
thực cùng với tất cả các hoạt động, các quan hệ của họ. Sự phát triển của xã hội loài
người cũng do sự phát triển của lực lượng vật chất quyết định. Nội dung cơ quản
quan điểm duy vật về xã hội thể hiện:

7
+ Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Chính sự phát triển lâu dài của giới
tự nhiên đã dẫn đến sự ra đời của con người và xã hội loài người. Xã hội là sản phẩm phát
triển cao nhất của giới tự nhiên.

+ Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quyết định
quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội. “Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, sự tồn
tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”.

+ Sự phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Một xã hội trọn vẹn
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể là một hình thái kinh tế - xã hội; gồm những mặt cơ
bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Khi LLSX phát triển
đến một mức độ nhất định thì QHSX phải thay đổi cho phù hợp với trình độ mới của
LLSX, lúc này cơ sở hạ tầng thay đổi dẫn đến kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.
Đến đây, tất cả các mặt cơ bản cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội đã thay đổi và
chuyển sang một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Tính lịch sử của sự phát triển xã
hội thể hiện ở chỗ sự phát triển xã hội là sự thay thế các hình thái kinh tế-xã hội, từ hình
thái này đến hình thái khác cao hơn. Tính tự nhiên của sự phát triển xã hội thể hiện ở chỗ
sự phát triển và thay thế các hình thái kinh tế - xã hội là khách quan, không phụ thuộc vào
ý chí của con người.

+ Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Quần chúng
nhân dân là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là động lực cơ bản của mọi
cuộc cách mạng xã hội, là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần. Trong mối quan
hệ với quần chúng nhân dân thì lãnh tụ có vai trò quan trọng, quần chúng nhân dân có vai
trò quyết định.

2. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng:

Bản chất của CN DVBC thể hiện qua các luận điểm sau:

· Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn.

- Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại (mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức)

8
- Các nhà DVBC đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó
để giải quyết thỏa đáng vấn đề cơ bản của triết học – mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. CN DVBC khẳng định chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới
vật chất; trong thế giới vật chất, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức
song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.

· Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng.

- của các khoa học đương thời, Marx và Engels đã giải thoát thế giới quan
duy vật khỏi hạn chế siêu hình và cứu phép biện chứng khỏi tính chất duy tâm thần
bí để hình thành nên CN DVBC với sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy
vật với phép biện chứng.

- Sự thống nhất cơ hữu giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng đã
mang đến cho con người một quan niệm hoàn toàn mới về thế giới – quan niệm thế
giới là một quá trình với tính cách là vật chất không ngừng vận động, chuyển hóa
và phát triển.

· Quan niệm duy vật triệt để.

- Khẳng định là nguồn gốc vật chất của xã hội; khẳng định sản xuất vật chất là
cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã
hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và coi
sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên,
CN DVBC đã khắc phục được tính không triệt để của CNDV cũ. “CNDV lịch sử
của Marx là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”.

· Tính thực tiễn – cách mạng.

- CN DVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản, CN DVBC ra đời đã được
giai cấp vô sản tiếp nhận như một công cụ định hướng cho hành động, là vũ khí lý
luận trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân loại.

- CN DVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới.
CN DVBC đã phản ánh đúng thế giới, định hướng hoạt động của con người phù

9
hợp với quy luật, sức mạnh cải tạo thế giới của CN DVBC thể hiện ở mối quan hệ
mật thiết với hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân.

- CN DVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới, tính cách mạng sâu sắc của
CN DVBC thể hiện qua việc nó phản ánh đúng đắn các quy luật chi phối sự vận
động và phát triển; qua đó, quá trình xóa bỏ cái cũ, cái lỗi thời để xác lập cái mới,
cái tiến bộ hơn là tất yếu.

3. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan.

- Chủ nghĩa DVBC là một hình thái triết học khoa học nhất, cách mạng nhất
và nội dung, bản chất của CN DVBC không phải là kết quả của sự sáng tạo thuần
túy mà là thành tựu của hoạt động thực tiễn, thành tựu khái quát khoa học, tư duy
khoa học của nhân loại trong quá trình phản ánh thế giới. Do đó, có thể khẳng định
CN DVBC là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học.

3. Phân tích nội dung, ý nghĩa phương pháp luận của các quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật và sự vận dụng nó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

1. Quy luật mâu thuẫn / thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, theo đó
nguồn gốc của sự phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn
nội tại trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng.

- Khái niệm:

Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một
cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối
lập là khách quan và là phổ biến trong thế giới.

Mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

Khái niệm mâu thuẫn: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt,
những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất

10
và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái
cũ mất đi cái mới ra đời.

- Nội dung quy luật: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những
khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm
cho cái cũ mất đi cái mới ra đời.

Các yếu tố

● Sự thống nhất: Sự thống nhất của các mặt đối lập: Là sự ràng buộc, phụ thuộc,
quy định lẫn nhau, đòi hỏi có nhau, nương tựa vào nhau của các mặt đối lập, mặt
này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Là sự đồng nhất của các mặt đối
lập; là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập.
● Đấu tranh: Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ và
phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập có thể
được biểu hiện ở sự ảnh hưởng lẫn nhau hoặc dùng bạo lực để thủ tiêu lẫn nhau
giữa các mặt đối lập,
● Mối quan hệ: Mối quan hệ giũa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
thể hiện ở chỗ trong một mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập không tách rời nhau, bởi vì trong sự ràng buộc, phụ thuộc quy định lẫn nhau
thì hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh
với nhau. Không có sự thống nhất sẽ không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề
của đấu tranh, còn đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự
vận động, phát triển.
● Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh của các
mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa cũng rất đa
dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, cũng có thể cả hai chuyển
thành những chất mới. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập phải có những điều
kiện nhất định.

- Y nghĩa:
+ Nghiên cứu quy luật mâu thuẫn giúp chúng ta biết được nguồn gốc,
động lực của sự vận động, phát triển, qua đó tìm được biện pháp tác
động phù hợp, tạo điều kiện cho sự vật phát triển.
+ Khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét toàn diện các mặt đối lập, theo
dõi quá trình phát sinh, phát triển của chúng để có biện pháp giải quyết
mâu thuẫn tốt nhất.
+ Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ các điều kiện chín muồi,

11
không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng, khi chưa có đủ
điều kiện.

- Vận dụng:
+ Mâu thuẫn biện chứng giữa dịch bệnh Covid-19 và biện pháp ứng phó
ở Việt Nam: Đặc điểm trái ngược giữa 2 mặt đối lập: Một bên gây
ra hậu quả và một bên nỗ lực giải quyết hậu quả do bên kia gây
ra.
+ dịch bệnh covid >< các biện pháp ứng phó => Hậu quả gây ra do
Covid-19 ngày càng nghiêm trọng
=> Thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ vượt bậc trong công tác ứng
phó với dịch bệnh
+ Xu thế phát triển: Sức mạnh và hiệu quả của công tác phòng
chống và dập dịch ngày càng được củng cố
=> Thành tựu đáng ghi nhận trong công tác phòng chống dịch .

2. Quy luật lượng - chất

Quy luật lượng - chất hay còn gọi là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi
về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong ba quy
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ cách
thức của sự vận động, phát triển, theo đó sự phát triển được tiến hành theo
cách thức thay đổi lượng trong mỗi sự vật dẫn đến chuyển hóa về chất của sự
vật và đưa sự vật sang một trạng thái phát triển tiếp theo.

- Khái niệm:

Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng, đó là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu
thành sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật, hiện tượng đó là gì, phân biệt nó với các sự
vật, hiện tượng khác. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn
có, làm nên chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác.
Chất có tính khách quan, là cái vốn có của sự vật, hiện tượng, do những thuộc tính,
những yếu tố cấu thành quy định. Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những
trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi

12
sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó.
Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được bộc lộ ra thông
qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác.

Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc
tính của sự vật, biểu hiện bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Lượng
là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật
không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Lượng của sự vật biểu thị kích
thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay
thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm…

- Nội dung:

Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất bao gồm chất và lượng nhất định,
trong đó chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi này
tạo ra mâu thuẫn giữa lượng và chất. Lượng biến đổi đến một mức độ nhất định và
trong những điều kiện nhất định thì lượng phá vỡ chất cũ, mâu thuẫn giữa lượng và
chất được giải quyết, chất mới được hình thành với lượng mới, nhưng lượng mới lại
biến đổi và phá vỡ chất đang kìm hãm nó. Quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt:
chất và lượng tạo nên sự vận động liên tục, từ biến đổi dần dần đến nhảy vọt, rồi lại
biến đổi dần để chuẩn bị cho bước nhảy vọt tiếp theo. Cứ căn cứ thế, quá trình động
biện chứng giữa chất và lượng tạo nên cách thức vận động, phát triển của sự vật.

Nói ngắn gọn hơn, bất cứ sự vật nào trong quá trình phát triển đều là quá trình biến
đổi về lượng dẫn đến biến đổi về chất. Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ
dẫn đến biến đổi về chất, sản sinh chất mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt
đầu biến đổi về lượng. Biến đổi về lượng là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi
về chất. Biến đổi về chất là kết quả tất yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến đổi
về chất và lượng cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật.

- Vận dụng:

13
3. Quy luật phủ định

Quy luật phủ định hay quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy
luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ ra
khuynh hướng của sự phát triển, theo đó sự phát triển của sự vật, hiện tượng
có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn,
phát triển theo hình xoắn trôn ốc.

Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.

● Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản
thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ
việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Mỗi sự vật
có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của
bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ
thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm
cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững
quy luật phát triển của sự vật.
● Kế thừa: vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự
vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới
chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra đời không xóa bỏ hoàn
toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp,
những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc
hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời
cũng là khẳng định.

Cái mới trong phủ định biện chứng là cái biểu hiện sự phát triển phù hợp quy luật
của sự vật, hiện tượng, là biểu hiện sự chuyển hóa từ giai đoạn thấp đến giai đoạn
cao trong quá trình phát triển.

- Nội dung:

14
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động
của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định
biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó
có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự
vật mới khác.

Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp
hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố
tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2
lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ
phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như
trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố
tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật
sẽ ngày càng phát triển.

Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc
thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần thứ 1),
cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ định lần thứ 2 (phủ
định của phủ định).

Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ
định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ
và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn
ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo
đường "xoáy ốc" hay "vòng xoáy trôn ốc". Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định,
cái mới được ra đời lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.

Sự phát triển theo đường "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của
quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên.
Mỗi vòng của đường "xoáy ốc" thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ
cao hơn của sự phát triển.

- Y nghĩa:

15
Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng chung, là
tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Song, quá trình phát
triển không diễn ra theo đường thẳng nhưng quanh co phức tạp, phải trải qua nhiều
lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được cách nhìn
phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện
tượng xã hội, và do vậy cần phải kiên trì đổi mới, khắc phục khuynh hướng bi quan,
chán nản, dao động trước những khó khăn của sự phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái mới, vì cái
mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. Mặc dù khi mới ra đời,
cái mới có thể còn non yếu, song nó là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao hơn
về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần có nhận
thức đúng về cái mới và có thái độ đúng đối với cái mới đồng thời chủ động phát
hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.

Phải có cái nhìn biện chứng trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế
thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư vô chủ nghĩa”, “phủ định
sạch trơn”.

Lí luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu bản chất, tính quy
luật, những hình thức và phương pháp nhận thức, vấn đề chân lý. Nó giải đáp một
cách đúng đắn và đầy đủ mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học.

- Vận dụng:

4. Khái niệm phương pháp và phương pháp luận. Trình bày nội dung những
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật đối với quá trình
nhận thức khoa học?

5. Khái niệm thực tiễn và lý luận? Những yêu cầu cơ bản và ý nghĩa phương pháp
luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn? Sự vận dụng nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong cách mạng Việt Nam.

16
Các ý chính cần nhớ:

Khái niệm thực tiễn: Theo triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có
mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản
thân con người.

Khái niệm lý luận: Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng.

Những yêu cầu cơ bản:

1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; Lý luận hình thành
phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Lý luận không được xa rời
thực tiễn.

2. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, hướng dẫn thực tiễn, thông
qua đó điều chỉnh, bổ sung và phát triển lý luận.

3. Thực tiễn phải được chỉ đạo bằng lý luận

Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng vào Việt Nam:

1. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải luôn
luôn bám sát thực tiễn xã hội nước ta, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn của Việt Nam.

2. Hoạt động thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta phải được chỉ đạo bằng lý luận

3. Chống bệnh kinh nghiệm, giáo điều.

Chi tiết: Sách giáo khoa chương 7 trang 356 - 380

Khái niệm thực tiễn:

Theo triết học Mác - Lênin, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.

17
Khái niệm lý luận:

Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản
chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng.

Những yêu cầu cơ bản:

1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; Lý luận hình thành
phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu do thực tiễn đặt ra. Lý luận không được xa
rời thực tiễn.

Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức được khái quát thành
lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua kết quả hoạt
động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất
và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình
thành lý luận. Quá trình hoạt động thực tiễn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những lý
luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của còn người làm nảy sinh những
vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó, lý luận được
bổ sung, mở rộng.

Thực tiễn là động lực của lý luận. Hoạt động của con người không chỉ là nguồn gốc để
hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự
nhiên, với xã hội. Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang
lại lợi ích cho con người càng kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát
lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người làm cho ký luận
ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy, hoạt động của con người không bị
hạn chế trong không gian và thời gian. Thông qua đó, thực tiễn dã thúc đẩy một ngành
khoa học mới ra đời - khoa học lý luận.

Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức khái quát về thế
giới để làm thoả mãn nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận
là nâng cao năng lực hoạt động của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích
cao hơn, thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không

18
thể tạo nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực
hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến đổi tự nhiên và xã hội theo mục
đích của con người.

Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp
của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương
pháp của lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phải thông
qua thực tiễn để kiểm nghiệm.

2. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn, hướng dẫn thực tiễn, thông
qua đó điều chỉnh, bổ sung và phát triển lý luận.

Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song, lý luận có thể lạc hậu so với thực tiễn. Vận dụng lý
luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời điều
chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp
với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn, chúng có thể mang lại hiệu quả hoặc có
thể không, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực
tiễn quy định. Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.

3. Thực tiễn phải được chỉ đạo bằng lý luận

Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết, từ lý luận để xây dựng mô hình thực
tiễn theo những mục đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn biến, các
mối quan hệ, lực lượng tiến hành và những phái sinh của nó trong quá trình phát triển để
phát huy các nhân tố tích cực , hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt hiệu quả cao hơn.

Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng:

1.Lý luận phải luôn luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát
được những kinh nghiệm của thực tiễn.

19
Vận dụng: Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
phải luôn luôn bám sát thực tiễn xã hội nước ta, phản ánh được yêu cầu của thực tiễn của
Việt Nam.

2. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận phải phù hợp với điều
kiện lịch sử - cụ thể.

Vận dụng: Hoạt động thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta phải được chỉ đạo bằng lý
luận. Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của mình.

3. Chống bệnh kinh nghiệm, giáo điều

Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi phạm nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

Bệnh kinh nghiệm là sự tuyệt đối hoá những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng
một cách máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay đổi. Trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh
giáo điều lại tuyệt đối hoá lý luận, tuyệt đối hoá kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ
kinh nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận một cách máy móc, không tính toán đến điều kiện
lịch sử - cụ thể mỗi nơi, mỗi lúc.

Vận dụng:

Để khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả, một mặt phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức là bám sát thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao
trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn. Mặt khác, phải hoàn
thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường luôn vận động ,
biến đổi. Nó đòi hỏi mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo,
phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó, để chủ động về quyết sách kinh doanh
phù hợp.

Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn. Lý luận phải luôn gắn liền với thực tiễn, phải khái quát từ thực tiễn,

20
vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, kiểm tra trong thực tiễn và không ngừng sáng tạo cùng
thực tiễn. Hồ Chí Minh đã nói : “ Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.

6. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất? Sự vận
dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam?

- Khái niệm lực lượng sản xuất: Lực lượng SX là toàn bộ các lực lượng
(sức người và phương tiện vật chất) được con người sử dụng trong quá trình sản
xuất; biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất,
thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn, chinh phục tự nhiên của con người trong quá
trình sản xuất.
- Khái niệm quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người
với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất).
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
+ Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của một phương
thức sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
● Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất:

* Lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình sản xuất. Quan hệ SX là hình
thức xã hội của quá trình SX.

* Lực lượng SX là mặt năng động, thường xuyên biến đổi trong quá trình
sản xuất. Quan hệ SX là mặt ổn định của quá trình SX.

● Quan hệ SX tác động đến lực lượng SX

* Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng SX, sẽ thúc đẩy lực lượng SX
phát triển

21
* Nếu quan hệ SX không phù hợp với lực lượng SX sẽ cản trở sự phát triển
của lực lượng SX. Sự ngăn cản đó không thể tồn tại mãi. Đến một mức độ nào đó
phải thay đổi QHSX.

* Quan hệ SX mới ra đời thay thế quan hệ SX cũ tức phương thức SX mới
ra đời.

- Sự vận dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam:

1. Thời kỳ trước đổi mới

Sau cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay lại
càng gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp kém và chưa
có điều kiện phát triển.

Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết không có chuyên môn tay nghề, phần lớn
lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt nam chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm mà cha ông để lại. Trường dạy nghề rất
hiếm, chủ yếu chỉ xuất hiện ở Hà Nội, Sài Gòn,….Tại những đô thị lớn, trình độ
của người lao động cao hơn các vùng khác trong cả nước.

Tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kỳ này còn thô sơ, lạc
hậu. Là một nước nông nghiệp thế nhưng công cụ lao động chủ yếu là cày, cuốc,
theo hình thức “ con trâu đi trước, cái cày theo sau”, sử dụng sức người là chủ yếu,
trong công nghiệp máy móc thiết bị còn ít và rất lạc hậu. Phát triển công cụ lao
động giữa các vùng, miền cũng có sự khác nhau.

Nhìn chung trước trước Đổi Mới lực lượng sản xuất ở Việt nam thấp kém, lạc hậu
và phát triển không đồng đều.

Trong hoàn cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất
xã hôi chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành
phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần
kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.

22
Nhà nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các thành phần kinh tế cá
thể, kinh tế tư nhân dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, đã phân định tách bạch thuần
khiết chế độ sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa,
tuyệt đối hóa vau trò của chế độ công hữu, dẫn đến chủ trương cải tạo, sớm xóa bỏ
các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa.

Trong thời kỳ đầu, sau giải phóng miền Bắc, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã nhấn mạnh thái quá vai trò “tích cực” của quan hệ sản xuất, dẫn đến
chủ trương quan hệ sản xuất phải đi trước, mở đường để tạo động lực cho sự phát
triển lực lượng sản xuất. Có những nơi nông dân bị bắt ép đi vào các hợp tác xã, mở
rộng nông trường quóc doanh mà không tính đến lực lượng sản xuất còn rất lạc hậu.
Người lao động không được chú trọng về cả trình độ và thái độn lao động, đáng ra
là chủ thể của sản xuất nhưng lại trở nên thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp.
Nước ta quá nhấn mạnh sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập thể hóa, cho đó là
nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, từ đó người lao động bị biệt lập với đối
tượng lao động. Quan hệ sản xuất lên quá cao, tách rời với lực lượng sản xuất. Hậu
quả là sản xuất bị kìm hãm, đời sông nhân dân đi xuống nhanh chóng. Đến cuối
năm 1985( 12/1985, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845.3%), năng suất lao động quá thấp,
kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng.

2. Thời kỳ sau đổi mới (1986)

Nhận thức được sai lầm trong thời kỳ trước, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã
thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm, chủ trương Đổi mới phương thức quản lý kinh tế
và cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Người lao động nước ta đến
năm 2005 là 44,3 triệu người, trong đó lao động đã qua đào tạo là 24,79 %. Hệ
thống trường dạy nghề các cấp được mở rộng. Đội ngũ trí thức cũng tăng lên nhanh
chóng, năm 2007-2008, cả nước có 1 603 484 nghìn sinh viên.

Năm 2008, nước ta có 160 trường đại học, 209 trường cao đẳng và 275 trường
trung cấp chuyên nghiệp, đáp ứng được phần nào nhu cầu đào tạo lao động cho đất
nước. Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn bị phân mảng, tồn tại tình trạng mất cân

23
đối giữa cung và cầu lao động, nhất là thiếu thợ”. Nền kinh tế đang thiếu đi nguồn
nhân lực có tay nghề, chất lượng nhân lực của Việt Nam còn thấp so với các nước
lân cận.

Máy móc và các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các
ngành kinh tế. Trong nông nghiệp là máy cày, máy bừa,…các giống cây trồng mới
cũng được tìm ra và phổ biến. Trong công nghiệp, kỹ thuật hạt nhân bắt đầu phát
triển, đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên nhìn chung so với nhiều quốc gia trên Thế giới
thì tư liệu sản xuất nước ta còn nghèo nàn, chậm cải tiến, hiệu quả chưa thật sự cao
và còn phân hóa giữa các vùng trong cả nước.

Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh đa
dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế,
các quan hệ sản xuất xã hôi chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản, manh mún của quan
hệ sản xuất phong kiến được công nhận.

Như vậy, trong hoàn cảnh lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương đa dạng các mối quan hệ xã hội đã bước đầu vận dụng đúng
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và được
đạt nhiều thành tựu đáng kể. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta là 8,4
%, cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong bối cảnh nhiều nước rơi vào khủng hoảng
thì vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn cao,cụ thể là 45 tỷ USD vốn FDI từ
2005-2010, GDP trên người khoảng 1168 USD/người/năm.

7. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội? Sự
vận dụng mối quan hệ này trong quá trình đổi mới ở Việt Nam?

Khái niệm và cấu trúc

24
CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định. CSHT của một xã hội cụ thể (trừ xã hội nguyên thủy) bao gồm quan hệ sản xuất
thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất mầm mống.

KTTT Là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật ... Cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo
hội, các đoàn thể xã hội ... Được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.

Thiết chế tương ứng: Các tổ chức và các công cụ vâ ̣t chất mà các tổ chức ấy sử dụng để
thực hiê ̣n hê ̣ tư tưởng.

Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng gồm: Toàn bộ quan điểm tư tưởng về chính trị, pháp
quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và Những thiết chế xã hội tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác.

KTTT có nhiều bộ phận, các bộ phận đều có quan hệ với nhau và quan hệ với cơ sở hạ
tầng,

* Bộ phận chính trị, pháp quyền có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng.

* Các bộ phận khác như triết học, tôn giáo, nghệ thuật quan hệ gián tiếp với CSHT.

Quan hệ biện chứng:

CSHT và KTTT là hai mặt cấu thành của hình thái kinh tế xã hội, chúng thống nhất
biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau, trong đó CSHT quyết định KTTT; nhưng
KTTT cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với CSHT

Vì sao cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng?

+ Quan hệ vật chất quyết định quan hệ tinh thần; tính tất yếu kinh tế xét đến cùng quyết
định tính tất yếu chính trị - xã hội.

+ Kiến trúc thượng tầng được hình thành từ cơ sở hạ tầng. Mọi hiện tượng của kiến trúc
thượng tầng đều do nguyên nhân sâu xa nằm trong cơ cấu kinh tế gây ra.

25
* Mỗi CSHT hình thành nên một KTTT tương ứng (CSHT nào có KTTT ấy)

* Tính chất của CSHT quyết định tính chất của KTTT:

* CSHT thay đổi kéo theo KTTT thay đổi

Vì sao kiến trúc thượng tầng lại tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng?

Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối so với cơ sở hạ tầng. Vai trò của kiến
trúc thượng tầng chính là vai trò tích cực, tự giác của ý thức, tư tưởng đối với yếu tố kinh
tế

KTTT có tính độc lập tương đối và tác động trở lại CSHT

* KTTT có thể thay đổi không đồng thời với CSHT

* KTTT có chức năng bảo vệ CSHT đã sinh ra nó và đấu tranh chống CSHT và KTTT

* KTTT phù hợp với CSHT sẽ thúc đẩy CSHT phát triển, ngược lại nếu KTTT không
phù hợp với CSHT sẽ ngăn cản sự phát triển của CSHT.

8. Phân tích luận điểm của C.Mác: “Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên”.

Khái niệm:

Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ đặc
trưng xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng SX, và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng trên các quan hệ SX đó.

Cấu trúc của hình thái kinh tế xã hội:

+ Lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định

+ Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

26
+ Kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên các quan hệ sản xuất đó.

Trong đó, LLSX & QHSX cấu thành phương thức sản xuất.

Các hình thái kinh thế xã hội trong lịch sử: phát triển từ thấp đến cao:

- HTKT-XH nguyên thủy

- HTKT-XH chiếm hữu nô lệ

- HTKT-XH Phong kiến

- HTKT-XH Tư bản chủ nghĩa

- HTKT-XH Cộng sản chủ nghĩa

Nguyên nhân sâu xa của sự thay thế các HTKT-XH là do sự phát triển của các Phương
thức sản xuất, trong đó trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định

Phép biện chứng trong sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã hội:

Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã hội do sự tác động qua lại một
cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng.

Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên

+ Các hình thái kinh tế xã hội vận động, phát triển theo các quy luật khách quan, chứ
không theo ý muốn chủ quan của con người.

+ Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã hội vừa bị chi phối bởi các quy
luật phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật đặc thù.

+ Nguồn gốc sâu xa của sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là do
sự phát triển của lực lượng sản xuất.

27
Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ
– XÃ HỘI

Thứ nhất, xã hô ̣i là mô ̣t chỉnh thể có cấu trúc phức tạp, các lĩnh vực của xã hô ̣i có vị trí,
vai trò khác nhau song có mối quan hê ̣ mâ ̣t thiết với nhau, trong đó sản xuất vâ ̣t chất là cơ
sở tồn tại và phát triển của xã hô ̣i; phương thức sản xuất giữ vai trò quyết định đối với toàn
bô ̣ đời sống xã hô ̣i.

Thứ hai, sự phát triển của các Hình thái KT-XH (cũng là sự phát triển của XH) là
quá trình lịch sử – tự nhiên; tức là sự phát triển này không tuân theo ý muốn chủ quan của
con người mà tuân theo những quy luâ ̣t khách quan, trong đó, trước hết và quan trọng nhất
là quy luâ ̣t về lực lượng sản xuất – quan hê ̣ sản xuất, quy luâ ̣t về cơ sở hạ tầng – kiến trúc
thượng tầng.

Vâ ̣n dụng học thuyết vào hoạt đô ̣ng nhâ ̣n thức và thực tiễn

- Về nhâ ̣n thức

Muốn rút ra những kết luâ ̣n về đời sống xã hô ̣i không được xuất phát từ ý tưởng chủ quan
của mình mà phải xuất phát từ hiê ̣n thực khách quan, phải tìm nguồn gốc sâu xa của các
hiê ̣n tượng xã hô ̣i từ quá trình sản xuất vâ ̣t chất, từ đời sống chất.

- Về thực tiễn

+ Để cải tạo xã hô ̣i phải tiến hành cải tạo đồng bô ̣ cả LLSX, QHSX và KTTT.

+ Để xã hô ̣i phát triển, trước hết phải đầu tư vào sự phát triển của LLSX, trong đó quan
trọng nhất là đầu tư vào sự phát triển của người lao đô ̣ng, công cụ lao đô ̣ng; phải từng
bước hoàn thiê ̣n các quan hê ̣ của QHSX và hoàn thiê ̣n các yếu tố cấu thành KTTT .

28
9. Trình bày nội dung cơ bản và vai trò phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội của triết học Mác – Lênin. Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội đối với
việc nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay?

Nội dung học thuyết hình thái kinh tế – xã hội bao gồm những quan điểm cơ bản sau:

a. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội

a.1. Định nghĩa

– Theo địnhnghĩa chung nhất thì: “Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật
chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển – nhu cầu phong phú và vô tận của con người”.

– Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội loài người. Đó là
quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo của con người.

Ở thế giới loài vật không có hoạt động sản xuất. Có thể nói, điểm khác biệt căn bản giữa
xã hội loài người với thế giới động vật là ở chỗ: Con người lao động sản xuất, còn loài vật
thì không.

a.2. Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội

– Hoạt động sản xuất xã hội bao gồm:

+ Sản xuất vật chất: Ví dụ như sản xuất xe máy, tủ lạnh, lúa gạo, thịt, cá, xà phòng…

+ Sản xuất tinh thần: Ví dụ như sáng tác bài hát, tiểu thuyết, phim…

+ Sản xuất ra bản thân con người: Đó là hoạt động duy trì nòi giống của con người.

29
Trong các loại hoạt động sản xuất nêu trên, sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự
tồn tại và phát triển của xã hội, và xét đến cùng quyết định toàn bộ sự vận động của
đời sống xã hội.

– Khi sản xuất vật chất tức là con người đã lao động.

Chính lao động đã đem lại những thay đổi to lớn và mang tính quyết định cho con người
như:

+ Cơ thể con người không ngừng hoàn thiện và phát triển, có dáng đi thẳng, không còn gù
lưng như loài vượn. Có sự phân hóa chức năng giữa chân, tay và bộ óc. Các giác quan của
con người cũng phát triển.

+ Trong quá trình lao động sản xuất, con người xuất hiện nhu cầu “nói chuyện” với nhau.
Nếu không giao tiếp được với nhau, con người không thể lao động sản xuất.

Do đó, tiếng nói, chữ viết (tức là ngôn ngữ) xuất hiện, trở thành phương tiện để giao tiếp,
trao đổi, truyền bá tri thức, kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác.

+ Nhờ lao động sản xuất, buôn bán, tiêu thụ hàng hóa, giữa con người xuất hiện những
mối quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực như chính trị, tôn giáo, đoàn thể, nghệ thuật…

– Sản xuất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội.

Trong bất kỳ xã hội nào, con người đều có những nhu cầu tiêu dùng từ cấp độ tối thiểu
đến cấp độ thưởng thức như ăn, mặc, nghe nhạc, xem phim, đi lại, đi du lịch…

Muốn thỏa mãn những nhu cầu trên thì con người phản sản xuất. Bởi vì sản xuất là điều
kiện của tiêu dùng. Sản xuất càng phát triển thì hàng hóa càng nhiều, tiêu dùng càng
phong phú và ngược lại. Bất cứ xã hội nào cũng không thể tồn tại, phát triển nếu không
tiến hành sản xuất vật chất.

– Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội.

Suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, nền sản xuất của cải xã hội không ngừng phát
triển từ thấp đến cao.

30
Từ chỗ chỉ dùng công cụ lao động bằng đá (thời kỳ đồ đá ở xã hội nguyên thủy), con
người dần dần chế tạo được công cụ bằng đồng (vào thời kỳ đồ đồng ở xã hội cổ đại), sắt
(vào thời kỳ đồ sắt từ thời cổ đại đến trung đại).

Sau đó, nhờ cuộc cách mạng công nghiệp để phục vụ sản xuất, con người đã biết dùng
máy móc động cơ hơi nước, các hệ thống cơ khí hóa, hiện đại hóa (vào thời cận đại và
hiện đại).

Ngày nay, công cụ sản xuất của con người đã rất hiện đại, vượt quá sự tưởng
tượng của loài người cách đây không lâu.

Mỗi khi nền sản xuất phát triển đến một giai đoạn mới thì cách thức sản xuất của con
người thay đổi, năng suất lao động tăng cao, quan hệ giữa con người với con người trong
quá trình sản xuất thay đổi…, kéo theo sự thay đổi trong mọi mặt của đời sống xã hội.

Như vậy, chính là nhờ sự sản xuất ra của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển
của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã
hội với tất cả sự phong phú và phức tạp của nó.

Bởi thế, đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, ta chỉ có thể đạt tới một sự giải thích
có căn cứ nếu sự giải thích ấy được bắt nguồn từ nền sản xuất vật chất của xã hội.

b. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng, trong đó
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

b.1 Khái niệm

LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT {Người lao động + Tư liệu sản xuất [Tư liệu lao động (công
cụ lao động + nhiên liệu) + Đối tượng lao động (nguyên vật liệu thô)]} +

QUAN HỆ SẢN XUẤT {Quan hệ sỡ hữu [Sở hữu tư nhân, Sở hữu công cộng]; Quan
hệ tổ chức, quản lý;Quan hệ phân phối} =>

PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT = CÁCH THỨC SẢN XUẤT RA SẢN PHẨM.

b.2 Mối quan hệ biện chứng

31
Sự tác động lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành một
mối quan hệ biện chứng.

Mối quan hệ đó lại biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống
xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.

Quy luật đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

b.2.1. Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển dưới ảnh hưởng
quyết định của lực lượng sản xuất.

– Lực lượng sản xuất là thành tố động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của phương
thức sản xuất.

Còn quan hệ sản xuất là thành tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương thức
sản xuất.

Trong mối quan hệ đó, nội dung quyết định hình thức, tức là lực lượng sản xuất quyết
định quan hệ sản xuất.

– Khuynh hướng của sản xuất xã hội là không ngừng biến đổi và ngày càng tiến bộ
hơn.

Xét đến cùng, sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của lực lượng sản
xuất, trước hết là công cụ lao động.

Do vậy, lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với phương thức sản xuất, buộc
quan hệ sản xuất phải hình thành, biến đổi và phát triển phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất.

Nội dung đó thể hiện:

+ Trình độ của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn lịch sử nhất định là trình độ, khả
năng chinh phục tự nhiên của con người ở giai đoạn đó.

Trình độ đó thể hiện ở một số điểm sau:

32
· Trình độ của công cụ lao động;
· Trình độ tổ chức, phân công lao động xã hội;
· Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất;
· Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.
Rõ ràng cả ba mặt của quan hệ sản xuất phải phụ thuộc và phù hợp với các trình độ nêu
trên để đảm bảo phương thức sản xuất được vận hành hiệu quả.

+ Tính chất của lực lượng sản xuất là khái niệm thể hiện đặc điểm, quy mô đặc
trưng của lực lượng sản xuất ở một phương thức sản xuất nhất định.

Khi công cụ lao động chỉ ở trình độ thủ công, lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính cá
nhân.

Còn khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khi hóa, tự động hóa, hoặc “internet hóa” như hiện
nay, lực lượng sản xuất đòi hỏi sự hợp tác xã hội mang tính chất rộng rãi trên cơ sở
chuyên môn hóa, thậm chí là sự hợp tác mang tính toàn cầu.

Trên thực tế, tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt nhau.

– Như thế, quan hệ sản xuất luôn được lực lượng sản xuất thúc đẩy đến trạng thái
phù hợp với lực lượng sản xuất.

Đó là trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển tất yếu của lực
lượng sản xuất.

Nghĩa là, trạng thái mà ở đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo ra dư địa đầy đủ
cho lực lượng sản xuất phát triển.

Trong trạng thái ấy, cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với tính chất, trình độ của
lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng, kết hợp giữa lao động và tư
liệu sản xuất. Khi đó, lực lượng sản xuất sẽ có điều kiện để phát triển hết khả năng của nó.

– Tuy nhiên, trạng thái phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất sẽ
không đứng yên một chỗ mà sẽ dần biến đổi đến trạng thái mâu thuẫn giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất.

33
Sở dĩ như vậy bởi khi tới một giai đoạn nào đó, lực lượng sản xuất sẽ phát triển lên một
trình độ mới với tính chất xã hội hóa cao hơn.

Ví dụ như khi người lao động không sử dụng các công cụ thô sơ, năng suất kém mà
chuyển sang công cụ máy móc, năng suất cao hơn để sản xuất.

Khi đó, tình trạng phù hợp sẽ bị phá vỡ. Mâu thuẫn sẽ ngày càng gay gắt và đến một lúc
nào đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” trói buộc khiến lực lượng sản xuất
không thể phát triển hơn.

Đòi hỏi khách quan khi đó là phải thay quan hệ sản xuất cũ, đã lỗi thời bằng một quan hệ
sản xuất mới, tiến bộ hơn. Chỉ có như vậy thì lực lượng sản xuất mới được “cởi trói” để
phát triển lên những trình độ cao hơn.

Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới có nghĩa là ở
đó diễn ra sự diệt vong của phương thức sản xuất lỗi thời, kéo theo sự ra đời của một
phương thức sản xuất mới. Đó là thời đại của cách mạng xã hội

Ví dụ:

· Cách mạng tư sản ở Anh (1642 – 1651), ở Pháp (1789 – 1799) đã xóa
bỏ phương thức sản xuất phong kiến và thay bằng phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
· Cách mạng vô sản năm 1917 ở Nga đã đưa phương thức sản xuất xã
hội chủ nghĩa lần đầu tiên xuất hiện trên thực tế…

b.2.2. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất song
cũng khẳng định: Quan hệ sản xuất bao giờ cũng có tính độc lập tương đối và sẽ tác
động trở lại lực lượng sản xuất.

Điều đó thể hiện ở một số điểm sau:

34
– Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất, ảnh hưởng đến thái độ lao
động của công nhân, nông dân, việc hợp tác và phân công lao động, kích thích hoặc hạn
chế hoạt động cải tiến công cụ, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất.

Bằng nhiều cách như vậy, quan hệ sản xuất có nhiều ảnh hưởng lên lực lượng sản xuất và
phương thức sản xuất.

– Nếu được vận dụng khoa học, phù hợp với tính chất và trình động của lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất sẽ tạo dư địa rộng lớn để lực lượng sản xuất phát triển.

Khi đó, quan hệ sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hết khả năng
của nó.

– Nếu đã lỗi thời, không còn phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ kìm
kẹp, cản trở lực lượng sản xuất phát triển.

Kéo theo đó, hiệu năng sản xuất của nền kinh tế sẽ suy giảm, xuất hiện ngày càng nhiều
các hiện tượng bất công trong xã hội.

– Lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý,
đồng bộ.

Quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiến bộ hơn một cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát
tiển của lực lượng sản xuất.

Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt, đòi hỏi
phải giải quyết nhưng con người không phát hiện được; hoặc khi mâu thuẫn đã được phát
hiện mà không được giải quyết hoặc giải quyết một cách sai lầm, chủ quan… thì tác động
kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.

b.3 Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay

Trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn không
ngừng nghiên cứu, vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và

35
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào tình hình thực tế một cách khoa học, hiệu
quả..

Sau khi thành lập vào ngày 02/9/1945, nhất là sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày
07/5/1954, Việt Nam lựa chọn mô hình phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.

Xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, nên sự nghiệp xây dựng
phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp và
không thể tránh khỏi một số trì trệ nhất thời, thậm chí là sai lầm nhất thời.

Kinh nghiệm chỉ rõ, lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ
sản xuất bị lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu
tố đi quá xa so với lực lượng sản xuất.

Tình hình thực tế nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá
độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn.

Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương xây dựng một
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý, điều tiết của
Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội.

Từng bước xã hội hóa xã hội chủ nghĩa, quá trình đó được thực hiện không phải bằng gò
ép, mệnh lệnh hành chính mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình
thức sở hữu, hình thức kinh doanh như công ty cổ phần (Vingroup, FPT, FLC, Thaco…),
chủ nghĩa tư bản Nhà nước (Viettel, VNPT, Mobifone, Vinamilk…), các hình thức hợp
tác xã, doanh nghiệp FDI (Toyota Việt Nam, Big C…)…

Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã hội cũ không còn phù hợp, không đem lại hiệu quả
kinh tế, xã hội; chủ trương thực hiện sự chuyển hóa cái cũ thành cái mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.

36
Quá trình vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất ở nước ta sẽ là một quá trình rất lâu dài, qua nhiều thế hệ, không
chỉ bằng các chiến lược mà còn phải thông qua các kế hoạch, biện pháp cụ thể ở từng giai
đoạn.

c. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện chứng, trong đó kiến
trúc thượng tầng được xây dưng trên nền móng của cơ sở hạ tầng.

c1. Khái niệm

Trong lịch sử, mỗi xã hội có một kiểu những quan hệ vật chất cơ bản nhất. Đó là những
quan hệ sản xuất ứng với nhữnglực lượng sản xuất nhất địnhnhất định.

Phù hợp với kiểu quan hệ sản xuất đó là một hệ thống những quan hệ về chính trị, pháp
quyền, đạo đức, nghệ thuật… Những quan hệ chính trị, tinh thần này được thể hiện thông
qua những thiết chế xã hội tương ứng như nàh nước đảng phái, tòa án, giáo hội và các tổ
chức xã hội khác…

Các khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng phản ánh sự liên hệ, tác động lẫn
nhau giữa những quan hệ kinh tế và những quan hệ chính trị, tinh thần được hình thành
trên các quan hệ kinh tế đó.

c.1.1. Cơ sở hạ tầng là gì?

– Cơ sở hạ tầng, với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.

Ở đây, ta cần phân biệt giữa khái niệm “cơ sở hạ tầng” của triết học với thuật ngữ “cơ sở
hạ tầng” của ngành xây dựng (như cầu, đường, bến cảng, sân bay…).

– Từ thời cổ đại đến nay, trong bất cứ hình thái kinh tế – xã hội nào, bên cạnh những quan
hệ sản xuất thống trị vẫn còn tàn dư của những quan hệ sản xuất của xã hội cũ và cả mầm
mống của những quan hệ kinh tế – xã hội của tương lai.

37
– Như thế, về mặt kết cấu, cơ sở hạ tầng gồm có:

· Quan hệ sản xuất thống trị;


· Những quan hệ sản xuất là tàn dư của xã hội trước đó;
· Những quan hệ sản xuất là mầm mống của xã hội sau.
Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và quyết định
tính chất, đặc trưng của một cơ sở hạ tầng nhất định. Tuy nhiên, hai kiểu quan hệ sản xuất
còn lại cũng có vai trò nhất định.

Ví dụ:

· Trong hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa, có quan hệ sản xuất
tư bản chủ nghĩa (thống trị), quan hệ sản xuất phong kiến (đã lỗi thời của
xã hội trước) và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (mầm mống của tương
lai).
– Nếu xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất.

Còn nếu xét trong tổng thể các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh
tế của xã hội đó. Đó là cơ sở hiện thực để trên đó con người dựng nên kiến trúc thượng
tầng tương ứng.

– Trong xã hội có đối kháng gai cấp thì tính chất của đối kháng giai cấp và sự xung đột xã
hội bắt nguồn từ cơ sở hạ tầng.

c.1.2. Kiến trúc thượng tầng là gì?

– Kiến trúc thượng tầng, với tư cách là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là toàn
bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội
tại của chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

Ở đây, ta cần phân biệt “kiến trúc thượng tầng” trong triết học với ngành kiến trúc – xây
dựng.

– Về mặt kết cấu, kiến trúc tượng tầng gồm các thành tố:

38
· Những quan điểm, tư tưởng xã hội: Đó là những quan điểm về chính trị,
pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…
· Những thiết chế xã hội tương ứng: Đó là nhà nước (gồm quốc hội,
chính phủ, quân đội, công an, tòa án…), đảng phái, giáo hội, hội nghề
nghiệp và những đoàn thể xã hội khác.
Trong đó, mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng.
Nhưng chúng đều liên hệ với nhau và đều nảy sinh từ cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ
tầng, trong đó nhà nước là yếu tố có quyền lực mạnh mẽ nhất.

Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành tư tưởng thống trị
toàn xã hội.

– Trong xã hội có đối kháng giai cấp, kiến trúc thượng tầng gồm có:

· Hệ tư tưởng và các thiết chế của giai cấp thống trị (như chủ nô, địa chủ,
tư sản…);
· Các quan điểm và tổ chức của giai cấp bị trị (như nô lệ, tá điền, công
nhân…) đối lập với giai cấp thống trị;
· Tàn dư của các quan điểm xã hội đã lỗi thời;
· Quan điểm của các tầng lớp trung gian (như trí thức, nông dân…);
· v.v…

– Hệ tư tưởng và thiết chế của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của
toàn bộ kiến trúc thượng tầng.

Tính giai cấp của kiến trúc thượng tầng thể hiện rõ ở sự đối lập về quan điểm tư tưởng và
cuộc đấu tranh chính trị – tư tưởng của các giai cấp đối kháng.

Mâu thuẫn đối kháng trong kiến trúc thượng tầng bắt nguồn từ mâu thuẫn trong cơ sở
hạ tầng.

c.2. Mối quan hệ biện chứng

39
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có
mối quan hệ biện chứng, thể hiện ở những điểm sau:

c.2.1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.

Đó là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế – xã hội.

– Cơ sở hạ tầng là cơ sở sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng.

Kiến trúc thượng tầng không thể khởi phát từ đâu ngoài cơ sở hạ tầng của nó. Cơ sở hạ
tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng như thế ấy.

Quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất quyết định quan hệ về chính trị, pháp luật và tư tưởng.
Do đó, giai cấp nào giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế thì nó cũng thống trị về mặt kiến
trúc thượng tầng xã hội.

– Nếu cơ sở hạ tầng có sự thay đổi thì sớm muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi
theo.

Quá trình thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn cách mạng từ hình thái kinh tế –
xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác, mà còn diễn ra trong bản thân mỗi hình
thái kinh tế – xã hội.

Như C. Mác đã viết:

“Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn
ít nhiều nhanh chóng”.

Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua quá trình đấu tranh giai
cấp gay go, phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó xét đến cùng là do sự phát triển của
lực lượng sản xuất.

Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của cơ sở
hạ tầng, đến lượt nó mới làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản.

40
c.2.2. Kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại lên cơ sở hạ
tầng.

Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin cũng
luôn nhấn mạnh tính độc lập tương đối và khả năng tác động của kiến trúc thượng tầng
đối với cơ sở hạ tầng:

– Sự tác động của kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chức năng chính trị –
xã hội của nó.

Kiến trúc thượng tầng có chức năng bảo vệ, là công cụ đắc lực để củng cố, duy trì sự phát
triển của cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đồng thời đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ và kiến trúc
thượng tầng cũ.

– Đồng thời, mỗi bộ phận, yếu tố khác nhau thuộc kiến trúc thượng tầng cũng đều có
khả năng tác động ít nhiều lên cơ sở hạ tầng. Trong đó, nhà nước có vai trò đặc biệt quan
trọng, có khả năng tác động lớn nhất và trực tiếp nhất lên cơ sở hạ tầng.

Những bộ phận đó tác động lên cơ sở hạ tầng theo những cơ chế khác nhau, bằng nhiều
hình thức khác nhau.

Tất nhiên, sự vận động của các bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ
cũng theo một hướng duy nhất. Đôi khi, giữa các bộ phận này cũng nảy sinh tình trạng
không đồng đều, thậm chí mâu thuẫn, chống đối nhau.

– Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, kiến trúc thượng tầng, đặc biệt là nhà nước giữ
vai trò đặc biệt quan trọng.

Nếu không có chính quyền của giải cấp công nhân và nhân dân lao động thì không thể xây
dựng được cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ đắc lực để cải tạo và xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ, tạo
lập cơ sở hạ tầng mới.

– Sự tác động của kiến trúc thượng tầng nếu phù hợp, cùng chiều phát triển vớ cơ sở hạ
tầng thì sự tác động đó mang lại hiệu quả thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

41
Đó là khi sự tác động của kiến trúc thượng tầng tuần theo những quy luật kinh tế, quy luật
xã hội khách quan.

Còn trong trường hợp ngược chiều (làm trái quy luật), sự tác động của kiến trúc thượng
tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ là tiêu cực, cản trở sự phát triển xã hội.

– Sự tác động mạnh mẽ cua kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng là không thể
nghi ngờ.

Song, nếu quá nhấn mạnh vai trò của sự tác động đó đến mức phủ nhận tính tất yếu của
những quy luật kinh tế khách quan, của sự vận động xã hội thì sẽ rơi vào sai lầm duy tâm
chủ quan.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống xã
hội là nhân tố quyết định, nếu xét đến cùng, đối với lịch sử, nghĩa là đối với cả các lĩnh
vực của văn hóa, tinh thần nói chung.

Tuy nhiên, chúng ta không được phép hiểu sản xuất là nhân tố quyết định duy nhất. Nếu
coi đó là duy nhất thì vô hình trung đã xuyên tạc quan điểm của chủ nghĩa Mác.

c.3. Liên hệ với thực tế tình hình quá độ ở Việt Nam hiện nay

c.3.1. Cơ sở hạ tầng

– Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu quan hệ sản
xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau.

Các hình thức sở hữu đó tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối
lập nhau, nhưng cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay sở hữu toàn
dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các
thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác xã; kinh tế tư nhân; kinh tế
có vốn đầu tư của nước ngoài.

42
Ví dụ:

· Kinh tế nhà nước: Tiêu biểu là các tập đoàn Viettel, PVN, EVN,
Vietnam Airline, Vinamilk…
· Kinh tế tập thể, hợp tác xã: Tiêu biểu là các hợp tác xã nội nghiệp, công
nghiệp ở các địa phương.
· Kinh tế tư nhân: Tiêu biểu là các tập đoàn Vingroup, FLC, Massan,
Vietjet…
· Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Tiêu biểu là Toyota Vietnam,
Huyndai Vietnam…
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành đầy
đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa.

Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan
trọng của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến khích phát triển hết mọi
tiềm năng.

c.3.2. Kiến trúc thượng tầng

– Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam
khẳng định:

Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng. Xây dựng
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong
của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân dân là
người làm chủ xã hội.

Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội, Chính phủ,
quân đội, công an, tòa án, ngân hàng… không tồn tại vì lợi ích của riêng nó mà là để phục
vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm mọi lợi ích, quyền lực đều thuộc về nhân
dân.

43
– Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước giải
quyết mâu thuẫn giữa chúng.

Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến
trúc thượng tầng là một quá trình lâu dài, gian khổ, diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.

d. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên

d.1. Sự vận động, phát triển và thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong
lịch sử chịu sự tác động, chi phối của các quy luật xã hội khách quan.

– Mỗi hình thái kinh tế – xã hội nhất định có các thành tố tương ứng là lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

Các thành tố đó tác động qua lại với nhau theo những quy luật xã hội khách quan: Đó là
quy luật về sựphù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.

– Xét đến cùng, sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng một hình thái kinh
tế – xã hội khác bắt nguồn sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là
công cụ lao động.

Khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức một mức độ nhất định mà quan hệ sản xuất
hiện tồn trở nên mâu thuẫn, chật hẹp, trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất đó, thì
tất yếu sẽ diễn ra cách mạng xã hội để xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp.

Khi đó cơ sở hạ tầng mới cũng xuất hiện, kéo theo kiến trúc thượng tầng mới tương ứng.
Và đương nhiên, hình thái kinh tế – xã hội mới xuất hiện thay thế cho hình thái kinh tế –
xã hội cũ.

Như thế, sự phát triển, thay thế nhau từ thấp lên cao của các hình thái kinh tế – xã hội chịu
sự tác động, chi phối của các quy luật nội tại: Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng.

44
Rõ ràng, đây là quá trình lịch sử – tự nhiên. Tức là quá trình này không phải ngẫu nhiên.
Tuy là quá trình diễn ra thông qua hoạt động của con người (tức là mang tính “lịch sử”),
nhưng không phải do con người, vĩ nhân hoặc đấng siêu nhiên nào đó sắp đặt, mà là quá
trình tự thân, theo quy luật khách quan (tức là mang tính “tự nhiên”).

d.2. Quy luật chi phối các hình thái kinh tế – xã hội là quy luật xã hội, thể hiện thông
qua hoạt động của con người, nhưng không vì thế mà quy luật đó không mang tính khách
quan.

Quy luật xã hội không những phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà ngược lại, khi xét
đến cùng, quy luật xã hội quyết định, chi phối cả ý thức, ý chí của con người. Mỗi hình
thái kinh tế – xã hội được coi như một cơ thể xã hội phát triển theo những quy luật vốn có
của nó.

Sống trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, con người làm ra lịch sử của mình, đó là xã hội.
Nhưng xã hội của con người vận động theo quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người, không phụ thuộc vào vĩ nhân hay mệnh trời.

– Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự tiến hóa của các hình thái kinh tế – xã hội.

Quá trình tiến hóa là quá trình kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế – xã hội như: Xã hội
cộng sản nguyên thủy được kế tiếp bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, sau đó được kế tiếp bằng
xã hội phong kiến, tiếp đó là sự kế tiếp của xã hội tư bản chủ nghĩa… Quá trình tiến hóa
đó là khách quan, là quá trình lịch sử – tự nhiên.

d.3. Lịch sử phát triển ở một số quốc gia có thể có những đặc trưng riêng biệt, nhưng sự
riêng biệt đó vẫn là một bộ phận của quá trình lịch sử – tự nhiên.

– Khi nghiên cứu quy luật phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, C. Mác đi đến kết
luận khoa học rằng sẽ xuất hiện một hình thái kinh tế – xã hội mới thay thế cho hình thái
tư bản chủ nghĩa: Đó là hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là
hình thái xã hội chủ nghĩa.

45
Với sự ra đời của nước Nga Xô-viết sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, nhân loại đã
được kiểm chứng kết luận của Mác.

Sự sụp đổ của Liên Xô không phải là sụp đổ của tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà là sự thất
bại của một mô hình không thích hợp. Mô hình phát triển của Trung Quốc đã phần nào đã
chứng minh điều này.

– Như thế, nếu xem xét ở phạm vi toàn nhân loại thì sự phát triển của các hình
thái kinh tế – xã hội trên thực tế đã theo một tuần tự từ thấp lên cao, tuần tự của quá
trình lịch sử – tự nhiên.

Song, nếu chỉ xét riêng ở phạm vi một quốc gia riêng lẻ, thì do các yếu tố lịch sử, không
gian và thời gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế –
xã hội một cách tuần tự, mà có thể bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội nào
đó.

Ví dụ: Việt Nam và Lào là hai quốc gia đã bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa để quá độ từ
hình thái phong kiến lên hình thái xã hội chủ nghĩa.

Rõ ràng, một số quốc gia như Việt Nam, Lào… dù là quốc gia riêng biệt nhưng vẫn là bộ
phận thuộc nhân loại, gắn với nhân loại. Sự bỏ qua hình thái tư bản chủ nghĩa ở các quốc
gia đó không hề mâu thuẫn với tính tuần tự của các hình thái kinh thế – xã hội trên toàn
nhân loại.

Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội của C. Mác có ý nghĩa khái quát đối với toàn nhân
loại, nên nếu chỉ lấy hoàn cảnh đóng khung ở một quốc gia riêng biệt để minh họa phản
bác thì minh họa đó không mang có giá trị.

– Sở dĩ có hiện tượng “phát triển rút ngắn”, bỏ qua một hoặc một vài hình thái
kinh tế – xã hội ở một số quốc gia là vì có quy luật kế thừa của lịch sử loài người.

Quy luật kế thừa luôn cho phép một cộng đồng người vốn có xuất phát điểm thấp, cơ sở
kinh tế lạc hậu có thể giao lưu, hợp tác, kế thừa từ những cộng đồng người khác đang có
trình độ phát triển cao hơn.

46
Trong lịch sử nhân loại thường xuất hiện những trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất
vật chất, kỹ thuật, văn hóa, chính trị… Nhờ có quá trình giao lưu, hợp tác với các trung
tâm đó, nhất là trong bối cảnh của toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4
(cách mạng 4.0), một số nước vốn có xuất phát điểm thấp có thể rút ngắn tiến trình lịch sử
mà không phải lặp lại tuần tự các quá trình đã qua của lịch sử các hình thái kinh tế – xã
hội.

– Trong thời đại ngày nay, chiến lược phát triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã
hội ở một số quốc gia như Việt Nam chẳng những không mâu thuẫn với quy luật phát
triển theo một quá trình lịch sử – tự nhiên, mà còn là biểu hiện sinh động của quá
trình lịch sử – tự nhiên ấy.

Chỉ khi người ta “rút ngắn” quá trình phát triển một cách duy ý chí, bất chấp quy luật
khách quan thì lúc đó chiến lược “rút ngắn” mới đối lập với quá trình lịch sử – tự nhiên.

Có thể nói, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (cách mạng 4.0) và bối cảnh toàn cầu
hóa hiện naychính là cơ hội, là điều kiện thuận lợi, tạo cơ sở thực tế để Việt Nam thực
hiện thành công công cuộc Đổi Mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

-> ý nghĩa của lý luận hình thái kinh tế xã hội:


- Là một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Khắc phục quan
điểm duy tân, duy vật siêu hình về xã hội, bác bỏ cách miêu tả xã hội một cách chung
chung, phi lịch sử.

- Vạch ra nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển xã hội, tìm ra nguyên
nhân và những cơ sở của sự xuất hiện và biến đổi của các hiện tượng xã hội.

- Cung cấp cơ sở phương pháp luận chung của các khoa học xã hội, là một trong
những nền tảng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch sử,
giúp con người hiểu được lôgic khách quan của quá trình tiến hóa xã hội

- Là một trong những thế giới quan phương pháp luận khoa học quan trọng cho việc
hoạch định chủ trương đường lối cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn.

47
10. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về giai cấp, nguồn gốc, bản chất giai
cấp?

11. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về nguồn gốc, bản chất, đặc trưng của nhà
nước? Đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam?

Nguồn gốc của Nhà nước:

- Lịch sử xã hội loài người đã có thời kỳ chưa có nhà nước. Đó là thời kỳ cộng sản
nguyên thuỷ. Nhà nước ra đời khi xã hội đã phân chia giai cấp
- Nguồn gốc sâu xa của nhà nước chính là do sự phát triển của LLSX, trước hết là
công cụ lao động. LLSX phát triển đã làm cho chế độ sở hữu tư nhân ra đời, các
giai cấp bóc lột và bị bóc lột xuất hiện. Cuộc đấu tranh giữa chủ nô và nô lệ-hai giai
cấp đối kháng đầu tiên trong lịch sử-dẫn đến nguy cơ huỷ diệt luôn cả xã hội. Để
điều này không xảy ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước.
- Nguồn gốc trực tiếp xuất hiện nhà nước chính là mâu thuẫn giai cấp gay gắt không
điều hoà được.
- Như vậy, sự ra đời của nhà nước là một yếu tố khách quan để làm cho mâu thuẫn
g/c diễn ra trong vòng "trật tự" có thể duy trì chế độ kinh tế -xã hội và g/c thống trị
mới.

=> Nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một xã hội đã
phát triển đến một giai đoạn nhất định.

Bản chất của Nhà nước:

- Bản chất giai cấp: Nhà nước được sinh ra trong xã hội có giai cấp nên bao giờ cũng
thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Tính giai cấp của Nhà nước được thể hiện qua
việc nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội. Nhà nước sinh ra là để thực hiện ý
chí của giai cấp thống trị, củng cố và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Nhà
nước thiết lập nên hệ thống pháp luật, các thiết chế xã hội, chính phủ, tòa án, quân
đội… để duy trì trật tự xã hội theo ý muốn của giai cấp thống trị.

48
- Bản chất xã hội: Ngoài bản chất giai cấp thì Nhà nước còn thể hiện bản chất xã hội
của mình. Tính xã hội của Nhà nước hay còn được gọi là vai trò kinh tế – xã hội
của Nhà nước. Bản chất này được thể hiện qua vai trò quản lý xã hội của Nhà nước.
Nhà nước có trách nhiệm phải giải quyết tất cả các vấn đề nảy sinh trong xã hội
như: đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, thiên tai… nhằm đảm bảo lợi ích chung cho
toàn xã hội.

Đặc trưng của Nhà nước:

- Thứ nhất: Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt không còn hòa
nhập với dân cư trong chế độ thị tộc nữa mà hầu như tách rời khỏi xã hội. Quyền
lực công cộng này là quyền lực chung. Chủ thể là giai cấp thống trị chính trị, xã
hội.
- Thứ hai: Nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ không
phụ thuộc vào chính kiến, nghề nghiệp, huyết thống, giới tính… Việc phân chia này
quyết định phạm vi tác động của nhà nước trên quy mô rộng lớn nhất và dẫn đến
hình thành cơ quan quản lý trong bộ máy nhà nước. Không một tổ chức xã hội nào
trong xã hội có giai cấp lại không có lãnh thổ riêng của mình.
- Thứ ba: Nhà nước có chủ quyền quốc gia: Nhà nước là một tổ chức quyền lực có
chủ quyền. Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị pháp lý thể hiện ở quyền
tự quyết của nhà nước về chính sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc yếu tố
bên ngoài.
- Thứ tư: Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi
công dân. Là lực lượng đại diện xã hội, có phương tiện cưỡng chế. Nhà nước thực
hiện sự quản lý của mình đối với công dân của đất nước. Các quy định của nhà
nước đối với công dân thể hiện trong pháp luật do nhà nước ban hành. Mối quan hệ
nhà nước và pháp luật: Không thể có nhà nước mà thiếu pháp luật và ngược lại.

49
Trong xã hội chỉ nhà nước có quyền ban hành pháp luật, các tổ chức khác không có
quyền này và chính nhà nước bảo đảm cho pháp luật được thực thi trong cuộc sống.
- Thứ năm: Nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình thức bắt
buộc: quyết định và thực hiện thu thuế để bổ sung nguồn ngân sách nhà nước, làm
kinh phí xây dựng và duy trì cơ sở vật chất kỹ thuật, trả lương cho cán bộ công
chức. Dưới góc độ thuế nhà nước gắn chặt với xã hội và dân chứ không tách rời.
Cần phải xây dựng một chính sách thuế đúng đắn, công bằng và hợp lý, đơn
giản,tiện lợi.

Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:

Bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam:

Là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của một đảng, đó là
Đảng cộng sản VN; trên cơ sở liên minh vững chắc giữa g/c cn với g/c ndân và đội ngũ trí
thức; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia dân tộc độc lập
XHCN theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế
giới.

b/ Xây dựng hoàn thiện nhà nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường... Tính chất xã
hội dân sự yêu cầu tự do và sáng tạo của từng cá nhân, là cạnh tranh thực hiện lợi ích kinh
tế nên các khế ước các hợp đồng phải được tôn trọng.. Tuy nhiên, sự phân hoá giai cấp
giầu nghèo ko thể tránh vì vậy phải có sự giải quyết thích hợp.

Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam

50
Dựa trên tư tưởng của các nhà lý luận trên thế giới về nhà nước pháp quyền nói chung;
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam nói riêng về nhà nuớc pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có 5 đặc trưng chủ yếu sau:

- Một, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
- Hai, trong Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nuớc là
thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạnh, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nuớc là trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Ba, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đuợc tổ chức và hoạt động
trên cơ sở hiến pháp, pháp luật. Ở đó hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thợng
trong việc điều chỉnh các quan hệ trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
- Bốn, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa nhà nuớc và công
dân, thực hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
- Năm, Nhà nuớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Chính quyền nhà nước chịu sự giám sát của nhân dân, sự phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên thuộc Mặt trận.

5 đặc trưng trên là kết luận đã được rút ra từ việc thực hiện Chuơng trình "Tổng kết 20
năm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

12. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người. Ý nghĩa phương
pháp luận của quan điểm này?

a. Khái niệm về con người:

- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.

51
+ Là thực thể sinh vật, vì con người dù phát triển đến đâu cũng là một động vật, bị các
quy luật sinh học chi phối.
+ Là thực thể xã hội vì con người phải thông qua các hoạt động xã hội, trước hết là lao
động sản xuất, mới tồn tại đúng với nghĩa là con người.
- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
+ Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi
vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử – xã hội.
+ Lịch sử của con người cũng là do chính con người tạo ra, không phải do sự sáng tạo
của thần thánh, hay của ý niệm thế giới.
+ Hoạt động của con người tạo nên lịch sử của mình, nhưng con người khác con vật ở
chỗ, con người hoạt động có ý thức, cho nên con người có thể nhận thức được quy luật
lịch sử và vận dụng quy luật để làm ra lịch sử của mình một cách tự giác. Chẳng hạn
phát triển kinh tế, xã hội một cách có mục đích, có kế hoạch v.v.

b. Quan điểm của chủ nghĩa Mác _ Lê nin về bản chất của con người

- Bản chất con người không phải là cái trừu tượng, có sẵn, mà là tổng hòa các mối
quan hệ XH hiện thực

+ Bản chất con người không tồn tại sẵn, trước khi con người tồn tại, không tồn tại
ngoài các mối quan hệ XH hiện thực của con người, mà thể hiện qua các mối quan hệ
và hoạt động của con người.

+ Bản chất con người không phải là cái bất biến, mà được hình thành, biến đổi thông
qua hoạt động của con người.

+ Để nhận thức bản chất một con người nào đó phải nghiên cứu các quan hệ và hoạt
động XH của con người đó

- Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở,
tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.

+ Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc
dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.

=> Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi

52
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm
đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.

53

You might also like