Professional Documents
Culture Documents
Báo cáo TTCN Trần Thị Thu Cúc 15H1 final
Báo cáo TTCN Trần Thị Thu Cúc 15H1 final
LỜI MỞ ĐẦU
Thực tập công nhân là một học phần không thể thiếu trong chương trình đào tạo kỹ
sư chuyên ngành Kỹ thuật Hóa học - Silicat, nhằm giúp sinh viên nắm bắt được các
yêu cầu thực tế ngoài phân xưởng sau khi đã hoàn thành các môn học lý thuyết ở
trường. Đồng thời còn bồi dưỡng chuyên môn thực tế cũng như rèn luyện kỹ năng thực
tập công nhân của sinh viên.
Sau thời gian thực tập tại các nhà máy, tôi đã được tham gia một học phần lý thú và
ý nghĩa giúp bản thân tiếp cận được gần hơn, tìm hiểu được nhiều điều hơn về ngành
nghề mà mình đang theo học. Qua quá trình quan sát và nhất là được sự chỉ bảo nhiệt
tình của anh chị kỹ sư nhà máy, các anh chị công nhân tại phân xưởng, tôi đã thấy rõ
được phần nào nhiệm vụ và cách làm việc của người công nhân trong doanh nghiệp.
Đồng thời tôi cũng nắm được nhiệm vụ và các thao tác cơ bản của người công nhân,
người quản lý tham gia một công việc cụ thể được giao.
Đối với tôi, đợt thực tập này giúp tôi biết thêm rất nhiều kiến thức bổ ích, là cơ
hội để chúng tôi tiếp xúc với thực tiễn, biết được các công việc thực tế trong doanh
nghiệp và kiểm tra lại kiến thức của mình thông qua các công việc thực tế.
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực tập ở Công ty Kính nổi Chu Lai, công ty cổ phần xi măng
Vicem Hải Vân, công ty gạch men Anh Em, công ty bê tông Hòa Cầm, công ty sứ vệ
sinh Cosani chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các anh, chị trong Công ty
và sự hỗ trợ của thầy PGS.TS Nguyễn Văn Dũng – giảng viên bộ môn Kỹ thuật Hóa
học - Khoa Hóa, Trường Đại học Bách Khoa – Đại Học Đà Nẵng. Qua đợt thực tập này,
chúng tôi học hỏi được nhiều kiến thức bổ ích là hành trang cho công việc sau này.
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo của các Quý Công ty đã
tạo cơ hội cho chúng tôi được tham quan học tập tại Nhà máy. Đặc biệt cảm ơn đến các
Quản đốc phân xưởng, các anh chị làm việc ở bộ phận kỹ thuật nơi chúng tôi được giúp
đỡ tận tình nhất. Đồng kính gửi lời cảm ơn đến các thầy cô bộ môn Kỹ Thuật Hóa Học
– Khoa Hóa – trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng đã tạo điều kiện cho chúng tôi có
một chuyến thực tập ý nghĩa này.
Kính chúc các anh chị, thầy cô được nhiều sức khỏe và thành công trong công việc.
Chúc các Công ty ngày càng phát triển lớn mạnh và hy vọng một ngày nào đó chúng tôi
có thể góp sức mình vào sự phát triển của một trong những công ty này.
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Công ty phấn đấu đạt chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật năm 2010: Doanh thu 2.000 tỷ đồng,
xuất khẩu 30% sản phẩm hàng hóa và nghiệm thu, bàn giao dự án.
Việc kiểm soát chất lượng sản phẩm tại Công ty được thực hiện nghiêm ngặt và
thường xuyên từ khâu nguyên liệu, phối liệu cho đến khâu kiểm tra kính thành phẩm,
đảm bảo cho kính khi xuất kho đạt và vượt tiêu chuẩn JIS R 3202 – 2011 của Nhật Bản.
quá trình sản xuất, các cá nhân phải tuyệt đối tuân thủ các quy định về an toàn lao động
và các nội quy sử dụng, vận hành các thiết bị máy móc tại các khu vực khác nhau.
Máy trộn
Làm nguội
Kéo nổi
Kính tấm
Trộn
Buồng tích
Bơm dầu Lò nấu nhiệt gián
đoạn 2 bên
Máy
Giàn cặp trục con lăn
đập,
nghiền
Lò ủ
Xả biên kính,
Máy cắt dọc, ngang, cắt bavia nghiền
Xả kính lỗi
Phân loại
Xuất hàng
Hình 2.1. Quy trình chi tiết sản xuất kính tấm
Nhà máy sử dụng các nguyên liệu sẵn có gần nhà máy như cát silic Tam Anh (Núi
Thành), soda Chu Lai và một số mua từ các nhà máy phía Bắc hoặc nhập khẩu từ Trung
Quốc.
Bảng 2.1: Thành phần các nguyên liệu chính trong sản xuất thủy tinh
Fenspat SiO2=70.42 <0.1mm chiếm Phủ Lý Chủ yếu cung cấp Al2O3
Al2O3=16.55 tỷ lệ ≤ 25% (Hà Nam) và SiO2 nhằm giảm khuynh
Fe2O3=0.04 ẩm<4% hướng kết tinh của thủy
tinh, tăng độ bền cơ học, độ
bền hóa học, tăng tốc độ
đóng rắn. 40÷45 tấn /ngày
Soda Na2CO3=98±1 <0.2mm chiếm Chu Lai, Cung cấp Na2O, tăng tốc
NaCl=0.3±0.2 tỷ lệ ≤ 10% nhập từ độ hòa tan, giảm nhiệt độ
ẩm <0.5% Trung nấu. 160÷170 tấn /ngày
Quốc
Sulfat natri 98% Na2SO4 <0.01mm Trung Cung cấp Na2O và SO3;
< 0.1% Fe2O3 chiếm tỷ lệ Quốc khử bọt. 7÷8 tấn /ngày
20%
ẩm= 0.05%
Đôlômit CaO=32.18 <0.1mm chiếm Yên Bái Cung cấp MgO, giảm
Fe2O3=0,07 tỷ lệ ≤ 5% khuynh hướng kết tinh,
MgO =19.69 ẩm <1% tăng tốc độ đông cứng của
thủy tinh. 130÷135
tấn/ngày.
Đá vôi MgO=1.79 <0.1mm chiếm Hà Nam Cung cấp CaO, MgO
CaO=53.2 tỷ lệ ≤ 10% làm cho quá trình nấu khử
Fe2O3=0.04 ẩm<1% bọt dễ dàng, giảm khuynh
hướng kết tinh, tăng độ bền
hóa.
Việc sử dụng mảnh vụn thủy tinh đóng vai trò là chất rút ngắn thời gian nấu, do giảm
nhiệt độ nóng chảy của thủy tinh, bởi vì nó tạo ra pha lỏng trong giai đoạn đầu của quá
trình nấu. Để sử dụng được, mảnh vụn thủy tinh phải có thành phần đồng nhất với thành
phần gốc của thủy tinh cơ sở. Hàm lượng dùng mảnh vụn đạt hiệu quả tốt từ 15 25%
trọng lượng phối liệu. Thành phần hóa: Kính nổi, kích thước mảnh: 20 – 50 mm, không
lẫn tạp chất.
Chất khử:
Khi dùng natri sulfat thì phải dùng thêm chất khử, vì nếu dư sulfat thì tạo lớp sulfat
nóng chảy gây phá hủy lớp gạch chị lửa. Ở nhà máy hiện nay sử dụng than bột để khử,
hàm lượng C ≥ 83% ± 0,1.
Chú ý: Tất cả các nguyên liệu trên rất dễ hút ẩm. Vì vậy công tác bảo quản phải đặc
biệt lưu ý, lưu kho nơi thoáng mát, kho khô ráo phân theo từng lô để tiện lợi khi lấy sử
dụng. Trước khi đưa các nguyên liệu vào các silô chứa thì đều cho qua sàng để loại bỏ
hạt không đạt kích thước và tạp chất. Kích cỡ sàng tùy từng loại nguyên liệu.
ẩm ướt, lẫn tạp chất. Nguyên liệu tồn trữ theo từng lô riêng biệt có gắn bảng theo dõi số
lượng và hạn dùng.
Nguyên liệu
Cân tự động
Các bước tiến hành mẻ trộn ở chế độ tự động (khi các thông số cài đặt cố định đã cài
sẵn): Kiểm tra điều chỉnh dòng điện các máy rung nạp nguyên liệu cho phù hợp tránh bị
dư nguyên liệu.
Cát được xe xúc lật đưa vào phễu, qua bang tải vào silo chứa. Sau đó dùng gàu tải
vận chuyển lên trên. Cát từ trên đưa xuống theo ống dẫn liệu đổ xuống sàn rung. Tùy
lượng cát sử dụng mà 2 sàng 2 bên hoạt động hoặc 4 cái hoạt động cùng một lúc. Sàng
rung làm cho cát không bị vón cục, loại bỏ các tạp chất có kích thước lớn. Cát được đổ
xuống silo chứa cát, từ silo chứa cát đưa xuống cân định lượng, sau khi cân xong cát
được đổ xuống băng tải chung.
Các nguyên liệu khác: Đá vôi, đolomit, fenspat, soda được đưa vào các bể chứa, tại
đây mỗi bể chứa có máy hút bụi để hút các hạt có kích thước nhỏ để giảm bụi cho nhà
máy. Sau đó đưa xuống silo chứa, có máy hút bụi riêng, đưa xuống cân định lượng, cân
xong đưa xuống băng tải chung.
Muối sunfat và than: muối được đưa vào bể chứa, than được tời lên, chứa vào silo.
Muối cân trước sau đó than cân sau và được trộn sơ cấp rồi được chuyển xuống bang tải
chung.
Các nguyên liệu sau khi xuống bang tải chung được đưa vào máy trộn, trên bang tải
có hệ thống hút bụi, hút sắt. Có 2 loại máy trộn Đức và Trung Quốc làm việc không
đồng thời nhau. Trộn qua 3 giai đoạn: Trộn khô, trộn thêm nước và trộn ướt. Trộn xong
được xả xuống bang tải phối liệu. Tại đây thủy tinh vụn được xả xuống sau khi đã hút
hết sắt và lọc bụi. Phối liệu + thủy tinh vụn được đưa theo băng tải chung đến lò nấu.
Cân xong nguyên liệu sẽ tự động xả vào máy trộn – trộn khô 100 giây – bù nước và
trộn ướt 120 giây – mở van xả liệu 40 giây – sau 67 giây xả kính vụn, ta điều chỉnh
lượng kính vụn rải đều khớp với luống phối liệu, kính vụn xả xong, phối liệu trên băng
tải khứ hồi hết là lúc kết thúc mẻ trộn. Ở nhà máy vận chuyển phối liệu đến lò nấu bằng
băng tải xiên, nó tránh được sự rung và va đập làm cho phối liệu phân lớp.
Các thiết bị tại khu nguyên liệu:
– Silo chứa: cát (4 silo, dung tích 500 tấn), đá vôi (1 silo, dung tích 170 tấn),
sô đa (2 silo, dung tích 190 tấn), đôlômit (2 silo, dung tích 220 tấn), feldspar (1
silo, dung tích 170 tấn), Na2SO4 (1 silo, dung tích 10 tấn), than (1 silo, dung
tích 5 tấn).
– Máy trộn: 2 máy Trung Quốc và Đức.
– Máy lọc bụi, băng tải, gầu tải, cân định lượng, sàng rung.
Hình 2.3 Các bộ phận của bể nấu thủy tinh liên tục với buồng hồi nhiệt gián đoạn
1 – Thanh giằng 16 - Buồng dẫn không khí
2 – Vòm lò 17 - Buồng dẫn khí đốt
3 - Tiếp liệu 18 - Buồng trộn (không khí, khí đốt)
4 - Tường trên 19 - Mặt gương thủy tinh
5 - Tường hông 20 - Chiều sâu của bể
6 – palisade 21 – Vòm buồng dẫn khí
7 - Gạch lát đáy lò 22 – Vòm buồng dẫn khí đốt
8 – Đáy lò (bể lò) 23 - Đệm trao đổi nhiệt buồng không khí
9 – Giá đỡ lò 24 - Đệm trao đổi nhiệt buồng khí đốt
10 – Kênh dẫn 25 - Buồng kiểm tra
11 – Kênh dẫn hông lò 26 - Tấm định mức điều khiển
12 - Miệng lửa 27 - Phần ghi lò
13 - Buồng cháy sơ bộ 28 - Phần dưới lò
14 - Lưỡi lửa 29 – Kênh dẫn không khí và khí đốt.
15 – Vòm buồng lửa
Các giai đoạn của quá trính nấu thuỷ tinh không có ranh giới rõ ràng, tuy nhiên để dễ
hiểu ta có thể chia thành 5 giai đoạn như sau:
Sau khi thủy tinh lỏng đạt được những tiêu chuẩn về độ nhớt, nhiệt độ ở phần bể làm
nguội (bể tinh lọc) sẽ được đưa đi tạo hình, nghĩa là tạo ra những tiêu chuẩn của từng
loại sản phẩm yêu cầu. Tại Công ty chủ yếu sản xuất kính tấm phẳng. Người ta sử dụng
phương kéo ngang, thiết bị tạo hình là bể thiếc gọi là phương pháp Float hay phương
pháp nổi.
Dải thuỷ tinh được tạo thành do kết quả thuỷ tinh tự dàn, tự chảy dưới tác động của
trọng lực bản thân trong khuôn có tổ chức, chảy theo hướng đã quy định, được làm nguội
và chuyển sang lò ủ nhiệt
– Quá trình tạo hình: sau giai đoạn làm nguội thủy tinh chảy qua hệ thống kênh rót
vào trong bể thiếc bằng vòi rót (spout lip) nổi lên trên bề mặt thiếc lỏng.
Theo chiều dài làm việc của bể thiếc, việc giữ nhiệt độ từng khu vực của thiếc nóng
chảy để đảm bảo khống chế nhiệt độ của băng kính ra khỏi bể thiếc cũng như ở từng
khu vực theo chiều dài của bể. Vì vậy phải làm sao khống chế được dòng đối lưu của
dòng thiếc từ vùng có nhiệt độ cao (phần thượng lưu và phần vai) xuống phần hẹp của
bể thiếc.
Dòng thiếc có thể chuyển động xuống phần hẹp của bể thiếc ở hai bên phần băng kính
không che phủ, và được lắp đặt ở hai bên nhưng đặc biệt chú ý là băng kính không được
chạm vào thiết bị này (được gọi là weik), như vậy nó sẽ được đặt phía trên của (C/P) và
lùi sâu vào phía trong của thành bể. Cấu tạo của (weik) được làm bằng carbone hay
Graphít ở dạng tấm.
Một mẫu thủy tinh ở trạng thái dẻo, khi làm lạnh nhanh lớp ngoài của mẫu nguội
nhanh hơn lớp bên trong, sự chênh lệch nhiệt độ này dẫn đến trong thủy tinh xuất hiện
ứng suất kéo và nén. Khi quá trình làm nguội kết thúc ứng suất có thể còn (ứng suất vĩnh
cửu) hoặc có thể biến mất (ứng suất vĩnh cửu).
Nhiệt độ và quy trình ủ: Mỗi loại thủy tinh có độ dày khác nhau sẽ có nhiệt độ và
chế độ ủ khác nhau. Để xác định được chế độ ủ ta cần xác định khoảng nhiệt độ có thể
phát sinh hoặc loại trừ ứng suất vĩnh viễn. Khoảng nhiệt độ đó phụ thuộc thành phần
thuỷ tinh và giới hạn bởi nhiệt độ ủ cao và nhiệt độ ủ thấp.
Lò nấu của dây chuyền là loại lò nung bảo ôn ngọn lửa cháy ngang có phần mềm thao
tác hiện đại.
+ Để cấp không khí đốt nhiên liệu người ta sử dụng các quạt ly tâm thổi
không khí vào buồng hồi nhiệt. Ở đây không khí sẽ lấy nhiệt thừa của khí thải
truyền cho gạch xếp trong buồng hồi nhiệt.không khí được sấy lên đến 800 –
900oC. Sau đó không khí này sẽ đươc trộn với nhiên liệu để thực hiện công đoạn
đốt.
Máy nạp liệu
Bộ phận làm nguội.
– Tác dụng của bộ phận làm nguội là hạ nhiệt độ một cách đồng đều
cho thủy tinh lỏng trước khi đi vào bộ phận tạo hình. Độ lớn nhỏ của diện tích
bộ phận làm nguội có liên quan tới các yếu tố như quy mô lò, khả năng nấu
thủy tinh, nhiệt độ nóng chảy của lò nung, phương thức tạo hình, chất lượng
chế phẩm, hình thức thiết bị phân cách và mức độ phân cách…Về hình thức
kết cấu của bộ phận nấu thủy tinh giống như kết cấu của bể lò, nhưng kết cấu
không gian sẽ nhỏ hơn phần bể nấu. Mặt khác do bộ phận làm nguội của lò
có nhiệt độ thấp hơn bộ phận nấu nên yêu cầu chất lượng gạch có thể sử dụng
chủng loại có chất lượng thấp hơn (có thể xây lò bằng gạch mulit hoặc
corumolum).
– Về chiều sâu của bể làm nguội thông thường nông hơn bể nấu
300mm, chiều cao tường hông cũng nhỏ hơn chiều cao tường hông của bể
nấu (thường khoảng 400mm). Việc hạ thấp chiều cao của tường hông có thể
giảm thiểu được chất thoát nhiệt, làm cho thủy tinh hạ nhiệt từ từ. Xung quanh
bộ phận làm nguội còn phải bố trí một số cửa thao tác, ví dụ như cửa thao tác
nhiệt độ phía trước, cổ quan sát nhiệt độ, lỗ lắp thiết bị đo mức (ploater).
Miệng phun lửa
Miệng phun có tác dụng phun hỗn hợp khí và nhiên liệu, đồng thời là cửa xả khí thải.
Độ lớn nhỏ của diện tích mặt cắt miệng phun cũng như hình dáng của nó quyết định độ
dài, tốc độ, diện tích bao phủ ngọn lửa cháy trong lò.
Ngọn lửa và điều khiển ngọn lửa.
Để đảm bảo việc thao tác ngọn lửa được tiến hành bình thường và tạo ra hiệu suất
tương đối cao thì trong khâu nấu thủy tinh cần đáp ứng một số yêu cầu riêng biệt đối
với ngọn lửa như: nhiệt độ, độ sáng, cường độ... nhưng ở nhà máy thì yêu cầu cơ bản là
ngọn lửa cháy 2/3 chiều ngang của lò và sau 20 phút đổi chiều 1 lần để đảm bảo tổ hợp
phối liệu được nấu chảy hoàn toàn và tận dụng triệt để lượng nhiệt dùng cho các mục
đích khác.
Hình 2.6: Sơ đồ biểu diễn nhiệt độ lò nung theo chiều dài bể nấu
Hiện nay muốn nâng cao hiệu suất nhiệt, hạ thấp tiêu hao nhiên liệu người ta nâng
cao trong giới hạn cho phép. Nhiệt độ điểm nóng của bộ phận nấu thủy tinh và nhiệt độ
ở các khu vực rất khác nhau. Hệ số nấu thủy tinh cao hay thấp không chỉ quyết định bởi
nhiệt độ nóng chảy cao hay thấp mà nhiệt độ trung bình ở các khu vực nóng chảy cũng
ảnh hưởng quyết định không kémHiện tượng chênh lệch nhiệt độ trong không gian lò
tất yếu sẽ gây ra chênh lệch nhiệt độ của bề mặt thủy tinh lỏng, sẽ làm sai lệch đường
gianh giới bọt của thủy tinh lỏng và ảnh hưởng đến chất lượng của thủy tinh lỏng.
Nhiệt độ của khói (khí thải) được xả ra từ lò thủy tinh khá cao. Thông thường từ
1400oC 1500oC, nghĩa là trong khí thải còn hàm chứa một nhiệt lượng rất lớn. Từ đó
vấn đề vận dụng nhiệt năng dư thừa do khí thải mang theo từ lò nung ra có ý nghĩa hết
sức quan trọng.
Nhiệt độ của ngọn lửa trong lò thủy tinh yêu cầu ở mức 1700oC. Do chất đốt cung
cấp khi cháy nên việc tận dụng nhiệt lượng cao của khí thải để nung vùng không khí trợ
cháy cũng là yếu tố quan trọng, góp phần đảm bảo nhiệt độ cho ngọn lửa. Do đó, lò nung
thường sử dụng buồng tích nhiệt làm thiết bị tận lượng thu hồi nhiệt năng của khí thải
để tăng nhiệt sẵn cho không khí.
Áp dụng buồng tích nhiệt để thu hồi nhiệt năng dư thừa từ khí thải có thể góp phần
nâng cao nhiệt độ nung nóng sẵn không khí và mù dầu, làm tăng hiệu suất cho ngọn lửa.
Mặt khác hạ thấp mức tiêu hao chất đốt.
Nguyên lý làm việc của buồng tích nhiệt là khi khí thải với nhiệt độ cao đi từ lò ra,
từ trên xuống dưới thông qua miệng lửa sẽ làm cho nhiệt độ các viên gạch ô tăng lên,
tức là dự trữ một năng lượng nhiệt nhất định. Sau khi đổi lửa, không khí trợ cháy sẽ đi
từ dưới lên, qua buồng tích nhiệt thì viên gạch ô sẽ truyền lại nhiệt lượng cho không khí,
và lúc này nhiệt độ của ô gạch xếp giảm xuống. Công dụng của buồng tích nhiệt là sử
dụng gạch ô dự trữ nhiệt để thu hồi nhiệt từ khí thải. Sau khi đổi lửa, nhiệt lượng dự trữ
sẽ đốt nóng không khí trợ cháy.
Hình 2.7: Sơ đồ chuyển động của dòng khí trong buồng tích nhiệt
Đường dẫn khói: Là lối thông để cho khí thải sau khi nhiên liệu khí cháy đi ra ống
khói. Đường dẫn khói nói chung theo ba loại: Trên mặt đất, nửa chìm nửa nổi, chìm.
Ống khói là thiết bị không thể thiếu được trong lò nung, với chức năng xả khí thải bằng
cách lợi dụng chiều cao nhất định của ống khói để tạo ra sức nén hình học (tức là lực
hút) nhằm khắc phục lực cản trên hệ thống lò nung, đảm bảo khí thải sinh ra trong quá
trình đốt cháy nhiên liệu trong lò được thải ra ngoài một cách thuận tiện.
Trường hợp nhiệt độ khí thải như nhau, ống khói càng cao thì lực hút càng lớn. Để
đảm bảo xả khí thải diễn ra thuận lợi thì ống khói thiết kế phải đủ độ cao. Ống khói
thường có hình trụ côn, còn nền móng thông thường đổ bằng bê tông cốt thép.
Nhằm đảm bảo quá trình nấu thủy tinh được thuận lợi thì lò nung thủy tinh được trang
bị một số thiết bị phụ trợ như thiết bị đổi hướng, hệ thống trợ cháy, quạt gió làm nguội,
thiết bị khuấy, hệ thống sấy và cấp dầu…
Dựa trên nguyên lý tạo ra bề mặt nhẵn bóng của hai loại chất lỏng có khối lượng riêng
khác nhau nổi trên nhau. Trong phương pháp tạo hình nổi người ta lựa chọn thủy tinh
lỏng nổi trên bề mặt của kim loại nóng chảy. Thủy tinh lỏng được dàn trải trên bề mặt
kim loại nóng chảy nhờ sức căng bề mặt và sức kéo của lò ủ kính, cùng với các thiết bị
tạo hình khác. Vì thế người ta chọn thiếc (Sn) đảm bảo được đầy đủ các yêu cầu trên:
– Thiếc là nguyên liệu rẻ tiền hơn các nguyên liệu kim loại khác.
– Khối lượng lớn hơn khối lượng riêng của thủy tinh lỏng.
– Ở nhiệt độ cao từ 600 1000oC ở dạng lỏng.
– Dạng lỏng thì thiếc khó bay hơi.
– Đặc biệt quan trọng là thiếc khó bám dính vào thủy tinh lỏng, rất
thuận lợi trong tạo hình sản phẩm.
Kết cấu bể thiếc:
Bể thiếc là thiết bị tạo hình, tại đây thủy tinh lỏng được điều chỉnh dàn trải đảm bảo
về kích thước, độ đồủng đều về độ dầy cũng như một số tiêu chuẩn khác đối với việc
sản xuất kính phẳng.
Kết cấu của bể thiếc rất phức tạp, nó gồm rất nhiều chi tiết.Mỗi một chi tiết đảm
đương một nhiệm vụ gắn với quá trình tạo hình. Bể thiếc được nối với kênh bể tinh lọc
nhờ kênh dẫn (canal). Cấu tạo bao gồm vòi rót (spout lip); Đáy bể (bottom bath); Mái
bể (roof bath).
3- Vòm phẳng phía sau 11- Thiết bị ngăn dòng đối lưu thiếc
Vòi rót là bộ phận dẫn dòng thủy tinh từ kênh dẫn chảy xuống bể thiếc. Nó đóng vai
trò rất quan trọng bởi nó tạo ra chất lượng của sản phẩm. Nó được chế tạo từ vật liệu
chịu lửa có độ đặc sít cao (gạch cao nhôm hay silimanhít) và có hình dạng đặc biệt.
1-Van điều chỉnh phía sau (Back tweel) 5 - Dòng thuỷ tinh lỏng
Kính sau khi được tạo hình trong bể thiếc sẽ được đưa đến lò ủ. Như vậy ở cửa ra
phải có những bộ phận nâng kính sao cho không bị xước bề mặt phía dưới. Mặt khác,
cửa ra phải kín và cách tốt nhất là không cho không khí lọt vào để ôxy hóa thiếc mà kính
vẫn lưu chuyển được thuận lợi nhờ hệ thống rèm che (Drape curtain) với thiết bị điều
chỉnh được độ cao phù hợp với quá trình thay đổi độ dầy khi thao tác.
Phía dưới các trục con lăn được bố trí hộp đựng sỉ thiếc do (Carbon Seal) và máy cào
sỉ đưa ra gọi là thùng chứa sỉ ( Dross box).
Trường hợp nhiệt độ của dải kính bị hạ thấp ở cửa (End xit), dễ xảy ra hiện tượng vỡ
thì rất nguy hiểm.
Bể có kết cấu thép, bên trong là vật liệu chịu lửa, thành bể có gắn các thanh grafit dể
tránh thuỷ tinh lỏng bám dính vào thành bể. Bên trong nóc bể có bố trí các thanh gia
nhiệt bằng silic cacbit. Để băng kính có thể nổi, ta sử dụng thiếc nóng chảy tạo thành
mặt phẳng phía dưới băng kính. Để tránh thiếc bị oxi hoá, ta dùng hỗn hợp khí bảo vệ
là N2 và H2, ngoài ra ta phải duy trì áp suất trong bể(>10 Pa) lớn hơn áp suất môi trường
để tránh không khí tràn vào bể.
Toàn bộ lò ủ dài 280m, rộng 4m. Bên trong lò ủ có hệ thống các con lăn vận chuyển
kính. Các khu kín có bố trí các dàn ống trao đổi nhiệt, nhiệt độ từ băng kính truyền đến
các dàn ống, các quạt gió sẽ hút làm mát các dàn ống. Lò ủ có tác dụng khử ứng suất
vĩnh cửu trong thuỷ tinh đến giới hạn cho phép. Tuỳ theo từng chủng loại kính ta có tốc
độ làm nguội khác nhau. Băng kính sau khi được làm nguội đến nhiệt độ thích hợp sẽ
được chuyển qua khu vực cắt bẻ.
Tại đây băng kính được cắt bẻ theo yêu cầu về chiều dài và rộng của sản phẩm. Băng
kính được cắt dọc và cắt ngang trước khi qua các máy bẻ mép, yêu cầu áp lực của dao
cắt phải đủ lớn để có thể bẻ được dễ dàng.
Mép băng kính và sản phẩm lỗi được đập nhỏ bằng máy đập búa, sau đó được trở lại
đầu lò. Tấm kính sau khi cắt bẻ có kích thước đạt yêu cầu được đưa xuống khu vực đóng
gói sản phẩm thông qua dàn con lăn. Các tấm kính sẽ được xếp vào thành kiện, giữa mỗi
hai tấm kính sẽ được lót giấy chống xước và chống ẩm mốc cho kính.
Các lỗi thường thấy ở sản phẩm: bọt, dị vật, vết nứt, rạn xước, lỗi cắt cạnh, vân
rạn… chia thành khuyết tật dạng điểm và dạng vùng. Hình dáng và kích thước của
kính phải phù hợp với tiêu chuẩn và có thể theo yêu cầu của khách hàng. Tiêu chuẩn:
JISR 3202 – 2011 của Nhật Bản và TCVN 7218 – 2002 của Vệt Nam.
– Đầu tiên khí hydro qua tháp tách oxy, khí hydro qua bộ làm mát khí (làm
mát khí, nước trong khí được ngưng tụ thành nước, qua bộ ngưng tụ tự động
thoát ra ngoài hệ thống vào tháp hấp thụ.
Thiết bị tinh chế hydro có 2 tháp phụ, 1 để làm việc, sau 24h đổi chu kỳ làm việc.
Tháp hấp thụ tái sinh chuyển sang thành tháp hấp thụ làm việc, tháp hấp thụ nước và tạp
chất khác tự động chuyển sang tháp tái sinh, lại tiếp tục tái sinh.
Thiết bị điện của hệ thống:
– Máy biến áp chỉnh lưu
– Tủ chỉnh lưu: ổn áp và ổn lưu
– Tủ phân phối điện
– Đồng hồ truyền tín hiệu nguy hiểm, đạt yêu cầu chống nổ.
3.1.3. Hệ thống sản xuất khí nitơ
Yêu cầu kỹ thuật:
– Sản lượng khí Ni tơ: 2400m3/h
– Áp lực tháp khí Ni tơ: 0.4 MPa
– Làm việc liên tục
Thuyết minh hệ thống:
Gồm 4 bộ phận: Gia áp không khí, tinh chế, phân nhận và hệ thống phụ trợ.
Không khí→ Máy nén khí ly tâm → Làm lạnh → Bộ thuần hóa (8h) → Khí nitơ
tinh khiết → Bể nấu.
Không khí qua cửa hút vào máy nén khí, qua làm lạnh đến 5÷80C, qua bộ phân ly
nước, phân ly hết nước và thành phần dầu có thể mang đến cho không khí sau đó đưa
vào hệ thống tinh hóa sàng phân tử. Tại đây, sàng hấp thụ những thành phần nước còn
lại, các tạp chất vào thùng lạnh và bị phân tách ra.
Không khí sau khi đi vào tháp, oxy và nitow chảy ngược chiều nhau tại nhiệt độ hóa
lỏng của oxy là -1860C. Tại đỉnh tháp nhận được nitơ tinh khiết có độ thuần khiết cao.
Ni tơ lỏng về dự trữ trong trường hợp mất điện. Phần lớn được chuyển qua bể thiếc
làm khí bảo vệ.
Oxy được làm giãn nở trở lại, tái sinh lại và quay lại từ đầu chu trình. 2 bộ phận làm
việc luân phiên nhau (8h).
Các bước thực hiện chu trình sản xuất khí ni tơ:
– Gia nhiệt cho bộ thuần hóa: 8h
– Xả áp 25 phút
– Gia nhiệt: 220 phút
– Thổi lạnh: 210 phút
– Cân bằng áp: 24 phút
– Chờ đổi bình: 1 phút
– Gia nhiệt, thổi bụi, nước đọng, làm sạch tháp phân ly, khởi động
tháp phân ly, tích lũy chất lỏng, điều chỉnh độ chuẩn.
Được sở KH Đầu tư tỉnh Quảng Nam cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và
đăng ký thuế số 4000450711 đăng ký thay đổi lần 5 ngày 22 tháng 10 năm 2009.
Tên Công ty viết bằng tiếng Việt: CÔNG TY CỔ PHẦN GẠCH MEN ANH EM
DIC.
Tên Công ty viết bằng tiếng nước ngoài: Brothers DIC Ceramic Joint Stock
Company.
Tên Công ty viết tắt: Brothers DIC Ceramic.
Địa chỉ trụ sở chính: Khu Công nghiệp Bắc Chu Lai, xã Tam Hiệp, huyện Núi
Thành, tỉnh Quảng Nam.
Bơm màng
Bể hồ sấy phun
Bơm pittong
Băng tải
Silo chứa
Máy ép
Sấy nằm
2.2.3. Ép
Bột ép được lưu trữ trên các silo cố định để đồng đều độ ẩm nhờ hệ thống băng tải
cấp liệu cấp cho các máy ép, bột ép được ép theo phương pháp ép bán khô với lực ép
14000KN đến 16000KN.
2.2.4. Sấy ngang
Gạch mộc sau khi ép định hình được đưa vào thiết bị sấy nằm, tác nhân sấy là
không khí nóng tận dụng từ khí thải của lò nung. Mộc sau khi sấy có độ ẩm < 1%.
(Đối với quá trình nung 2 lần thì gạch sau khi sấy sẽ được nung ở nhiệt độ 1120-
11250C rồi sau đó mới đưa đi tráng men lót và men nền sau đó in hoa văn).
2.2.5. Gia công men, engobe, màu in
Men nền và engobe được nạp vào hũ theo đơn cấp phối (frit, cao lanh, tràng thạch
và phụ gia). Hỗn hợp này được nghiền đạt yêu cầu theo thông số công nghệ về sót
sàng, độ nhớt, tỉ trọng. Sau đó được xã vào tank chứa để chuyển qua công đoạn tráng
men.
Màu in: được chuẩn bị theo đơn cấp phối gồm bột in, dung môi và màu. Hỗn hợp
này được nghiền đạt theo thông số công nghệ yêu cầu (tỉ trọng, sót sàng) rồi sau đó
được chuyển qua công đoạn in hoa văn.
2.2.6. Tráng men, in
Sản phẩm sau khi qua lò sấy ngang sẽ di chuyển qua hệ thống phun làm ẩm bề mắt,
rồi qua thiết bị tráng chuông engobe (men lotx), men nền và in tạo hoa văn.
2.2.7. Nung sản phẩm
Sản phẩm sau khi được in hoa văn sẽ được nạp vào lò nung con lăn, sản phẩm được
nung ở nhiệt độ từ 1140-11600C (đối với sản phẩm ốp nung 2 lần thì nhiệt độ nung lần
2 là 1110-11150C) qua các giai đoạn lí hóa khác nhau, được làm mát đảm bảo quá
trình thủy tinh hóa tạo độ bóng bề mặt.
Khí dùng để cho quá trình đốt ở lò nung là khí hóa từ than đá.
2.2.8. Phân loại, mài, đóng hộp
Sản phẩm sau khi nung qua công đoạn phân loại bề mặt, kích thước, độ phẳng được
đưa vào dây chuyền mài cạnh và bốc xếp đóng hộp theo tiêu chuẩn chất lượng của
Việt Nam.
5
7
6
9
8 3
- Mỗi tank có cánh khuấy chống sa lắng bột liệu. Vật liệu được lưu trong tank một
thời gian nhằm ổn định các số về độ nhớt, độ ẩm.
* Thông số kĩ thuật động cơ cánh khuấy:
- Công suất P = 11kW.
- Tốc độ n = 970 vòng/phút.
- Điện áp: U = 380 V.
- Cường độ dòng điện I = 24,6 A.
- Tần số f = 50 Hz.
3.3.2. Tank chứa bùn tinh
- Tank hình tròn có V = 30 m3.
- Cánh khuấy làm bằng thép không gỉ.
Gồm có những ống thép và ống gốm gọi là con lăn, có khả năng chịu lực và chịu nhiệt
tốt. Các con lăn được gắn với bộ nhông và được truyền động bằng động cơ. Các con lăn
quay với vận tốc tăng dần để khắc phục hiện tượng chồng gạch. Tốc độ quay của nó
được điều chỉnh bằng tầng số:
+ Zone sấy đốt nóng: 36.2 Hz.
+ Zone nung: 37 Hz.
+ Zone làm lạnh: 37.8 Hz.
Hệ thống đốt cháy: gas và béc đốt. Thổi khí với vận tốc ngọn lửa cao tạo ra sản phẩm
cháy trực tiếp trong khoang nung. Các béc đốt được phân bố phía trên và phía dưới con
lăn, được điều chỉnh bằng tay hoặc tự động bằng gas.
* Vật liệu cấu tạo thành lò:
+ Zone sấy đốt nóng: cấu tạo từ sợi thủy tinh phù hợp với nhiệt độ là t = 200 – 400
0
C, không bố trí béc đốt.
+ Zone tiền nung: vật liệu chịu nhiệt và bông thủy tinh (t = 400 – 900 0C). Tại đây
xảy ra tách nước hóa học và biến đổi thù hình, sự đốt cháy chất hữu cơ và phân hủy
CaCO3.
+ Zone nung: được bao bọc bằng vật liệu chịu nhiệt và sợi thủy tinh đặc biệt (t = 900
– 1150 0C). Chất lượng sản phẩm được quyết định bởi zone này.
+ Zone làm lạnh nhanh: Làm giảm nhiệt độ nung xuống còn khoảng 600 0C, được
làm lạnh gián tiếp (quạt thổi khí) và trực tiếp (thổi dòng khí qua ống thép đục lỗ).
+ Zone làm lạnh tự nhiên: bọc bằng sợi thủy tinh thích hợp, nhiệt độ giảm xuống còn
khoảng 500 0C. Do đó có sự biến đổi thù hình từ β-quắc sang α-quắc ta phải điều chỉnh
sao cho ứng với suất nội tạo ra ở mức cho phép.
+ Zone làm lạnh cuối cùng: hạ thấp nhiệt độ từ 500 0C xuống còn khoảng 50 0C (thổi
khí mát từ môi trường qua ống đục lỗ.
3.11.2. Lò nung lần 2
Cấu tạo và nguyên tắc hoàn toàn giống lò nung lần 1 nhưng nhiệt độ nung phía trên
con lắn cao hơn phía dưới vì mục đích lúc này là tráng men.
* Thông số kĩ thuật khi tráng men:
* Những khuyết tật thường xảy ra trên day chuyền tráng men:
+ Gạch thiếu men hoặc Engobe:
- Nếu thiếu Engobe thì sẽ thấy mày xương trên bề mặt men. Còn thiếu men sẽ thấy
những lỗ của Engobe trên bề mặt gạch.
- Nguyên nhân: Do tỉ trọng của men hoặc Engobe quá thấp. Do hụt men trong thùng
hay bơm men bị hỏng đột ngột.
- Khắc phục: Thường xuyên kiểm tra bề mặt gạch trước khi tráng men và tráng
Engobe.
+ Bề mặt men bị nhiều lỗ nhỏ:
- Nguyên nhân: Do gạch quá nóng khi tráng Engobe và men. Do sử dụng không phù
hợp với men và xương.
- Khắc phục: Thường xuyên kiểm tra men và Engobe, phun nước bề mặt trước khi
qua tráng men và Engobe.
+ Bề mặt men bị gợn sóng:
- Nguyên nhân: Do đĩa chuông bị rung động. Do tỉ trọng, độ nhớt của men quá thấp.
- Khắc phục: Lắp đĩa chuông một cách chắc chắn. Kiểm tra độ nhớt của men.
+ Bề mặt men bị các hạt li ti:
- Nguyên nhân: Do men và Engobe nghiền chưa đạt yêu cầu. Do cát sạn lẫn vào.
- Khắc phục: Điều chỉnh độ mịn của men và Engobe thích hợp.
+ Khuyết tật màu: Nhạt màu trên bề mặt men.
- Nguyên nhân: do màu dính lưới, lực đè dao cạo quá yếu, sử dụng lưới in quá lâu.
- Khắc phục: cần khối lượng màu lớn cho một bề mặt, thường xuyên kiểm tra và làu
chùi lưới in.
+ Khuyết tật do lệch lưới in:
- Nguyên nhân: do quá trình lắp lưới bị lệch.
- Khắc phục: lắp đặt chính xác.
+ Khuyết tật do lưới bị hỏng từng đốm nhỏ:
- Nguyên nhân: do lưới in không đạt chất lượng hoặc sử dụng quá thời hạn.
- Khắc phục: thường xuyên kiểm tra, lau chùi.
* Các thông số màu in:
Bảng 3.1. Các thông số màu in
Máy in 1 Máy in 2 Engobe
Gạch Độ dày (mm) 8.3 – 8.7 8.5 – 8.9 8.5 – 9.0 8.4 – 8.9 8.8 – 9.2
sau
ép Cường độ ≥ 16 ≥ 18 ≥ 20 ≥ 25 ≥ 30
(lực bẻ tương ứng, N)
Gạch Độ bền uốn (N/mm2) > 15 > 15 > 15 > 18 > 18
sau Tương ứng lực bẻ, N
nung > 450 > 780 > 510 > 890 > 945
Độ dày, mm 8.3 – 8.8 8.5 – 9.0 8.5 – 9.0 8.4 – 9.0 8.9 – 9.2
1.2. Thiết bị công nghệ phục vụ cho sản xuất kinh doanh
Công ty đã chú trọng đầu tư trang bị một hệ thống thiết bị công nghệ, đáp ứng yêu
cầu kỹ thuật và chất lượng thi công. Đến nay, đã đầu tư 2 trạm bê tông thương phẩm, sử
dụng công nghệ ướt đồng bộ và hiện đại, công suất 75m3/giờ - 120m3/giờ; một đội xe
chuyên dùng gồm 40 chiếc, trong đó có 5 xe bơm bê tông có độ vươn cần cao nhất 52m,
thấp nhất 28m điều khiển tự động, công suất bơm bê tông từ 90m3/giờ - 170m3/giờ; 2
máy bơm ngang bê tông hiệu Putzneister có độ bơm xa tối đa 500m, bơm cao 200m và
hiệu Cifa có độ bơm xa tối đa 400m, bơm cao 150m, 01 trạm trộn bê tông di động với
công suất 120m3/giờ để đặt tại các chân công trình có khối lượng lớn; 31 xe trộn vận
chuyển bê tông, xe tải ben vận chuyển cốt liệu và các loại máy, thiết bị đồng bộ phục vụ
cho sản xuất kinh doanh của Công ty.
- Nước được chứa trong bồn chứa và cũng được bơm vào trộn cùng phụ gia trước khi
cho vào máy trộn.
Tùy vào yêu cầu tính chất và mác bê tông của khách hàng mà phòng kỹ thuật đưa ra
các đơn cấp phối khác nhau. Khi phòng kỹ thuật đưa đơn cấp phối về bộ phận vận hành,
số liệu như khối lượng cát, đá, xi măng, thể tích phụ gia, nước được nhập vào máy vi
tính. Tín hiệu truyền đến các thiết bị định lượng, định lượng đúng số liệu nhập vào máy
tính. Rồi đưa vào thùng trộn. Quá trình trộn diễn ra vài phút để cho hỗn hợp bê tông
đồng nhất và được đổ vào các xe vận chuyển bê tông đưa đến công trường. Trong quá
trình vận chuyển thì xe bồn quay. Tại đây hỗn hợp bê tông được kiểm tra độ sụt, đúc
mẫu có sự chứng kiến của giám sát công trình. Nếu hỗn hợp bê tông đạt yêu cầu sẽ được
bơm hoặc xả đổ vào các hạng mục công trình.
Đá: Ở thành phố Đà Nẵng có nhiều mỏ khai thác đá xây dựng, trong đó mỏ đá
Phước Tường có trữ lượng lớn và chất lượng cao đáp ứng được các yêu cầu xây dựng
tại thành phố. Đá dùng chủ yếu là đá (1x2) cm.
Cát: Có nhiều mỏ cát trữ lượng rất lớn được phép khai thác, đáp ứng được yêu cầu
xây dựng trong thành phố và các vùng lân cận. Các mỏ được phép khai thác hiện nay
gồm:
Cát Cu Đê:
- Đoạn Nam Ô – Thủy Tú, chiều dày tầng cát khai thác 3,2m, trữ
lượng 1.079.000m3.
- Đoạn Thủy Tú – Ba Cồn, chiều dày tầng cát khai thác 3,1m, trữ
lượng 1.359.000m3.
- Đoạn Ba Cồn – An Định, chiều dày tầng cát khai thác 2,3m, trữ
lượng 787.000m3.
- Đoạn An Định – Lộc Mỹ, chiều dày tầng cát khai thác 2,7m, trữ
lượng 104.000m3
Cát Túy Loan:
- Đoạn Hòa phước – ngã ba Diêu Trì, trữ lượng 104.000m3.
* Nước: Lượng nước được cung cấp bởi các con sông chảy qua địa bàn thành phố.
Nhiều nhà máy nước xử lý và cung cấp luợng nước sạch, đảm bảo các chỉ tiêu kĩ thuật
cho sinh hoạt và sản xuất.
* Xi măng: Sử dụng chủ yếu là xi măng Kim Đỉnh, xi măng Hải Vân bởi vì chi phí
vận chuyển thấp, giá cả hợp lý và cường độ thực tế cao, ngoài ra còn sử dụng xi măng
Sông Gianh.
* Phụ gia: Hiện nay hầu hết các hãng phụ gia lớn đã có mặt ở nước ta, bên cạnh đó
cũng có các hãng trong nước cung cấp các chủng loại phụ gia rất phong phú. Bao gồm
các hãng nước ngoài như: SIKA, MAPEI của Ý, SIMON của Anh, GRACE của
Mỹ…Và các hãng trong nước như: Siêu Cường, IBM (Viện VLXD), IBST (Viện
KHCNXD).
- Về việc bố trí hệ thống truyền động và chiều dài thùng trộn khá dài, tuy nhiên
không ảnh hưởng nhiều đến kết cấu không gian của toàn trạm.
- Trong quá trình làm việc trục trộn dễ bị cong uốn và xoắn. Tuy nhiên trường
hợp này rất khó xảy ra do vật liệu chế tạo đã được kiểm bền rất gắt gao.
Hình 2.2. Hình ảnh máy trộn bê tông hai trục nằm ngang
Hình 2.3. Cấu tạo máy trộn cưỡng bức 2 trục nằm ngang
2.3.4. Thiết bị công đoạn gia công và chuẩn bị nguyên vật liệu
Gồm:
- Bãi chứa nguyên liệu: cát, đá, silo chứa xi măng.
- Bồn chứa phụ gia, nước.
- Phương tiện vận chuyển cát, đá.
- Bunke chứa cát, đá, silô chứa xi măng.
Hình 1.2. Hình ảnh bao bì của xi măng VICEM Hải Vân
Nhà máy gồm 2 phân xưởng 1 và 2. Theo thiết kế, phân xưởng 1 cho năng suất
100.000 tấn/năm, phân xưởng 2 năng suất 520.000 tấn/năm.Tuy nhiên, công ty đã áp
dụng các cải tiến kỹ thuật nâng năng suất thực tế lên 850.000 tấn/năm nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của thị trường.
Tại các phân xưởng,bao gồm các đội: cơ điện, đội vận hành, đội bao bì... Sơ đồ tổng
thể phân xưởng 2 nhà máy xi măng Hải Vân:
Phễu cấp
: Si lô clinke Si lô đá Si lô đá thạch cao,
20000 tấn vôi 750 mi 750 bột đá, xỉ
tấn tấn lò cao
27 Hút bụi
Màng rung
Cân bằng Cân bằng
Cân bằng
định định
định
lượng lượng
lượng
Gàu tải
Máng Loại bỏ kim
khí loại
động
Phân ly hiệu suất Vật liệu loại bỏ
Hút bụi
cao SEPOL
Nhờ hệ thống băng tải, clinker được đổ vào gàu tải để vận chuyển vào silo cao 60m
qua cân băng. Bộ chỉ thị mức đầy silo sẽ hoạt động để ngắt dừng nạp clinker vào silo
(ngắt ở các băng tải gàu tải).
Hình 2.3. Thiết bị lọc bụi trước khi nạp clinker vào silo chứa.
2.2.2. Thạch cao, phụ gia:
Silo có sức chứa 750 tấn/silo, phụ gia bao gồm đá vôi, đá mi, thạch cao, xỉ sắt. Tùy
thuộc vào loại xi măng mà gia giảm các thành phần phụ gia hợp lý.
Lượng chứa trong silo được kiểm soát trong quá trình vận chuyển, báo về phòng điều
khiển trung tâm và cơ cấu báo mức trên nóc silo sẽ báo dừng khi đầy.
Van chuyển đổi hoạt động cho đến khi kết thúc một chu trình nạp hết một loại thạch
cao hoặc phụ gia. Thạch cao được đổ vào silo thạch cao, phụ gia được đổ vào silo phụ
gia,. Người theo dõi nhập phụ gia và thạch cao phải cập nhật vào sổ theo dõi.
2.3. Công đoạn tháo nguyên liệu nạp vào máy nghiền
Dòng hỗn hợp nguyên liệu gồm clinker, thạch cao đối với xi măng PC40; hoặc
clinker, thạch cao, phụ gia đối với xi măng PC30,40 theo băng tải dài 102m vào máy
nghiền 2 ngăn một cách đều đặn liên tục với tỷ lệ các thành phần đã được xác định theo
yêu cầu của đơn phối liệu được lập theo quy trình ra đơn phối liệu QT-HV-27.
Hình 2.5. Băng chuyền dài 102m dẫn nguyên liệu nạp vào máy nghiền.
Hình 2.6. Máy nghiền bi 2 ngăn đang hoạt động, sử dụng động cơ 3000kW
Sau khi xi măng được đẩy lên, tại silo sẽ có các màng rũ giúp các hạt xi măng rơi
xuống đáy silo.Tại đây sẽ có các lỗ thoát khí nhằm làm giảm áp suất khi silo bắt đầu
đầy, nếu áp suất vượt ngưỡng cho phép, các van chênh áp sẽ hoạt động để đẩy bớt lượng
khí nén ra.
Bộ chỉ thị báo mức chứa đầy từng silo sẽ hoạt động cắt dừng nạp xi măng vào silo
(ngắt ở các thiết bị trước đó). Tùy theo chủng loại sản phâm làm PC40, PCB40,
PCB30 phân xưởng quyết định cho chứa ở silo theo quy định và kiểm soát.
Hình 2.9: xi măng sau khi được đóng bao được đưa ra băng tải.
Xuất xi măng rời:
Việc xuất xi măng rời được rút từ silo 1 hoặc silo 2 .
Mỗi PLC S7-400 đảm nhiệm các nhiệm vụ điều khiển khác nhau trên toàn hệ
thống.Một PLC điều khiển cụm nghiền và nhập nguyên vật liệu; PLC còn lại điều
khiển cụm đóng bao và xuất xi măng rời. Mỗi PLC bao gồm: phần nguồn, 01 CPU S7-
400, giao thức kết nối MPI/DP4431-1 với máy tính điều khiển. Việc chuyển tải tín
hiệu từ PLC tới các thiết bị điều khiển khắp nhà máy sử dụng cáp quang nhằm hạn chế
nhiễu tín hiệu trong công nghiệp. 02 máy tính điều khiển tại phòng điều khiển trung
tâm hoạt động trên nền tảng WindowXP pack 2, toàn bộ thiết bị của nhà máy được cài
đặt và mô phỏng hiển thị trên 2 máy tính này thông qua bộ phần mềm WINCC v6.81,
các liên kết và lập trình kết nối giữa các mô phỏng của hệ thống được lập trình nhờ
phần mềm CEMAT V6 đây là phần mềm chuyên dụng cho ngành xi măng.
Toàn bộ các thông số vận hành từ các thiết bị của nhà máy sẽ được thu thập và hiển
thị một cách trực quan trên màn hình. Các thao tác điều khiển, vận hành, đóng mở các
thiết bị, tùy chọn chế độ tự động, điều chỉnh, hay xử lý các lỗi đều được lập trình sẵn
giúp người vận hành có thể dễ dàng làm việc, ra lệnh điều khiển, thu thập thông tin
một cách nhanh chóng.
Người vận hành điều khiển trung tâm thường xuyên theo dõi các thông số quá trình
sau đây và khi có sự thay đổi, dao động lớn phải báo cho người có trách nhiệm xử lý:
- Năng suất, lượng hồi lưu và các kết quả kiểm tra các chỉ tiêu SO3, độ
mịn của phòng KCS.
- Các thông số về nhiệt độ hệ thống máy nghiền.
- Thông số làm việc của cụm phân ly .
- Các thông số làm việc của động cơ nghiền, nhiệt độ thùng dầu, nhiệt độ
xi măng.
- Các thông số của cụm lọc bụi, gàu tải, băng tải máy nghiền.
Các thông số trên được người vận hành ghi lại định kỳ 1 giờ/ 1 lần vào biểu mẫu
theo dõi các thông số vận hành. Cuối ca người vận hành ký tên vào biểu mẫu HD-KT-
0/04 : 01 (Bảng tổng hợp theo dõi vận hành- phân xưởng 2).
Trong quá trình sản xuất, nếu chuyển từ đang nghiền xi măng PCB40 sang xi
măng PC40 thì người vận hành thực hiện các bước sau:
- Ngưng nạp liệu vào máy nghiền 5-10 phút trong khi máy nghiền vẫn
đang chạy.
- Nạp liệu vào máy nghiền với đơn phối liệu của PC40, vẫn tiếp tục đổ xi
măng nghiền vào silo chứa PCB40 đến khi KCS lấy mẫu báo kết quả đạt thì
mới chuyển sang sản xuất PC40 chính phẩm, đổ xi măng nghiền vào silo chứa
PC40.
Trong quá trình sản xuất, nếu chuyển từ đang nghiền xi măng PCB40 bao sang
xi măng PCB40 rời thì người vận hành thực hiện các bước sau:
- Chuyển từ đơn nghiền PCB40 sang đơn nghiền PCB40 rời và tiếp tục
nghiền trong vòng 1giờ vẫn đổ xi măng nghiền vào silo chứa PCB40 bao.
- Sau khi nghiền với đơn PCB40 rời trong vòng 1 giờ đổ silo chứa PCB40
bao thì chuyển đổ xi măng nghiền vào silo chứa PCB40 rời.
- Nếu có một loại sản phẩm thì không cần cập nhập hàng ca silo chứa.
- Nếu có hai loại sản phẩm trở lên thì trưởng ca phải cập nhập hàng ca loại
sản phẩm ở từng silo theo BM-PII-0/04.
Ghi chú: Trước khi chuyển đổi sản xuất một loại sản phẩm, các đơn vị liên
quan như phòng kỹ thuật, KCS, phân xưởng II tổ chức họp bàn các biện pháp
thực hiện.
Để ngăn ngừa các nguy cơ gây ra sản phẩm không phù hợp, trước khi quyết
định sản xuất một sản phẩm khác loại cũ đã chứa ở silo, các đơn vị liên quan như
phòng kỹ thuật, KCS, Phân xưởng II, đại diện lãnh đạo tổ chức họp bàn các biện pháp
tổ chức kiểm tra nguyên liệu, tình hình sản xuất, nhận biết các sản phẩm đã có và các
biện pháp kiểm tra, lấy mẫu, đóng xuất giải phóng sản phẩm đã có để đảm bảo chất
lượng sản xuất.
1 . Về an toàn lao động trong Công ty:
+ Công ty đã trang bị bảo hộ lao động đầy đủ cho công nhân và thường xuyên nhắc
nhở về vấn đề này.
+ Hàng năm , Công ty đều mở lớp huấn luyện về an toàn lao động cho công nhân.
Và có đợt diễn tậpvề cách phòng cháy chữacháy , mỗi người một thao tác , mỗi người
một nhiệm vụ. Để lấy kinh nghiệm xử lý cách khắc phục hậu quả khi có nguy cơ xảy
ra
+Công nhân vận hành thiết bị đều được đào tạo công tác an toàn và vân hành thiết
bị.
+ Công ty đã trang bị hệ thống phòng cháy chữa cháy theo quy định của pháp luật và
hệ thống chống sét để bảo vệ con người, thiết bị.
2. Về an toàn môi trường tại Công ty:
+ Tại những nơi phát sinh bụi trong dây chuyền sản xuất đều được lắp đặt các lọc
bụi để bảo vệ môi trường làm việc của người lao động và môi trường xung quanh.
+ Để hạn chế bụi phát tán trên đường xe vận chuyển nguyên vật liệu ra vào Phân
xưởng, Công ty đã trang bị 01 xe tưới nước để giữ ẩm cho mặt đường và 01 xe hút bụi
để chống bụi phát tán
+ Tại các cửa ra vào kho chứa clinker, thạch cao, phụ gia đề được lắp đặt các rèm để
tránh phát tán bụi ra môi trường xung quanh.
+Thực hiện việc làm xanh hóa Công ty, hàng năm Công ty thường trồng thêm cây
xanh và chăm sóc tốt những cây đã trồng.
+ Bên cạnh Hệ thống quản lý chất lượng, Công ty đã xây dựng và áp dụng Hệ thống
quản lý môi trường phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001 : 2004.
Nl đầu vào
Nếu cần thiết, có thể khuấy đất sét và cao lanh trong tank khác trước khi thêm chúng
vào trong thiết bị khuấy nguyên liêụ thô khác.
Bảng chuẩn bị xương
TANK CHỨA
MỘC
SỬA MỘC
4.3. Đổ khuôn
4.3.1. Đổ khuôn với thiết bị đổ rót bán tự động GVV 072 và GLB 100 và
khuôn thạch cao
Quá trình đổ rót được chia thành các giai đoạn:
- Chuẩn bị khuôn
- lắp khuôn
- Làm đầy các đường ống phân phối và các ống
- Rót hồ đầy
- Tháo khuôn
- Sấy khuôn
4.3.2. Quá trình đổ rót với khuôn thạch cao
CHUẨN BỊ KHUÔN
ĐỔ HỒ ĐẦY
RÚT HỒ THÙA
TẠO ĐỘ CỨNG
THÁO KHUÔN
SẤY KHUÔN
4.3.3. Quá trình đổ rót với thiết bị đổ rót bán tự động GCB 080 với khuôn
thạch cao
Quá trình đổ rót tự động được thực hiện ở tất cả các khuôn thạch cao ở cùng thời gian
thông qua đường nạp mà nó gồm đường ống phân phối chính, các van, và ống cao su (
mỗi ống cho mỗi khuôn).
Quá trình đổ rót được chia thành các giai đoạn:
- Chuẩn bị khuôn
- Lắp khuôn
- Làm đấy đường ống phân phối và các ống.
- Rót đầy hồ.
- Tháo khuôn.
- Sấy khuôn.
CHUẨN BỊ KHUÔN
ĐỔ HỒ ĐẦY
RÚT HỒ THÙA
TẠO ĐỘ CỨNG
THÁO KHUÔN
SẤY KHUÔN
5.2. Sấy mộc ướt còn được gọi là quá trình sấy tạo độ cứng
Giai đoạn sấy đầu tiên được thực hiện với mục đích để giai đoạn sau được tiến hành
dễ dàng hơn.
Nạp nước
Nạp chất
Nghiền Thùng chứa Sàng và tách sắt
Điện giải
Nạp liệu
Liệu thô
Chuẩn bị hổn hợp
Thùng chứa
chất liên kết/nước
Sàng
Phun men
Dung dịch này được chuẩn bị bằng việc pha loãng Tixolan CD 31 hoặc bột tác nhân
liên kết Peptapon 52 vào nước với tỷ lệ 4 -7% về khối lượng tùy theo lượng nước được
sử dụng.
Quá trình sàng được thực hiện bằng sàng rung với kích thước lỗ 125 - 150μm. Trước
quá trình nghiền men, một lượng nhỏ dung dịch chất liên kết tương đương với khoảng
0.1% của khối lượng nguyên liệu thô đã được nghiền - được thêm vào hũ nghiền.
Tổng lượng dung dịch được thêm vào trong men khoảng 0.4 – 0.6 % của toàn bộ
lượng nguyên liệu khô.
Cánh khuấy cơ khí được dùng để trộn tác nhân liên kết và nước lại với nhau. Hổn hợp
đã được chuẩn bị được để yên trong khoảng 24h sau đó được trộn lại khoảng 15-20’.
Trong một vài trừờng hợp cần thiết phải khuấy tác nhân liên kết hoàn toàn vào trong
nước.
Men và dung dịch liên kết sau đó được khuấy với nhau bằng việc sử dụng cánh khuấy
cơ khí tương tự.
Trước khi quá trình tráng men bắt đầu, men được sàng lại và được kiểm tra.
Mộc hư
Việc kiểm tra quá trình nung cần kiến thức tốt về hiện tượng lý hoá, chúng làm cho
xương và men thay đổi khi đó chúng phải chịu được nhiệt độ nhất định đối với lần cài
đặc trước. Do vậy, việc kiểm tra những thay đổi một cách tỷ mỹ là điều vô cùng quan
trọng.
Những sự thay đổi lý hoá của phối liệu và men trong suốt quá trình nung cũng như
là nhiệt độ ở giai đoạn bắt đầu và ở cuối quá trình tuỳ thuộc vào những yếu tố sau:
- Thành phần khoáng và thành phần hoá của xương và men.
- Cỡ hạt của nguyên liệu thô được dùng để sản xuất xương và men.
- Nhiệt độ cực đại đạt được, thời gian ở những nhiệt độ khác nhau và thời gian nâng
nhiệt.
Khía cạnh cuối cùng là vô cùng quan trọng đặc biệt khi dùng đường cong nung nhanh
đạt được tốt. Như vậy, nguyên tắc chung là tăng thời gian nâng nhiệt sẽ làm tăng nhiệt
độ giai đoạn bắt đầu và kết thúc của quá trình.
Sự thay đổi về xương và men cho sứ vệ sinh phải trãi qua ở những mức nhiệt độ khác
nhau được đưa ra dưới đây:
- Lượng ẩm chứa trong men được loại bỏ ở phần đầu tiên của lò.
- 100 – 150oC : Luợng ẩm còn lại được loại bỏ còn <1% . Tránh sự bay hơi đột ngột
bên trong mộc là vô cùng quan trọng để mộc tránh bị vỡ. Mộc nóng lên dần ở nhiệt độ
cực đại 300oC.
- 150 – 450oC : Chất hữu cơ chứa trong đất sét được hoà tan và được đốt cháy. Quá
trình này bị ảnh hưởng bởi:
+ Những chất hữu cơ thiên nhiên và cỡ hạt của nó.
+ Thời gian nâng nhiệt
+ Độ dày của mộc ceramic: độ dày lớn hơn của mộc, quá trình gia nhiệt ngắn hơn
và chậm hơn.
+ Trạng thái của khí trong lò (oxi hoá hoặc khử)
+ Tốc độ nâng nhiệt : 350oC/h
- 450 – 650oC: Với khoảng nhiệt độ này, xảy ra nhiều sự thay đổi.
A. Giữa 520oC và 620oC, kaolinte bị phân huỷ, do đó giải phóng lượng nước liên kết
hoá học. Tạo ra một lượng hơi nước đáng kể mà nó xuyên qua lớp men. Ở giai đoạn
cuối vẫn thấm qua, nó không bị hư hại.
B. Ở khoảng 573oC quart thay đổi đột ngột từ dạng thù hình α thành dạng β, do đó
làm tăng thể tích của mộc. Vấn đề này được bù một phần bằng độ co gây ra bởi sự mất
nước của kaolinte. Sự giản nở không làm ảnh hưởng đến xương mộc khi đó nó vẫn xốp
và không bị thuỷ tinh hóa.
Trường hợp ngược lại, xương nung lại, sự biến đổi thù hình của Quarz từ dạng α
thành dạng β có thể làm tăng độ giản nở làm mộc nung lại có thể bị vỡ. Bởi vì điều này
nhiệt độ phải được tăng khá chậm ( tốc độ nâng nhiệt < 90oC/h).
- 6000 – 1000oC: Với phạm vi nhiệt dộ này, lượng mi ca chứa trong đất sét và lượng
cabonat trong mộc và men bắt đầu bị phân huỷ. MgCO3 phân huỷ hoàn toàn ở khoảng
800oC trong khi đó CaCO3 phân huỷ hoàn toàn ở khoảng 950oC. Thông thường, cabonat
không nhiều hơn những tạp chất nhỏ trong xương xứ, một lượng khá lớn ( trên 185 về
khối lượng) được chứa trong những loại men nhất định.
- Tốc độ nâng nhiệt khoảng 350oC/h. Nếu nâng nhiệt quá nhanh, quá trình phân giải
cacbonat sẽ không hoàn toàn cho đến khi nhiệt độ đạt được cao hơn 1000oC, tạo ra khí
xuyên qua men ( bây giờ, nó không thấm được do sư bắt đầu của quá trình nóng chảy).
Kết quả bề mặt sản phẩm sẽ bị hư và chất lượng giảm đáng kể.
- 1000 – 1150oC: Lượng sunphat chứa trong đất sét phân huỷ, tạo ra khí. Tại các nhiệt
độ này, các phản ứng nung kết là có ý nghĩa bởi vì sự có mặt của các oxid sodium,
potassium và sét mà nó hoạt động như chất xúc tác. Kết quả, xương sẽ co đáng kể. Vì
lý do này, đề nghị là phải nâng nhiệt chậm ( 150- 350oC/h) để không làm hư mộc mà
không thể sửa chữa được.
Thêm nữa, ở khoảng 1000oC, phần lớn men được dùng cho việc sản xuất xương sứ
bắt đầu cháy.
Ở mức nhiệt độ này, khí hoàn toàn bị loại bỏ khỏi xương. Phải tiến hành cẩn thận để
cải thiện chất lượng của xương.
- 1150 – 1220oC: Một khi nhiệt độ cực đại đạt được thì độ co của xương là hoàn toàn.
Sản phẩm Ceramic sẽ trở nên sền sệt trong suốt quá trình thuỷ phân hóa đặc biệt với
tràng thạch. Trong suốt giai đoạn này tinh thể bị nấu chảy. Nhờ có quá trình này, xương
sẽ chứa các phần thuỷ tinh , mullite dạng hình kim,( nhiệt độ cao hơn, lượng mullite cao
hơn và lượng quart còn lại, khi phần thuỷ tinh tăng và tinh thể giảm , cường độ cơ học
của xương cũng giảm . Kết quả xương có khả năng biến dạng cao hơn (Đặc biệt nếu
phần thuỷ tinh là cơ bản sodium). Tràng thạch sodium làm sản phẩm phồng rộp nếu
trường hợp là quá nung. Mullite có thể được xúc tác bởi một lượng nhỏ oxid như MgO
hoặc Li2O mà nó ở cùng thời gian và dưới cùng những điều kiện cho phép để làm giảm
nhiệt độ nung cực đại khoảng 40- 50oC.
Tổng lương quart còn lại trong xương tuỳ thuộc vào:
- Lương quart ban đầu trong mộc chưa nung
- Kích thước hạt của quartz
- Loại chất chảy được dùng trong xương
- Nhiệt độ nung và thời gian nung cực đại: nhiệt độ cao hơn và thời gian dài hơn ,
tổng lượng quartz còn lại sẽ thấp hơn.
Với phối liệu có cùng thành phần ban đầu, lượng quartz còn lại sẽ quyết định hệ số
giản nở nhiệt. Về sau sẽ thấp hơn nếu có rất ít quartz hoặc ngược lại. Với phạm vi nhiệt
độ này, quá trình xử lý men được triệt để. Tốc độ nâng nhiệt 140oC/h.
Thời gian xương được lưu lại ở nhiệt độ này có hiệu quả đáng kể đến những phản
ứng của các thành phần khác nhau của xương và men, nếu thời gian của quá trình giảm
nhiệt độ cực đại phải tăng, hoặc thành phần của xương và men sẽ thay đổi.
- 1200 – 1120oC: Thời gian lưu ở nhiệt độ cực đại là 50’.
- 1200 – 1120oC: Yêu cầu làm lạnh chậm để đảm bảo khí bị loại bỏ từ lớp men. Nhiệt
độ giảm khoảng 50oC/h.
- 1120 – 800oC: Ban đầu ( giảm xuống đến khoảng 950oC) xương trãi qua quá trình
chuyển từ dẻo sang rắn. Tuy nhiên, ở nhiệt độ thấp hơn, không có sự thay đổi về thể
tích, do vậy nhiệt độ có giảm nhanh tới 800oC.
Quá trình lamg lạnh nhanh cải thiện độ bóng của men và ngăn chặn sự hoá mờ mà nó
xuất hiện khi men chịu nhiệt độ cao ở thời gian quá dài.
Tốc độ làm lạnh có thể đạt tới 800oC/h.
- 800– 600oC: Mẫu được làm lạnh xuống rất chậm (khoảng 150oC/h) bởi vì 750 -
800oC phần thuỷ tinh của xương bị biến đổi và trên tất cả, nhiệt độ phải đồng đều đến
mức có thể bỏ qua toàn bộ mẫu. Điều kiện này là cần thiết cho sự chuyển nhanh lượng
quartz còn lại từ trạng thái β sang α.
- 600– 500oC: Ở 573oC lượng quartz còn lại chuyển từ dạng β sang α và có thể tích
giảm nhanh chóng. Kết quả, mẫu được nung trở nên dễ vỡ, nếu nhiệt độ không đồng đều
trên toàn bộ và mức độ co khác nhau ở từng vùng, mẫu sẽ vỡ khi ứng suất vượt qua
cường độ cơ học. Vì lý do này, tốt hơn hết là tổng lượng quartz phải nhỏ hơn và với cỡ
hạt mịn. Chú ý rằng , thậm chí nếu hàm lượng quartz rất thấp, nhưng cỡ hạt lớn thì sản
phẩm có thể vỡ ngay cả sau khi đã được đưa vào trong kho trong một khoảng thời gian
đáng kể do ứng suất tạo ra trong quá trình làm lạnh. Tốc độ không nên vượt quá 60oC/h.
trong suốt giai đoạn này của quá trình làm lạnh.
- Quá trình làm lạnh chậm sẽ cũng cho phép men được nnug lại do đó bù vào sự thay
đổi về hệ số giản nở nhiệt – trong thực tế điều này sẽ không xuất hiện nếu ở 750– 800oC
có sự giảm nhanh về nhiệt độ.
- 500– 60oC: Trong suốt giai đoạn này không cần đặc biệt thận trọng khi đó rẩt ít
cristobalite được tạo ra. Tốc độ quá trình làm lạnh có thể là 300– 450oC.
Trên cơ sở của những phản ứng hoá học và sự thay đổi lý học, tốc độ nâng nhiệt tiêu
biểu mà mẫu trãi qua trong một chu kỳ của quá trình nung và nung lại được thực hiện
đồng thời trong cùng lò tuynel được báo cáo trong bảng sau:
Bảng 7.1. Nhiệt độ theo thời gian của mẫu:
Nhiệt độ bắt đầu Nhiệt độ cuối Thời gian Tốc độ nâng nhiệt
(oC) (oC) (phút) (oC/h)
100 150 10 300
150 450 60 350
450 650 70 90
7.2. Bảng dữ liệu của lò nung tuynel và lò sấy gián đoạn tuynel
THẺ CƠ KHÍ CÁC THÔNG SỐ KỸ THUẬT VẬN HÀNH
Năng suất hàng ngày (7 ngày/tuần)
- Xí bệt, chậu rửa, két nước, tiểu treo, xí SP/ngày 1036
xổm. SP/ngày 319
- Nắp
LÒ SẤY TUYNEL GIÁN ĐOẠN
Hàm ẩm của mộc đ ưa vào % <2.5
Nhiệt độ làm việc oC 80
Nhiệt độ mộc ra oC 50-60
LÒ TUYNEL NUNG VÀ NUNG LẠI
Chu kỳ nung h 18
Nhiệt độ cực đại làm việc oC 1250
Đặc tính kỹ thuật của sản phẩm
- Độ hút nước % <0.5
- Độ co % 7.5-8.5
- Cường độ uốn kg/cm2
400-500
Loại 1
Kho chứa
Nung Loại 2
Phân
Loại SP nung lại Kiểm tra
Nung
Phế phẩm
KẾT LUẬN
Qua một thời gian thực tập tại các Công ty, chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều kinh
nghiệm làm việc từ các anh chị trong Công ty và cũng thu thập được một lượng kiến
thức lớn về lịch sử của Công ty cũng như là quy trình sản xuất, cụ thể như là:
– Tìm hiểu về Công ty: lịch sử hình thành, cơ cấu tổ chức, các sản phẩm của công
ty…
– Tìm hiểu về các nguyên liệu sử dụng trong quá trình sản xuất: thành phần, đặc
điểm, tính chất, tác dụng….
– Tìm hiểu quy trình sản xuất chính của phân xưởng: quy trình cân trộn phối liệu,
nấu, tạo hình, ủ, cắt bẻ sản phẩm….
– Tìm hiểu thiết bị sử dụng trong các quy trình sản xuất….
Tuy nhiên, do an toàn lao động và bí mật công nghệ của Công ty nên một số khu vực
chúng tôi không được tham quan, khảo sát. Do đó, vẫn còn một số phần chưa nắm rõ
trong báo cáo.