Professional Documents
Culture Documents
05 TGL101 Bai2 v1.0014103225
05 TGL101 Bai2 v1.0014103225
0
Bài 2: NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ, NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN
VÀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN
Nội dung
TGL101_Bai2_v1.0014103225 23
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
Nói tới kiểu nhà nước là nói tới bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, tồn tại trên cơ sở một
nền tảng kinh tế, tương ứng với một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Như vậy, kiểu nhà nước
mới thay thế cho kiểu nhà nước cũ thông qua cuộc cách mạng xã hội, hoặc thông qua những
cuộc cải cách lớn diễn ra dần dần bởi vì giai cấp thống trị nắm quyền lực nhà nước đại diện cho
phương thức sản xuất cũ không bao giờ tự từ bỏ quyền lực nhà nước của mình, do đó giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất mới phải đấu tranh để giành chính quyền, thiết lập nên nhà nước
mới. Đó là quy luật, kiểu nhà nước mới ra đời thì bản chất, vai trò xã hội, chức năng của nó cũng
thay đổi. Bài học trước chúng ta chia ra 4 kiểu nhà nước chính, đó là nhà nước chủ nô, nhà nước
phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, việc tìm hiểu các kiểu nhà
nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản giúp ta hiểu rõ hơn lý do các kiểu nhà nước
này mang tính bóc lột trong khi nhà nước xã hội chủ nghĩa lại không có bản chất đó.
24 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
So với nhà nước phương Tây, nhà nước phương Đông thể hiện tính xã hội rõ
nét hơn. Trong nhà nước phương Đông, do nhu cầu của cả cộng đồng xã hội
mà việc tổ chức dân cư tiến hành công cuộc trị thủy, chống ngoại xâm, quản
lý đất đai và các hoạt động xã hội khác nhằm duy trì đời sống chung của
cộng đồng.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, yếu tố tư hữu dần dần hình
thành, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt và khi đó nhà nước dần
mất đi ý nghĩa ban đầu của nó.
Tóm lại, sự ra đời và phát triển của nhà nước chủ nô là một bước tiến lớn trong lịch
sử nhân loại, tạo ra tiền đề cho sự phát triển kinh tế, văn hóa của các xã hội sau này.
TGL101_Bai2_v1.0014103225 27
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
28 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
liên quan tới nhà nước, có quyền bầu ra các cơ quan và cá nhân thực thi quyền
lực nhà nước theo kỳ hạn nhất định.
Nhưng bản chất chính thể cộng hòa dân chủ ở Aten là chính thể cộng hòa dân
chủ của chủ nô. Bởi nhà nước Aten được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu
và quan hệ bóc lột nô lệ. Nó bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp chủ nô.
Chỉ có chủ nô và rất ít người lao động tự do mới được hưởng quyền chính trị,
còn phụ nữ, kiều dân, nô lệ ở ngoài vòng sinh hoạt chính trị.
o Chính thể cộng hòa quý tộc tồn tại ở nhà nước Spác (thế kỷ VII – IV trước Công
nguyên) và La Mã (thế kỷ V – II trước công nguyên).
Ở nhà nước Spác
Đại hội nhân dân vẫn tồn tại nhưng không chiếm vị trí quan trọng, mà chỉ tiến
hành bầu những người tham gia vào các chức vụ trong bộ máy nhà nước,
thông qua về mặt hình thức các dự luật chứ không có quyền thảo luận và đóng
góp ý kiến.
Cơ quan nắm quyền lực nhà nước trong nhà nước Spác là Hội nghị trưởng lão
do giới quý tộc bầu ra gồm hai vua có quyền lực ngang nhau và 28 thành viên
đại diện cho 28 bộ lạc cũ của người Spác hợp thành. Hội nghị trưởng lão có
quyền lập pháp và giải quyết các vụ việc quan trọng của đất nước.
Bên cạnh đó còn có hội đồng năm quan giám sát cũng do tầng lớp quý tộc bầu
ra, là cơ quan cao nhất được đại hội nhân dân bầu theo nhiệm kỳ một năm để
giám sát hoạt động của hội nghị trưởng lão, triệu tập và chủ trì đại hội nhân
dân, có quyền giải quyết mọi công việc ngoại giao, tài chính, tư pháp, kiểm
tra tư cách công dân.
Còn ở nhà nước La Mã cũng có điểm tương đồng với nhà nước Spác.
Về mặt hình thức Đại hội nhân dân là cơ quan cao nhất nhưng quyền lực lại
nằm trong tay Viện nguyên lão.
Viện nguyên lão với các thành viên là những người thuộc tầng lớp quý tộc
giàu sang, có thế lực, đã từng nắm giữ các chức quan cao cấp. Viện nguyên
lão có quyền quyết định hầu hết các vấn đề quan trọng của nhà nước, có
quyền thảo luận trước các dự luật, có quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết những
nghị quyết của đại hội nhân dân. Nếu Viện nguyên lão không đồng ý thì Đại
hội nhân dân không thể thông qua các đạo luật.
Cơ quan hành pháp của nhà nước La Mã gồm hai hội đồng: Hội đồng chấp
chính và Hội đồng quan án do Đại hội nhân dân bầu ra theo nhiệm kỳ một
năm, là cơ quan trực tiếp điều hành công việc hàng ngày của đất nước.
Tóm lại, cách tổ chức nhà nước như trên thể hiện sâu sắc tính chất quý tộc của
nền cộng hòa quý tộc chủ nô.
b. Về hình thức cấu trúc
Hầu hết các nhà nước chủ nô đều có cấu trúc đơn nhất. Giai đoạn đầu, các nhà nước
chưa có sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ. Cùng với sự phát
triển, các đơn vị hành chính lãnh thổ mới từng bước được thiết lập.
TGL101_Bai2_v1.0014103225 29
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
30 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
Ở phương Tây, chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ thời chủ nô.
Trong thời phong kiến, chế độ tư hữu ruộng đất được phát triển lên mức cao
hơn gọi là các lãnh địa. Thời kỳ đầu, người nông dân tự do cũng có ruộng đất
nhưng cùng với sự phát triển của chế độ ruộng đất phong kiến mà dần dần
người nông dân bị mất ruộng và phải lệ thuộc đất vào địa chủ, phong kiến…
Địa chủ, phong kiến là những người có đất nhưng không trực tiếp canh tác mà
cho nông dân thuê đất cày cấy và thu về địa tô. Mức địa tô nhìn chung là
tương đối nặng nề. Quan hệ sản xuất trong xã hội là quan hệ giữa địa chủ,
phong kiến và nông dân. Bên cạnh đó, nhà thờ thiên chúa giáo cũng chiếm
hữu nhiều đất đai lập thành lãnh địa lớn, các vị linh mục, thầy tu cũng là
những địa chủ phong kiến lớn nhỏ khác.
Ở phương Đông, chế độ ruộng đất không thuần nhất như ở phương Tây mà
quyền sở hữu ruộng đất thuộc về nhà Vua (nhà nước), đồng thời đối với ruộng
đất tư nhân, vua cũng có quyền sở hữu tối cao. Nhà nước đem ruộng đất thuộc
sở hữu công ban cấp cho quan lại làm bổng lộc và cho nông dân cày cấy. Khi
lực lượng sản xuất phát triển, ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân bắt đầu hình
thành và phát triển thành sở hữu của địa chủ, của cơ sở tôn giáo,…
o Nói tóm lại, ở nhà nước phong kiến phương Tây, ruộng đất hầu như thuộc sở hữu
tư nhân (lãnh chúa) thì ở phương Đông tồn tại song song sở hữu nhà nước và sở
hữu tư nhân (chủ yếu là địa chủ phong kiến).
o So với nô lệ, người nông dân trong xã hội phong kiến đã có sở hữu riêng tuy
không lớn. Đây là điểm tiến bộ của nhà nước phong kiến so với nhà nước chủ nô.
Nhưng trong xã hội phong kiến vẫn tồn tại hai mối quan hệ giữa giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị, đó là giữa nhà nước và nông dân, giữa địa chủ và tá điền.
Điều kiện kinh tế – xã hội quyết định bản chất của nhà nước phong kiến
o Tính giai cấp của nhà nước phong kiến thể hiện sâu sắc, rõ nét không kém nhà
nước chủ nô. Nhà nước phong kiến là bộ máy bảo vệ lợi ích kinh tế cho giai cấp
địa chủ phong kiến, là công cụ chuyên chính giúp giai cấp địa chủ phong kiến
đàn áp giai cấp nông dân, thợ thủ công, dân nghèo. Tóm lại, quyền lực của
nhà nước phong kiến tập trung chủ yếu vào việc đàn áp và bóc lột người dân
lao động.
o Tính xã hội, nhà nước phong kiến là đại diện cho toàn thể xã hội, nên sứ mệnh
của nhà nước phong kiến là tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội. So
với nhà nước chủ nô, tính xã hội của nhà nước phong kiến rõ nét hơn, nhà nước
đã quan tâm nhiều đến việc giải quyết những vấn đề chung cho toàn xã hội. Do
vậy, các hoạt động kinh tế xã hội của nhà nước cũng thiết thực hơn.
o Dù là nhà nước phương Đông hay phương Tây có những điểm khác nhau nhưng
bản chất của nhà nước phong kiến vẫn chỉ có một. Đó là, công cụ của giai cấp
phong kiến để đàn áp, bóc lột nhân dân lao động, bảo vệ địa vị và quyền lợi của
giai cấp phong kiến thống trị.
TGL101_Bai2_v1.0014103225 31
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
32 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
Ở châu Âu thời kỳ trung cổ, giáo hội và những quy tắc của nó đã chi phối toàn
bộ đời sống chính trị, tinh thần của xã hội. Nhà nước phong kiến đã kết hợp
với giáo hội, lợi dụng tôn giáo sáp nhập quyền lực tôn giáo với quyền lực nhà
nước để nô dịch nhân dân lao động. Nhà nước phong kiến cho phép toà án
giáo hội can thiệp vào cả những lĩnh vực không thuộc phạm vi tôn giáo, sử
dụng sức mạnh bạo lực để đàn áp, bức hại những người có tư tưởng tiến bộ.
Ở phương Đông, các nước như Trung Quốc, Việt Nam... có thời kỳ Phật giáo
được coi là quốc giáo. Ở những thời kỳ này tầng lớp tăng lữ được coi là tầng
lớp trí thức, được tham gia vào công việc chính trị, có những người nắm các
trọng trách trong bộ máy nhà nước, như nhà sư Từ Đạo Hạnh và sư Thảo
Đường thời Lý.
o Nhìn chung, nhà nước phong kiến đã kết hợp giữa thần quyền và thế quyền để
nô dịch nhân dân lao động về mặt tư tưởng, tuyên truyền và áp đặt cho nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác hệ tư tưởng duy tâm mang đậm màu sắc
tôn giáo.
o Ngoài ra, nhà nước phong kiến còn tiến hành những hoạt động công cộng nhằm
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội như: ban hành chính sách quản lý đất đai, chính
sách tiền tệ, làm đường, làm thuỷ lợi... Tuy nhiên, hoạt động này chưa thường
xuyên và rộng khắp trong các nhà nước phong kiến mà chỉ xuất hiện ở từng quốc
gia cụ thể vào từng thời kỳ cụ thể.
b. Chức năng đối ngoại
Tiến hành chiến tranh xâm lược
o Chiến tranh được nhà nước phong kiến sử dụng với tính chất là phương tiện phổ
biến để giải quyết các mâu thuẫn, mở rộng lãnh thổ, tăng cường phạm vi ảnh
hưởng của nhà nước mình ra bên ngoài.
o Trong thời kỳ cát cứ, mỗi lãnh chúa phong kiến có quân đội riêng, có quyền
tuyên chiến với các lãnh chúa phong kiến khác ở trong và ngoài nước (trừ tuyên
chiến với vua hoặc quốc vương của mình). Khi vua hoặc quốc vương của mình
tiến hành chiến tranh, lãnh chúa phong kiến có nghĩa vụ phải mang quân đến
chi viện.
o Tới thời kỳ nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, chức năng này được các
nhà nước phong kiến tiến hành thường xuyên hơn nhằm phục vụ cho lợi ích quốc
gia, điều này dẫn đến tình trạng các nhà nước phong kiến thường xuyên ở trong
tình trạng chiến tranh.
Phòng thủ đất nước
o Các nhà nước phong kiến dù lớn hay nhỏ đều luôn đứng trước nguy cơ bị các nhà
nước khác xâm lược. Vì thế, cùng với việc tiến hành chiến tranh xâm lược, các
nhà nước phong kiến đều thực hiện các công việc liên quan đến bảo vệ đất nước
như: xây dựng pháo đài, thành luỹ, xây dựng quân đội thường trực... để phòng
thủ đất nước.
o Để bảo vệ quyền, lợi ích của quốc gia, nhà nước phong kiến còn thực hiện nhiều
hình thức và chính sách ngoại giao với các quốc gia láng giềng như chính sách
thương mại, đối ngoại hoà bình...
TGL101_Bai2_v1.0014103225 33
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
34 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
o Trong hình thức nhà nước quân chủ phân quyền cát cứ thì quyền lực nhà nước bị
phân tán, vua hoặc quốc vương không có toàn quyền, chỉ là “đấng thiêng liêng”,
quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến.
Ở Đức, thế lực của các “chư hầu” (lãnh chúa lớn) mạnh đến mức họ bầu ra hoàng
đế Đức. Nếu hoàng đế có mưu đồ tăng cường thế lực của mình thì lập tức bị đánh
đổ và được thay bằng người khác. Trạng thái phân quyền cát cứ ở Italia còn nặng
nề hơn. Ở đây, không có hoàng đế và chính quyền trung ương, dù chỉ là hình
thức. Italia chia thành ba vùng như là Bắc, Trung, Nam.
o Hình thức chính thể quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kỳ cuối – thời kỳ
suy vong của chế độ phong kiến và chỉ ở một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban
Nha,… nhưng không cao như ở phương Đông.
Ở Pháp, trong cuộc đấu tranh chống các lãnh chúa lớn, các vua Pháp từng
bước dẹp được nạn cát cứ. Vua Lu-i IX thực hiện ba cải cách quan trọng về tư
pháp, hành chính, quân sự. Nhà vua lưu hành một loại tiền thống nhất, có đủ
trọng lượng và do nhà vua đúc. Nhà vua buộc giáo hoàng La Mã, người chủ
trương duy trì tình trạng cát cứ, phải phục tùng mình. Ngôi giáo hoàng do vua
chỉ định. Từ thế kỷ XVII trở đi, nền quân chủ chuyên chế phát triển đến đỉnh
cao. Vua nắm mọi quyền hành, có quyền quyết định mọi công việc đối nội và
đối ngoại, bổ nhiệm hoặc cách chức, ban bố hoặc hủy bỏ các đạo luật, trừng
phạt hoặc ân xá,… Nói tóm lại, trong chính thể quân chủ chuyên chế ở Pháp,
quyền lực của nhà vua không chịu bất kỳ một hạn chế nào, dù là hạn chế về
mặt hình thức. Vua kiểm soát hoàn toàn các địa phương. Chế độ tự quản
thành phố không được thừa nhận. Cơ quan đại diện đẳng cấp không còn hoạt
động. Nhà thờ trở thành công cụ của nhà vua.
Ngoài ra, hình thức chính thể quân chủ chuyên chế còn diễn ra ở Anh nhưng
không cao như ở Pháp. Ở Anh, vua nắm trong tay mọi cơ quan cao cấp cai trị
đất nước. Trong đó, đóng vai trò quan trọng là hội đồng cơ mật bao gồm
thành viên là những quý tộc nổi tiếng do vua chỉ định và trở thành cố vấn của
nhà vua. Vua là người đứng đầu giáo hội Anh, nắm trong tay vương quyền và
cả thần quyền. Tuy nhiên, ngoài tô thuế, nhà vua không còn khoản thu nào
khác để bù đắp sự ăn tiêu phung phí. Điều đó làm cho quyền hành của nhà
vua bị hạn chế bởi nghị viện. Thượng nghị viện (viện nguyên lão) là cơ quan
có thẩm quyền xây dựng dự án luật và cũng là chỗ dựa vững chắc của nhà
vua. Đại biểu của thượng nghị viện do vua chỉ định và được cha truyền con
nối, thường là những quý tộc lớn. Hạ nghị viện gồm đại biểu của quý tộc vừa
và nhỏ được lựa chọn thông qua bầu cử.
Ngoài ra còn hình thức chính quyền tự trị thành phố là chính quyền cục bộ, tồn tại
trong những khoảng thời gian không lâu. Nó là chính quyền cộng hòa phong kiến.
o Tùy theo tương quan lực lượng và hoàn cảnh cụ thể ở từng nơi, mức độ tự trị mà
các thành phố giành được cũng khác nhau.
Ở Italia, các thành thị đã giành được thắng lợi tương đối nhanh chóng vì kinh tế ở
đây phát triển sớm hơn các nước khác. Tầng lớp phong kiến bên dưới là kị sĩ bị
lôi cuốn vào nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ, nên họ đã đứng về phía người dân,
TGL101_Bai2_v1.0014103225 35
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
36 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
TGL101_Bai2_v1.0014103225 37
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
38 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
TGL101_Bai2_v1.0014103225 39
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
thương nhân cùng với các nhà khoa học, kĩ thuật và các nhà doanh nghiệp trên
nhiều lĩnh vực.
Giai cấp giữ vị trí thống trị là giai cấp tư sản, mặc dù chỉ chiếm thiểu số trong
xã hội nhưng lại là giai cấp nắm hầu hết tư liệu sản xuất của xã hội, chiếm
đoạt những nguồn tài sản lớn của xã hội.
Giai cấp vô sản là bộ phận đông đảo trong xã hội, là lực lượng lao động chính
trong xã hội. Về phương diện pháp lý họ được tự do, nhưng do không có tư
liệu sản xuất nên họ chỉ là người bán sức lao động cho giai cấp tư sản, là đội
quân làm thuê cho giai cấp tư sản.
Ngoài hai giai cấp chính nêu trên, trong xã hội tư sản còn có nhiều tầng lớp xã
hội khác như: nông dân, tiểu tư sản, trí thức...
o Tóm lại, tính giai cấp của nhà nước tư sản thể hiện thông qua giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp thương nhân cùng với các nhà khoa học,
kĩ thuật và các nhà doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực và mức kinh doanh
khác nhau.
Cơ sở tư tưởng
Về mặt tư tưởng giai cấp tư sản luôn tuyên truyền về tư tưởng dân chủ – đa nguyên,
nhưng trên thực tế lại tìm mọi cách đảm bảo địa vị độc tôn của ý thức hệ tư sản, ngăn
cản mọi sự phát triển và tuyên truyền tư tưởng cách mạng, tiến bộ của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
Như vậy, nhà nước tư sản thực hiện chuyên chính tư sản, như Lênin đã chỉ rõ: “những
hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau nhưng thực chất chỉ là một: chung
quy thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào tất nhiên phải là nền chuyên chính
tư sản”.
40 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
TGL101_Bai2_v1.0014103225 41
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
o Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng thuộc địa là chức năng đối
ngoại chủ yếu của nhà nước tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do. Các
nhà nước tư sản tìm mọi cách xâm lược các vùng đất mới hoặc gây chiến tranh
với nhà nước tư sản khác để chia lại thế giới, xác định quyền thống trị hay mở
rộng vùng ảnh hưởng của mình.
o Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa được thiết lập, chức năng đối ngoại chủ yếu của
các nhà nước tư sản là tiến hành chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đe doạ,
chia rẽ phong trào giải phóng dân tộc.
Chức năng phòng thủ
Đây là một trong những chức năng được nhà nước tư sản rất coi trọng. Nó được thể
hiện bằng việc nhà nước tư sản đã xây dựng các lực lượng vũ trang tinh nhuệ nhằm
phòng ngừa sự xâm lược của các quốc gia khác hoặc tham gia liên minh quân sự để
thực hiện phòng thủ chung giữa các quốc gia liên minh.
Thiết lập và phát triển các quan hệ ngoại giao
Trong giai đoạn hiện nay bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi vì thế nhiều nhà nước tư
sản có sự thay đổi tích cực trong quan hệ đối ngoại. Giải quyết các vấn đề quốc tế
thông qua đối thoại với những chính sách đối ngoại mềm dẻo. Bên cạnh đó, các nhà
nước tư sản tăng cường mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực
phát triển xã hội như: kinh tế, văn hoá – xã hội, môi trường, khoa học – kỹ thuật, các
vấn đề nhân đạo... với các nước có chế độ chính trị khác nhau.
42 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước bóc lột cuối cùng, hoàn thiện và phát triển nhất trong lịch sử
các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất nhà nước tư sản thể hiện rõ ở tính giai cấp và tính xã hội.
Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức trên cơ sở lý thuyết về “tam quyền phân lập” do các học
giả tư sản tự do ở châu Âu xây dựng vào thế kỷ XVIII, mà người tiêu biểu nhất là L.Montesquieu
(Pháp). Một trong những nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước tư
sản là nguyên tắc phân chia quyền lực. Các học giả tư sản coi nguyên tắc phân chia quyền lực
là hòn đá tảng của nền dân chủ tư sản và hết sức quán triệt nó trong tổ chức bộ máy nhà
nước. Nó được xây dựng trên cơ sở học thuyết phân chia quyền lực. Việc phân chia quyền lực
nhà nước ở các nước tư sản được phân chia theo chiều ngang và chiều dọc.
Theo chiều ngang:
o Quyền lực nhà nước được phân chia làm ba nhánh độc lập nhau đó là: lập pháp do
nghị viện nắm quyền, hành pháp do chính phủ nắm quyền và tư pháp do toà án tối cao
nắm quyền.
o Hoạt động của các cơ quan quyền lực cũng có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt
động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của
các cơ quan khác.
o Bằng cách phân chia như vậy, quyền lực của các cơ quan đã tạo nên cơ chế đối trọng
nhau, kiềm chế nhau trong việc sử dụng quyền lực giữa ba cơ quan cấp cao của nhà
nước, làm cho không một cơ quan nào nắm hết mọi quyền lực và cơ quan nào cũng bị
kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực, nhờ đó hiến pháp và pháp luật mới được tôn
trọng triệt để và được thực hiện một cách đúng đắn, đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất.
o Ở nhiều nhà nước hiện nay, tư tưởng phân quyền ngang có một số thay đổi, mà chủ yếu
là số nhánh quyền lực được phân chia ra từ quyền lực nhà nước. Ở một số nước Nam Mỹ,
quyền lực nhà nước nhiều khi được chia thành 4, 5, 6,... bộ phận. Ví dụ Nicaragoa có
thêm quyền kiểm tra do Tổng thanh tra thực hiện; Argentina phân làm 6 quyền.
Để hạn chế quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước không chỉ phân chia theo chiều
ngang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp mà còn phải tiếp tục phân chia ở
chiều dọc giữa trung ương và địa phương.
o Chính ở sự phân quyền này mà quyền lực nhà nước trung ương bị hạn chế. Đến lượt
mình, quyền lực của cơ quan địa phương – chính phủ địa phương lại bị phân chia thành
lập pháp địa phương và hành pháp địa phương. Chính việc phân quyền dọc đã làm tồn tại
hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do dân bầu ở các cấp địa phương, song song
với bộ máy nhà nước trung ương;
o Có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa chính quyền trung
ương và chính quyền địa phương trong những lĩnh vực cụ thể; mà chủ yếu là chính quyền
trung ương sẽ giải quyết các vấn đề công, vì lợi ích của cả cộng đồng xã hội, như vấn đề:
chủ quyền lãnh thổ, dịch vụ công, ...; còn chính quyền địa phương sẽ phụ trách các vấn
đề phát triển kinh tế – xã hội, giáo dục, văn hóa ở địa phương, ngoài ra còn có thể chủ
động tiến hành hợp tác, giao lưu với các địa phương khác hoặc các tổ chức quốc tế trong
quyền hạn của mình.
o Tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền trong nhiệm vụ và quyền hạn của mình là
tương đối độc lập với nhau. Chính quyền trung ương không có quyền điều hành, chỉ đạo
chính quyền địa phương, mà chỉ có thể xây dựng chủ trương chính sách, tạo dựng khuôn
khổ pháp lý, và kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền cấp dưới, mọi phạm vi
TGL101_Bai2_v1.0014103225 43
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
của chính quyền địa phương sẽ do Tòa án Hành chính xét xử độc lập. Phân chia dọc được
thực hiện theo 2 phương pháp:
Phân chia theo lãnh thổ là cách phân quyền của chính quyền trung ương cho chính quyền
địa phương theo địa giới hành chính – lãnh thổ. Việc tổ chức quản lý những vùng lãnh thổ
này cần thiết phải tính đến nguyện vọng và ý chí của cộng đồng dân cư. Vì vậy, tham gia
vào cơ chế vận hành bộ máy chính quyền địa phương, ngoài các cơ quan quản lý còn có cả
các cơ quan do dân cư hợp thành trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Việc tổ chức cơ quan ở đây
mang nhiều tính chất tự quản. Các đơn vị hành chính không có quyền độc lập chính trị. Để
tổ chức thực hiện những vấn đề về phát triển địa phương, các đơn vị hành chính theo quy
định của pháp luật có quyền thành lập các hội đồng tự quản địa phương, chịu sự kiểm tra
của đại diện cơ quan quyền lực nhà nước cấp trên. Cơ cấu tự trị yêu cầu chính quyền địa
phương phải có một cơ quan ra nghị quyết và một cơ quan thi hành các nghị quyết đó,
giống như mô hình Nghị viện và Chính phủ.
Phân chia theo chuyên môn là cách phân quyền giữa các bộ chuyên môn với chính quyền địa
phương.
Vậy việc phân chia quyền lực rõ ràng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp như trên
có dẫn tới hoạt động của các cơ quan này tách biệt và độc lập hay không?
Thực chất giữa các cơ quan này có mối liên hệ khăng khít với nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong
những hoạt động nhất định tạo nên sự thống nhất quyền lực nhà nước.Việc phân chia quyền
lực nhằm khắc phục tình trạng chuyên chế, quyền lực nhà nước tập trung trong tay một người
hoặc một cơ quan; phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các hệ thống cơ quan nhà
nước khác nhau, tránh được sự tranh giành quyền lực giữa các cơ quan khác nhau.
Nguồn: http://thuvientructuyen.vn/chi – tiet – tai – lieu/phan – tich – nguyen – tac – phan –
chia – quyen – luc – va – su – ap – dung – nguyen – tac – nay – trong – to – chuc – va – hoat
– dong – cua – bo – may – nha – nuoc – tu – san/34936.ebook
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_quy%E1%BB%81n_ph%C3%A2n_l%E1%BA%ADp
Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, đa nguyên chính trị
và đa đảng
o Đây là một trong những nguyên tắc phổ biến của nền dân chủ tư sản.
o Nguyên tắc đa nguyên chính trị cho phép công dân có quyền tự do chính kiến,
công dân có quyền chỉ trích đường lối chính trị của chính phủ và công khai thể
hiện quan điểm chính trị của mình mà không bị coi là phạm pháp.
o Nguyên tắc đa nguyên chính trị còn cho phép sự tồn tại của nhiều đảng phái
chính trị. Các đảng phái chính trị tự do tranh cử trong các cuộc bầu cử nghị viện
và tổng thống.
o Như vậy, việc tồn tại chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng mà các nước tư sản
thừa nhận có đảng cầm quyền và đảng đối lập.
Từ những đặc trưng trên có thể nhận thấy cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước tư sản gồm:
a. Nguyên thủ quốc gia
Trong hệ thống cơ quan nhà nước tối cao của các nước tư bản, về mặt pháp lý,
nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, chịu trách nhiệm lãnh đạo bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên, việc trở thành và thôi chức nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản
là khác nhau.
44 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
Đối với các nước có chính thể quân chủ như Anh, người đứng đầu là vua được thiết
lập trên cơ sở kế truyền.
Còn trong các nước có chính thể cộng hòa, nguyên thủ quốc gia là tổng thống và
được thiết lập trên cơ sở bầu cử. Chức vụ này có thể được bầu lên do phổ thông đầu
phiếu trực tiếp (Pháp), có thể do đại cử tri (Mỹ), hoặc do Nghị viện bầu ra (Hy Lạp)
hay do Đại hội của Quốc hội với đại diện các tỉnh bầu ra (Ý, Đức).
Nguyên thủ quốc gia có quyền hạn lớn nhất là ở trong chính thể cộng hòa tổng thống,
điển hình là Mỹ, nơi mà tổng thống vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người
đứng đầu Chính phủ.
Còn ở các nước quân chủ đại nghị, nguyên thủ quốc gia phần lớn mang tính chất đại
diện, hình thức (Anh, Nhật Bản). Nhiệm kỳ của nguyên thủ quốc gia ở các nước quy
định cũng không giống nhau, có thể là 4 năm, 5 năm hoặc 7 năm. Có nước Nguyên
thủ quốc gia không thể được bầu quá hai nhiệm kỳ (Mỹ, Phần Lan).
b. Nghị Viện
Nghị viện có vị trí đặc biệt trong hệ thống cơ quan trung ương của nhà nước tư sản.
Như Yves Meny – học giả người Pháp đã viết: “nếu tồn tại một biểu tưởng của chế
độ đại diện thì đó chính là nghị viện”. Nghị viện tư sản phát triển qua các giai đoạn
tương ứng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Giai đoạn đầu, nghị viện là cơ quan nhà nước có vai trò rất lớn. Nước Anh là quê
hương của nghị viện tư sản. Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh là thời hoàng
kim của nghị viện. Lúc bấy giờ, người Anh có câu ngạn ngữ “nghị viện có quyền
được làm tất cả, chỉ trừ việc biến đàn ông thành đàn bà”. Nghị viện có quyền hạn rất
lớn, gồm quyền lập pháp; quyền quyết định ngân sách và thuế; quyền giám sát hoạt
động của nội các, bầu hoặc bãi nhiệm các thành viên của nội các. Nhưng khi chủ
nghĩa đế quốc xuất hiện thì chế độ nghị viện bước vào giai đoạn khủng hoảng. Ngày
nay, quyền hạn của nghị viện bị giảm trong lĩnh vực làm luật, trong các quyết định
về ngân sách cũng như trong kiểm tra hoạt động của chính phủ.
Về cách thức tổ chức, nghị viện được phân thành một viện hoặc hai viện. Một số
nước, nghị viện được tổ chức theo chế độ một viện là Đan Mạch, Thụy Sỹ, Bồ Đào
Nha, Phần Lan,… Đại đa số các nước tư bản phát triển đều tổ chức thành hai viện là
hạ nghị viện và Thượng nghị viện, đó là Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý,… Hạ nghị
viện đại diện cho tầng lớp dân cư trong xã hội và bầu theo tỷ lệ dân số. Thượng nghị
viện đại diện cho quyền lợi của các bang, các chủ thể liên bang (trong nhà nước liên
bang); đại diện cho các đơn vị hành chính lãnh thổ cao nhất hoặc đại diện cho tầng
lớp quý tộc (trong nhà nước đơn nhất).
c. Chính phủ
Chính phủ ở các nước tư bản là cơ quan hành pháp cao nhất, chiếm vị trí trung tâm
trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở trung ương. Trên thực tế, quyền hạn của
chính phủ trong lĩnh vực hành pháp là rất rộng. Nó quyết định phần lớn các chính
sách đối nội, đối ngoại của nhà nước. Cách thức bổ nhiệm thủ tướng và các thành
viên của chính phủ ở các nước cũng có điểm khác nhau.
TGL101_Bai2_v1.0014103225 45
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
Ở các nước theo chính thể quân chủ lập hiến, cộng hòa nghị viện và cộng hòa lưỡng
tính, đứng đầu chính phủ là thủ tướng. Cơ cấu của chính phủ gồm thủ tướng, phó thủ
tướng và các bộ trưởng. Việc thành lập ra chính phủ được tiến hành theo nguyên tắc
chung là đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện như Anh, Pháp, Đức. Như vậy, việc
thành lập chính phủ phụ thuộc vào kết quả bầu cử nghị viện. Thủ tướng và các thành
viên Chính phủ có thể do Tổng thống bổ nhiệm (Ý, Pháp), có thể do nghị viện bầu
(Nhật Bản), hoặc có thể có sự kết hợp giữa Nghị viện và Tổng thống (Đức).
Ở các nước theo chính thể cộng hòa tổng thống, đứng đầu chính phủ là tổng thống.
Thành phần Chính phủ ở các nước tư bản này gồm tổng thống, phó tổng thống và các
bộ trưởng. Điển hình nhà nước tư bản theo chính thể cộng hòa tổng thống là Mỹ.
Tổng thống ở nước này vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu
chính phủ. Các thành viên của chính phủ do tổng thống bổ nhiệm với sự đồng thuận
của thượng nghị viện.
d. Tòa án
Trong bộ máy nhà nước tư sản, về mặt hình thức, tòa án là cơ quan có vị trí độc lập
với các cơ quan nhà nước khác. Về loại hình, thông thường tòa án được xây dựng
thành ba hệ thống: tòa án truyền thống, tòa án hiến pháp và tòa án hành chính.
o Tòa án truyền thống (hay còn gọi là tòa án tư pháp) – nơi xử các công dân vi
phạm pháp luật hoặc giải quyết tranh chấp giữa các công dân với nhau, ở một số
nước tư bản còn lập ra tòa án hiến pháp (Pháp, Đức).
o Tòa án hiến pháp (hay còn gọi là tòa án bảo hiến) có chức năng kiểm tra tính hợp
hiến của các văn bản pháp luật, kiểm tra hoạt động của quốc hội, chính phủ.
o Tòa án hành chính là xét xử các quyết định hoặc hành vi hành chính của các công
chức nhà nước và các cơ quan nhà nước trên cơ sở các khiếu kiện của công dân.
Hoạt động xét xử của tòa án thưởng được tổ chức theo hai cấp xét xử: Hệ thống tố
tụng tranh tụng và hệ thống tố tụng thẩm vấn
Hệ thống tố tụng tranh tụng, vai trò của thẩm phán được đề cao. Thẩm phán trực tiếp
xét hỏi, thẩm vấn các vấn đề cần làm rõ trong vụ án. Trong hệ thống này, điều tra và
truy tố trước khi diễn ra phiên tòa được chú trọng.
Trong hệ thống tố tụng thẩm vấn, vai trò của thẩm phán thì ngược lại. Ở đây, thẩm
phán chỉ có vai trò như một trọng tài, lắng nghe lập luận của các bên và tự mình phán
xét. Còn thẩm vấn tại phiên tòa nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án thuộc về luật sư
của các bên trong vụ án dân sự hoặc thuộc về ủy viên công tố và luật sư bào chữa
trong vụ án hình sự.
e. Hệ thống quân đội, cảnh sát
Nhà nước tư sản đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng lực lượng này, đặc biệt trong
điều kiện khi mâu thuẫn xã hội gay gắt hoặc khi cuộc chiến tranh trở nên quyết liệt.
Hệ thống quân đội và cảnh sát luôn được nhà nước tư sản chú trọng đầu tư, chi một
khoản không nhỏ trong ngân sách nhà nước nhằm tăng cường và hiện đại hóa quân
đội và cảnh sát; luôn được ưu tiên đầu tư những thiết khoa học kỹ thuật hiện đại nhất.
46 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
Trong quan hệ đối ngoại, khi xảy ra xung đột hoặc tranh chấp, quân đội được nhà
nước tư sản dùng làm công cụ thực hiện chính sách răn đe.
Còn trong quan hệ đối nội, cùng với quân đội, cảnh sát là lực lượng đàn áp các thế
lực đối lập, bảo vệ trật tự xã hội và trật tự công cộng trong xã hội tư sản.
TGL101_Bai2_v1.0014103225 47
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
o Tổng thống cũng có quyền phủ quyết các dự án luật đã được nghị viện thông qua.
Nhưng tổng thống không được quyền giải tán nghị viện trước thời hạn, và nghị
viện cũng không được quyền giải tán chính phủ. Ở đây, sự phân định quyền lực
giữa tổng thống và nghị viện, chính phủ khá rõ ràng. Hình thức này hiện vẫn tồn
tại tại Hoa Kỳ.
Chính thể cộng hòa đại nghị
o Chính thể cộng hòa đại nghị hay còn gọi là chính thể cộng hòa nghị viện. Đặc
điểm của mô hình này là thủ tướng là người nắm quyền lực chính trị và là người
quyết định và chịu trách nhiệm về đường lối chính trị của chính phủ. Thủ tướng
luôn là thủ lĩnh của đảng chiếm ưu thế trong nghị viện, vì vậy, quyền hạn của thủ
tướng là rất lớn.
o Đây là hình thức chính thể mà chính phủ được thành lập trên cơ sở đảng chiếm đa
số nghế trong nghị viện và chịu trách nhiệm trước nghị viện, nghị viện có quyền
kiểm tra và giám sát hoạt động của chính phủ.
o Tổng thống do nghị viện bầu ra. Tổng thống có quyền chọn thành viên chính phủ
nhưng phải là những đại biểu từ Đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện. Trong
hình thức chính thể cộng hòa đại nghị, vai trò của tổng thống tương đối mờ nhạt
trước thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Các văn bản do tổng thống ban
hành đều phải có chữ ký của thủ tướng hoặc bộ trưởng tương ứng – những người
chịu trách nhiệm về các văn bản đó.
o Hình thức này tồn tại ở Đức, Áo, Ý.
Ngoài chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị, còn tồn tại hình thức
chỉnh thể cộng hòa hỗn hợp (hay cộng hòa lưỡng tính).
o Điển hình là Pháp, chế độ cộng hòa đại nghị vẫn được duy trì nhưng quyền lực
của tổng thống được tăng cường, tổng thống được bầu theo hình thức phổ thông
đầu phiếu. Tổng thống bổ nhiệm chính phủ, chỉ có quyền điều hành chính phủ
nhưng không được đứng đầu chính phủ. Trong trường hợp cần thiết, tổng thống
có quyền giải tán cả nghị viện.
o Điểm đặc trưng của chính thể cộng hòa hỗn hợp là xây dựng chính quyền hành
pháp mạnh nhưng có các cơ chế kiểm tra và giám sát thích hợp để hạn chế đến
mức tối đa sự lạm dụng quyền lực.
b. Hình thức cấu trúc
Nhà nước đơn nhất
o Hình thức cấu trúc đơn nhất là hình thức phổ biến nhất của nhà nước tư sản.
Hình thức đơn nhất tồn tại ở Pháp, Thụy Điển, Nga, Đức, Đan Mạch, Nhật Bản,
Phần Lan,…
o Đặc điểm cơ bản của nhà nước đơn nhất là chỉ có một chính phủ, một hiến pháp,
một quốc tịch, một hệ thống pháp luật thống nhất, một hệ thống cơ quan nhà
nước ở trung ương thống nhất (gồm lập pháp, hành pháp, tư pháp), các cơ quan
chính quyền địa phương được tổ chức và hoạt động theo quy định chung của
chính quyền trung ương.
48 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
Hiểu một cách chung nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Nói cách khác, dân chủ là
hệ thống, cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước để trao quyền lực vào tay nhân dân. Như
vậy, một chế độ xã hội có dân chủ thực sự là trong chế độ đó, quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, người dân được làm chủ tương lai, vận mệnh của đất nước, dân tộc mình.Tuy
nhiên, các nước có chế độ đa đảng, những nước có nền dân chủ tư sản luôn tự cho mình là có
dân chủ, tuyên truyền về nền dân chủ của mình, đồng thời ra sức kêu gọi, gây sức ép buộc
các nước có chế độ một đảng, các nước thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ bỏ cơ chế
hoạt động của mình, chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Vậy, thực sự đằng sau những lời hô hào,
kêu gọi đó là gì, ở các nước có chế độ đa đảng, những nước theo dân chủ tư sản nền dân chủ
thực sự của họ như thế nào?
Có thể thấy, dưới chủ nghĩa tư bản, dân chủ nằm trong tay giai cấp tư sản, được tổ chức
thành nhà nước tư sản và nhà nước đó bảo đảm quyền dân chủ cho một số ít người là giai cấp
tư sản và đồng minh với họ nhằm chống lại đông đảo những người lao động khác. Bởi vậy, nói
TGL101_Bai2_v1.0014103225 49
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
đến dân chủ tư sản là nói đến nhà nước tư sản và thứ dân chủ dành cho một số ít người giữ
địa vị thống trị xã hội, tức là giai cấp tư sản.
Về quy mô, trong nền dân chủ tư sản quyền làm chủ xã hội thuộc về số ít và phục vụ cho số ít
người; về tính chất, quyền làm chủ của số ít để chống lại số đông, sự tự do chà đạp lên thân
phận người khác, nền độc lập, tự do của các quốc gia, dân tộc khác; về hình thái biểu hiện,
nhà nước của chỉ số ít người, tự cho mình cái quyền phán xét người khác, xâm lược nước
khác, vi phạm trắng trợn nền độc lập và chủ quyền của các quốc gia, dân tộc khác.
Có thể nói một cách khái quát, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, dân chủ chân chính là thứ bị giai
cấp tư sản lợi dụng, bị biến thành thứ khác với chính nó phục vụ giai cấp tư sản.
Tại Mĩ, trong suốt hơn 200 năm qua, kể từ khi nước Mĩ ra đời (1776) chỉ có hai đảng: Đảng
Dân chủ và đảng Cộng hòa, hai đảng lớn nhất của giai cấp tư sản thay nhau cầm quyền. Tuy
là hai đảng nhưng không ai có thể tìm thấy sự khác nhau về bản chất, về lập trường giai cấp
và hệ tư tưởng giữa chúng và nếu có khác chăng thì chỉ ở tên gọi và hình thức mà thôi. Trong
lúc đó, Đảng Cộng sản Mĩ, với lịch sử hơn một trăm năm, người đại diện và đấu tranh không
mệt mỏi vì quyền lợi của hàng triệu công nhân Mĩ và những lý tưởng cao đẹp, thì có những
thời kỳ bị loại ra ngoài vòng pháp luật, các đảng viên của Đảng luôn bị đe dọa, bị ám sát và bị
khủng bố. Cho đến hiện nay, Đảng Cộng sản Mĩ cũng vẫn đang loay hoay tìm cho mình một
chỗ đứng trong nền đa đảng mà người Mĩ vẫn cho là dân chủ đó.
Các nước tư sản luôn cho rằng, phổ thông đầu phiếu là một trong những biểu hiện cao nhất
của nền dân chủ, nhưng hãy nhìn xem ở các nước tư sản việc xác lập tư cách cử tri cũng là
một quá trình vật lộn, đấu tranh không ngừng nghỉ để dành những quyền cơ bản nhất của con
người. Ở Mĩ năm 1920, Anh năm 1928, Pháp năm 1944, Tây Ban Nha năm 1970, Thụy Sĩ năm
1971 người phụ nữ mới có quyền đi bầu cử. Thử hỏi xem ở các nước như Anh, Pháp, Mĩ hiện
nay người da đen đã được đối xử công bằng trong xã hội chưa, hay họ phải chấp nhận những
dị nghị, nạn phân biệt chủng tộc từ người da trắng. Nước Mĩ, sau hơn 200 năm tồn tại mới
giám xóa bỏ đi định kiến, mặc cảm để chấp nhận một người da màu làm Ông chủ của Nhà
Trắng. Như vậy, nếu nói là dân chủ, nếu nói là quyền lực thuộc về nhân dân, thì trong trường
hợp này dân chủ nằm ở chỗ nào? Phải chăng như thế là dân chủ đích thực?
Mặt khác, với không ít nước tư bản, họ luôn cho rằng phải thực hiện tam quyền phân lập
nhưng thử hỏi xem họ đã tam quyền phân lập hoàn toàn chưa? Với những nước này, Tổng
thống sẵng sàng phủ quyết các dự luật của Quốc hội, thậm chí ở nhiều nước Tổng thống, Thủ
tướng còn có quyền tuyên bố giải tán Quốc hội, khi thấy nó trái với mình. Thử hỏi trong một
xã hội, khi Quốc hội, một cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước có thể sẵn sàng bị giải tán
khi không phù hợp với người đứng đầu, giai cấp thống trị thì người dân nói chung và công
nhân nói riêng sẽ như thế nào trong xã hội, hay họ sẽ bị “bỏ qua” bất kỳ lúc nào?
Như vậy, thử hỏi dân chủ thực sự đối với người dân dưới thể chế này đang ở đâu, hay đây chỉ
là một nền dân chủ giả hiệu, hình thức, đánh lừa mọi người, một nền dân chủ không thực tế.
Nguồn: http://vitoquocvietnam.wordpress.com/2013/04/23/su – that – ve – nen – dan – chu – o – cac –
nuoc – tu – san – va – cac – nuoc – co – che – do – da – dang/
Qua bài này, chúng ta đã biết ba kiểu nhà nước đặc trưng của chế độ bóc lột, đó là nhà nước
chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản.
Nhà nước chủ nô là nhà nước đầu tiên kể từ khi xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã. Giai cấp
chủ nô và nô lệ là hai giai cấp cơ bản và luôn đối kháng nhau trong lòng nhà nước chủ nô.
Với các phân tích liên quan tới chức năng, bộ máy và hình thức mà chúng ta có cách nhìn
khái quát về nhà nước đầu tiên trong lịch sử.
Tiếp đến là nhà nước phong kiến tiến bộ hơn nhà nước chủ nô. Địa chủ phong kiến và giai
cấp nông dân là hai giai cấp cơ bản trong xã hội phong kiến. Thông qua các phân tích trong
bài, ta đã khái quát được các nét khác biệt về bản chất, bộ máy, chức năng và hình thức của
nhà nước phong kiến so với nhà nước chủ nô.
Cuối cùng của nhà nước bóc lột là nhà nước tư sản với hai giai cấp cơ bản là tư sản và vô sản.
Đây là kiểu nhà nước vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay với nhiều sự thay đổi. Nhưng bản chất
của nhà nước tư sản này vẫn là kiểu nhà nước bóc lột. Qua bài học này, ta có thể đưa ra điểm
tiến bộ của nhà nước tư sản so với nhà nước chủ nô và phong kiến.
TGL101_Bai2_v1.0014103225 51
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
BÀI TẬP
1. Đưa ra những nhận định và yêu cầu xác định: Nhà nước phong kiến là nhà nước có tính giai
cấp mà không có tính nhân văn?
2. Phân tích những điểm tiến bộ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản so với
bộ máy nhà nước phong kiến?
3. Phân tích các điểm khác biệt cơ bản giữa ba kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản?
4. Hãy phân biệt giữa hình thức chính thể cộng hòa tổng thống với hình thức chính thể cộng hòa
đại nghị?
5. Hãy phân biệt giữa hình thức chính thể quân chủ nhị nguyên và hình thức chính thể quân chủ
đại nghị?
52 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản
THUẬT NGỮ
C H
Chính thể quân chủ lập hiến Hình thức nhà nước quân chủ phân
Là quyền lực nhà nước của nguyên thủ (vua, quyền cát cứ
quốc vương) được truyền lại cho người kế vị Là quyền lực nhà nước bị phân tán, vua
nhưng bị hạn chế. hoặc quốc vương không có toàn quyền,
quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh
Chính thể cộng hòa tổng thống
chúa phong kiến.
Trong hình thức này, tổng thống là người
nắm quyền lực chính trị.
N
Chính thể cộng hòa đại nghị
Nhà nước liên minh
Hay còn gọi là chính thể cộng hòa nghị viện,
Là sự liên kết giữa các quốc gia độc lập vì
trong mô hình này, thủ tướng là người nắm
những nhiệm vụ chính trị, quân sự hoặc kinh
quyền lực chính trị và là người quyết định
tế bằng hiệp ước do các thành viên liên minh
và chịu trách nhiệm về đường lối chính trị
thỏa thuận.
của chính phủ.
Nguyên thủ quốc gia
Chính phủ
Là người đứng đầu nhà nước, chịu trách
Là cơ quan hành pháp cao nhất, chiếm vị trí
nhiệm lãnh đạo bộ máy nhà nước.
trung tâm trong hệ thống các cơ quan nhà
nước ở trung ương. Nghị viện
Là cơ quan lập pháp, đặc biệt tại các quốc
gia có hệ thống chính quyền dựa trên kiểu hệ
thống Westminster như Vương quốc Anh.
TGL101_Bai2_v1.0014103225 53