You are on page 1of 31

Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

0
Bài 2: NHÀ NƯỚC CHỦ NÔ, NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN
VÀ NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

Nội dung

 Nhà nước chủ nô.


 Nhà nước phong kiến.
 Nhà nước tư sản.

Mục tiêu Hướng dẫn học


 Nghe giảng và đọc tài liệu để nắm bắt các Sau khi học bài này, các bạn cần:
nội dung chính.  Xác định, phân loại được kiểu nhà nước
 Đặt câu hỏi ngay nếu có thắc mắc. chủ nô, phong kiến và tư sản.
 Trả lời các câu hỏi ôn tập.  So sánh được chức năng, bộ máy và
hình thức của từng kiểu nhà nước.
Thời lượng học
9 tiết

TGL101_Bai2_v1.0014103225 23
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

Nói tới kiểu nhà nước là nói tới bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, tồn tại trên cơ sở một
nền tảng kinh tế, tương ứng với một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Như vậy, kiểu nhà nước
mới thay thế cho kiểu nhà nước cũ thông qua cuộc cách mạng xã hội, hoặc thông qua những
cuộc cải cách lớn diễn ra dần dần bởi vì giai cấp thống trị nắm quyền lực nhà nước đại diện cho
phương thức sản xuất cũ không bao giờ tự từ bỏ quyền lực nhà nước của mình, do đó giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất mới phải đấu tranh để giành chính quyền, thiết lập nên nhà nước
mới. Đó là quy luật, kiểu nhà nước mới ra đời thì bản chất, vai trò xã hội, chức năng của nó cũng
thay đổi. Bài học trước chúng ta chia ra 4 kiểu nhà nước chính, đó là nhà nước chủ nô, nhà nước
phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong đó, việc tìm hiểu các kiểu nhà
nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản giúp ta hiểu rõ hơn lý do các kiểu nhà nước
này mang tính bóc lột trong khi nhà nước xã hội chủ nghĩa lại không có bản chất đó.

2.1. Nhà nước chủ nô


Nhà nước chiếm hữu nô lệ hay còn gọi là nhà nước chủ nô là kiểu nhà nước đầu tiên
trong lịch sử, là tổ chức chính trị đặc biệt của giai cấp chủ nô. Nhà nước chủ nô là hình
thái kinh tế – xã hội có giai cấp dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người. Chế độ chiếm
hữu nô lệ phát sinh trong thời kỳ tan rã của công xã nguyên thủy. Hai giai cấp chính của
chế độ chiếm hữu nô lệ là chủ nô và nô lệ. Do điều kiện kinh tế, xã hội, địa lý, cùng các
yếu tố tác động bên ngoài,… khác nhau nên ở các khu vực địa lý khác nhau, sự xuất hiện
nhà nước chủ nô cũng khác nhau. Nhưng cơ bản, nhà nước chủ nô xuất hiện ở phương
Đông và phương Tây là rõ ràng nhất.
 Nhà nước chủ nô xuất hiện ở phương Đông
o Do điều kiện về tự nhiên, chống ngoại xâm và làm thủy lợi mà nhà nước chiếm
hữu nô lệ phương Đông xuất hiện sớm hơn nhiều so với các nhà nước phương
Tây, điển hình là các nhà nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại.
o Tuy nhiên, quá trình hình thành nhà nước lại diễn ra rất chậm chạp và kéo dài.
Trong giai đoạn này, nhà nước tồn tại và phát triển trên cơ sở đan xen giữa chế độ
công hữu còn chế độ tư hữu mới hình thành, chưa phát triển lắm.
 Nhà nước chủ nô xuất hiện ở phương Tây
o Khi lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ
tương đối cao thì nhà nước chủ nô phương Tây
xuất hiện, điển hình là nhà nước Hy Lạp, La
Mã cổ đại.
o Nguyên nhân cơ bản là sự xuất hiện chế độ tư
hữu tư nhân đã làm xã hội phân hóa thành giai
cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.
o Ngược lại với phương Đông, quá trình biến đổi
của xã hội phương Tây diễn ra sâu sắc, tổ chức Lao động nô lệ ở Rôma
thị tộc, bộ lạc thoái hóa và tan rã từng bước, và
dần hình thành nên nhà nước. Qua mỗi lần cải cách xã hội thì tổ chức thị tộc, bộ
lạc lại càng nhanh bị tan rã và nhà nước ngày càng xuất hiện rõ nét hơn.

24 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

2.1.1. Bản chất của nhà nước chủ nô


 Cơ sở kinh tế của nhà nước chiếm hữu nô lệ là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ.
Quan hệ này dựa trên sở hữu chủ nô không những đối với tư liệu sản xuất mà cả đối
với người lao động, đó là nô lệ. Đất đai và các tư liệu sản xuất hầu hết thuộc sở hữu
của các chủ nô.
 Giai cấp nô lệ chiếm đa số trong xã hội, là lực lượng chủ yếu tạo ra của cải vật chất
nhưng không có tư liệu sản xuất, do đó phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nô. Người nô lệ
cũng bị coi là thứ tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của giai cấp chủ nô. Do vậy, nô lệ bị
bóc lột một cách tàn nhẫn và không có giới hạn. Tình trạng này dẫn tới mâu thuẫn
giữa hai giai cấp ngày càng trở nên gay gắt và không thể điều hòa được. Đấu tranh
giai cấp diễn ra ác liệt và nhà nước chủ nô chính là sản phẩm của cuộc đấu tranh đó.
 Chính điều kiện kinh tế – xã hội đã quyết định bản chất của nhà nước chủ nô. Xét về
bản chất, nhà nước chủ nô thể hiện tính giai cấp và tính xã hội trong tất cả các kiểu
nhà nước.
o Tính giai cấp
 Trong xã hội chủ nô có hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, bên cạnh đó
còn có dân tự do.
 Với nhà nước phương Tây, tính giai cấp được thể hiện rất sâu sắc và mâu
thuẫn giữa chủ nô và nô lệ rất rõ rệt. Bởi trong nhà nước này, nô lệ là bộ phận
dân cư đông đảo trong xã hội và có địa vị xã hội vô cùng kém. Họ bị coi là tài
sản thuộc sở hữu của chủ nô. Chủ nô có quyền tuyệt đối với nô lệ như bóc lột
sức lao động, đem bán, hoặc thậm chí là giết chết. Nô lệ trở thành món hàng
hóa và thậm chí có cả khu vực chuyên mua bán nô lệ, ở đó, nô lệ được đem
bán như đem bán gia súc. Nguồn nô lệ trong nhà nước này chủ yếu từ các
cuộc chiến tranh. Chính vì vậy, đấu tranh giai cấp thường xuyên xảy ra ở mức
độ ngày càng gay gắt.
 Ngược lại, trong nhà nước phương Đông, do nô lệ không phải là lực lượng
sản xuất chủ yếu mà là công xã nông thôn nên mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ
trong nhà nước này không thể hiện sâu sắc như nhà nước phương Tây.
Công xã nông thôn là một hình thái xã hội xuất hiện phổ biến vào giai đoạn
tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và quá độ sang xã hội giai cấp. Công
xã nông thôn được công xã định kỳ chia đều ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước
để tự canh tác và nộp thuế cho nhà nước.
Ngoài ra, nô lệ trong nhà nước phương Đông không thấp kém như trong nhà
nước phương Tây. Nô lệ chủ yếu làm công việc nhà trong gia đình chủ nô. Họ
vẫn có quyền lập gia đình, thậm chí còn được coi là một thành viên trong gia
đình. Do vậy, mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ vì thế không sâu sắc
như phương Tây.
o Tính xã hội
 Nhà nước chủ nô nảy sinh để quản lý xã hội, thay thế cho chế độ cộng sản
nguyên thủy không còn khả năng cai quản xã hội được nữa.
Nhà nước chủ nô tiến hành một số hoạt động vì sự tồn tại và phát triển chung
của toàn xã hội như tổ chức quản lý kinh tế ở quy mô lớn, quản lý đất đai,
khai hoang,… làm cho đất nước phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân.
TGL101_Bai2_v1.0014103225 25
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

So với nhà nước phương Tây, nhà nước phương Đông thể hiện tính xã hội rõ
nét hơn. Trong nhà nước phương Đông, do nhu cầu của cả cộng đồng xã hội
mà việc tổ chức dân cư tiến hành công cuộc trị thủy, chống ngoại xâm, quản
lý đất đai và các hoạt động xã hội khác nhằm duy trì đời sống chung của
cộng đồng.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, yếu tố tư hữu dần dần hình
thành, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt và khi đó nhà nước dần
mất đi ý nghĩa ban đầu của nó.
Tóm lại, sự ra đời và phát triển của nhà nước chủ nô là một bước tiến lớn trong lịch
sử nhân loại, tạo ra tiền đề cho sự phát triển kinh tế, văn hóa của các xã hội sau này.

2.1.2. Chức năng của nhà nước chủ nô


Nhà nước chủ nô gồm chức năng đối nội và chức năng đối ngoại chính sau:
a. Chức năng đối nội
 Chức năng củng cố và bảo vệ chế độ sở hữu
o Đây là chức năng thể hiện được bản chất của
nhà nước chủ nô. Bởi với giai cấp chủ nô có
quyền sở hữu tuyệt đối về tư liệu sản xuất và
sức sản xuất từ nô lệ.
o Bên cạnh đó, nhà nước chiếm hữu chủ nô còn
quy định những biện pháp khác nhau nhằm Nô lệ bị chủ nô
trừng phạt nghiêm khắc đối với những hành và cai đánh đập tàn tệ
vi xâm phạm tới sở hữu của chủ nô.
 Chức năng đàn áp bằng quân sự đối với sự phản kháng của nô lệ và các tầng
lớp lao động khác
Xuất phát từ mẫu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ mà nhà nước
chủ nô đã thực hiện đàn áp dã man bằng quân sự đối với các cuộc nổi dậy, phản
kháng của nô lệ và những người lao động.
 Chức năng đàn áp về tư tưởng
Bên cạnh việc đàn áp nô lệ bằng biện pháp quân sự, giai cấp chủ nô còn sử dụng biện
pháp đàn áp về tư tưởng. Nghĩa là giai cấp chủ nô lợi dụng sự kém hiểu biết của giai
cấp nô lệ mà đã sử dụng tôn giáo nhằm đàn áp. Thông qua nhà nước, giai cấp chủ nô
đã xây dựng hệ tư tưởng tôn giáo cho mình nhằm duy trì sự thống trị về mặt tư tưởng
và duy trì tình trạng bất bình đẳng trong xã hội để đàn áp và bóc lột nô lệ.
b. Chức năng đối ngoại
 Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược
Sự tồn tại của nhà nước nô lệ gắn liền với chế độ nô lệ. Nhà nước chủ nô hầu như
không hạn chế số lượng nô lệ thuộc sở hữu của mỗi chủ nô. Vì vậy, nhằm tăng
cường số nô lệ của quốc gia mình, chiến tranh chính là một trong những phương tiện
chủ yếu của nhà nước nô lệ sử dụng nhằm thôn tính và cướp bóc mở rộng lãnh thổ
của mình. Nhưng chiến tranh cũng dẫn tới hậu quả là mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ
thêm sâu sắc và quan hệ giữa các nhà nước luôn trong tình trạng căng thẳng.
26 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

 Chức năng phòng thủ đất nước


Cùng với chức năng xâm lược thì nhà nước nô lệ cũng chú trọng tới phòng thủ đất
nước nhằm chống lại các cuộc xâm lược từ bên ngoài. Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ,
nhà nước chủ nô thực hiện chức năng này thông qua tổ chức lực lượng quân đội, xây
dựng các thành lũy, pháo đài,…

2.1.3. Bộ máy nhà nước chủ nô


 Khi nhà nước chủ nô mới ra đời, bộ máy nhà nước còn kế thừa, in đậm những dấu ấn
của hệ thống quyền lực thị tộc. Việc tổ chức bộ máy nhà nước còn mang tính tự phát,
những người nằm trong bộ máy nhà nước thường đảm đương tất cả các công việc.
 Cùng với sự phát triển của nhà nước chủ nô, bộ máy nhà nước ngày càng được tổ
chức một cách quy củ và mang tính chuyên nghiệp hơn. Nhà nước được chia thành
các đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ chức bộ máy theo cấp, hình thành nên hệ thống
các cơ quan nhà nước từ trung ương tới địa phương.
o Đối với nhà nước ở phương Tây, tổ chức nhà nước khá hoàn thiện, trong bộ máy
nhà nước đã phân thành các cơ quan nhà nước với cách thức tổ chức và hoạt động
dân chủ. Điểm nổi bật trong nhà nước phương Tây chính là phân định rõ ràng
giữa các cơ quan trong việc lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điển hình là nhà
nước Aten, nhà nước La Mã và nhà nước Spác.
o Đối với nhà nước ở phương Đông, tổ chức bộ máy đơn giản hơn so với nhà nước
phương Tây. Nhà Vua có toàn quyền thực thi quyền lực nhà nước. Các quan lại
từ trung ương tới địa phương là bề tôi của nhà vua và giúp việc cho nhà vua. Điển
hình cho nhà nước phương Đông là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ.
 Dù là nhà nước phương Đông hay phương Tây thì trong bộ máy của các nhà nước
chủ nô, quân đội, cảnh sát, tòa án là lực lượng chủ chốt.
o Quân đội được quan tâm xây dựng để thực hiện việc chinh phạt và bảo vệ chủ
quyền. Những người chỉ huy quân đội được phong những tước hiệu và có chế độ
ưu đãi. Vai trò của quân đội ngày càng quan trọng khi các cuộc đấu tranh của giai
cấp nô lệ ngày càng phát triển và chiến tranh giữa các nước diễn ra thường xuyên.
o Lực lượng cảnh sát được hình thành nhằm giữ gìn trật tự xã hội nô lệ trong nước.
o Tòa án ở mỗi quốc gia chiếm hữu nô lệ có những điểm đặc trưng. Nhà nước
phương Tây thiết lập hệ thống vừa có quyền xét xử và vừa có quyền quản lý hoặc
hệ thống chuyên trách xét xử bởi các thẩm phán được bầu theo định kỳ. Còn ở
nhà nước phương Đông, quyền xét xử tối cao nằm trong tay nhà vua và quyền
này được ủy quyền lại cho một tổ chức phụ thuộc trực tiếp vào nhà vua.

2.1.4. Hình thức nhà nước chủ nô


a. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa tồn tại và phát triển trong
nhà nước chủ nô. Nhưng do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên việc tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước ở mỗi nước cũng có sự khác biệt.

TGL101_Bai2_v1.0014103225 27
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

 Chính thể quân chủ


Là hình thức nhà nước phổ biến ở nhà nước phương Đông cổ đại.
o Đặc trưng của nhà nước này là quyền lực nhà nước tập trung vào người đứng đầu
nhà nước, đó là vua và hình thành theo nguyên tắc cha truyền con nối.
o Giúp việc cho nhà vua là có hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương xuống địa
phương nhưng chủ yếu là những người có quan hệ dòng họ hoặc thân cận với vua.
o Hình thức chính thể quân chủ còn thể hiện nhà vua là người có quyền lực vô hạn
và toàn quyền quyết định mọi việc của nhà nước, không có bất cứ thiết chế nào
làm hạn chế quyền lực của nhà vua.
o Dẫn chứng tới nhà nước Ai Cập, Pha-ra-ông (vua) nắm mọi quyền lực nhà nước,
là chủ sở hữu ruộng đất của các nước và trực tiếp lập ra nhiều điền trang ở Ai Cập.
Hầu như không có sự phân biệt giữa tài sản của nhà vua và tài sản của nhà nước.
Hệ thống quan lại ở trung ương và địa phương do Pha-ra-ông nắm giữ. Vua có
quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm, trừng phạt bất cứ ai và có quyền quyết định mọi công
việc quan trọng của đất nước.
Người trực tiếp giúp việc cho vua cai quản bộ máy quan lại là một viên quan cao
nhất gọi là Vi-Di-A. Vi-Di-A thường là con vua, nắm mọi chức năng quan trọng
của nhà nước như tư pháp, thuế, thủy lợi, hành chính,….
Trong hàng ngũ quan lại, châu trưởng đóng vai trò quan trọng, đứng đầu các châu
ở địa phương.
Về tổ chức tòa án và tố tụng cũng khá hoàn chỉnh đáp ứng yêu cầu củng cố chính
quyền của giai cấp chủ nô. Vua là người xét xử cao nhất. Cơ quan chuyên môn
xét xử gồm 6 viện, đứng đầu là một viên chưởng lý.
Còn về quân đội, đứng đầu là viên tổng chỉ huy quân đội là người họ hàng của
vua. Các sĩ quan cao cấp và những cơ quan đầu não của quan đội đều trực thuộc
vua và độc lập với cơ quan dân sự.
Ngoài ra, tôn giáo là công cụ thống trị tinh thần người dân Ai Cập. Các chức vụ
tăng lữ cao cấp đều do các viên đại thần nắm giữ, thường là bà con thân thích của
nhà vua. Nhiệm vụ của các tăng lữ là thần thánh hóa nhà vua, củng cố, đề cao uy
tín của giai cấp chủ nô đối với quần chúng bị áp bức bóc lột.
Như vậy, giai cấp thống trị chủ nô Ai cập đã kết hợp chặt chẽ giữa vương quyền
và thần quyền để đàn áp bóc lột giai cấp bị trị.
 Chính thể cộng hòa
o Được thể hiện rõ nét tại nhà nước phương Tây nhưng chính thể cộng hòa ở nhà
nước phương Tây gồm cộng hòa dân chủ và cộng hòa quý tộc.
o Chính thể cộng hòa dân chủ tồn tại ở nhà nước Aten vào thế kỷ thứ V – IV trước
công nguyên.
 Trong nhà nước này, cơ quan quyền lực nhà nước đều được hình thành bằng
con đường bầu cử và hoạt động theo nhiệm kỳ.
 Hội nghị công dân là cơ quan có quyền lực cao nhất, cứ khoảng 10 ngày họp
một lần. Hội nghị công dân có quyền thảo luận và biểu quyết tất cả các vấn đề

28 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

liên quan tới nhà nước, có quyền bầu ra các cơ quan và cá nhân thực thi quyền
lực nhà nước theo kỳ hạn nhất định.
 Nhưng bản chất chính thể cộng hòa dân chủ ở Aten là chính thể cộng hòa dân
chủ của chủ nô. Bởi nhà nước Aten được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu
và quan hệ bóc lột nô lệ. Nó bảo vệ địa vị và quyền lợi của giai cấp chủ nô.
Chỉ có chủ nô và rất ít người lao động tự do mới được hưởng quyền chính trị,
còn phụ nữ, kiều dân, nô lệ ở ngoài vòng sinh hoạt chính trị.
o Chính thể cộng hòa quý tộc tồn tại ở nhà nước Spác (thế kỷ VII – IV trước Công
nguyên) và La Mã (thế kỷ V – II trước công nguyên).
 Ở nhà nước Spác
Đại hội nhân dân vẫn tồn tại nhưng không chiếm vị trí quan trọng, mà chỉ tiến
hành bầu những người tham gia vào các chức vụ trong bộ máy nhà nước,
thông qua về mặt hình thức các dự luật chứ không có quyền thảo luận và đóng
góp ý kiến.
Cơ quan nắm quyền lực nhà nước trong nhà nước Spác là Hội nghị trưởng lão
do giới quý tộc bầu ra gồm hai vua có quyền lực ngang nhau và 28 thành viên
đại diện cho 28 bộ lạc cũ của người Spác hợp thành. Hội nghị trưởng lão có
quyền lập pháp và giải quyết các vụ việc quan trọng của đất nước.
Bên cạnh đó còn có hội đồng năm quan giám sát cũng do tầng lớp quý tộc bầu
ra, là cơ quan cao nhất được đại hội nhân dân bầu theo nhiệm kỳ một năm để
giám sát hoạt động của hội nghị trưởng lão, triệu tập và chủ trì đại hội nhân
dân, có quyền giải quyết mọi công việc ngoại giao, tài chính, tư pháp, kiểm
tra tư cách công dân.
 Còn ở nhà nước La Mã cũng có điểm tương đồng với nhà nước Spác.
Về mặt hình thức Đại hội nhân dân là cơ quan cao nhất nhưng quyền lực lại
nằm trong tay Viện nguyên lão.
Viện nguyên lão với các thành viên là những người thuộc tầng lớp quý tộc
giàu sang, có thế lực, đã từng nắm giữ các chức quan cao cấp. Viện nguyên
lão có quyền quyết định hầu hết các vấn đề quan trọng của nhà nước, có
quyền thảo luận trước các dự luật, có quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết những
nghị quyết của đại hội nhân dân. Nếu Viện nguyên lão không đồng ý thì Đại
hội nhân dân không thể thông qua các đạo luật.
Cơ quan hành pháp của nhà nước La Mã gồm hai hội đồng: Hội đồng chấp
chính và Hội đồng quan án do Đại hội nhân dân bầu ra theo nhiệm kỳ một
năm, là cơ quan trực tiếp điều hành công việc hàng ngày của đất nước.
Tóm lại, cách tổ chức nhà nước như trên thể hiện sâu sắc tính chất quý tộc của
nền cộng hòa quý tộc chủ nô.
b. Về hình thức cấu trúc
Hầu hết các nhà nước chủ nô đều có cấu trúc đơn nhất. Giai đoạn đầu, các nhà nước
chưa có sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính lãnh thổ. Cùng với sự phát
triển, các đơn vị hành chính lãnh thổ mới từng bước được thiết lập.

TGL101_Bai2_v1.0014103225 29
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

c. Về chế độ chính trị


 Các nhà nước chủ nô chủ yếu sử dụng phương pháp phản dân chủ để thực hiện quyền
lực của mình.
 Các nhà nước phương Đông thực hiện quyền lực bằng phương pháp độc tài chuyên chế.
 Các nhà nước phương Tây sử dụng các phương pháp ít nhiều có tính dân chủ hơn,
song vẫn thể hiện là một chế độ quân chủ tàn bạo, chuyên chế với đại bộ phận dân cư.

2.2. Nhà nước phong kiến


 Vào giai đoạn cuối của chế độ chiếm hữu nô lệ,
quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ bắt đầu kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội,
mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ ngày
càng gay gắt.
 Các cuộc khởi nghĩa của nô lệ nổ ra liên tiếp làm
lung lay chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ lệ nông
phát triển và hình thái kinh tế – xã hội phong kiến Nhà nước phong kiến chuyên chế
đã hình thành và thay thế hình thái kinh tế – xã
hội chiếm hữu nô lệ.
 Sự phát triển của nhà nước phong kiến ở các khu vực cũng khác nhau do điều kiện
lịch sử của mỗi nước là khác nhau. Chẳng hạn, nhà nước châu Âu, nhà nước phong
kiến hình thành trên sự sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ. Nhưng ở Châu Á, như
Mông Cổ, Triều Tiên,…thì nhà nước phong kiến là nhà nước đầu tiên của các dân
tộc này.

2.2.1. Bản chất nhà nước phong kiến


 Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước tương ứng với hình thái kinh tế – xã hội
phong kiến, là nhà nước phát triển cao hơn nhà nước chiếm hữu nô lệ.
o Về thời gian, chế độ phong kiến phương Đông hình thành sớm nhất ở Trung
Quốc từ thế kỷ III trước công nguyên. Còn ở phương Tây, nhà nước phong kiến
hình thành sớm nhất là thế kỷ V sau công nguyên (Tây Âu).
o Về mặt không gian, ở phương Tây, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ
chiếm hữu nô lệ đã từng phát triển đến đỉnh cao, quan hệ nô lệ mang tính chất
điển hình. Còn ở phương Đông, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ nô lệ
phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng. Đặc điểm này
ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển của chế độ phong kiến và nhà nước
phong kiến.
 Về cơ sở kinh tế, xã hội của nhà nước phong kiến
o Trong chế độ phong kiến có hai giai cấp cơ bản là địa chủ (ở phương Tây thường
gọi là lãnh chúa, hoặc chúa đất) và nông dân (ở phương Tây gọi là nông nô), có
phương thức bóc lột đặc trưng là địa tô, ngoài ra còn có tầng lớp thợ thủ công,
tầng lớp thị dân. Ruộng đất là tư liệu sản xuất chính trong chế độ phong kiến.

30 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

 Ở phương Tây, chế độ tư hữu ruộng đất đã phát triển triệt để từ thời chủ nô.
Trong thời phong kiến, chế độ tư hữu ruộng đất được phát triển lên mức cao
hơn gọi là các lãnh địa. Thời kỳ đầu, người nông dân tự do cũng có ruộng đất
nhưng cùng với sự phát triển của chế độ ruộng đất phong kiến mà dần dần
người nông dân bị mất ruộng và phải lệ thuộc đất vào địa chủ, phong kiến…
Địa chủ, phong kiến là những người có đất nhưng không trực tiếp canh tác mà
cho nông dân thuê đất cày cấy và thu về địa tô. Mức địa tô nhìn chung là
tương đối nặng nề. Quan hệ sản xuất trong xã hội là quan hệ giữa địa chủ,
phong kiến và nông dân. Bên cạnh đó, nhà thờ thiên chúa giáo cũng chiếm
hữu nhiều đất đai lập thành lãnh địa lớn, các vị linh mục, thầy tu cũng là
những địa chủ phong kiến lớn nhỏ khác.
 Ở phương Đông, chế độ ruộng đất không thuần nhất như ở phương Tây mà
quyền sở hữu ruộng đất thuộc về nhà Vua (nhà nước), đồng thời đối với ruộng
đất tư nhân, vua cũng có quyền sở hữu tối cao. Nhà nước đem ruộng đất thuộc
sở hữu công ban cấp cho quan lại làm bổng lộc và cho nông dân cày cấy. Khi
lực lượng sản xuất phát triển, ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân bắt đầu hình
thành và phát triển thành sở hữu của địa chủ, của cơ sở tôn giáo,…
o Nói tóm lại, ở nhà nước phong kiến phương Tây, ruộng đất hầu như thuộc sở hữu
tư nhân (lãnh chúa) thì ở phương Đông tồn tại song song sở hữu nhà nước và sở
hữu tư nhân (chủ yếu là địa chủ phong kiến).
o So với nô lệ, người nông dân trong xã hội phong kiến đã có sở hữu riêng tuy
không lớn. Đây là điểm tiến bộ của nhà nước phong kiến so với nhà nước chủ nô.
Nhưng trong xã hội phong kiến vẫn tồn tại hai mối quan hệ giữa giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị, đó là giữa nhà nước và nông dân, giữa địa chủ và tá điền.
 Điều kiện kinh tế – xã hội quyết định bản chất của nhà nước phong kiến
o Tính giai cấp của nhà nước phong kiến thể hiện sâu sắc, rõ nét không kém nhà
nước chủ nô. Nhà nước phong kiến là bộ máy bảo vệ lợi ích kinh tế cho giai cấp
địa chủ phong kiến, là công cụ chuyên chính giúp giai cấp địa chủ phong kiến
đàn áp giai cấp nông dân, thợ thủ công, dân nghèo. Tóm lại, quyền lực của
nhà nước phong kiến tập trung chủ yếu vào việc đàn áp và bóc lột người dân
lao động.
o Tính xã hội, nhà nước phong kiến là đại diện cho toàn thể xã hội, nên sứ mệnh
của nhà nước phong kiến là tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội. So
với nhà nước chủ nô, tính xã hội của nhà nước phong kiến rõ nét hơn, nhà nước
đã quan tâm nhiều đến việc giải quyết những vấn đề chung cho toàn xã hội. Do
vậy, các hoạt động kinh tế xã hội của nhà nước cũng thiết thực hơn.
o Dù là nhà nước phương Đông hay phương Tây có những điểm khác nhau nhưng
bản chất của nhà nước phong kiến vẫn chỉ có một. Đó là, công cụ của giai cấp
phong kiến để đàn áp, bóc lột nhân dân lao động, bảo vệ địa vị và quyền lợi của
giai cấp phong kiến thống trị.

TGL101_Bai2_v1.0014103225 31
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

2.2.2. Chức năng của nhà nước phong kiến


a. Chức năng đối nội
 Bảo vệ, củng cố và phát triển phương thức sản xuất phong kiến
o Trong phương thức sản xuất phong kiến, nông nghiệp là cơ sở tồn tại cho cả xã
hội nên ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng và là chủ yếu.
o Vì thế, các nhà nước phong kiến ra sức củng cố và bảo vệ sở hữu phong kiến về
ruộng đất. Bằng nhiều hình thức khác nhau, nhà nước phong kiến bảo vệ sự độc
quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, phong kiến.
 Ở phương Tây, nhà nước quy định chặt chẽ quyền sở hữu tư nhân của các
lãnh chúa phong kiến về ruộng đất thông qua chế độ đẳng cấp.
 Ở phương Đông, sở hữu tối cao về ruộng đất thuộc về nhà nước, nhưng thực
chất quyền sở hữu ruộng đất nằm trong tay giai cấp phong kiến mà đứng đầu
là nhà vua.
o Các nhà nước phong kiến đều sử dụng pháp luật để củng cố và bảo vệ quyền sở
hữu về ruộng đất của giai cấp phong kiến. Thông qua pháp luật, nhà nước phong
kiến trói chặt người nông dân vào ruộng đất của địa chủ, phong kiến. Nông dân ở
các nước đều phải chịu cảnh lao dịch nặng nề qua các hình thức tô thuế do giai
cấp phong kiến đặt ra (tô tiền, tô hiện vật, tô lao dịch).
 Đàn áp nông dân và những người lao động bằng những phương tiện tàn bạo
o Do sự áp bức, bóc lột hà khắc của giai cấp địa chủ phong kiến đối với nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động, trong chế độ phong kiến thường xuyên nổ ra
các cuộc khởi nghĩa của nông dân và nhân dân lao động chống lại ách áp bức của
giai cấp phong kiến. Để duy trì địa vị thống trị của mình, nhà nước phong kiến
đàn áp dã man các cuộc khởi nghĩa của nông dân và nhân dân lao động bằng bạo
lực quân sự.
o Trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến (giai đoạn nhà nước phong kiến phân
quyền cát cứ), các lãnh chúa có quân đội riêng thực hiện chức năng cảnh sát và
xét xử. Các lãnh chúa có quyền đánh đập, tra tấn nông dân trong lãnh địa của
mình trong trường hợp họ chống đối. Trong trường hợp cần thiết, nhà nước
phong kiến và các lãnh chúa cùng phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau trong việc đàn áp
sự phản kháng của nông dân.
o Chuyển sang thời kỳ nhà nước phong kiến trung ương tập quyền bộ máy đàn áp
của nhà nước phong kiến càng trở nên phát triển, chức năng này càng được nhà
nước phong kiến thực hiện triệt để hơn, ví dụ các cuộc khởi nghĩa của nông dân
như: khởi nghĩa Xắc xông ở Pháp, khởi nghĩa Sơn Thành, Hoàng Sào ở Trung
Quốc, khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu ở Việt Nam đều bị nhà nước phong kiến
ở các nước đó đàn áp dã man.
 Nô dịch về tư tưởng
o Cùng với việc thực hiện các hoạt động bạo lực vật chất để duy trì địa vị thống trị
của mình, nhà nước phong kiến còn đàn áp và nô dịch nông dân và nhân dân lao
động về mặt tư tưởng, áp đặt hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến cho toàn xã hội.
o Các nhà nước phong kiến dù phương Đông hay phương Tây, nhìn chung đều sử
dụng hệ tư tưởng tôn giáo và tổ chức tôn giáo phục vụ cho mục đích nô dịch tư tưởng.

32 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

 Ở châu Âu thời kỳ trung cổ, giáo hội và những quy tắc của nó đã chi phối toàn
bộ đời sống chính trị, tinh thần của xã hội. Nhà nước phong kiến đã kết hợp
với giáo hội, lợi dụng tôn giáo sáp nhập quyền lực tôn giáo với quyền lực nhà
nước để nô dịch nhân dân lao động. Nhà nước phong kiến cho phép toà án
giáo hội can thiệp vào cả những lĩnh vực không thuộc phạm vi tôn giáo, sử
dụng sức mạnh bạo lực để đàn áp, bức hại những người có tư tưởng tiến bộ.
 Ở phương Đông, các nước như Trung Quốc, Việt Nam... có thời kỳ Phật giáo
được coi là quốc giáo. Ở những thời kỳ này tầng lớp tăng lữ được coi là tầng
lớp trí thức, được tham gia vào công việc chính trị, có những người nắm các
trọng trách trong bộ máy nhà nước, như nhà sư Từ Đạo Hạnh và sư Thảo
Đường thời Lý.
o Nhìn chung, nhà nước phong kiến đã kết hợp giữa thần quyền và thế quyền để
nô dịch nhân dân lao động về mặt tư tưởng, tuyên truyền và áp đặt cho nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác hệ tư tưởng duy tâm mang đậm màu sắc
tôn giáo.
o Ngoài ra, nhà nước phong kiến còn tiến hành những hoạt động công cộng nhằm
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội như: ban hành chính sách quản lý đất đai, chính
sách tiền tệ, làm đường, làm thuỷ lợi... Tuy nhiên, hoạt động này chưa thường
xuyên và rộng khắp trong các nhà nước phong kiến mà chỉ xuất hiện ở từng quốc
gia cụ thể vào từng thời kỳ cụ thể.
b. Chức năng đối ngoại
 Tiến hành chiến tranh xâm lược
o Chiến tranh được nhà nước phong kiến sử dụng với tính chất là phương tiện phổ
biến để giải quyết các mâu thuẫn, mở rộng lãnh thổ, tăng cường phạm vi ảnh
hưởng của nhà nước mình ra bên ngoài.
o Trong thời kỳ cát cứ, mỗi lãnh chúa phong kiến có quân đội riêng, có quyền
tuyên chiến với các lãnh chúa phong kiến khác ở trong và ngoài nước (trừ tuyên
chiến với vua hoặc quốc vương của mình). Khi vua hoặc quốc vương của mình
tiến hành chiến tranh, lãnh chúa phong kiến có nghĩa vụ phải mang quân đến
chi viện.
o Tới thời kỳ nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, chức năng này được các
nhà nước phong kiến tiến hành thường xuyên hơn nhằm phục vụ cho lợi ích quốc
gia, điều này dẫn đến tình trạng các nhà nước phong kiến thường xuyên ở trong
tình trạng chiến tranh.
 Phòng thủ đất nước
o Các nhà nước phong kiến dù lớn hay nhỏ đều luôn đứng trước nguy cơ bị các nhà
nước khác xâm lược. Vì thế, cùng với việc tiến hành chiến tranh xâm lược, các
nhà nước phong kiến đều thực hiện các công việc liên quan đến bảo vệ đất nước
như: xây dựng pháo đài, thành luỹ, xây dựng quân đội thường trực... để phòng
thủ đất nước.
o Để bảo vệ quyền, lợi ích của quốc gia, nhà nước phong kiến còn thực hiện nhiều
hình thức và chính sách ngoại giao với các quốc gia láng giềng như chính sách
thương mại, đối ngoại hoà bình...

TGL101_Bai2_v1.0014103225 33
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

2.2.3. Bộ máy nhà nước phong kiến


Do quá trình hình thành và phát triển nhà nước phong kiến ở các khu vực khác nhau nên
bộ máy nhà nước cũng không hoàn toàn giống nhau giữa phương Đông và phương Tây.
 Nhà nước phong kiến phương Đông
o Điển hình là Trung Quốc và Nhật Bản. Nhìn chung, trong suốt quá trình tồn tại và
phát triển nhà nước phong kiến, yếu tố trung ương tập quyền luôn được duy trì
nên nhà nước phong kiến luôn được tổ chức đảm bảo tính thống nhất của quyền
lực nhà nước.
o Nhà nước phong kiến Trung Quốc là chính thể quân chủ chuyên chế điển hình ở
phương Đông.
 Các triều đại đều được xây dựng theo mô hình quân chủ chuyên chế. Mô hình
này ngày càng phát triển và mang tính cực đoan hơn. Biểu hiện cơ bản của
chính thể quân chủ chuyên chế là thực hiện trung ương tập quyền cao độ.
 Hoàng đế là người nắm mọi quyền lực, vương quyền, thần quyền và pháp
quyền, không có cơ cấu lập pháp, hành pháp, tư pháp (hệ thống nhất nguyên).
 Quan lại các cấp đều là tôi tớ của Hoàng đế, dân chúng trong nước đều là thần
dân của vua. Hệ thống quan lại được tổ chức hai cấp: cấp trung ương và cấp
địa phương với đẳng cấp phân minh và biên chế chặt chẽ. Thông qua hệ thống
quan lại này, nhà vua có thể kiểm soát được toàn quốc, toàn dân, nhờ đó chế
độ quân chủ chuyên chế càng được củng cố. Người đứng đầu hành chính địa
phương do Hoàng đế bổ nhiệm đồng thời cũng là quan tư pháp. Tất cả các
quan to, nhỏ và mọi cơ quan nhà nước chỉ có quyền tư vấn cho nhà vua và
thực thi mệnh lệnh của nhà vua.
o Trên cơ sở tiếp thu yếu tố phong kiến Trung Quốc, trong thời kỳ đầu, nhà nước
phong kiến Nhật Bản cũng thiết lập bộ máy nhà nước theo mô hình quân chủ
chuyên chế phong kiến.
 Thiên Hoàng là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất trong cả nước. Thiên Hoàng
được thần thánh hóa, được coi là vị thánh sống.
 Các quý tộc là bề tôi và phải lệ thuộc vào Thiên Hoàng. Giúp việc cho Thiên
Hoàng có Tể tướng và hai chức phó là tả thừa tướng và hữu thừa tướng. Sau
đó là các thượng thư trông coi 8 bộ (bộ lễ, bộ hộ, bộ binh, bộ hình, bộ công,
bộ ngân khố, bộ cung cấm). Các đơn vị hành chính gồm có quốc (tỉnh), quận,
lý (xã). Đứng đầu các cấp địa phương là quốc ti, quận ti và lý trưởng.
 Nhưng từ thế kỷ XV, nhà nước phong kiến Nhật Bản dần dần hình thành
trạng thái phân quyền cát cứ của các lãnh chúa địa phương và tồn tại song
song với chính quyền kép ở địa phương, mang tính quân phiệt. Có thể nhận
thấy nhà nước phong kiến Nhật Bản vừa có yếu tố giống các nhà nước phong
kiến phương Đông, vừa có yếu tố giống các nhà nước phong kiến phương Tây.
 Nhà nước phong kiến phương Tây
o Hình thức kết cấu chủ yếu của nhà nước tư sản là phân quyền cát cứ, với những
biểu hiện và được quyết định bởi những nguyên nhân khác nhau. Một số nước
như Đức, Italia,… hình thức phân quyền cát cứ tồn tại suốt cả chế độ phong kiến.

34 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

o Trong hình thức nhà nước quân chủ phân quyền cát cứ thì quyền lực nhà nước bị
phân tán, vua hoặc quốc vương không có toàn quyền, chỉ là “đấng thiêng liêng”,
quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh chúa phong kiến.
Ở Đức, thế lực của các “chư hầu” (lãnh chúa lớn) mạnh đến mức họ bầu ra hoàng
đế Đức. Nếu hoàng đế có mưu đồ tăng cường thế lực của mình thì lập tức bị đánh
đổ và được thay bằng người khác. Trạng thái phân quyền cát cứ ở Italia còn nặng
nề hơn. Ở đây, không có hoàng đế và chính quyền trung ương, dù chỉ là hình
thức. Italia chia thành ba vùng như là Bắc, Trung, Nam.
o Hình thức chính thể quân chủ chuyên chế chỉ xuất hiện ở thời kỳ cuối – thời kỳ
suy vong của chế độ phong kiến và chỉ ở một số nước như Pháp, Anh, Tây Ban
Nha,… nhưng không cao như ở phương Đông.
 Ở Pháp, trong cuộc đấu tranh chống các lãnh chúa lớn, các vua Pháp từng
bước dẹp được nạn cát cứ. Vua Lu-i IX thực hiện ba cải cách quan trọng về tư
pháp, hành chính, quân sự. Nhà vua lưu hành một loại tiền thống nhất, có đủ
trọng lượng và do nhà vua đúc. Nhà vua buộc giáo hoàng La Mã, người chủ
trương duy trì tình trạng cát cứ, phải phục tùng mình. Ngôi giáo hoàng do vua
chỉ định. Từ thế kỷ XVII trở đi, nền quân chủ chuyên chế phát triển đến đỉnh
cao. Vua nắm mọi quyền hành, có quyền quyết định mọi công việc đối nội và
đối ngoại, bổ nhiệm hoặc cách chức, ban bố hoặc hủy bỏ các đạo luật, trừng
phạt hoặc ân xá,… Nói tóm lại, trong chính thể quân chủ chuyên chế ở Pháp,
quyền lực của nhà vua không chịu bất kỳ một hạn chế nào, dù là hạn chế về
mặt hình thức. Vua kiểm soát hoàn toàn các địa phương. Chế độ tự quản
thành phố không được thừa nhận. Cơ quan đại diện đẳng cấp không còn hoạt
động. Nhà thờ trở thành công cụ của nhà vua.
 Ngoài ra, hình thức chính thể quân chủ chuyên chế còn diễn ra ở Anh nhưng
không cao như ở Pháp. Ở Anh, vua nắm trong tay mọi cơ quan cao cấp cai trị
đất nước. Trong đó, đóng vai trò quan trọng là hội đồng cơ mật bao gồm
thành viên là những quý tộc nổi tiếng do vua chỉ định và trở thành cố vấn của
nhà vua. Vua là người đứng đầu giáo hội Anh, nắm trong tay vương quyền và
cả thần quyền. Tuy nhiên, ngoài tô thuế, nhà vua không còn khoản thu nào
khác để bù đắp sự ăn tiêu phung phí. Điều đó làm cho quyền hành của nhà
vua bị hạn chế bởi nghị viện. Thượng nghị viện (viện nguyên lão) là cơ quan
có thẩm quyền xây dựng dự án luật và cũng là chỗ dựa vững chắc của nhà
vua. Đại biểu của thượng nghị viện do vua chỉ định và được cha truyền con
nối, thường là những quý tộc lớn. Hạ nghị viện gồm đại biểu của quý tộc vừa
và nhỏ được lựa chọn thông qua bầu cử.
 Ngoài ra còn hình thức chính quyền tự trị thành phố là chính quyền cục bộ, tồn tại
trong những khoảng thời gian không lâu. Nó là chính quyền cộng hòa phong kiến.
o Tùy theo tương quan lực lượng và hoàn cảnh cụ thể ở từng nơi, mức độ tự trị mà
các thành phố giành được cũng khác nhau.
Ở Italia, các thành thị đã giành được thắng lợi tương đối nhanh chóng vì kinh tế ở
đây phát triển sớm hơn các nước khác. Tầng lớp phong kiến bên dưới là kị sĩ bị
lôi cuốn vào nền kinh tế hàng hóa – tiền tệ, nên họ đã đứng về phía người dân,
TGL101_Bai2_v1.0014103225 35
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

ủng hộ các thành thị chống lại bọn phong kiến


lớn. Các thành thị ở Italia không những giành
được quyền tự trị hoàn toàn mà còn khống chế
được cả những vùng nông thôn lân cận, phát
triển lên thành những quốc gia cộng hòa thành
phố độc lập.
Còn ở một số nơi khác, như Pháp, tuy không
thành lập các nước cộng hòa thành thị nhưng
Sân chầu thời Vua Lê Chúa Trịnh
thị dân cũng thành lập các công xã thành phố
và dành được quyền tự trị hoàn toàn.
o Chế độ tự quản mà các thành phố dành được bằng các biện pháp sau:
Một số thành phố giàu có, không cam chịu lệ thuộc vào lãnh chúa nên đã nộp một
số tiền lớn để được hưởng quyền tự trị.
Đối với những thành phố khác, người dân đã đoàn kết tiến hành khởi nghĩa vũ
trang đã giành thắng lợi.

2.2.4. Hình thức nhà nước phong kiến


Do cơ sở kinh tế xã hội khác nhau nên hình thức nhà nước phong kiến phương Tây cũng
khác hình thức nhà nước phong kiến phương Đông.
 Về hình thức chính thể phổ biến của nhà nước phong kiến là chính thể quân chủ
o Các nhà nước phương Đông đều có chính thể quân chủ chuyên chế.
 Vua là người nắm giữ toàn bộ quyền lực tuyệt đối của nhà nước, vừa là người
ban hành luật, vừa là người tổ chức thực hiện pháp luật, đồng thời vua cũng là
tòa án tối cao. Không có quyền lực nào hạn chế quyền lực của nhà vua.
 Quan lại là bề tôi của nhà vua và người dân trong nước là thần dân của vua.
o Các nhà nước phương Tây cũng phổ biến là chính thể quân chủ chuyên chế.
Nhưng ở một số thành phố, cư dân thành phố tổ chức chính quyền thành phố theo
mô hình chính thể cộng hòa từ khi giành được quyền tự trị từ tay nhà vua, lãnh
chúa hay giáo hội. Các cơ quan của thành phố như hội đồng thành phố, thị trưởng,…
do thị dân bầu ra, thành phố có tài chính, quân đội, pháp luật và tòa án riêng.
 Về hình thức cấu trúc
o Các nhà nước phong kiến giống nhà nước chủ nô đều là hình thức nhà nước
đơn nhất.
o Ở phương Đông, tồn tại chủ yếu xu hướng trung ương tập quyền với sự phục tùng
tuyệt đối của chính quyền địa phương.
o Còn ở phương Tây, trong quá trình tồn tại và phát triển, cấu trúc đơn nhất đã có
những biến dạng nhất định, ban đầu là phân quyền cát cứ, sau là trung ương tập
quyền.
 Về chế độ chính trị
o Hầu hết các nhà nước phong kiến thường áp dụng các biện pháp bạo lực để tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước.
o Nhưng ở một số thành phố ở phương Tây sau khi giành được quyền tự trị cũng có
một số biện pháp dân chủ được áp dụng nhưng vẫn còn rất hạn chế.

36 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

2.3. Nhà nước tư sản


Từ thế kỷ XV – XVII, ở phương Tây, chế độ phong kiến lâm vào thời kỳ khủng hoảng
ngày càng trầm trọng. Quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển. Giai
cấp tư sản ra đời, là giai cấp tiến bộ, đại diện cho lực lượng sản xuất mới. Giai cấp tư sản
lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động, tiến hành cách mạng tư sản, lật đổ chế độ
phong kiến, thiết lập nhà nước tư sản.
 Cuối thế kỷ XVI, cách mạng tư sản nổ ra đầu tiên ở
Nê đéc lan (gồm Hà Lan, Bỉ, Lúc-xăm-bua). Mặc
dù cuộc cách mạng thành công nhưng ảnh hưởng
không sâu rộng.
 Đến giữa thế kỷ XVII, cách mạng tư sản ở Anh
bùng nổ và giành thắng lợi. Cách mạng tư sản Anh
có ảnh hưởng lớn đến tiến trình của lịch sử thế giới.
 Tiếp đó, trong thế kỷ XVIII – XIX, cách mạng tư
sản thắng lợi ở Pháp, Mĩ, Nhật và nhiều nước Châu
Âu. Sự thành công của các cuộc cách mạng tư sản
dẫn đến sự xuất hiện của nhà nước tư sản. Tuy vậy,
sự ra đời của nhà nước tư sản diễn ra dưới những
Mô hình biếm họa
hình thức khác nhau phụ thuộc vào điều kiện lịch về nhà nước Tư sản
sử, chính trị, kinh tế và mức độ đấu tranh giai cấp ở
các nước cũng khác nhau.
 Nhà nước tư sản ra đời thông qua ba hình thức sau:
o Nhà nước tư sản ra đời thông qua các cuộc cách mạng tư sản được tiến hành dưới
hình thức khởi nghĩa vũ trang, lãnh đạo các cuộc cách mạng tư sản là giai cấp tư
sản nhưng lực lượng chủ yếu của cách mạng tư sản là giai cấp công nhân, nông
dân và người lao động khác trong xã hội. Bằng con đường bạo lực, cách mạng tư
sản xóa bỏ khá triệt để chế độ và trật tự phong kiến, thiết lập nền dân chủ tư sản,
điển hình có Hà Lan, Anh, đặc biệt là cuộc cách mạng tư sản Pháp.
o Thông qua các cuộc cải cách xã hội, nhà nước tư sản từng bước hình thành, trên
cơ sở sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản đang lên và tầng lớp quý tộc phong kiến
già nua, nhưng chưa hoàn toàn từ bỏ vị trí của mình trên trường chính trị. Nhưng
do áp lực của phong trào quần chúng cách mạng, giai cấp tư sản từng bước thâu
tóm quyền lực. Những nhà nước tư sản ra đời bằng con đường này là Đức, Tây
Ban Nha, Nhật Bản,…
o Sự hình thành các nhà nước tư sản ở những vùng đất mới như Hoa Kỳ, Canada,
Ôxtrâylia diễn ra vào thế kỷ XVIII – XIX. Ở những miền đất này, giai cấp tư sản
hình thành từ những người châu Âu di cư, đã dùng vũ lực, cơ chế nhà nước tư sản
tiêu diệt và lấn áp các thổ dân với chế độ thị tộc của họ và thiết lập chế độ tư bản
chủ nghĩa.
 Thông qua con đường hình thành nên nhà nước tư sản, có thể khái quát 4 giai đoạn
phát triển của nhà nước tư sản:

TGL101_Bai2_v1.0014103225 37
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

o Giai đoạn từ thế kỷ XVI – XVIII


 Được coi là giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Điển hình là cuộc
cách mạng tư sản Anh, chiến tranh Pháp – Thổ và công xã Paris.
 Ở giai đoạn này, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế, nó chỉ đóng
vai trò là “người lính gác đêm” của chế độ sở hữu tư nhân, là công cụ bảo vệ
chế độ sở hữu tư nhân và kinh tế thị trường.
o Giai đoạn từ 1871 đến 1917
 Đây là giai đoạn chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa
tư bản độc quyền. Trong giai đoạn này do tập trung sản xuất cao độ đã hình
thành nên các tập đoàn tư bản độc quyền. Nguyên nhân hình thành chủ nghĩa
tư bản độc quyền là:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quy mô của nền kinh tế ngày
càng lớn, tính chất xã hội của nền kinh tế ngày càng cao đòi hỏi sự điều tiết
của xã hội đối với sản xuất và phân phối. Do đó đòi hỏi có một hình thức mới
của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển trong
điều kiện còn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản;
Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành
mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể kinh doanh vì đầu tư lớn,
thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, do vậy nhà nước tư bản trong khi đảm
nhiệm kinh doanh những ngành đó đã tạo điều kiện cho các tổ chức độc
quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn;
Sự mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản, nhân dân lao động, mâu thuẫn
giữa các tổ chức độc quyền với nhau ngày càng sâu sắc.
 Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền là có sự can thiệp, điều tiết của nhà
nước về kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh
của nhà nước về kinh tế.
o Giai đoạn từ 1917 – 1945
 Đây được coi là giai đoạn tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Với sự
xuất hiện của Liên Xô, chủ nghĩa tư bản với tư cách là hình thái kinh tế – xã
hội không còn chiếm địa vị độc tôn nữa.
 Các mâu thuẫn trong lòng xã hội trở nên không thể điều hòa được, biểu hiện
bằng sự bùng nổ của hai cuộc đại chiến thế giới. Các nước thuộc địa cũng
đứng lên đấu tranh giành độc lập, góp phần làm tan rã từng bộ phận của chủ
nghĩa tư bản.
 Nhà nước tư sản ngày càng can thiệp sâu vào đời sống kinh tế vì lợi ích của
các tập đoàn tư bản độc quyền lớn. Ở khắp các nước tư bản phát triển, chủ
nghĩa tư bản đã trở thành tư bản độc quyền nhà nước. Đây là một thể chế
chính trị kết hợp sức mạnh kinh tế tư bản độc quyền với quyền lực nhà nước
thành cơ chế thống nhất nhằm làm giàu thêm cho tư sản, đàn áp mạnh mẽ
bằng nhiều biện pháp đối với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
các dân tộc đứng lên đòi độc lập, gây chiến tranh xâm lược nhằm chia lại thị
trường thế giới, cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản khỏi sụp đổ.

38 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

o Giai đoạn từ 1945 đến nay


 Giai đoạn từ sau đại chiến thế giới thứ II, sự xuất hiện của hệ thống các nước
xã hội chủ nghĩa đã làm cho cán cân quốc tế nghiêng về phía các lực lượng
dân chủ tiến bộ. Các phong trào đòi tự do, dân chủ của nhân dân thế giới diễn
ra một cách mạnh mẽ buộc các nước tư sản phải điều chỉnh lại chính sách đối
nội và đối ngoại nhằm thích ứng với điều kiện mới, duy trì và phát triển chủ
nghĩa tư bản.
 Nhà nước tư bản chú trọng hơn về các vấn đề dân sinh, quan tâm tới các nhu
cầu văn hóa xã hội trong chính sách đối nội. Đặc biệt, nhà nước tư bản đã mở
rộng quyền tự do của công dân và các quyền này được pháp luật bảo vệ.
 Trong chính sách đối ngoại, nhà nước tư bản sử dụng các biện pháp linh hoạt
và mềm dẻo như phát triển các công ty xuyên quốc gia, toàn cầu hóa quá trình
sản xuất và tiêu thụ hàng hóa; thúc đẩy tự do hóa thương mại nhằm tạo ra môi
trường quốc tế thuận lợi hơn cho sự phát triển kinh tế.
 Có thể nhận thấy rằng, từ sau đại chiến thế giới II đến nay, do tương quan lực
lượng trên thế giới có sự thay đổi, nhà nước tư sản đã có những cải biến nhất
định nhằm thích ứng với điều kiện mới. Sự thích ứng đó cũng không ngoài
mục đích duy trì và củng cố vị trí thống trị của giai cấp tư bản trong xã hội.
Tóm lại, qua các giai đoạn phát triển phức tạp, bản chất của nhà nước tư sản vẫn không
thay đổi, vẫn là công cụ thực hiện chuyên chính tư sản. Tuy nhiên, đánh giá bản chất của
nhà nước tư sản cần phải xem xét nó trong tiến trình lịch sử cụ thể, khách quan của từng
giai đoạn phát triển.

2.3.1. Bản chất của nhà nước tư sản


Thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của nhà nước tư sản đánh dấu một
bước phát triển mạnh mẽ và tiến bộ, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử
nhân loại. Mặc dù vậy, nhà nước tư sản vẫn không vượt khỏi bản chất là nhà nước bóc
lột. Bản chất của nhà nước tư sản do chính các điều kiện nội tại của xã hội tư sản quyết
định, đó là cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng.
 Cơ sở kinh tế
o Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thiết
lập dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư.
o Đặc trưng của phương thức này là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nền kinh tế
hàng hóa – thị trường, sản xuất bằng máy móc – công nghệ tạo ra năng suất lao
động cao hơn rất nhiều các phương thức sản xuất trước đây.
 Cơ sở xã hội
o Chính phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa làm thay đổi cơ bản kết cấu xã hội.
o Nếu như phương thức sản xuất phong kiến, nông nghiệp chiếm ưu thế trong xã
hội nên hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân, trong phương thức tư bản chủ
nghĩa, với sự phát triển của thương mại, khoa học – kĩ thuật, công nghiệp, xã hội
tư bản hình thành nên giai cấp tư sản, giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp

TGL101_Bai2_v1.0014103225 39
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

thương nhân cùng với các nhà khoa học, kĩ thuật và các nhà doanh nghiệp trên
nhiều lĩnh vực.
 Giai cấp giữ vị trí thống trị là giai cấp tư sản, mặc dù chỉ chiếm thiểu số trong
xã hội nhưng lại là giai cấp nắm hầu hết tư liệu sản xuất của xã hội, chiếm
đoạt những nguồn tài sản lớn của xã hội.
 Giai cấp vô sản là bộ phận đông đảo trong xã hội, là lực lượng lao động chính
trong xã hội. Về phương diện pháp lý họ được tự do, nhưng do không có tư
liệu sản xuất nên họ chỉ là người bán sức lao động cho giai cấp tư sản, là đội
quân làm thuê cho giai cấp tư sản.
 Ngoài hai giai cấp chính nêu trên, trong xã hội tư sản còn có nhiều tầng lớp xã
hội khác như: nông dân, tiểu tư sản, trí thức...
o Tóm lại, tính giai cấp của nhà nước tư sản thể hiện thông qua giai cấp tư sản và
giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp thương nhân cùng với các nhà khoa học,
kĩ thuật và các nhà doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực và mức kinh doanh
khác nhau.
 Cơ sở tư tưởng
Về mặt tư tưởng giai cấp tư sản luôn tuyên truyền về tư tưởng dân chủ – đa nguyên,
nhưng trên thực tế lại tìm mọi cách đảm bảo địa vị độc tôn của ý thức hệ tư sản, ngăn
cản mọi sự phát triển và tuyên truyền tư tưởng cách mạng, tiến bộ của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
Như vậy, nhà nước tư sản thực hiện chuyên chính tư sản, như Lênin đã chỉ rõ: “những
hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau nhưng thực chất chỉ là một: chung
quy thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào tất nhiên phải là nền chuyên chính
tư sản”.

2.3.2. Chức năng của nhà nước tư sản


Bản chất của nhà nước tư sản thể hiện thông qua các chức năng đối nội và đối ngoại
của nó. Chức năng của nhà nước tư sản chính là những phương diện hoạt động cơ bản
của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
a. Chức năng đối nội
 Chức năng chính trị
o Trong suốt thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân liên tục
đấu tranh chống lại sự áp bức, bóc lột và thống trị của giai cấp tư sản. Chính vì
vậy, nhà nước tư sản luôn thẳng tay đàn áp cuộc đấu tranh đó bằng nhiều hình
thức và biện pháp khác nhau. Nhà nước tư sản đã dùng bạo lực đàn áp sự phản
kháng của giai cấp công nhân hoặc hạn chế quyền chính trị chính đáng của giai
cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
o Chức năng chính trị càng được thể hiện rõ nét nhất khi nhà nước tư sản chuyển từ
chế độ dân chủ tư sản sang chế độ phát xít. Điển hình là chế độ phát xít Đức. Chế
độ phát xít đã không từ một thủ đoạn nào nhằm loại bỏ các lực lượng chính trị đối
lập, kể cả việc dùng các biện pháp dã man và cực kỳ tàn bạo.

40 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

 Chức năng kinh tế


o Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do chức năng này chưa được
chú trọng.
o Chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhà nước tư sản từng bước
can thiệp vào lĩnh vực kinh tế.
o Và khi chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước thì sự can thiệp này được tăng cường và làm nảy sinh chức năng mới – chức
năng kinh tế.
o Mục đích của chức năng này nhằm tạo ra các điều kiện, các đảm bảo vật chất, kỹ
thật, pháp lý và chính trị cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn
tư bản, đảm bảo sự tăng trưởng của nền kinh tế tư sản, ngăn ngừa và khắc phục
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khủng hoảng kinh tế.
o Để thực hiện chức năng này, nhà nước tư sản sử dụng hàng loạt các hình thức và
phương pháp như: sử dụng hệ thống đòn bẩy kinh tế, các kích thích kinh tế thể
hiện trong các tác động mang tính hành chính – kinh tế lên hệ thống các quan hệ
kinh tế.
 Chức năng xã hội
o Nhà nước tư sản thực hiện chức năng xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội như:
việc làm, thất nghiệp, dân số, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, vấn đề bảo trợ xã
hội cho người già, giải quyết các tệ nạn xã hội...
o Chính sách xã hội và việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư sản tuỳ
thuộc vào tương quan các lực lượng chính trị trong nhà nước tư sản ở các giai
đoạn phát triển và trong từng quốc gia cụ thể.
 Chức năng trấn áp về tư tưởng
o Đây là một trong những chức năng quan trọng nhằm trấn áp của nhà nước tư sản.
o Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đang phát triển và chủ nghĩa xã hội chưa xuất
hiện, nhà nước tư sản lợi dụng nhà thờ và tín điều tôn giáo phục vụ gián tiếp cho
lợi ích giai cấp.
o Chức năng này được chú trọng hơn trong giai đoạn phát triển của chủ nghĩa đế
quốc và chủ nghĩa xã hội xuất hiện. Bởi sự xuất hiện sự khủng hoảng về kinh tế –
chính trị và sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác-Lênin đã ảnh hưởng sâu đậm trong
lòng nhân dân. Vì vậy, nhà nước tư sản đã đẩy mạnh hơn hoạt động về tư tưởng,
coi đó là một trong những chức năng cơ bản của mình. Để tăng cường hoạt động
tư tưởng, nhà nước tư sản đã sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, quan
hệ chặt chẽ với nhà thờ và tôn giáo khác nhằm ngăn chặn sự phản kháng của nhân
dân lao động, xuyên tạc học thuyết Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật,….
b. Chức năng đối ngoại
 Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược và chống phá các phong trào cách
mạng thế giới

TGL101_Bai2_v1.0014103225 41
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

o Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược để mở rộng thuộc địa là chức năng đối
ngoại chủ yếu của nhà nước tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do. Các
nhà nước tư sản tìm mọi cách xâm lược các vùng đất mới hoặc gây chiến tranh
với nhà nước tư sản khác để chia lại thế giới, xác định quyền thống trị hay mở
rộng vùng ảnh hưởng của mình.
o Khi hệ thống xã hội chủ nghĩa được thiết lập, chức năng đối ngoại chủ yếu của
các nhà nước tư sản là tiến hành chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, đe doạ,
chia rẽ phong trào giải phóng dân tộc.
 Chức năng phòng thủ
Đây là một trong những chức năng được nhà nước tư sản rất coi trọng. Nó được thể
hiện bằng việc nhà nước tư sản đã xây dựng các lực lượng vũ trang tinh nhuệ nhằm
phòng ngừa sự xâm lược của các quốc gia khác hoặc tham gia liên minh quân sự để
thực hiện phòng thủ chung giữa các quốc gia liên minh.
 Thiết lập và phát triển các quan hệ ngoại giao
Trong giai đoạn hiện nay bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi vì thế nhiều nhà nước tư
sản có sự thay đổi tích cực trong quan hệ đối ngoại. Giải quyết các vấn đề quốc tế
thông qua đối thoại với những chính sách đối ngoại mềm dẻo. Bên cạnh đó, các nhà
nước tư sản tăng cường mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực
phát triển xã hội như: kinh tế, văn hoá – xã hội, môi trường, khoa học – kỹ thuật, các
vấn đề nhân đạo... với các nước có chế độ chính trị khác nhau.

2.3.3. Bộ máy nhà nước tư sản


Trong điều kiện đấu tranh gay gắt, sự thống trị về kinh tế sẽ không đứng vững nếu
không có sự thống trị về chính trị của giai cấp tư sản. Chính vì thế, bộ máy nhà nước với
lực lượng cưỡng chế khổng lồ ra đời, nhằm duy trì sự thống trị của giai cấp tư bản đối
với toàn xã hội, bảo vệ trật tự xã hội tư sản. Vì vậy, bộ máy nhà nước tư sản có những
đặc trưng sau:
 Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực
Nguyên tắc này căn cứ theo học thuyết của Locker và Montesquieu – những người
sáng lập ra thuyết phân quyền cho rằng cần hạn chế sự chuyên quyền, độc đoán bằng
việc phân chia quyền lực nhà nước cho những cơ quan khác nhau, chứ không tập
trung quá nhiều vào một cơ quan nhất định.
o Theo họ, quyền lực nhà nước cần được phân thành ba quyền theo chiều ngang:
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quyền lập pháp giao cho Nghị viện do nhân dân
bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Quyền hành pháp thuộc về Chính
phủ và quyền tư pháp giao cho Tòa án.
o Theo chiều dọc, quyền lực nhà nước được phân chia thành chính quyền trung
ương và chính quyền địa phương.

42 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

Nghiên cứu tình huống:


Sự áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước tư sản

Nhà nước tư sản là kiểu nhà nước bóc lột cuối cùng, hoàn thiện và phát triển nhất trong lịch sử
các kiểu nhà nước bóc lột. Bản chất nhà nước tư sản thể hiện rõ ở tính giai cấp và tính xã hội.
Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức trên cơ sở lý thuyết về “tam quyền phân lập” do các học
giả tư sản tự do ở châu Âu xây dựng vào thế kỷ XVIII, mà người tiêu biểu nhất là L.Montesquieu
(Pháp). Một trong những nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước tư
sản là nguyên tắc phân chia quyền lực. Các học giả tư sản coi nguyên tắc phân chia quyền lực
là hòn đá tảng của nền dân chủ tư sản và hết sức quán triệt nó trong tổ chức bộ máy nhà
nước. Nó được xây dựng trên cơ sở học thuyết phân chia quyền lực. Việc phân chia quyền lực
nhà nước ở các nước tư sản được phân chia theo chiều ngang và chiều dọc.
 Theo chiều ngang:
o Quyền lực nhà nước được phân chia làm ba nhánh độc lập nhau đó là: lập pháp do
nghị viện nắm quyền, hành pháp do chính phủ nắm quyền và tư pháp do toà án tối cao
nắm quyền.
o Hoạt động của các cơ quan quyền lực cũng có sự chuyên môn hóa, mỗi cơ quan chỉ hoạt
động nhằm thực hiện chức năng riêng của mình, không làm ảnh hưởng tới hoạt động của
các cơ quan khác.
o Bằng cách phân chia như vậy, quyền lực của các cơ quan đã tạo nên cơ chế đối trọng
nhau, kiềm chế nhau trong việc sử dụng quyền lực giữa ba cơ quan cấp cao của nhà
nước, làm cho không một cơ quan nào nắm hết mọi quyền lực và cơ quan nào cũng bị
kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực, nhờ đó hiến pháp và pháp luật mới được tôn
trọng triệt để và được thực hiện một cách đúng đắn, đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất.
o Ở nhiều nhà nước hiện nay, tư tưởng phân quyền ngang có một số thay đổi, mà chủ yếu
là số nhánh quyền lực được phân chia ra từ quyền lực nhà nước. Ở một số nước Nam Mỹ,
quyền lực nhà nước nhiều khi được chia thành 4, 5, 6,... bộ phận. Ví dụ Nicaragoa có
thêm quyền kiểm tra do Tổng thanh tra thực hiện; Argentina phân làm 6 quyền.
 Để hạn chế quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước không chỉ phân chia theo chiều
ngang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp mà còn phải tiếp tục phân chia ở
chiều dọc giữa trung ương và địa phương.
o Chính ở sự phân quyền này mà quyền lực nhà nước trung ương bị hạn chế. Đến lượt
mình, quyền lực của cơ quan địa phương – chính phủ địa phương lại bị phân chia thành
lập pháp địa phương và hành pháp địa phương. Chính việc phân quyền dọc đã làm tồn tại
hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước do dân bầu ở các cấp địa phương, song song
với bộ máy nhà nước trung ương;
o Có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm và quyền hạn cụ thể giữa chính quyền trung
ương và chính quyền địa phương trong những lĩnh vực cụ thể; mà chủ yếu là chính quyền
trung ương sẽ giải quyết các vấn đề công, vì lợi ích của cả cộng đồng xã hội, như vấn đề:
chủ quyền lãnh thổ, dịch vụ công, ...; còn chính quyền địa phương sẽ phụ trách các vấn
đề phát triển kinh tế – xã hội, giáo dục, văn hóa ở địa phương, ngoài ra còn có thể chủ
động tiến hành hợp tác, giao lưu với các địa phương khác hoặc các tổ chức quốc tế trong
quyền hạn của mình.
o Tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền trong nhiệm vụ và quyền hạn của mình là
tương đối độc lập với nhau. Chính quyền trung ương không có quyền điều hành, chỉ đạo
chính quyền địa phương, mà chỉ có thể xây dựng chủ trương chính sách, tạo dựng khuôn
khổ pháp lý, và kiểm tra, giám sát hoạt động của các chính quyền cấp dưới, mọi phạm vi

TGL101_Bai2_v1.0014103225 43
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

của chính quyền địa phương sẽ do Tòa án Hành chính xét xử độc lập. Phân chia dọc được
thực hiện theo 2 phương pháp:
 Phân chia theo lãnh thổ là cách phân quyền của chính quyền trung ương cho chính quyền
địa phương theo địa giới hành chính – lãnh thổ. Việc tổ chức quản lý những vùng lãnh thổ
này cần thiết phải tính đến nguyện vọng và ý chí của cộng đồng dân cư. Vì vậy, tham gia
vào cơ chế vận hành bộ máy chính quyền địa phương, ngoài các cơ quan quản lý còn có cả
các cơ quan do dân cư hợp thành trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Việc tổ chức cơ quan ở đây
mang nhiều tính chất tự quản. Các đơn vị hành chính không có quyền độc lập chính trị. Để
tổ chức thực hiện những vấn đề về phát triển địa phương, các đơn vị hành chính theo quy
định của pháp luật có quyền thành lập các hội đồng tự quản địa phương, chịu sự kiểm tra
của đại diện cơ quan quyền lực nhà nước cấp trên. Cơ cấu tự trị yêu cầu chính quyền địa
phương phải có một cơ quan ra nghị quyết và một cơ quan thi hành các nghị quyết đó,
giống như mô hình Nghị viện và Chính phủ.
 Phân chia theo chuyên môn là cách phân quyền giữa các bộ chuyên môn với chính quyền địa
phương.
Vậy việc phân chia quyền lực rõ ràng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp như trên
có dẫn tới hoạt động của các cơ quan này tách biệt và độc lập hay không?
Thực chất giữa các cơ quan này có mối liên hệ khăng khít với nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong
những hoạt động nhất định tạo nên sự thống nhất quyền lực nhà nước.Việc phân chia quyền
lực nhằm khắc phục tình trạng chuyên chế, quyền lực nhà nước tập trung trong tay một người
hoặc một cơ quan; phân định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các hệ thống cơ quan nhà
nước khác nhau, tránh được sự tranh giành quyền lực giữa các cơ quan khác nhau.
Nguồn: http://thuvientructuyen.vn/chi – tiet – tai – lieu/phan – tich – nguyen – tac – phan –
chia – quyen – luc – va – su – ap – dung – nguyen – tac – nay – trong – to – chuc – va – hoat
– dong – cua – bo – may – nha – nuoc – tu – san/34936.ebook
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_quy%E1%BB%81n_ph%C3%A2n_l%E1%BA%ADp

 Bộ máy nhà nước tư sản được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ, đa nguyên chính trị
và đa đảng
o Đây là một trong những nguyên tắc phổ biến của nền dân chủ tư sản.
o Nguyên tắc đa nguyên chính trị cho phép công dân có quyền tự do chính kiến,
công dân có quyền chỉ trích đường lối chính trị của chính phủ và công khai thể
hiện quan điểm chính trị của mình mà không bị coi là phạm pháp.
o Nguyên tắc đa nguyên chính trị còn cho phép sự tồn tại của nhiều đảng phái
chính trị. Các đảng phái chính trị tự do tranh cử trong các cuộc bầu cử nghị viện
và tổng thống.
o Như vậy, việc tồn tại chế độ đa nguyên chính trị và đa đảng mà các nước tư sản
thừa nhận có đảng cầm quyền và đảng đối lập.
Từ những đặc trưng trên có thể nhận thấy cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước tư sản gồm:
a. Nguyên thủ quốc gia
 Trong hệ thống cơ quan nhà nước tối cao của các nước tư bản, về mặt pháp lý,
nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước, chịu trách nhiệm lãnh đạo bộ máy nhà
nước. Tuy nhiên, việc trở thành và thôi chức nguyên thủ quốc gia ở các nước tư bản
là khác nhau.

44 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

 Đối với các nước có chính thể quân chủ như Anh, người đứng đầu là vua được thiết
lập trên cơ sở kế truyền.
 Còn trong các nước có chính thể cộng hòa, nguyên thủ quốc gia là tổng thống và
được thiết lập trên cơ sở bầu cử. Chức vụ này có thể được bầu lên do phổ thông đầu
phiếu trực tiếp (Pháp), có thể do đại cử tri (Mỹ), hoặc do Nghị viện bầu ra (Hy Lạp)
hay do Đại hội của Quốc hội với đại diện các tỉnh bầu ra (Ý, Đức).
 Nguyên thủ quốc gia có quyền hạn lớn nhất là ở trong chính thể cộng hòa tổng thống,
điển hình là Mỹ, nơi mà tổng thống vừa là người đứng đầu Nhà nước vừa là người
đứng đầu Chính phủ.
 Còn ở các nước quân chủ đại nghị, nguyên thủ quốc gia phần lớn mang tính chất đại
diện, hình thức (Anh, Nhật Bản). Nhiệm kỳ của nguyên thủ quốc gia ở các nước quy
định cũng không giống nhau, có thể là 4 năm, 5 năm hoặc 7 năm. Có nước Nguyên
thủ quốc gia không thể được bầu quá hai nhiệm kỳ (Mỹ, Phần Lan).
b. Nghị Viện
 Nghị viện có vị trí đặc biệt trong hệ thống cơ quan trung ương của nhà nước tư sản.
Như Yves Meny – học giả người Pháp đã viết: “nếu tồn tại một biểu tưởng của chế
độ đại diện thì đó chính là nghị viện”. Nghị viện tư sản phát triển qua các giai đoạn
tương ứng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.
 Giai đoạn đầu, nghị viện là cơ quan nhà nước có vai trò rất lớn. Nước Anh là quê
hương của nghị viện tư sản. Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh là thời hoàng
kim của nghị viện. Lúc bấy giờ, người Anh có câu ngạn ngữ “nghị viện có quyền
được làm tất cả, chỉ trừ việc biến đàn ông thành đàn bà”. Nghị viện có quyền hạn rất
lớn, gồm quyền lập pháp; quyền quyết định ngân sách và thuế; quyền giám sát hoạt
động của nội các, bầu hoặc bãi nhiệm các thành viên của nội các. Nhưng khi chủ
nghĩa đế quốc xuất hiện thì chế độ nghị viện bước vào giai đoạn khủng hoảng. Ngày
nay, quyền hạn của nghị viện bị giảm trong lĩnh vực làm luật, trong các quyết định
về ngân sách cũng như trong kiểm tra hoạt động của chính phủ.
 Về cách thức tổ chức, nghị viện được phân thành một viện hoặc hai viện. Một số
nước, nghị viện được tổ chức theo chế độ một viện là Đan Mạch, Thụy Sỹ, Bồ Đào
Nha, Phần Lan,… Đại đa số các nước tư bản phát triển đều tổ chức thành hai viện là
hạ nghị viện và Thượng nghị viện, đó là Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý,… Hạ nghị
viện đại diện cho tầng lớp dân cư trong xã hội và bầu theo tỷ lệ dân số. Thượng nghị
viện đại diện cho quyền lợi của các bang, các chủ thể liên bang (trong nhà nước liên
bang); đại diện cho các đơn vị hành chính lãnh thổ cao nhất hoặc đại diện cho tầng
lớp quý tộc (trong nhà nước đơn nhất).
c. Chính phủ
 Chính phủ ở các nước tư bản là cơ quan hành pháp cao nhất, chiếm vị trí trung tâm
trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở trung ương. Trên thực tế, quyền hạn của
chính phủ trong lĩnh vực hành pháp là rất rộng. Nó quyết định phần lớn các chính
sách đối nội, đối ngoại của nhà nước. Cách thức bổ nhiệm thủ tướng và các thành
viên của chính phủ ở các nước cũng có điểm khác nhau.

TGL101_Bai2_v1.0014103225 45
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

 Ở các nước theo chính thể quân chủ lập hiến, cộng hòa nghị viện và cộng hòa lưỡng
tính, đứng đầu chính phủ là thủ tướng. Cơ cấu của chính phủ gồm thủ tướng, phó thủ
tướng và các bộ trưởng. Việc thành lập ra chính phủ được tiến hành theo nguyên tắc
chung là đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện như Anh, Pháp, Đức. Như vậy, việc
thành lập chính phủ phụ thuộc vào kết quả bầu cử nghị viện. Thủ tướng và các thành
viên Chính phủ có thể do Tổng thống bổ nhiệm (Ý, Pháp), có thể do nghị viện bầu
(Nhật Bản), hoặc có thể có sự kết hợp giữa Nghị viện và Tổng thống (Đức).
 Ở các nước theo chính thể cộng hòa tổng thống, đứng đầu chính phủ là tổng thống.
Thành phần Chính phủ ở các nước tư bản này gồm tổng thống, phó tổng thống và các
bộ trưởng. Điển hình nhà nước tư bản theo chính thể cộng hòa tổng thống là Mỹ.
Tổng thống ở nước này vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu
chính phủ. Các thành viên của chính phủ do tổng thống bổ nhiệm với sự đồng thuận
của thượng nghị viện.
d. Tòa án
 Trong bộ máy nhà nước tư sản, về mặt hình thức, tòa án là cơ quan có vị trí độc lập
với các cơ quan nhà nước khác. Về loại hình, thông thường tòa án được xây dựng
thành ba hệ thống: tòa án truyền thống, tòa án hiến pháp và tòa án hành chính.
o Tòa án truyền thống (hay còn gọi là tòa án tư pháp) – nơi xử các công dân vi
phạm pháp luật hoặc giải quyết tranh chấp giữa các công dân với nhau, ở một số
nước tư bản còn lập ra tòa án hiến pháp (Pháp, Đức).
o Tòa án hiến pháp (hay còn gọi là tòa án bảo hiến) có chức năng kiểm tra tính hợp
hiến của các văn bản pháp luật, kiểm tra hoạt động của quốc hội, chính phủ.
o Tòa án hành chính là xét xử các quyết định hoặc hành vi hành chính của các công
chức nhà nước và các cơ quan nhà nước trên cơ sở các khiếu kiện của công dân.
 Hoạt động xét xử của tòa án thưởng được tổ chức theo hai cấp xét xử: Hệ thống tố
tụng tranh tụng và hệ thống tố tụng thẩm vấn
 Hệ thống tố tụng tranh tụng, vai trò của thẩm phán được đề cao. Thẩm phán trực tiếp
xét hỏi, thẩm vấn các vấn đề cần làm rõ trong vụ án. Trong hệ thống này, điều tra và
truy tố trước khi diễn ra phiên tòa được chú trọng.
 Trong hệ thống tố tụng thẩm vấn, vai trò của thẩm phán thì ngược lại. Ở đây, thẩm
phán chỉ có vai trò như một trọng tài, lắng nghe lập luận của các bên và tự mình phán
xét. Còn thẩm vấn tại phiên tòa nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án thuộc về luật sư
của các bên trong vụ án dân sự hoặc thuộc về ủy viên công tố và luật sư bào chữa
trong vụ án hình sự.
e. Hệ thống quân đội, cảnh sát
 Nhà nước tư sản đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng lực lượng này, đặc biệt trong
điều kiện khi mâu thuẫn xã hội gay gắt hoặc khi cuộc chiến tranh trở nên quyết liệt.
 Hệ thống quân đội và cảnh sát luôn được nhà nước tư sản chú trọng đầu tư, chi một
khoản không nhỏ trong ngân sách nhà nước nhằm tăng cường và hiện đại hóa quân
đội và cảnh sát; luôn được ưu tiên đầu tư những thiết khoa học kỹ thuật hiện đại nhất.

46 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

 Trong quan hệ đối ngoại, khi xảy ra xung đột hoặc tranh chấp, quân đội được nhà
nước tư sản dùng làm công cụ thực hiện chính sách răn đe.
 Còn trong quan hệ đối nội, cùng với quân đội, cảnh sát là lực lượng đàn áp các thế
lực đối lập, bảo vệ trật tự xã hội và trật tự công cộng trong xã hội tư sản.

2.3.4. Hình thức nhà nước tư sản


 Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nói
chung, chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hoà và hình thức quân chủ
lập hiến.
Hình thức cộng hoà lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như Cộng hoà
Đại nghị, Cộng hoà Tổng thống, Cộng hòa hỗn hợp (hay cộng hòa lưỡng tính) trong
đó hình thức cộng hoà Đại nghị là hình thức điển hình và phổ biến nhất. Trong thực
tế, nhằm thích ứng với điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, các hình thức cụ thể
của nhà nước tư sản hiện đại lại có sự khác nhau khá lớn, về chế độ bầu cử, chế độ tổ
chức một viện hay hai viện, về nhiệm kỳ tổng thống, về sự phân chia quyền lực giữa
tổng thống và nội các.
 Hình thức của nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng không làm thay đổi bản chất
của nó – đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị giai cấp vô sản và
quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp tư sản.
V.I.Lênin đã phát biểu rằng: “Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác
nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận
thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”.
a. Hình thức chính thể
 Chính thể quân chủ lập hiến
o Hình thức chính thể quân chủ lập hiến là hình thức quá độ khi giai cấp tư sản
chưa giành được thắng lợi hoàn toàn và đây chính là hình thức thỏa thuận giữa
giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc phong kiến.
o Đặc điểm cơ bản của chính thể quân chủ lập hiến là quyền lực nhà nước của
nguyên thủ (vua, quốc vương) được truyền lại cho người kế vị nhưng bị hạn chế.
Vua hoặc quốc vương là đại diện cho sự thống nhất ý chí và đoàn kết dân tộc.
Còn quyền lực chính trị thuộc về thủ tướng chính phủ của đảng chiếm ưu thế
trong nghị viện, là người quyết định đường lối chính trị của chính phủ.
o Ngày nay, hình thức chính thể quân chủ lập hiến vẫn tồn tại và trở thành một
trong những hình thức chính thể phổ biến. Điển hình là Anh, Nhật Bản, Hà Lan,
Tây Ban Nha,...
 Chính thể cộng hòa tổng thống
o Trong hình thức này, tổng thống là người nắm quyền lực chính trị. Tổng thống do
nhân dân trực tiếp bầu hoặc do đại hội cử tri bầu ra theo nhiệm kỳ. Khi thực hiện
quyền lực nhà nước, tổng thống độc lập với nghị viện và có quyền ngang bằng
với nghị viện.
o Tổng thống có quyền lựa chọn và chịu trách nhiệm trong việc lựa chọn các thành
viên của chính phủ và nghị viện không được quyền bác bỏ phiếu tín nhiệm đối
với chính phủ.

TGL101_Bai2_v1.0014103225 47
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

o Tổng thống cũng có quyền phủ quyết các dự án luật đã được nghị viện thông qua.
Nhưng tổng thống không được quyền giải tán nghị viện trước thời hạn, và nghị
viện cũng không được quyền giải tán chính phủ. Ở đây, sự phân định quyền lực
giữa tổng thống và nghị viện, chính phủ khá rõ ràng. Hình thức này hiện vẫn tồn
tại tại Hoa Kỳ.
 Chính thể cộng hòa đại nghị
o Chính thể cộng hòa đại nghị hay còn gọi là chính thể cộng hòa nghị viện. Đặc
điểm của mô hình này là thủ tướng là người nắm quyền lực chính trị và là người
quyết định và chịu trách nhiệm về đường lối chính trị của chính phủ. Thủ tướng
luôn là thủ lĩnh của đảng chiếm ưu thế trong nghị viện, vì vậy, quyền hạn của thủ
tướng là rất lớn.
o Đây là hình thức chính thể mà chính phủ được thành lập trên cơ sở đảng chiếm đa
số nghế trong nghị viện và chịu trách nhiệm trước nghị viện, nghị viện có quyền
kiểm tra và giám sát hoạt động của chính phủ.
o Tổng thống do nghị viện bầu ra. Tổng thống có quyền chọn thành viên chính phủ
nhưng phải là những đại biểu từ Đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện. Trong
hình thức chính thể cộng hòa đại nghị, vai trò của tổng thống tương đối mờ nhạt
trước thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Các văn bản do tổng thống ban
hành đều phải có chữ ký của thủ tướng hoặc bộ trưởng tương ứng – những người
chịu trách nhiệm về các văn bản đó.
o Hình thức này tồn tại ở Đức, Áo, Ý.
 Ngoài chính thể cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị, còn tồn tại hình thức
chỉnh thể cộng hòa hỗn hợp (hay cộng hòa lưỡng tính).
o Điển hình là Pháp, chế độ cộng hòa đại nghị vẫn được duy trì nhưng quyền lực
của tổng thống được tăng cường, tổng thống được bầu theo hình thức phổ thông
đầu phiếu. Tổng thống bổ nhiệm chính phủ, chỉ có quyền điều hành chính phủ
nhưng không được đứng đầu chính phủ. Trong trường hợp cần thiết, tổng thống
có quyền giải tán cả nghị viện.
o Điểm đặc trưng của chính thể cộng hòa hỗn hợp là xây dựng chính quyền hành
pháp mạnh nhưng có các cơ chế kiểm tra và giám sát thích hợp để hạn chế đến
mức tối đa sự lạm dụng quyền lực.
b. Hình thức cấu trúc
 Nhà nước đơn nhất
o Hình thức cấu trúc đơn nhất là hình thức phổ biến nhất của nhà nước tư sản.
Hình thức đơn nhất tồn tại ở Pháp, Thụy Điển, Nga, Đức, Đan Mạch, Nhật Bản,
Phần Lan,…
o Đặc điểm cơ bản của nhà nước đơn nhất là chỉ có một chính phủ, một hiến pháp,
một quốc tịch, một hệ thống pháp luật thống nhất, một hệ thống cơ quan nhà
nước ở trung ương thống nhất (gồm lập pháp, hành pháp, tư pháp), các cơ quan
chính quyền địa phương được tổ chức và hoạt động theo quy định chung của
chính quyền trung ương.

48 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

 Nhà nước liên bang


o Hình thức cấu trúc liên bang được áp dụng ở Hoa Kỳ, Canada, Úc, Thụy Sỹ,…
Trong các nhà nước liên bang có nhiều nước thành viên (bang). Ở mỗi bang có
hiến pháp và các đạo luật riêng của bang do cơ quan lập pháp của bang ban hành.
Trong cơ cấu tổ chức, các bang đều có các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
o Tuy nhiên, các bang không có chủ quyền riêng và không có quyền tách khỏi liên
bang. Nhà nước liên bang có hiến pháp và hệ thống pháp luật của mình. Hiến
pháp và các đạo luật của nhà nước liên bang có hiệu lực trên toàn lãnh thổ và có
hiệu lực cao nhất, là cơ sở của toàn bộ hệ thống pháp luật liên bang.
 Nhà nước liên minh
o Nhà nước liên minh là sự liên kết giữa các quốc gia độc lập vì những nhiệm vụ
chính trị, quân sự hoặc kinh tế bằng hiệp ước do các thành viên liên minh thỏa
thuận, như liên minh ở Mỹ từ 1776 – 1787, Đức 1876, Liên minh Thụy Sỹ 1848,
hiện nay có liên minh Châu Âu.
o Xét về góc độ pháp lý, chính quyền liên minh có cơ cấu tổ chức không chặt chẽ
và chỉ gây được ảnh hưởng mang tính quyền lực đối với các nước thành viên
trong một số lĩnh vực nhất định.
c. Chế độ chính trị
 Chế độ dân chủ tư sản. Trong các chế độ chính trị do nhà nước tư sản thực hiện, chế
độ dân chủ tư sản là cơ chế chính trị tốt nhất. Nó được biểu hiện bởi các dấu hiệu:
o Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
o Bộ máy nhà nước được thiết lập theo nguyên tắc phân chia quyền lực.
o Có sự thừa nhận sự bình đẳng của công dân trước pháp luật và người dân được sử
dụng rộng rãi các quyền tự do dân chủ như quyền sống, quyền tự do mưu cầu
hạnh phúc, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,….
o Có sự tồn tại công khai của đảng cầm quyền, các đảng phái độc lập và có tổ chức
xã hội tiến bộ
o Nguyên tắc pháp chế tư sản được thực hiện như có thiết chế giám sát hiến pháp
bằng hệ thống tòa án tư pháp
Nghiên cứu tình huống:
Sự thật về nền dân chủ ở các nước tư sản và các nước có chế độ đa đảng

Hiểu một cách chung nhất, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Nói cách khác, dân chủ là
hệ thống, cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước để trao quyền lực vào tay nhân dân. Như
vậy, một chế độ xã hội có dân chủ thực sự là trong chế độ đó, quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, người dân được làm chủ tương lai, vận mệnh của đất nước, dân tộc mình.Tuy
nhiên, các nước có chế độ đa đảng, những nước có nền dân chủ tư sản luôn tự cho mình là có
dân chủ, tuyên truyền về nền dân chủ của mình, đồng thời ra sức kêu gọi, gây sức ép buộc
các nước có chế độ một đảng, các nước thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ bỏ cơ chế
hoạt động của mình, chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Vậy, thực sự đằng sau những lời hô hào,
kêu gọi đó là gì, ở các nước có chế độ đa đảng, những nước theo dân chủ tư sản nền dân chủ
thực sự của họ như thế nào?
Có thể thấy, dưới chủ nghĩa tư bản, dân chủ nằm trong tay giai cấp tư sản, được tổ chức
thành nhà nước tư sản và nhà nước đó bảo đảm quyền dân chủ cho một số ít người là giai cấp
tư sản và đồng minh với họ nhằm chống lại đông đảo những người lao động khác. Bởi vậy, nói

TGL101_Bai2_v1.0014103225 49
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

đến dân chủ tư sản là nói đến nhà nước tư sản và thứ dân chủ dành cho một số ít người giữ
địa vị thống trị xã hội, tức là giai cấp tư sản.
Về quy mô, trong nền dân chủ tư sản quyền làm chủ xã hội thuộc về số ít và phục vụ cho số ít
người; về tính chất, quyền làm chủ của số ít để chống lại số đông, sự tự do chà đạp lên thân
phận người khác, nền độc lập, tự do của các quốc gia, dân tộc khác; về hình thái biểu hiện,
nhà nước của chỉ số ít người, tự cho mình cái quyền phán xét người khác, xâm lược nước
khác, vi phạm trắng trợn nền độc lập và chủ quyền của các quốc gia, dân tộc khác.
Có thể nói một cách khái quát, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, dân chủ chân chính là thứ bị giai
cấp tư sản lợi dụng, bị biến thành thứ khác với chính nó phục vụ giai cấp tư sản.
Tại Mĩ, trong suốt hơn 200 năm qua, kể từ khi nước Mĩ ra đời (1776) chỉ có hai đảng: Đảng
Dân chủ và đảng Cộng hòa, hai đảng lớn nhất của giai cấp tư sản thay nhau cầm quyền. Tuy
là hai đảng nhưng không ai có thể tìm thấy sự khác nhau về bản chất, về lập trường giai cấp
và hệ tư tưởng giữa chúng và nếu có khác chăng thì chỉ ở tên gọi và hình thức mà thôi. Trong
lúc đó, Đảng Cộng sản Mĩ, với lịch sử hơn một trăm năm, người đại diện và đấu tranh không
mệt mỏi vì quyền lợi của hàng triệu công nhân Mĩ và những lý tưởng cao đẹp, thì có những
thời kỳ bị loại ra ngoài vòng pháp luật, các đảng viên của Đảng luôn bị đe dọa, bị ám sát và bị
khủng bố. Cho đến hiện nay, Đảng Cộng sản Mĩ cũng vẫn đang loay hoay tìm cho mình một
chỗ đứng trong nền đa đảng mà người Mĩ vẫn cho là dân chủ đó.
Các nước tư sản luôn cho rằng, phổ thông đầu phiếu là một trong những biểu hiện cao nhất
của nền dân chủ, nhưng hãy nhìn xem ở các nước tư sản việc xác lập tư cách cử tri cũng là
một quá trình vật lộn, đấu tranh không ngừng nghỉ để dành những quyền cơ bản nhất của con
người. Ở Mĩ năm 1920, Anh năm 1928, Pháp năm 1944, Tây Ban Nha năm 1970, Thụy Sĩ năm
1971 người phụ nữ mới có quyền đi bầu cử. Thử hỏi xem ở các nước như Anh, Pháp, Mĩ hiện
nay người da đen đã được đối xử công bằng trong xã hội chưa, hay họ phải chấp nhận những
dị nghị, nạn phân biệt chủng tộc từ người da trắng. Nước Mĩ, sau hơn 200 năm tồn tại mới
giám xóa bỏ đi định kiến, mặc cảm để chấp nhận một người da màu làm Ông chủ của Nhà
Trắng. Như vậy, nếu nói là dân chủ, nếu nói là quyền lực thuộc về nhân dân, thì trong trường
hợp này dân chủ nằm ở chỗ nào? Phải chăng như thế là dân chủ đích thực?
Mặt khác, với không ít nước tư bản, họ luôn cho rằng phải thực hiện tam quyền phân lập
nhưng thử hỏi xem họ đã tam quyền phân lập hoàn toàn chưa? Với những nước này, Tổng
thống sẵng sàng phủ quyết các dự luật của Quốc hội, thậm chí ở nhiều nước Tổng thống, Thủ
tướng còn có quyền tuyên bố giải tán Quốc hội, khi thấy nó trái với mình. Thử hỏi trong một
xã hội, khi Quốc hội, một cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước có thể sẵn sàng bị giải tán
khi không phù hợp với người đứng đầu, giai cấp thống trị thì người dân nói chung và công
nhân nói riêng sẽ như thế nào trong xã hội, hay họ sẽ bị “bỏ qua” bất kỳ lúc nào?
Như vậy, thử hỏi dân chủ thực sự đối với người dân dưới thể chế này đang ở đâu, hay đây chỉ
là một nền dân chủ giả hiệu, hình thức, đánh lừa mọi người, một nền dân chủ không thực tế.
Nguồn: http://vitoquocvietnam.wordpress.com/2013/04/23/su – that – ve – nen – dan – chu – o – cac –
nuoc – tu – san – va – cac – nuoc – co – che – do – da – dang/

 Chế độ quân phiệt


o Là cơ chế sử dụng bạo lực của các nhóm tư sản phản động lũng đoạn. Đặc trưng
của chế độ này là mọi quyền tự do, dân chủ bị hạn chế tới mức tối đa; các đảng
phái chính trị và các tổ chức xã hội độc lập bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị
đàn áp dã man, các thể chế dân chủ bị vô hiệu.
o Biến dạng của chủ nghĩa quân phiệt là chế độ phát xít. Chế độ phát xít xóa bỏ
hoàn toàn các thể chế dân chủ tư sản, cấm mọi tổ chức, đảng phái đối lập hoạt
động, thực hiện đàn áp dã man, khốc liệt đối với những người tiến bộ trong nước
và thực hiện khủng bố tàn bạo với các dân tộc bị chúng xâm chiếm. Ví dụ như
chế độ phát xít ở Ý năm 1922, phát xít Đức năm 1933,…
50 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

TÓM LƯỢC CUỐI BÀI

 Qua bài này, chúng ta đã biết ba kiểu nhà nước đặc trưng của chế độ bóc lột, đó là nhà nước
chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản.
 Nhà nước chủ nô là nhà nước đầu tiên kể từ khi xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã. Giai cấp
chủ nô và nô lệ là hai giai cấp cơ bản và luôn đối kháng nhau trong lòng nhà nước chủ nô.
Với các phân tích liên quan tới chức năng, bộ máy và hình thức mà chúng ta có cách nhìn
khái quát về nhà nước đầu tiên trong lịch sử.
 Tiếp đến là nhà nước phong kiến tiến bộ hơn nhà nước chủ nô. Địa chủ phong kiến và giai
cấp nông dân là hai giai cấp cơ bản trong xã hội phong kiến. Thông qua các phân tích trong
bài, ta đã khái quát được các nét khác biệt về bản chất, bộ máy, chức năng và hình thức của
nhà nước phong kiến so với nhà nước chủ nô.
 Cuối cùng của nhà nước bóc lột là nhà nước tư sản với hai giai cấp cơ bản là tư sản và vô sản.
Đây là kiểu nhà nước vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay với nhiều sự thay đổi. Nhưng bản chất
của nhà nước tư sản này vẫn là kiểu nhà nước bóc lột. Qua bài học này, ta có thể đưa ra điểm
tiến bộ của nhà nước tư sản so với nhà nước chủ nô và phong kiến.

TGL101_Bai2_v1.0014103225 51
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Trình bày những vấn đề cơ bản về nhà nước chủ nô?


2. Trình bày những vấn đề cơ bản về nhà nước phong kiến?
3. Trình bày những vấn đề cơ bản về nhà nước tư sản?
4. Trình bày nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản?
5. Trình bày đặc trưng của chính thể quân chủ đại nghị trong nhà nước tư sản? Cho ví dụ?
6. Trình bày đặc trưng của chính thể cộng hoà tổng thống trong nhà nước tư sản? Cho ví dụ?

BÀI TẬP
1. Đưa ra những nhận định và yêu cầu xác định: Nhà nước phong kiến là nhà nước có tính giai
cấp mà không có tính nhân văn?
2. Phân tích những điểm tiến bộ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản so với
bộ máy nhà nước phong kiến?
3. Phân tích các điểm khác biệt cơ bản giữa ba kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản?
4. Hãy phân biệt giữa hình thức chính thể cộng hòa tổng thống với hình thức chính thể cộng hòa
đại nghị?
5. Hãy phân biệt giữa hình thức chính thể quân chủ nhị nguyên và hình thức chính thể quân chủ
đại nghị?

52 TGL101_Bai2_v1.0014103225
Bài 2: Nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản

THUẬT NGỮ

C H
Chính thể quân chủ lập hiến Hình thức nhà nước quân chủ phân
Là quyền lực nhà nước của nguyên thủ (vua, quyền cát cứ
quốc vương) được truyền lại cho người kế vị Là quyền lực nhà nước bị phân tán, vua
nhưng bị hạn chế. hoặc quốc vương không có toàn quyền,
quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh
Chính thể cộng hòa tổng thống
chúa phong kiến.
Trong hình thức này, tổng thống là người
nắm quyền lực chính trị.
N
Chính thể cộng hòa đại nghị
Nhà nước liên minh
Hay còn gọi là chính thể cộng hòa nghị viện,
Là sự liên kết giữa các quốc gia độc lập vì
trong mô hình này, thủ tướng là người nắm
những nhiệm vụ chính trị, quân sự hoặc kinh
quyền lực chính trị và là người quyết định
tế bằng hiệp ước do các thành viên liên minh
và chịu trách nhiệm về đường lối chính trị
thỏa thuận.
của chính phủ.
Nguyên thủ quốc gia
Chính phủ
Là người đứng đầu nhà nước, chịu trách
Là cơ quan hành pháp cao nhất, chiếm vị trí
nhiệm lãnh đạo bộ máy nhà nước.
trung tâm trong hệ thống các cơ quan nhà
nước ở trung ương. Nghị viện
Là cơ quan lập pháp, đặc biệt tại các quốc
gia có hệ thống chính quyền dựa trên kiểu hệ
thống Westminster như Vương quốc Anh.

TGL101_Bai2_v1.0014103225 53

You might also like