Professional Documents
Culture Documents
ỨNG DỤNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TÀI CHÍNH HÀNH VI VỚI NHÀ ĐẦU TƯ
TRONG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ TRONG QUẢN TRỊ DOANH
NGHIỆP
4.1. Trong Thị Trường Chứng Khoán
4.1.1. Ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi
Một khi trong thị trường hội đủ 3 yếu tố: hành vi bất hợp lý của nhà đầu tư, hiệu ứng
bất hợp lý mang tính hệ thống, và giới hạn kinh doanh chênh lệch giá, thì đó là lúc mà hiện
tượng giá cổ phiếu (hay rộng ra là tài sản tài chính) bị định giá sai sẽ đáng kể và kéo dài.
Khi đó các lý thuyết tài chính truyền thống bị giảm hiệu quả, và lý thuyết tài chính hành vi
là một bổ sung giá trị. Lý thuyết này còn ở dạng sơ khai, còn tồn tại nhiều vấn đề gây tranh
cãi chưa có những cơ sở và nguyên lý vững chắc như lý thuyết chính thống hiện đại như rủi
ro - tỷ suất sinh lợi, thị trường hiệu quả, kinh doanh chệnh lệch giá), và là một sự bổ sung
hơn là tách biệt khỏi lý thuyết tài chính chính thống.
4.1.2. Ảnh hưởng của tài chính hành vi trong thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã diễn biến theo cái cách mà không ai ngờ tới.
Vậy đâu là nguyên nhân của sự tăng đến đỉnh điểm rồi lại tụt dốc không phanh, dẫn đến sự
giảm điểm trong một thời gian dài? Những lí thuyết về tài chính hành vi có thể giải thích
một phần những hiện tượng kể trên:
Tâm lý bầy đàn
Vào thời điểm năm 2007, khi chứng kiến sự tăng điểm liên tục, và đỉnh điểm là phiên
tăng điểm kỉ lục (cho đến thời điểm này), chứng khoán đã trở thành một từ khóa rất hot.
Mọi người đổ xô đi đầu tư chứng khoán, từ những nhà kinh doanh nửa thời, các bà
nội trợ, các bác xích lô, xe ôm,... mọi người đều gom góp tiền để đầu tư vào thị trường
chứng khoán mặc dù đã được tiên báo chứng khoán đã vượt quá 30% gía trị thực của mình.
Từ đó, phần đông các nhà đầu tư là các nhà đầu tư nửa vời hoặc hoàn toàn không có
một chút kiến thức gì về chứng khoán. Họ biết phân tích cổ phiếu, biết dự đoán khả năng
hoạt động sinh lời của công ty? Không hề! Họ chơi theo tâm lý bầy đàn. Khi một cổ phiếu
bất ngờ được nhiều người mua vào, chắc chắn họ sẽ cố để giành dựt cổ phiếu đó và ngược
lại, một cổ phiếu bị bán ra ào ạt trên thị trường thì họ cũng sẽ tìm cách để bán đi cổ phiếu
đó.Thậm chí có nhiều người còn mua bán theo cách hoàn toàn bắt chước các nhà đầu tư
nước ngoài với suy nghĩ nhà đầu tư nước ngoài là những nhà đầu tư khôn ngoan nên những
quyết định của họ đều là những quyết định sáng suốt?
=> Từ đó ta thấy được tâm lý bày đàn là một cái gì đó rất không tốt và cần phải được
bài trừ ngay. Nhưng, loại bỏ bằng cách nào? Câu trả lời là không thể, chừng nào lòng tham,
sự đố kỵ và sự sợ hãi còn ngự trị trong tâm trí còn người thì tâm lý bầy đàn sẽ còn mãi tồn
tại. Sau nhiều bài học kinh nghiệm thì ngày nay, tâm lý bầy đàn đã có sự suy giảm đáng kể,
song vẫn tồn tại trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và thị trường chứng khoán
thế giới nói chung.
Kỳ vọng của nhà đầu tư
Mọi nhà đầu tư (chuyên hay không chuyên) một khi đã tham gia thị trường đều mong
muốn khoản tiên mình đầu tư sẽ sinh được khoản lời lớn nhất hoặc chí ít là khoản tiên đầu
tư không bị xứt mẻ.
Với suy nghĩ đó, các nhà đầu tư luôn có một tâm lý chung khá phổ biến đó là luôn kỳ
vọng vào sự khởi sắc của thị trường. Cụ thể như sau:
+ Khi thị trường tăng điểm liên tục, nhà đầu tư vẫn sẽ tiếp tục đầu tư vào mã cố phiếu
đó hoặc đổ thêm tiền đầu tư thêm vào thị trường với kỳ vọng thị trường sẽ tiếp tục tăng
điểm như những phiên trước.
+ Khi thị trường giảm điểm, có 2 khả năng có thể xảy ra: các nhà đầu tư không
chuyên, với tâm lý lo sợ, họ sẽ nhảy ra khỏi thị trường lập tức. Ngược lại, các nhà đầu tư
khôn ngoan có tính toán sẽ tiếp tục ở lại và chờ đợi thời cơ đúng đắn để nhảy ra. Tuy nhiên,
không phải tất cả họ là hoàn toàn khôn ngoan, một lượng lớn các nhà đầu tư không có sự
suy luận hợp lí, họ vẫn tiếp tục bám trụ vào mã cổ phiếu đó với hai lí do: thứ nhất họ cảm
thấy tiếc và khoản tiền đã mất và mong muốn sẽ gỡ lại được, thứ 2 họ vẫn đang kỳ vọng vào
sự khởi sắc vào những ngày tiếp theo của thị trường.
Nghe theo lời khuyên của các chuyên gia phân tích chứng khoán
Như đã đề cập bên trên, số lượng các nhà đầu tư “nửa vời” chiếm tỉ trọng khá cao
trên thị trường. Do đó, họ thường đầu tư theo tâm lý bầy đàn, đầu tư theo số đông. Ngoài ra,
họ thường rất tin tưởng vào ý kiến của các chuyên gia phân tích.
Với suy nghĩ, các chuyên gia tâm lý là những người học cao, có kiến thức chuyên sâu
về lĩnh vực chứng khoán nên những lời họ nói đều có độ chính xác cao. Tuy nhiên không
phải lúc nào các chuyên gia cũng chính xác. Dẫu biết vậy nhưng họ vẫn nghe theo vì bản
chất họ không có nhiều kiến thức cũng như không có khả năng phân tích chuyên sâu.
Biết được hành vi đó của đại đa số nhà đầu tư, một vài “chuyên gia” đã lợi dung kẽ
hở này để trục lợi từ nhà đầu tư. Họ cung cấp các thông tin có lợi cho nhà đầu tư nhưng độ
xác thực là rất hoài nghi. Chẳng hạn, họ nói rằng cổ phiếu ABX sẽ tăng giá trong các phiên
tiếp theo, điều đó làm các nhà đầu tư không chuyên ồ ạt mua vào cổ phiếu đó, và đặt trường
hợp nếu cổ phiếu đó không lên giá mà giảm giá một cách có hệ thống!
4.2.2 Ảnh hưởng của tài chính hành vi trong quản lý doanh nghiệp
Không chỉ những nhà đầu tư thiếu lý trí, hành động bất hợp lý mà ngay cả những nhà
quản lý cũng có những hàng động lệch lạc và dẫn đến những quyết định dưới mức tối ưu.
Trọng tâm là tác động tâm lý quá tự tin, e ngại thất bại dẫn đến các quyết định này.
4.2.2.1. Không từ bỏ dự án kém hiệu quả
Do sự e ngại thua lỗ, con người sẽ thực hiện các bước để né tránh việc “ghi nhận”
một sự thua lỗ. Các nhà quản lý cũng không ngoại lệ, có những bằng chứng cho thấy các
công bố thu nhập âm thấp là rất ít. Điều này xảy ra có thể do việc quản lý né tránh.
Một doanh nghiệp có một dự án đầu tư đang được thực hiện. Tuy nhiên, hoạt động
đầu tư không diễn ra như dự tính, vốn đầu tư cho dự án liên tục bị đẩy lên cao hơn dự kiến
ban đầu do đó nguy cơ dự án không hiệu quả là rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề đối với việc từ bỏ
khiến nhà quản lý phải có sự nhận thức về một sai lầm. Đặc biệt, trách nhiệm cá nhân cao
trong quyết định đầu tư ban đầu làm gia tăng sự chống lại việc từ bỏ dự án. Do đó, nhà quản
lý đã không dám thực hiện “cắt lỗ” họ cố riết bám lấy dự án một cách điên rồ và làm lãng
phí nhiều tiền hơn.
Trong trường hợp này nếu có một nhà quản lý mới thay thế, họ có thể sẵn sàng từ bỏ
do không có sự gắn kết về cảm xúc đối với dự án.
Ví dụ: công ty LOCKHEED và dự án máy bay L-1001 (cuối cùng chính phủ phải
mua lại) và dự án máy bay L-1001 của nó. Đến khi công ty công bố hủy bỏ dự án, thị trường
đã đẩy giá cổ phiếu của nó lên 18%.
4.2.2.2. Tâm lý quá tự tin
Ảnh hưởng tích cực: Một tâm lí quá tự tin ở mức trung bình có thể có một tác dụng
tốt, nếu nó dẫn đến sự phấn chấn và nỗ lực tập trung. Trong phạm vi lí thuyết người chủ -
người đại diện, điều này có thể làm giảm bớt vấn đề rủi ro đạo đức do không thể quan sát nỗ
lực của người đại diện.
Ngoài ra, bởi vì các nhà quản lí có thể e ngại rủi ro nhiều hơn so với cổ đông, tâm lí
quá tự tin có thể trung hòa xu hướng này, dịch chuyển công ty về phía mong muốn hơn.
Ngoài những tác động rõ ràng lên việc đầu tư, cấu trúc vốn cũng có thể bị ảnh hưởng.
Vì vậy tâm lý quá tự tin có thể có mặt tích cực vì nó “sửa sai” cho sự e ngại rủi ro
quá mức trong quản trị.
4.2.2.3. Hoạt động đầu tư
Trong điều kiện thị trường hoàn hảo và hiệu quả hoạt động đầu tư sẽ được tiến hành
mà không liên quan đến việc nguồn vốn nội bộ có sẵn có hay không và ngược lại doanh
nghiệp sẵn sàng từ chối dự án kém hiệu quả cho dù nguồn vốn dư thừa.
Tuy nhiên, trong thực tế có thể xảy ra sự khác biệt tiềm ẩn giữa lợi ích của ban quản
lý và của cổ đông dẫn đến việc đầu tư quá mức khi tiền mặt tự do sẵn có. Bởi vì các nhà
quản lý ưa thích việc xây dựng đế chế và cung cấp cho họ những đặc quyền. Sự tự tin quá
mức và ảnh hưởng của thừa thãi tài chính có thể làm nhà quản lý lạc quan về dự án không
hiệu quả. Do đó, nếu có nguồn vốn dư thừa, họ sẽ có xu hướng đầu tư quá mức. Tuy nhiên,
nếu họ nhận thấy rằng thị trường đang đánh giá thấp cổ phiếu của công ty họ sẽ từ chối việc
phát hành cổ phần mới để thực hiện các dự án đầu tư đầy triển vọng.
Đầu tư quá mức
Các nhà quản lí quá tự tin có tâm lí sẽ đầu tư nhiều hơn. Hầu hết mọi người đều quá
tự tin. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người thường đánh giá quá cao những khả năng
của bản thân mình. Thậm chí, nhiều người còn cho rằng mình luôn cao hơn người khác một
cái đầu.
Độ nhạy cảm đầu tư đối với dòng tiền
Về mặt thực nghiệm cho thấy rằng có một mối tương quan dương giữa việc đầu tư và
dòng tiền của công ty. Trong điều kiện thị trường hoàn hảo và hiệu quả điều này sẽ không
được quan sát thấy. Nếu một dự án có hiện giá thuần NPV > 0 được xác định hoạt động đầu
tư sẽ tiến hành cho dù nguồn vốn nội bộ sẵn có hay không.
Có 2 cách giải thích cho việc bóp méo đầu tư như trên:
+ Thứ nhất: có sự xung đột tiềm ẩn giữa lợi ích của ban quản lí ( muốn xây dựng đế
chế và hưởng đặc quyền) và của cổ đông dẫn đến việc đầu tư quá mức khi tiền mặt tự do sẵn
có. Bởi vì các nhà quản lí ưa thích việc xây dựng đế chế và cung cấp cho họ những đặc
quyền.
+ Thứ hai, các nhà quản lí của công ty hành động vì lợi ích tốt nhất của các cổ đông
và chú ý thấy rằng cổ phiếu công ty đang bị đánh giá thấp, sẽ không phát hành cổ phần mới
để thực hiện các dự án đầu tư.
Thâu tóm và sáp nhập :
Bằng chứng khảo sát cho thấy rằng các nhà quản lí quá tự tin dường như năng động
hơn đối với M&A (Mergers & Acquisitions).
Mục đích của M&A là tạo ra một doanh nghiệp có nhiều tiềm lực mạnh hơn về vốn,
tài chính do có thể tiết kiệm chi phí, nhân lực, thị trường, kênh phân phối… nhằm có thể
phát triển để trở thành doanh nghiệp dẫn đầu trong một thị trường đang phát triển nhanh.
Tuy nhiên, đôi khi mục đích của việc mua lại đơn giản chỉ là nhằm loại đối thủ cạnh tranh ra
khỏi cuộc chơi.
Lưu ý rằng do tâm lí quá lạc quan dẫn đến nhiều vụ sáp nhập hơn là không rõ ràng.
Nguyên nhân là có hai động lực xung đột. Đầu tiên, rõ ràng nhất các nhà quản lí tiêu biểu
cho xu hướng này đánh giá cao quá mức sự hiệp lực và khả năng giải quyết vấn đề của họ.
Động lực thứ hai hạn chế các vụ sáp nhập vì các nhà quản lí quá lạc quan nhìn nhận công ty
của họ đang bị định dưới giá, họ ít có khả năng tham gia vào các hoạt động như vậy nếu các
giao dịch phải được tài trợ từ bên ngoài.
Khởi nghiệp
Chúng ta biết rằng các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ thất bại với tỉ
lệ cao đáng lo ngại. Một nghiên cứu chỉ ra rằng 81% tin rằng cơ hội thành công của họ là
70% hoặc cao hơn, trong khi 33% là chắc chắn (một cách lạ thường) rằng họ sẽ thành
công. Mặc dù vậy có tới 75% các doanh nghiệp mới thất bại trong vòng 5 năm. Một lí do có
thể dẫn tới những kì vọng sai lầm này là do tâm lí quá tự tin. Lạc quan quá mức có thể
khiến con người lầm lẫn khi nghĩ rằng thị trường đang rất muốn hàng hóa và dịch vụ của họ,
và hiệu ứng tốt hơn mức trung bình có thể khiến các doanh nghiệp nghĩ rằng, thậm chí nếu
cơ hội ngành bị giới hạn, họ vẫn có thể đánh bại đối thủ. Những nhà cung cấp vốn mạo
hiểm với sự thành thạo của họ trong lĩnh vực nhận dạng các cơ hội sinh lợi, cũng bị phụ
thuộc vào tâm lý quá tự tin. Sự tự tin quá mức này có thể dẫn tới những thất bại trước mắt
của các doanh nghiệp.