You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


********

BÀI TIỂU LUẬN


ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
Môn học:
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nội dung: Chủ trương xây dựng và bảo chính quyền
non trẻ 1945–1946: Bối cảnh, chủ trương, kết quả.

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Mậu Minh


Lớp : HIS 361 F
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Đặng Phương Nam :1125
2. Nguyễn Thị Thu Pháp :24205212294
3. Lê Văn Tiển :24214306305
4. Phan Thị Phượng :24205212441
5. Cao Quang Uy Vũ :23211210602
6.Trần Minh Thành :24212802010
7. Nguyễn Thị Tường Vi :24207107090

ĐÀ NẴNG, THÁNG 6 NĂM 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939-1945.........................................3
I. Hoàn cảnh nước ta sau cách mạng Tháng Tám 1945......................................3
1. Thuận lợi.............................................................................................................3
2. Khó khăn.............................................................................................................3
3. Yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam............................................6
II. Chủ trương kháng chiến, kiến quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam.............7
III. Kết quả, ý nghĩa............................................................................................11
TỪ BÀI HỌC TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN NON TRẺ
1945 – 1946 VẬN DỤNG VÀO NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC HIỆN NAY...............................................................................................12
I. Bài học kinh nghiệm........................................................................................12
II. Vận dụng vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay..................12
1. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.............................................................12
2. Trách nhiệm sinh viên vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay...........16
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo
MỞ ĐẦU
Mặc dù ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền
đã về tay nhân dân lao động, nhưng bên trong các thế lực phản động vẫn còn đang
cấu kết với nhau chống lại chính quyển cách mạng. Bên ngoài, các thế lực đế quốc
(Anh, Mỹ, Pháp...) vẫn chưa từ bỏ âm mưu can thiệp và xâm lược đất nước ta. Nếu
không chăm lo xây dựng chính quyền gắn với bảo vệ chính quyền thì khó giữ được
thành quả cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dù nhân dân ta đã nắm chính
quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn”.
Do đó, xây dựng chính quyền phải đi đôi với bảo vệ chính quyền, hai nhiệm vụ
quan trọng này không được tách rời nhau. Đồng thời, phải luôn gắn nhiệm vụ bảo
vệ chính quyền non trẻ với nhiệm vụ xây dựng chế độ xã hội mới. Muốn bảo vệ
được chính quyền cách mạng, thì phải xây dựng chính quyền dân chủ, thực sự vững
mạnh về mọi mặt, đủ sức tự bảo vệ; lấy xây để chống, lấy xây dựng để tự bảo vệ
chính quyền cách mạng non trẻ.
Xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền là một trong những tư
tưởng quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quy luật dựng nước đi đôi với giữ
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện cách mạng Việt Nam đã giành được chính quyền. Người khẳng định:
“Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng
bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền”.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, chính quyền nhân dân non trẻ đã cùng
một lúc phải đương đầu với rất nhiều khó khăn. Tình thế cách mạng lúc này như
“ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền dân chủ nhân dân - thành quả của cuộc đấu
tranh đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh đang đứng trước nhiều thử thách, có nguy cơ
bị lật đổ, nền độc lập dân tộc vừa mới giành được có nguy cơ bị mất. Thấm nhuần
tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lênin, nhận thức sâu sắc rằng giành được chính quyền
dã khó, nhưng bảo vệ chính quyền còn khó hơn, Đảng ta đã nêu lên tư tưởng quan
trọng về xây dựng chính quyền phải đi đôi với bảo vệ chính quyền để lãnh đạo cách
mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách; giữ vững thành quả cách
mạng, xây dựng và bảo vệ thành công chế độ xã hội mới. Theo quan điểm của
Đảng, xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền là vấn đề có tính quy
luật của cách mạng vô sản nói chung, của cách mạng Việt Nam nói riêng. Bởi vì,
mặc dù cách mạng dã thành công, chính quyền đã về tay nhân dân, nhưng nếu
không chăm lo xây dựng chính quyền vững mạnh thì không thể quản lý, điều hành
được đất nước. Điều đó càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh các thế lực thù địch,

1
phản động cả bên trong và bên ngoài vẫn còn cấu kết với nhau để chống phá cách
mạng.
Quan điểm xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền được thể hiện ở tư
tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thực
sự vững mạnh để không chỉ điều hành, quản lý, xây dựng đất nước mà còn đủ sức
để lãnh đạo nhân dân bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng
còn non trẻ. Đảng ta chỉ rõ, sau khi giành được chính quyền thì cách mạng phải biết
tự bảo vệ trước những đòn tấn công, phản kích của kẻ thù. Tuy nhiên, trong điều
kiện chính quyền vừa mới xây dựng, còn non trẻ, muốn bảo vệ được chính quyền
thì trước hết phải chăm lo xây dựng chính quyền vững mạnh về mọi mặt để đủ sức
tự bảo vệ.

2
Phần thứ nhất
CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939-1945

I. Hoàn cảnh nước ta sau cách mạng Tháng Tám 1945

1. Thuận lợi
a. Trong nước
- Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên đất nước được độc lập, tự do, nhân dân lao động
được giải phóng khỏi cuộc đời nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.
- Hệ thống chính quyền cách mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở
trên cả nước. Từ họat động bí mật, Đảng ta trở thành Đảng lãnh đạo. Mặt trận Việt
Minh và chủ tịch Hồ Chí Minh có uy tín lớn trong dân tộc, chính quyền cách mạng
được toàn dân ủng hộ.
- Phong trào cách mạng, tinh thần yêu nước của nhân dân dấy lên từ cao trào
giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tiếp tục phát triển với những hình thức và nội
dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ, giữ vững thành quả cách mạng.
b. Thế Giới
- Các nước tư bản suy yếu. Phong trào giải phóng dân tộc vì hòa bình, dân chủ
phát triển mạnh, hệ thống các nước XHCN được hình thành và nhân rộng. Đây là
những nhân tố quan trọng có tác dụng cổ vũ, động viên nhân dân ta trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng.
2. Khó khăn
a. Quốc phòng - An ninh
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, các thế lực đế quốc,
phản động quốc tế đã cấu kết, bao vây, chống phá hòng thủ tiêu mọi thành quả cách
mạng của nhân dân ta, đặt lại ách thống trị của chúng, xoá bỏ nền độc lập mà dân
tộc ta vừa giành được. Tình hình cụ thể [4]:
Ở phía Bắc:
- Gần 20 vạn quân của chính quyền Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc) - đồng
minh của đế quốc Mỹ, kéo vào miền Bắc. Dưới danh nghĩa quân đội Đồng minh
vào tước vũ khí quân Nhật, nhưng âm mưu của Quốc dân đảng Trung Hoa là: "Tiêu
diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính
quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng".
- Cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1945, quân đội Tưởng do tướng Lư Hán làm
tổng chỉ huy đã đóng quân tại Hà Nội và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới
Việt -Trung đến vĩ tuyến 16. Ngày 11-9-1945, tướng Lư Hán tuyên bố thời gian
quân Tưởng ở Việt Nam là không hạn định, tự cho mình quyền kiểm soát trật tự, an

3
ninh trong thành phố. Tiêu Văn, nhân vật được chính quyền Tưởng giao trách
nhiệm xếp đặt chế độ chính trị ở Việt Nam, mà thực chất là thực hiện âm mưu lật đổ
đã sớm có mặt ở Hà Nội.
Ở phía Nam :
- Từ vĩ tuyến 16 (từ Đà Nẵng trở vào), cũng với danh nghĩa lực lượng Đồng
minh, quân đội Anh vào tước vũ khí quân Nhật. Nhưng trên thực tế, đế quốc Anh đã
giúp cho thực dân Pháp trở lại chiếm Việt Nam và cả Đông Dương. Anh và Pháp
cấu kết đàn áp cách mạng Đông Dương vì "sợ rằng phong trào ấy "làm gương" cho
các thuộc địa của Anh". Mặt khác, cũng để ngăn chặn âm mưu của Mỹ muốn tranh
giành quyền lợi với Anh, Pháp ở Đông Dương và Đông - Nam Á.
- Ngày 6-9-1945, quân đội Anh vào Sài Gòn, Gờ-ra-xây - tổng chỉ huy quân
đội Anh ở Nam Đông Dương đòi giải giáp quân đội Việt Nam. Ngày 12-9-1945,
quân Anh chiếm trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ, che chở cho lực lượng của Pháp
biểu tình khiêu khích ở Sài Gòn. Chúng tự ý duy trì trật tự trong thành phố, giao cho
quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát, thả 1500 lính Pháp bị Nhật giam giữ trước đây và
trang bị cho lực lượng này, đồng thời trắng trợn đòi lực lượng vũ trang Việt Nam
nộp vũ khí. Ngày 23-9-1945, được quân Anh và quân Nhật giúp sức, quân Pháp nổ
súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đâu cuộc xâm lược tân thứ hai của thực dân Pháp
hòng đặt lại ách thống trị ở Việt Nam và Đông Dương.

Hình 1.1. Quân Anh đến Sài Gòn, tháng 9 năm 1945
Chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều kẻ thù xâm lược hung bạo và xảo
quyệt như vậy. Các thế lực xâm lược tuy có những ý đồ riêng và hành động cụ thể
khác nhau. Song, mục tiêu chung của chúng là tiêu diệt chính quyền nhà nước Việt
Nam non trẻ. Gần 30 vạn quân đội của các thế lực đế quốc, thực dân, phản động
nước ngoài chiếm đóng trên đất nước ta, cách mạng nước ta không chỉ "bị hǎm
trong vòng vây của đế quốc chủ nghĩa" mà còn bị phản kích quyết liệt. Sự chống
phá cách mạng của các thế lực phản động ở trong nước cũng là một thách thức lớn

4
khi vàn nước ta, chưa thời kỳ nào cách mạng nước ta phải đối đấu với nhiều thế lực,
nhiều đảng phái phản động như trong những nǎm 1945-1946.
b. Kinh tế:
Nhân dân ta và chính quyền cách mạng còn phải vượt qua những khó khăn lớn
về kinh tế, đời sống xã hội. Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc hậu lại bị
thực dân Pháp và phát xít Nhật vơ vét, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nên lại
càng nghèo hơn [4].
- Nông nghiệp:
+ Nǎng suất lúa rất thấp (12 tạ/ha).
+ Nông dân lao động chiếm hơn 95% số hộ nhưng chỉ được sử dụng không
quá 40% ruộng đất.
+ Hậu quả nạn đói cuối nǎm 1944 đầu nǎm 1945 chưa kịp khắc phục thì nạn
lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
+ 50% ruộng đất bỏ hoang.

Hình 1.2. Xương người chết đói được cải táng từ những hố chôn tập thể
- Công nghiệp:
+ Công nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang
lâm vào đình đốn.
+ Hàng hoá khan hiếm.
c. Tài chính:
- Tài chính quốc gia gần như trống rỗng.
- Ngân hàng Đông Dương vẫn nằm trong tay tư bản nước ngoài.
- Chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được kho bạc với 1.230.720 đồng,
trong đó có 586.000 đồng tiền rách.
d. Văn hoá –xã hội:
- Hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề, trên 90% số dân không biết chữ.
Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có
một học sinh cao đẳng hoặc đại học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành thuốc.

5
- Suốt thời kỳ 1930-1945, số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ
gồm vài trăm người. Thực tế đó làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính quyền
mới gặp không ít khó khăn, lúng túng.
e. Chính trị:
- Chính quyền cách mạng còn non yếu
- Nhân dân lao động lần đầu tiên lên nắm chính quyền chưa có kinh nghiệm,
những khó khăn, thử thách to lớn cả về quân sự, chính trị, kinh tếvà xã hội trên đây,
đặt chính quyền cách mạng và vận mệnh đất nước ta trong thế"ngàn cân treo sợi
tóc". Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng có đường lối chiến
lược và sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh của toàn dân mới có thể bảo vệ và
phát triển thành quả cách mạng.

3. Yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam


a. Yêu cầu :
Trong xây dựng Nhà nước, Đảng ta chỉ rõ tính chất dân chủ của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nước ta là một nước dân chủ; Nhà nước ta là Nhà
nước dân chủ nhân dân, chính quyền của ta là chính quyền nhân dân. Đã là chính
quyền nhân dân thì phải do nhân dân bầu ra, do nhân dân lựa chọn người có tài, có
đức để gánh vác việc nước nhà. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng cho
nhân dân và chính quyền mới một cơ sở pháp lý vững chắc với chủ trương tổng
tuyển cử phổ thông đầu phiếu trong cả nước và sớm ban hành Hiến pháp. Theo đó,
đã là một nước dân chủ thì chính quyền phải do nhân dân lập ra, do dân lựa chọn và
nhân dân sẽ đem hết sức mình để góp phần xây dựng và bảo vệ chính quyền. Ngay
trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ
tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có
nhiệm vụ: “Tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông
đầu phiếu” và “phải có một hiến pháp dân chủ” [3].
b. Nhiệm vụ :
Ngay sau khi tuyên bố độc lập, ngày 03-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách: Phát
động ngay chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói; Mở ngay chiến dịch chống
nạn mù chữ; Tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông
đầu phiếu, thực hiện quyền tự do, dân chủ của nhân dân; Mở chiến dịch giáo dục
cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ thói hư, tật xấu do chế độ thực dân để lại; Bỏ ngay
ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện. Tuyên bố
tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết. Tiếp đó, từ ngày 10 đến ngày 11-9-1945,
Hội nghị cán bộ Bắc Kỳ của Đảng đề ra các nhiệm vụ về chính trị, quân sự, kinh tế,

6
tài chính, văn hóa, xã hội, trong đó “nhiệm vụ chính, trọng tâm trong lúc này là
củng cố chính quyền, dùng chính trị, ngoại giao, quân sự để giữ vững nền độc lập” [2].
Trước tình hình hoạt động ráo riết của các loại kẻ thù, Đảng và Nhà nước Việt
Nam mới thực hiện sách lược vừa nguyên tắc, vừa mềm dẻo. Đối với các tổ chức,
đảng phái phản động, Nhà nước ban hành một loạt sắc lệnh: giải tán Đại Việt Quốc
gia xã hội Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng, giải tán “Việt Nam Hưng quốc thanh
niên” và “Việt Nam Ái quốc thanh niên”, thiết lập các tòa án quân sự, giải thể các
cơ quan thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương. Đối với Pháp và Tưởng, lúc tạm hòa
với Tưởng để rảnh tay đối phó với Pháp, lúc tạm hòa với Pháp để đẩy nhanh Tưởng
ra khỏi đất nước. Thực hiện sách lược trên đã đặt các đảng phái, tổ chức phản động
ra ngoài vòng pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp bọn phản cách mạng,
tranh thủ thời gian củng cố lực lượng, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, chuẩn
bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
II. Chủ trương kháng chiến, kiến quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đứng trước tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu đã tỉnh táo và sáng suốt phân tích tình thể với 2 khả năng:
- Đánh mất chính quyền quay về kiếp sống nô lệ.
- Củng cố và bảo vệ chính quyền non trẻ.
Từ chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức
mạnh mới của dân tộc là cơ sở để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh giữ
vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình có nhiều thay đổi to lớn, phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách
mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ, điều này có
lợi cho các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành
lập, ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt
Chính phủ Lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế
giới về nền độc lập của nhân dân Việt Nam.
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp bách
nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”.
Chỉ thị chỉ ra những thuận lợi cơ bản và những thử thách lớn lao của cách mạng
nước ta. Trung ương Đảng xác định tính chất của "cuộc cách mạng Đông Dương
lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng". Cuộc cách mạng ấy chưa hoàn
thành vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập.Chủ trương về chỉ đạo chiến lược với mục
tiêu cấp bách: Vẫn là giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là “Dân tộc

7
trên hết, Tổ quốc trên hết”. Phân tích âm mưu của các để quốc đối với Đông
Dương, Trung ương nêu rõ "kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược,
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng". Vì vậy phải “lập Mặt trận dân tộc
thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược”. Mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu
hút mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt – Miên - Lào; kiên quyết giành
độc lập - tự do hạnh phúc cho dân tộc. Phương hướng của Đảng lúc này là chủ
trương kiên trì theo nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ”, “thêm bạn, bớt thù”, thực
hiện khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện” đối với quân Tưởng Giới Thạch, “Độc lập
về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp. Chỉ thị Kháng chiển kiến quốc
nêu ra 4 nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả nước ta lúc này là “ cũng cố chính
quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân
dân” [6].

Hình 2.1. “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25/11/1945 [5]


Nội dung của bản chỉ thị đề cập tới toàn bộ hoàn cảnh trong nước cũng như
quốc tế. Chỉ thị đề ra những nhiệm vụ cấp bách nhất mà cách mạng cần phải làm
trong giai đoạn mới tựu chung lại chỉ thị tập trung vào một số nhiệm vụ chính như
sau:
Về nội chính: Tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành vị trí
trang trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Báo
Sự Thật ghi lên đầu trang có dòng đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng phiếu". Báo
Quốc hội in hình Hồ Chủ Tịch với lời nói của Người: "Khuyên đồng bào nam nữ 18
tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều bỏ phiếu bầu những đại biểu xứng đáng vào hội đầu
tiên của nước ta. Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, toàn thể nhân dân ta đón chào
ngày hội lớn Tổng tuyển cử. Lần đầu tiên, mọi người đều được tự động thảo luận,
bàn bạc và lựa chọn các đại biểu xứng đáng với quốc gia hội của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa [6].
Ra hiến pháp 9/11/1946: ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng
dựng trên những nguyên tắc dưới đây:

8
Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Về kinh tế tài chính, đứng trước tình hình Ngân sách trống rỗng, thiên tai xảy ra
nhiều, tài nguyên cạn kiệt, cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào lập “tuần lễ
vàng”, “hũ gạo cứu đói”. Mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác các mỏ, cho tư nhân
được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích các giới công
thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà. Thực hiện
khuyến nông sữa chữa đê điều, lập ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại ngạch thuế, lập
ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, chống nạn đói theo
khẩu hiệu: “Tấc đất tấc vàng”, “Sẽ cơm nhường áo”, “Công việc cứu đói cũng cần như
việc đánh giặc” [4].

Hình 2.2. Phong trào “hũ gạo cứu đói”.


Về quân sự, động viên toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc
kháng chiến lâu dài, dùng lối đánh du kích với phương pháp bất hợp tác triệt để của
nhân dân ở vùng địch chiếm đóng, mở rộng chiến tranh du kích ở Campuchia và
phát triển tuyên truyền vũ trang trên đất Lào [1].
Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc
“bình đẳng, tương trợ”. Phương châm là “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn

9
đồng minh hơn hết” và “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực
lực”. Đối với Tưởng thì chủ trương Hoa – Việt thân thiện, đối với Pháp độc lập về
chính trị, nhân nhượng về kinh tế [1].
Về văn hoá, tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các
trường đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy
nhồi nhét, cổ dộng văn hóa cứu quốc, xây dựng nền văn hoá mới theo ba nguyên
tắc: khoa học hoá, dân tộc hoá, đại chúng hoá [1].

Hình 2.3 Biểu ngữ vận động người dân tham gia các lớp học Bình dân học vụ,
chống nạn thất học toàn quốc.
Chỉ thị nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt
trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển:
Về Đảng: phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật hay bán công khai, tuyển thêm đảng
viên mới, chú trọng gây thêm cơ sở Đảng trong các xí nghiệp, mở rộng các tổ chức
nghiên cứu chủ nghĩa Mác bao gồm những ai có khuynh hướng cộng sản hay có cảm
tình với cộng sản. Trong việc phát triển đảng viên, tăng cường tổ chức Đảng, bản Chỉ thị
chỉ rõ, phải tránh cả hai khuynh hướng: Chỗ thì tổ chức Đảng hẹp quá, chậm quá, và
chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi câu chấp của thời kỳ hoạt động hoàn toàn bí mật, chỗ thì
tổ chức Đảng rộng quá, nhanh quá khiến cho những phần tử phức tạp có thể len vào
Đảng [4].
Về Mặt trận Việt Minh: hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc, thống nhất các tổ
chức ấy lên toàn kỳ, toàn quốc; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc cho thích
hợp với hoàn cảnh mới; mở rộng Mặt trận Việt Minh, lập các đoàn thể cứu quốc mới,
giải quyết những mâu thuẫn giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Việt Minh; củng cố quyền
lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào - Campuchia
chống Pháp xâm lược [1].
Bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, nhãn quan
chính trị của một chính Đảng mới ra hoạt động công khai chưa bao lâu trên một loạt vấn
đề liên quan trực tiếp tới sự nghiệp bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ Nhà
nước dân chủ nhân dân - thành quả cao nhất của Cách mạng tháng Tám 1945, tạo tiền đề

10
cơ bản đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Đó là việc xác định rõ tính chất và nhiệm vụ
chiến lược của giai đoạn cách mạng từ sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám, xác định và phân
loại chính xác kẻ thù, phương hướng cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, một loạt
giải pháp nhằm xây dựng và tăng cường thực lực cho cuộc kháng chiến, những quan
điểm cơ bản về chỉ đạo chiến tranh và những nội dung chính của đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh... Trong tình hình “nước sôi lửa bỏng”
lúc bấy giờ, những chiến lược và sách lược được thể hiện trong bản Chỉ thị lịch sử
“Kháng chiến kiến quốc” của Đảng Cộng sản Đông Dương thực sự là ánh sáng soi
đường cho toàn dân, toàn quân trong cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ sự sống còn của dân
tộc.
III. Kết quả, ý nghĩa :
- Đập tan xiềng xích của thực dân, lật đổ chế độ quân chủ và ách đô hộ, lập nên
nước Việt Nam .
- Đánh thực dân Pháp, hình thành giải phóng dân tộc, tiến tới chủ nghĩa xã hội
- Đảng ra hoạt động công khai, bộ máy chính quyền các cấp được củng cố ,mặt
trận Liên –Việt được thành lập .
- Nguồn động lực tinh thần lớn lao trong việc giành và giữ chính quyền cách mạng,
xây dựng chính quyền dân chủ thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
- Đưa dân tộc ta bước vào 1 kỷ nguyên mới : “Kỷ nguyên độc lập - tự do”
- Hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo bước chuyển mạnh mẽ về cải cách hành chính.

11
Phần thứ hai

TỪ BÀI HỌC TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN NON TRẺ
1945 – 1946 VẬN DỤNG VÀO NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC HIỆN NAY
I. Bài học kinh nghiệm
- Xây dựng chính quyền đi đôi với bảo vệ chính quyền ,trong điều kiện chính
quyền vừa mới xây dựng, còn non trẻ, muốn bảo vệ được chính quyền thì trước hết
phải chăm lo xây dựng chính quyền vững mạnh về mọi mặt để đủ sức tự bảo vệ.
- Vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới , xây dựng hậu phương vững
mạnh để xây dựng được một chính quyền mạnh, phải huy động được sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Vận dụng những bài học kinh nghiệm quý báu của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, chúng ta cần tranh thủ những điều kiện, thời cơ thuận lợi trong nước và
quốc tế, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự lực, tự
cường, đẩy mạnh cải cách nền hành chính.
- Cùng với việc xây dựng chính quyền cách mạng, các tổ chức quần chúng
như Mặt trận Việt Minh, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, công nhân cứu
quốc... cũng được củng cố và ngày càng phát triển.
- Hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo bước chuyển mạnh mẽ về cải cách hành
chính hướng đến xây dựng một Chính phủ liêm chính, hành động, kiến tạo phát
triển, hoạt động hiệu lực, hiệu quả phục vụ nhân dân trong giai đoạn hội nhập và
phát triển./. 
- Chỉnh đốn Đảng, tăng cường công tác xây dựng Đảng làm nhiệm vụ then
chốt, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước.
- Hoàn thiện cơ chế nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện và giám sát công
việc của Nhà nước. Quy định chế độ cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình
của cơ quan Nhà nước trước nhân dân.

II. Vận dụng vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

1. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc


Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ xuyên suốt trong
các giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam, từ khi ra đời Nhà nước công nông
đầu tiên ở Đông Nam Á, dưới sự lãnh đạo của Đảng cho đến nay. Ở Việt Nam, giải
quyết mối quan hệ này được chia làm hai thời kỳ rõ rệt, đó là khi đất nước còn
chiến tranh, vừa phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc và
vừa xây dựng hậu phương lớn phục vụ tiền tuyến. Tiếp đó là, thời kỳ đất nước được

12
hoà bình, thống nhất bên cạnh nhiệm vụ to lớn đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội,
thì bảo vệ Tổ quốc vẫn luôn được xác định là trọng yếu, thường xuyên. Bởi vậy, ở
mỗi giai đoạn, việc nhận thức và giải quyết hai nhiệm vụ chiến lược này là vấn đề
hệ trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là một cơ sở để làm nên những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử ngày hôm nay.
Từ truyền thống lịch sử của dân tộc, dựng nước phải đi đôi với giữ nước là bài
học mang tính quy luật, được đúc kết qua hàng nghìn năm lịch sử. Ở Việt Nam,
trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bài học này được Đảng ta khái quát thành một quan
điểm lớn, là nắm vững hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp
chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội lần thứ IV
của Đảng, khi đất nước đã độc lập, non sông thu về một mối, Đảng ta xác định:
“Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đối với bảo vệ Tổ quốc”, tiếp đó, Đại hội V của
Đảng, xác định: “ Toàn Đảng, toàn quân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải đoàn
kết một lòng, ra sức phấn đấu thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:một là, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội; hai là, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta
vẫn nhất quán quan điểm luôn coi trọng cả hai nhiệm vụ, nhưng bắt đầu đã có
những điều chỉnh phù hợp với bối cảnh mới, Đại hội VII, thông qua Cương lĩnh
1991 xác định:” Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân
ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”.
Tuy nhiên, yêu cầu mới đòi hỏi phải cụ thể hoá vị trí, vai trò của từng nhiệm
vụ, làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, chính sách; xác định mục tiêu trong
từng thời kỳ, điều này cũng chính là bước phát triển mới về nhận thức lý luận, về
mối quan hệ của hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản này. Đại hội VIII của Đảng tiếp
tục nhấn mạnh, việc chuyển hướng trọng tâm sang xây dựng, phát triển đất nước
nhưng vẫn không được coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong điều kiện đất nước
đã có hoà bình, thống nhất, nhưng điểm xuất phát thấp, nguy cơ chiến tranh, xâm
lược từ bên ngoài vẫn tiềm tàng, hai nhiệm vụ này chỉ có thể giải quyết được khi đất
nước mạnh lên. Do đó, trong các nhiệm kỳ Đại hội IX, X, XI nhận thức lý luận về
hai nhiệm vụ chiến lược tiếp tục được hoàn thiện, xác định nhiệm vụ xây dựng giữ
vai trò nền tảng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, rằng sự ổn định và phát triển bền
vững mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng-
an ninh. Đại hội XII khẳng định:” Gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm
vụ, trong đó: Phát triển kinh tế- xã hội là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là
then chốt; phát triển văn hoá- nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và
an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”.

13
Khi đất nước chưa thống nhất, nhiệm vụ và mục tiêu lớn nhất của cả dân tộc là
giành độc lập dân tộc, dù có thể” đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, “không có gì quý
hơn độc lập tự do”. Nhưng khi đất nước chuyển sang giai đoạn mới, đòi hỏi phải
xác định lại nội hàm, mục tiêu và mối quan hệ của hai nhiệm vụ cho phù hợp, đối
với mục tiêu bảo vệ Tổ quốc, Đại hội VII, trong Cương lĩnh 1991 xác định: “Bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân,
làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”, sự phát triển nhận thức ở đây mở rộng cả
phạm vi, đối tượng; bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nhiệm vụ của quốc phòng và cũng
không chỉ là chủ quyền, lãnh thổ. Trật tự và tầm quan trọng của từng đối tượng bảo
vệ cũng được sắp xếp lại, tuỳ theo từng thời kỳ, phụ thuộc vào đặc điểm trong nước
và quốc tế. Đại hội IX, tại hội nghị Trung ương lần thứ tám, xác định rõ 6 nội dung
là: Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Bảo vệ
Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc. Bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá. Giữ vững ổn định chính
trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điểm đặc biệt trong phát triển nhận thức của Đảng ta về giải quyết mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sự gắn kết chặt chẽ, nhuần
nhuyễn hai trong một, xây dựng đi đôi với bảo vệ, xây dựng cũng là bảo vệ và
ngược lại. Lấy mục tiêu phát triển đất nước làm căn cứ để xây dựng nội hàm của cả
hai nhiệm vụ.
Các kỳ đại hội Đảng X, XI và đặc biệt Đại hội XII, xác định: “Phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng
tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền văn hoá
dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội”. Nhận thức và giải quyết mối quan hệ này, là cơ sở để cụ thể hoá
trong chủ trương, chính sách phát triển trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, sự
kết hợp này mới chỉ xác định: kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và ngược lại
trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa phương;
trong quy hoạch và phát triển kinh tế vùng, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả
kinh tế gắn với yêu cầu bảo đảm quốc phòng- an ninh. Tiếp đó, bổ sung lĩnh vực an
ninh và xã hội, đó là kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh, xây dựng cơ chế

14
phù hợp để thực hiện sự kết hợp này, sau đó là kết hợp kinh tế- xã hội với tăng
cường quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất
nước, và: “Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng-
an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng- an ninh, quốc phòng- an ninh với
kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế- xã
hội và trên từng địa bàn”.
Sự gắn kết chặt chẽ mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong nhận
thức và thực hiện càng mở rộng, đi vào chiều sâu trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, gắn kết trong tổng thể phát triển của đất nước và quan hệ của Việt Nam với
bên ngoài. Đại hội XII phát triển thêm sự gắn kết yếu tố văn hoá: kết hợp chặt chẽ
kinh tế, văn hoá, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế,
văn hoá, xã hội. Quá trình nước ta ra khỏi bao vây, cấm vận, từng bước hội nhập
sâu rộng với thế giới và tác động của hội nhập quốc tế ngày càng lớn, cả tích cực và
tiêu cực đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Đồng thời, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong phát triển
đất nước, đòi hỏi phải giải quyết hai nhiệm vụ này gắn kết với hoạt động đối ngoại.
Việc phân loại đối tác, đối tượng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một bước
tiến lớn về nhận thức, xác định lợi ích của đất nước trong xử lý mối quan hệ này.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt
động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hoà bình, ổn định,
tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống
nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa”. Trải qua quá trình gần 35 năm đổi mới, trong điều kiện đất nước
có hoà bình, tập trung sức xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, nguy cơ xâm lược, đe doạ đến độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ vẫn còn tiềm ẩn, nhất là vấn đề Biển Đông, biên giới đất liền, sự chống phá
của các thế lực cơ hội, thù địch cùng với âm mưu kích động bạo loạn, lật đổ từ bên
ngoài. Điều này càng cho thấy, tầm quan trọng của việc giải quyết mối quan hệ giữa
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Dự thảo Báo cáo Chính trị trình
Đại hội XIII, khi xác định quan điểm mới đã chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển nhanh và
bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn
hoá là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu,
thường xuyên”.
Việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam là quá trình tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển lý
luận, hình thành hệ thống quan điểm đồng bộ, có bước đi, hình thức phù hợp và

15
được thể chế hoá trong từng chủ trương, chính sách qua các giai đoạn của cách
mạng Việt Nam. Nhờ đó, đem lại thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử ngày hôm nay,
là tiền đề cơ bản để thực hiện mục tiêu trở thành nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao vào năm
2030, và trở thành nước đang phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.
2. Trách nhiệm sinh viên vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đánh giá rất cao vai trò của thanh niên, luôn quan tâm chăm lo xây
dựng và phát huy sức mạnh của các thế hệ thanh niên tham gia vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các cấp, các ngành và các tổ chức, đoàn thể chính trị xã
hội cũng đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm phát huy vai trò, sức mạnh của
thanh niên trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, đó là: “Giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để
xây dựng đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa”. Thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay luôn được sự quan
tâm đặc biệt của toàn xã hội, điều đó đã tạo ra môi trường hết sức thuận lợi để họ có
điều kiện phát triển toàn diện, nhưng cũng đặt ra trách nhiệm cho thanh niên cần
tham gia tích cực hơn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt sâu sắc
quan điểm của Đảng: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của
cả hệ thống chính trị… bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ.
Để phát huy vai trò, trách nhiệm của thanh niên đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay cần đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới cho thanh niên. Đây là nhiệm vụ nền tảng quan trọng góp phần
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của thanh niên đối với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tạo môi trường thuận lợi để thanh niên tham
gia tích cực vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, trước sự tác động mạnh mẽ của mặt trái kinh tế thị trường, hội nhập
kinh tế quốc tế, âm mưu của các thế lực thù địch đã ảnh hưởng đến tâm tư, tình
cảm, trách nhiệm của thế hệ trẻ. Vì vậy, việc quan trọng và cấp thiết là “phát huy
vai trò xung kích, sáng tạo, tinh thần tình nguyện, khơi dậy tiềm năng to lớn, lòng
nhiệt huyết của các tầng lớp thanh niên… tạo môi trường thuận lợi để thanh niên tự
rèn luyện, tìm được lẽ sống cao đẹp cho mình” các cấp bộ Đoàn cần tập hợp, tổ
chức cho thanh niên tham gia vào các hoạt động thiết thực, bổ ích như thông qua
các phong trào: “Thanh niên với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”; “Tuổi trẻ giữ nước”;

16
“Khi Tổ quốc cần”; “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”; “Vì Trường Sa thân yêu”; “Góp
đá xây Trường Sa”…
Cùng với đó cần có sự quan tâm và chính sách đãi ngộ đối với thanh niên khi
tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; tích cực cải thiện và nâng cao hơn
nữa về đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ; chăm lo chu đáo đến hậu
phương người lính; kết hợp chặt chẽ giữa thực hiện nghĩa vụ quân sự với đào tạo
nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về
địa phương… Những việc làm đó sẽ giúp cho thanh niên luôn yên tâm, toàn tâm,
toàn ý đối với chức trách, nhiệm vụ được giao, đủ tỉnh táo để đánh bại mọi âm mưu,
thủ đoạn và hành động chống phá của các thế lực thù địch trong mọi điều kiện, hoàn
cảnh, mọi tình huống để giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Phát huy tinh thần tự giác học tập, rèn luyện bản thân của thanh niên để góp
phần nâng cao trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới, không để các thế lực thù địch, phần tử xấu lôi kéo, dụ dỗ vào các
hoạt động gây rối, biểu tình gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội, kiên quyết giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để hội nhập và phát triển đất
nước.
Ngày nay, tiếp nối truyền thống của các thế hệ cha anh, thanh niên luôn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; trung thành, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH; nêu cao tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, vì hạnh
phúc của nhân dân. Thanh niên có khát vọng, ý chí vươn lên, đoàn kết, chia sẻ,
tương thân, tương ái, vì cộng đồng và lợi ích quốc gia. Họ luôn có mặt ở những nơi
khó khăn, gian khổ, xung kích hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao.
Tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên
Việt Nam với vai trò, trách nhiệm của mình đã có nhiều nỗ lực trong thực hiện các
chương trình phối, kết hợp với các lực lượng khác nhằm tạo cơ sở và điều kiện để
thanh niên phát huy vai trò xung kích, tình nguyện của mình trong phát triển kinh
tế; ổn định cuộc sống; tham gia xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh; củng cố
quốc phòng, an ninh góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

17
KẾT LUẬN
Đất nước giành được độc lập rạng rỡ non sông, góp phần nâng cao uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế.Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công, nền độc lập dân tộc vừa mới trở thành hiện thực đã phải đứng trước nguy cơ
bị tiêu diệt do những âm mưu thâm độc phá hoại của các tập đoàn để quốc và bè lũ
tay sai. Lúc này trên đất nước ta có gần 30 vạn quân của nhiều nước chiếm đóng
hầu hết các vị trí chiến lược quan trọng và đều có âm mưu dùng vũ lực để lật đổ
chính quyền cách mạng, thủ tiêu nên độc lập dân tộc, đưa dân tộc ta trở thành cuộc
sống nô lệ. Đứng trước sự mất còn của cách mạng, nền độc lập dân tộc và trong
hoàn cảnh quốc tế nhiều mặt có lợi cho bọn xâm lược, chúng ta lại chưa có điều
kiện để phát huy những điều kiện cơ bản, lâu dài và chưa thể cùng một lúc khắc
phục được những khó khăn chồng chất, nhưng với bản lĩnh kiên định, vững vàng
phương pháp cách mạng khoa học Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện
những biện pháp quan trọng để giữ vững thành quả cách mạng, giữ vững nền độc
lập dân tộc của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh với kẻ thù trong và ngoài nước
lúc này đều xoay quanh giữ vững quyền độc lập dân tắc khi mà kẻ thù rắp tâm quyết
cướp lại nước ta một lần nữa băng quân sự và so sánh về lực lượng giữa ta với địch
là thế "châu chấu đá voi”. Để tránh tình thế bất lợi cho ta cùng một lúc phải đối phó
với nhiều kẻ thù, đồng thời để có thêm thời gian xây dựng thực lực cách mạng về
mọi mặt sẵn sàng đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược mà chúng ta biết chắc
rằng khó có thể ngăn chặn được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện một
sách lược mềm dẻo với kẻ thù nhân nhượng Cỏ nguyên tắc Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dự lường được việc chúng ta phải chấp nhận một số yêu sách của kẻ
thủ phải chịu thiệt thòi, mất mát nhất định, song, trong nhân nhượng , Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn giữ vững nguyên tắc và không bao giờ hy sinh quyền lợi dân
tộc.

18
Tài liệu tham khảo:
Tiếng Việt:
1. Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương về Kháng chiến kiến quốc, ngày 25-
11-1945, Văn kiện Đảng Toàn tập, CTQG, T.8, H, 2000.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia,
H, 2000, tập 8, tr.5,6.
3. Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.8, tr.8, tr.9,
tr.427, tr.427, tr.430, tr.99, tr.451, tr.430.
Internet:
4. https://text.123docz.net/document/4801587-dang-lanh-dao-xay-dung-va-
bao-ve-chinh-quyen-cach-mang-1945-1946-tieu-luan-cao-hoc.htm
5. https://www.tailieumienphi.vn/doc/bai-giang-hoc-mon-duong-loi-cach-
mang-cua-dang-cong-san-viet-nam-mcmrtq.html
6. https://123docz.net//document/2820734-chu-truong-khang-chien-kien-
quoc-cua-trung-uong-dang-ngay-25111945.html

19

You might also like