You are on page 1of 8

TÂY TIẾN

Ai đó đã từ ng nó i: “Thơ là điệu hồ n đi tìm nhữ ng hồ n đồ ng điệu”. Thậ t vậ y, thơ ca là tiếng


nó i tình cả m, là sự giã i bà y tâ m tư, cả m xú c củ a thi nhâ n trướ c mỗ i cuộ c đờ i, con ngườ i. Đến
vớ i thơ Quang Dũ ng, ta sẽ bắ t gặ p cá i đẹp kì diệu củ a tình yêu, nhữ ng khao khá t và thương
nhớ qua nhữ ng hình tượ ng nghệ thuậ t độ c đá o. Trong đó , “Tâ y Tiến” là tá c phẩ m tiêu biểu
củ a ô ng, củ a thơ ca khá ng chiến chố ng Phá p. Bà i thơ đã là m số ng dậ y mộ t thờ i hà o hù ng củ a
mộ t đoà n quâ n mà tuổ i tên đã đi cù ng nă m thá ng. Bằ ng ngò i bú t lã ng mạ n, hà o hoa, Quang
Dũ ng đã khắ c họ a thà nh cô ng..............................

Quang Dũ ng là mộ t nghệ sĩ đa tà i, nhưng đượ c biết đến nhiều hơn cả vẫ n là mộ t nhà thơ.
Thơ ô ng mang vẻ phong khoá ng, lã ng mạ n cù ng khả nă ng cả m nhậ n tinh tế vẻ đẹp củ a thiên
nhiên và tình ngườ i. “Tâ y Tiến” là bà i thơ củ a ngườ i lính viết về ngườ i lính – anh vệ quố c
quâ n thờ i 9 nă m chố ng Phá p. Tá c phẩ m ghi lạ i đờ i số ng đá nh giặ c củ a đấ t nướ c và lưu giữ
nhữ ng tâ m tình riêng củ a mộ t cá thể trướ c cuộ c khá ng chiến rộ ng lớ n. Trong đó , đoạ n thơ
đầ u thể hiện nỗ i nhớ củ a thi nhâ n về thiên nhiên Tâ y Bắ c hiểm trở và con đườ ng hà nh quâ n
đầ y gian khổ .

Mở đầ u tá c phẩ m là nỗ i nhớ khô n nguô i, da diết đến quặ n lò ng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Từ “ơi” bắ t vầ n vớ i từ lá y “chơi vơi” là m cho câ u thơ cà ng thêm thiết tha, bồ i hồ i. Sô ng


Mã , linh hồ n củ a Tâ y Bắ c đã ẳ m trọ n bao cả m xú c củ a Quang Dũ ng về mả nh đấ t nà y. Điệp từ
“nhớ ”như muố n lộ t tả mộ t nỗ i nhớ da diết, chá y bỏ ng đến gầ n như khô ng thể kìm nén. Ca
dao xưa cũ ng từ ng thể hiện cá i nỗ i “chơi vơi” ấ y:

Ra về nhớ bạn chơi vơi

Và cứ thế, nỗ i nhớ đã là m số ng dậ y cả nh thiên nhiên hiểm trở , dữ dộ i củ a nú i rừ ng Tâ y


Bắ c:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Câ u thơ hiện lên vớ i cuộ c vạ n lý trườ ng chinh gian khổ mà hà o hù ng. Hình ả nh Sà i
Khao, Mườ ng Lá t gợ i sự mù mịt, â m u và cà ng huyền bí hơn cả qua ngò i bú t củ a Quang
Dũ ng. Ở Sà i Khao, sương như lấ p cả mộ t đoà n quâ n đang mỏ i và ngay câ u dướ i lạ i là mộ t
hình ả nh thơ thi vị, như thự c như hư. Câ u thơ “Mườ ng Lá t hoa về trong đêm hơi” đượ c tạ o
nên từ sá u thanh bằ ng nghe thậ t nhẹ nhà ng, chơi vơi. Hoa là hình ả nh tượ ng trưng cho cá i
đẹp mộ ng mơ củ a thiên nhiên Tâ y Bắ c. Hình ả nh thơ đẹp lung linh như hiện lên trong cõ i
mộ ng củ a ngườ i lính Tâ y Tiến, như hó a tâ m hồ n thi nhâ n.

Để rồ i, hình ả nh con đườ ng chiến tranh đượ c Quang Dũ ng đặ c tả qua khô ng gian nú i rừ ng
hoang vu, hiểm trở :

Dốc lên khúc khuỷa, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Bằ ng cá i nhìn tinh tế củ a hồ n thơ Quang Dũ ng, khung cả nh nú i rừ ng hiện lên thậ t dữ dộ i,


hù ng trá ng. Hà ng loạ t từ ngữ mang tính tạ o hình “khú c khuỷa”, “heo hú t”... đã diễn tả rấ t
thà nh cô ng sự hiểm trở , hoang vu và độ cao ngú t trờ i củ a nú i rừ ng Tâ y Bắ c. Điệp từ “dố c”
tá i hiện thế chênh vênh, gậ p ghềnh củ a dố c nú i. Dố c nố i dố c khiến khô ng gian cao đến “heo
hú t cồ n mâ y”. Bướ c châ n ngườ i lính như khô ng cò n đi trên đấ t, trên đá mà ở trên mâ y. Để
rồ i, tá c giả đã sử dụ ng mộ t hình ả nh đầ y độ c đá o “sú ng ngử i trờ i”. Đọ c thơ, ta cả m nhậ n mộ t
nét gì đó hó m hỉnh, tươi vui, ẩ n chứ a mộ t chú t thá ch thứ c, tá o bạ o. Hình ả nh thơ gợ i hình,
gợ i cả m đã tá i hiện bao hiên ngang, bấ t khuấ t củ a binh đoà n Tâ y Tiến. Trong tưở ng tượ ng
củ a ngườ i đọ c, ngườ i lính như đang lao trên nhữ ng cồ n mâ y và mũ i sú ng như chạ m tớ i đỉnh
trờ i. Hình ả nh thơ pha lẫ n nhữ ng lã ng mạ n, mộ ng mơ; vừ a bạ o khỏ e lạ i vừ a tinh nghịch,
tươi vui.

Cò n nú i thì lạ i “ngà n thướ c lên cao” – “ngà n thướ c xuố ng”. Câ u thơ đượ c ngắ t nhịp 4/3
đầ y ấ n tượ ng, đã bẻ gậ p khô ng gian thà nh hai chiều tương phả n: cao và sâ u. Cá i hay củ a
Quang Dũ ng là tá c giả mượ n cá i cao để nó i cá i sâ u, dù ng cá i sâ u khô n cù ng để tả cá i cao vô
tậ n. Đoạ n thơ cũ ng đượ c Quang Dũ ng sử dụ ng toà n thanh trắ c, tá i hiện cá i gồ ghề, hiểm trở
trên con đườ ng hà nh quâ n củ a ngườ i lính. Để rồ i ngay câ u sau, â m điệu thơ độ t ngộ t thay
đổ i. Câ u thơ toà n vầ n bằ ng “Nhà ai Pha luô ng mưa xa khơi” gợ i tả ấ n tượ ng về mộ t khô ng
gian dà n trả i, mênh mang. Dướ i mà n mưa giă ng mắ c khắ p đấ t trờ i, nhữ ng ngô i nhà nhỏ bé
như hiện lên giữ a biển khơi. Hình ả nh thơ cò n chấ t chứ a bao nỗ i niềm về quê hương, đấ t
nướ c củ a nhữ ng ngườ i lính Tâ y Tiến. Ta bắ t gặ p mộ t á nh nhìn bình yên, tha thiết trên
nhữ ng dò ng thơ ấ y...

Thế nhưng, nhữ ng câ u tiếp theo hiện lên lạ i đầ y trĩu nặ ng:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.


Nhà thơ khô ng hề né tranh cá i bi củ a thự c tạ i. Giọ ng thơ vang lên mang mộ t nỗ i buồ n day
dứ t khô n nguô i. Ngườ i lính Tâ y Tiến lầ m lũ i trong gian khổ , để rồ i ngã gụ c đến khô ng thể
bướ c tiếp. Cá i hay củ a ngò i bú t Quang Dũ ng, ấ y là “Tâ y Tiến” khô ng giấ u đi cá i bi, nhưng bi
mà khô ng lụ y. Bở i nhà thơ đã sử dụ ng cá ch nó i mang khẩ u khí ngang tà ng, đầ y chấ t lính “bỏ
quên đờ i”. Nhữ ng chà ng thanh niên ấ y, họ số ng hết mình vì lý tưở ng nên chết cũ ng thậ t
vinh quang. Hình ả nh thơ vừ a bi thương, vừ a hù ng trá ng là m tỏ a sá ng vẻ đẹp phi thườ ng
củ a ngườ i lính cach mang.

Con đườ ng chiến tranh đâ u chỉ có địa hình hiểm trở mà cò n hiện lên trong sự dữ dằ n củ a
thiên nhiên:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Ở đâ y, cá i hoang dạ i, dữ dộ i củ a thiên nhiên khô ng chỉ đượ c mở ra trong khô ng gian mà


cò n đượ c khá m phá ở cả chiều thờ i gian. “Thá c gầ m thét” đượ c ví là oai linh củ a củ a nú i cao
cò n “cọ p trêu ngườ i” đượ c mườ ng tượ ng như nỗ i đe dọ a củ a chú a sơn lâ m. Địa danh
“Mườ ng Hịch” xuấ t hiện vớ i â m trắ c nặ ng gợ i ấ n tượ ng về sự â m u, huyền hoặ c đầ y bí ẩ n.
Thiên nhiên miền Tâ y hiện lên qua á nh nhìn củ a độ c giả thậ t kỳ bí, dữ dằ n.

Để rồ i, đoạ n thơ khép lạ i trướ c nhữ ng kỉ niệm khô ng thể nà o quên trong đờ i lính:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em, thơm nếp xôi.

Hình ả nh thơ gợ i nhắ c kỉ niệm ấ m á p về bữ a cơm củ a binh đoà n Tâ y Tiến. Hai chữ “Mù a
em” là mộ t sá ng tạ o đầ y độ c đá o củ a hồ n thơ Quang Dũ ng. “Mù a em” là mù a yêu, là mù a ta
gặ p em. “Thơm nếp xô i” là hương vị đặ c trưng củ a vù ng đấ t nà y, hiện lên đầ y tình tứ , hà o
hoa. Chừ ng ấ y thô i cũ ng đã khiến thi nhâ n phả i nhớ mã i về mộ t Tâ y Tiến thi vị, mộ ng mơ!

 ĐOẠN KẾT

Cả m hứ ng chủ đạ o xuyên suố t toà n bà i thơ là nỗ i nhớ cả nh nú i rừ ng Tâ y Bắ c vớ i nhữ ng kỉ


niệm đá ng yêu củ a đờ i lính. Trướ c hết, nỗ i nhớ ấ y bắ t nguồ n từ vẻ đẹp củ a đêm liên hoan
vă n nghệ:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Hình ả nh thơ đượ c miêu tả rấ t thự c và đầ y mộ ng ả o, đó là đêm hộ i củ a á nh sá ng và mà u


sắ c. Từ “bừ ng” mang lạ i cả m giá c độ t ngộ t. Đó là sự bừ ng sá ng củ a hộ i đuố c hoa; củ a lử a trạ i
chá y sá ng, rự c rỡ cù ng tiếng há t tưng bừ ng, rộ n rã . Trên nền á nh sá ng đó , hình ả nh “em”
xuấ t hiện:
Kìa em xiêm áo tựa bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Giọ ng thơ vang lên đầ y trìu mến, vui sướ ng đến ngạ c nhiên, ngỡ ngà ng khi chà ng thanh
niên bắ t gặ p vẻ đẹp e thẹn, kiêu sa củ a ngườ i vũ nữ . Dườ ng như, ngườ i lính Tâ y Tiến khô ng
chỉ đắ m say mà cò n ngậ p trà n bao ngưỡ ng mộ , xú c cả m. Trướ c hiện thự c chiến tranh khố c
liệt, bằ ng tâ m hồ n hà o hoa, lã ng mạ n; nhữ ng chà ng trai ấ y vẫ n cứ mê say trướ c vẻ đẹp củ a
nghệ thuậ t. Câ u chữ củ a Quang Dũ ng như gieo rắ c và o lò ng ngườ i nhữ ng quyến rũ , say
đắ m, đan cà i giữ a thự c và ả o, giữ a chấ t thự c và chấ t thơ, giữ a hiện thự c và lã ng mạ n. Giờ
đâ y, Tâ y Bắ c hiện lên là mộ t bứ c tranh mang đậ m bả n sắ c nú i rừ ng, đằ m thắ m tình ngườ i.
Cá i đẹp củ a â m nhạ c, củ a nghệ thuậ t sẽ theo ngườ i lính trong suố t hà nh trình, sẽ hó a thi ca.

Bằ ng ngò i bú t tà i hoa, lã ng mạ n; nhữ ng dò ng thơ tiếp theo đã tá i hiện cả nh sô ng nướ c,


con ngườ i miền Tâ y và o mộ t chiều sương:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ dong dưa

Giờ đâ y, Quang Dũ ng đã là m số ng dậ y trướ c mắ t ta mộ t Tâ y Bắ c mênh mang, tĩnh lặ ng.


Thiên nhiên ở nơi chỉ có “Nú i sương giă ng, đèo mâ y phủ ” đã mờ ả o lạ i cò n mờ ả o thêm, như
thự c như mơ. Khung cả nh Tâ y Bắ c hiện về trong nỗ i nhớ miên man, cà ng là m giọ ng thơ
thêm bâ ng khuâ ng, lưu luyến. “Có thấ y...có nhớ ” câ u thơ vang lên như mộ t lờ i tự hỏ i, mang
nỗ i nhớ đong đầ y. Sứ c á m gợ i củ a hình ả nh thơ như kết lạ i trong câ u “Có thấ y hồ n lau nẻo
bến bờ ”. Nhắ c đến đâ y, ta chợ t nhớ đến nhữ ng dò ng thơ củ a Chế Lan Viên:

Ai đi biên giới cho lòng ta theo với

Thăm ngàn lau chỉ trắng có một màu

Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi

Suốt một đời cùng với gió giao tranh

(Lau biên giớ i)

Cá i sắ c trắ ng gợ i tả về sự đơn độ c, đến vớ i thơ Quang Dũ ng đã trở thà nh hồ n, thà nh nỗ i


buồ n thấ m đẵ m tình ngườ i. “Hồ n lau” ở đâ y là hồ n củ a cả nh vậ t, củ a Châ u Mộ c. “Hồ n lau”
cò n là linh hồ n củ a tử sĩ, là nỗ i á m ả nh củ a ngườ i con sắ p rờ i xa mả nh đấ t nà y. Hay ai đó đã
từ ng nó i, rằ ng sự xuấ t hiện củ a “hồ n lau” ấ y đã là m “Tâ y Tiến” “phả ng phấ t nỗ i buồ n cao
thượ ng như trong Đườ ng thi”.

Và rồ i, xuấ t hiện trên nền sô ng nướ c ấ y cò n là hình ả nh con thuyền độ c mộ c cù ng dá ng vẻ


ngườ i thiếu nữ và hoa:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Sự kết tinh cuả nỗ i nhớ đã đượ c Quang Dũ ng thể hiện bằ ng nhữ ng nét vẽ mềm mạ i, tinh
tế. Đó là dá ng vẻ yểu điệu củ a cô lá i đò hay nét đong đưa rấ t duyên củ a nhữ ng nụ hoa. Dướ i
ngò i bú t tà i hoa củ a Quang Dũ ng, Tâ y Bắ c hiện lên mang đậ m chấ t thơ, đầ y mộ ng ả o. Chừ ng
ấ y thô i cũ ng đủ để ngườ i ta nhớ mã i về mộ t Tâ y Tiến thi vị, mộ ng mơ đến lạ lù ng!

***Nhữ ng dò ng thơ là mộ t nét vẽ đẹp trong tổ ng thể bứ c họ a Tâ y Tiến. Chấ t thơ hò a


quyện vớ i chấ t nhạ c đầ y uyển chuyển, tinh tế khiến bứ c tranh thiên nhiên thêm huyền
hoặ c, mê đắ m. Đú ng như Xuâ n Diệu đã từ ng nhậ n xét: “Đọ c thơ Quang Dũ ng như ngậ m nhạ c
trong miệng”.

Trong nỗ i nhớ chá y bỏ ng, da diết ấ y, Quang Dũ ng đã đưa ta đến vớ i hình ả nh nú i rừ ng


Tâ y Bắ c nên thơ, ngâ y ngấ t. Nhưng có lẽ, nhữ ng dò ng thơ tiếp theo mớ i thự c sự á m ả nh
lò ng ngườ i:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gởi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Cả m hứ ng anh hù ng cù ng bú t phá p lã ng mạ n đã thể hiện rõ nét sự khố c liệt củ a chiến


tranh và hơn cả là sự hiên ngang, anh dũ ng củ a nhữ ng ngườ i lính Tâ y Tiến. Ở nơi rừ ng
thiêng nướ c độ c, ngườ i lính khô ng thể trá nh khỏ i bao bệnh tậ t, khổ đau: “Khô ng mọ c tó c”,
“xanh mà u lá ”. Đó là hậ u quả củ a nhữ ng cơn số t rét là m hao mò n, tiều tụ y thâ n thể cá c anh.
Thơ khá ng chiến cũ ng khô ng hiếm nét thự c đến trầ n trụ i khi miêu tả bệnh tậ t củ a ngườ i
lính cá ch mạ ng:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi


Hay Tố Hữ u cũ ng đã có nhữ ng vầ n thơ đầ y xú c độ ng:

Giọt giọt mồ hôi rơi

Trên má anh vàng nghệ

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!

Như vậ y, “Tâ y Tiến” cũ ng đã tá i hiện bao khổ cự c củ a hiện thự c chiến tranh nhưng lạ i
bằ ng giọ ng thơ đầ y độ c đá o. Quang Dũ ng đã chọ n lọ c nhữ ng nét tiêu biểu nhấ t củ a đoà n
binh để xâ y dự ng tượ ng đà i nghệ thuậ t về họ . Để rồ i, đố i lậ p vớ i hình ả nh ấ y chính là mộ t sự
hù ng dũ ng, ngang tà ng “mắ t trừ ng” “dữ oai hù m”. Đó là khí phá ch hiên ngang, chấ t phá t, bấ t
chấ p bao khổ cự c củ a binh đoà n Tâ y Tiến. Dù gian khổ , khắ c nghiệt nhưng cố t cá ch ngườ i
lính vẫ n rấ t can trườ ng, gâ n guố t. Ngườ i lính ngay trong khó khă n, thiếu thố n vẫ n luô n bộ c
lộ phẩ m chấ t oai hù ng, lẫ m liệt. Nhữ ng câ u thơ vang lên như mộ t chứ ng nhâ n lịch sử về mộ t
thờ i đạ i hà o hù ng củ a dâ n tộ c. Đú ng như Chế Lan Viên từ ng viết: “Thơ hay như ngườ i con
gá i đẹp, ở đâ u đi đâ u cũ ng lấ y đượ c chồ ng”.

Nhưng có lẽ, nhữ ng chà ng trai ấ y vẫ n luô n giữ nét lã ng mạ n, hà o hoa:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Hai câ u thơ như chứ a đự ng hai thế giớ i, đượ c ngườ i lính gử i về hai phương trờ i. Đó là
biên cương – nơi cò n đầ y bó ng giặ c và Hà Nộ i yêu dấ u, kiều diễm. “Đêm mơ” là sự lã ng mạ n,
đa tình đa cả m. Ngườ i lính dấ n thâ n nơi biên cương khô ng chỉ mang theo ý chí, mang mộ ng
lậ p cô ng mà cò n cả cá i lã ng mạ n, tình tứ củ a “dá ng kiều thơm”. Hình ả nh thơ vừ a tá i hiện
nét đẹp duyên dá ng củ a ngườ i thiếu nữ ; vừ a bộ c lộ bao tâ m tình củ a ngườ i lính cá ch mạ ng.
Câ u thơ vang lên ẩ n chứ a mộ t chú t gì đó đá ng yêu, thơ mộ ng.

Thế nhưng, ngò i bú t Quang Dũ ng khô ng chỉ hướ ng đến cá i lã ng mạ n mà cò n ẩ n chứ a cả m


hứ ng bi trá ng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.

Chiến trườ ng hiện lên trong thơ phả ng phấ t mộ t nét buồ n da diết. Cá i hay củ a thơ Quang
Dũ ng là ô ng khô ng hề né trá nh thự c tạ i mà đã tá i hiện trự c tiếp sự khố c liệt củ a hiện thự c
chiến tranh “Rả i rá c biên cương mồ viễn xứ ”. Ta chợ t nhớ đến nhữ ng dò ng thơ củ a Đoà n
Thị Điểm:

Hồn sĩ tử gió ù ù thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

Chinh phu tử sĩ mấy người,

Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?

Thế nhưng, nếu chỉ gợ i sự tang tó c, đau thương thì chẳ ng thể là m nên sứ c nặ ng củ a “Tâ y
Tiến”, chẳ ng thể là m nên mộ t khú c ca hà o hù ng, oanh liệt đến vậ y. Ngay câ u thơ thứ hai,
hình ả nh ngườ i lính hiện lên vớ i mộ t chí khí đầ y anh dũ ng “Chiến trườ ng đi chẳ ng tiếc đờ i
xanh”. Đâ y là cá ch nó i đầ y chủ độ ng, sẵ n sà ng chiến đấ u vì lý tưở ng củ a Đả ng. Câ u thơ vang
lên trà n đầ y ý nghĩa, nâ ng ý thơ lên thà nh bi trá ng, bi hù ng. Hình ả nh thơ phả ng phấ t mộ t
lờ i thế sâ u nặ ng củ a nhữ ng trá ng sĩ “quyết tử cho tổ quố c quyết sinh”. Thế mớ i thấ y, cá i độ c
đá o củ a thơ Quang Dũ ng là viết về cá i bi, nhưng bi mà khô ng lụ y. Nhữ ng ngườ i lính nơi biên
cương phả i chịu đưng bao khổ cự c đến tậ n cù ng nhưng lạ i khô ng hề gụ c ngã trướ c cuộ c đờ i,
số mệnh. Cá c anh số ng hết mình vì lý tưở ng cao đẹp, vớ i tinh thầ n sẵ n sà ng hy sinh “mộ t đi
khô ng trở lạ i”. Câ u thơ vang lên như mộ t lờ i khẳ ng định, mộ t triết lý số ng củ a nhữ ng chà ng
trai thờ i loạ n. Thậ t đá ng ngưỡ ng mộ và trâ n quý!

Vậ y nên, cá i chết củ a nhữ ng ngườ i chiến sĩ hiện lên mớ i cao đẹp là m sao:

Áo bào thay chiếu anh về với đất

Tá c giả đã sử dụ ng hà ng loạ t từ Há n Việt và biện phá p nó i giả m nó i trá nh để vĩnh viễn hó a


sự hy sinh củ a ngườ i lính Tâ y Tiến. “Á o bà o” là mộ t sá ng tạ o rấ t độ c đá o củ a Quang Dũ ng.
Cù ng vớ i đó là hình ả nh “anh về vớ i đấ t” hiện lên thậ t ấ m á p, châ n thương. “Về vớ i đấ t” là về
lạ i vớ i đấ t sinh thà nh, là nhữ ng điều thâ n thuộ c củ a quê hương, tổ quố c. “Anh về vớ i đấ t” là
để số ng mã i cù ng nú i sô ng. Để rồ i, câ u thơ khép lạ i trong â m thanh gầ m thét củ a sô ng Mã :

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Vớ i hai lầ n xuấ t hiện trong bà i thơ, Sô ng Mã hiện lên như mộ t chứ ng nhâ n lịch sử , gắ n
liền trên con đườ ng hà nh quâ n củ a binh đoà n Tâ y Tiến. Sự ra đi củ a ngườ i lính là mộ t hiện
thự c tấ t yếu củ a chiến tranh và thiên nhiên cũ ng đau đớ n như lò ng ngườ i. Sô ng Mã thay lờ i
nú i sô ng cấ t lên khú c ca tiễn đưa ngườ i tử sĩ. Chữ “gầ m” đượ c Quang Dũ ng dù ng rấ t hay. Đó
là â m vang củ a sô ng nú i, củ a sự bi trá ng đượ c kết tinh từ nỗ i đau nhó i đến quặ n lò ng. Tá c
giả khô ng hề nhắ c đến nướ c mắ t củ a ngườ i ở lạ i mà chỉ mượ n Sô ng Mã - linh hồ n Tâ y Bắ c
để nêu bậ t bao bi thương, mấ t má t. Giờ đâ y, ngườ i lính cá ch mạ ng đã hò a nhậ p cù ng sô ng
nú i, quê hương. Bở i vậ y, nỗ i buồ n vang lên cũ ng thậ t đặ c biệt. Cá c anh trở về vớ i đấ t mẹ, vớ i
thiên nhiên – đó chính là sự hy sinh cao đẹp nhấ t.
Đoạ n thơ hiện lên là sự kết hợ p uyển chuyển giữ a cả m hứ ng lã ng mạ n và tinh thầ n bi
trá ng. Nét lã ng mạ n đượ c thể hiện qua cá i tô i trà n đầ y tình cả m, cả m xú c củ a thi nhâ n và
cũ ng là củ a ngườ i lính Tâ y Tiến. Cả m hứ ng ấ y đã phá t huy cao độ trí tưở ng tượ ng, tô đậ m
cá i phi thườ ng củ a con ngườ i cá ch mạ ng. Cò n tinh thầ n bi trá ng lạ i đượ c thi nhâ n đan cà i
trong nhữ ng nỗ i buồ n, niềm đau, nhờ cả m hứ ng lã ng mạ n mà cà ng trở nên bi hù ng. Chấ t bi
trá ng đượ c Quang Dũ ng tá i hiện qua nhữ ng hình ả nh đố i lậ p “khô ng mọ c tó c” – “xanh mà u
lá ” vớ i “mắ t trừ ng” – “dữ oai hù m”. Đặ c biệt, là khi ô ng viết về cá i chết nhưng đó khô ng phả i
là cá i chết bi lụ y mà lạ i đầ y oai hù ng, lẫ m liệt. Và cứ thế, cả m hứ ng bi trá ng và lã ng mạ n đã
trở thà nh nét đẹp riêng, khơi gợ i bao cả m xú c trong lò ng ngườ i.

Bằ ng sự kết hợ p hà i hò a giữ a cá i nhìn hiện thự c và cả m hứ ng lã ng mạ n, bà i thơ đã khắ c


họ a............................................... Chỉ vậ y thô i cũ ng khiến ngườ i ta nhớ hoà i về mộ t bà i thơ, mộ t
ngườ i thơ:

Tây Tiến biên cương mờ lửa khói

Quân đi lớp lớp động cây rừng

Và bài thơ ấy, con người ấy

Vẫn sống muôn đời với núi sông.

(Giang Nam)

You might also like