Professional Documents
Culture Documents
TÂY TIẾN
TÂY TIẾN
Quang Dũ ng là mộ t nghệ sĩ đa tà i, nhưng đượ c biết đến nhiều hơn cả vẫ n là mộ t nhà thơ.
Thơ ô ng mang vẻ phong khoá ng, lã ng mạ n cù ng khả nă ng cả m nhậ n tinh tế vẻ đẹp củ a thiên
nhiên và tình ngườ i. “Tâ y Tiến” là bà i thơ củ a ngườ i lính viết về ngườ i lính – anh vệ quố c
quâ n thờ i 9 nă m chố ng Phá p. Tá c phẩ m ghi lạ i đờ i số ng đá nh giặ c củ a đấ t nướ c và lưu giữ
nhữ ng tâ m tình riêng củ a mộ t cá thể trướ c cuộ c khá ng chiến rộ ng lớ n. Trong đó , đoạ n thơ
đầ u thể hiện nỗ i nhớ củ a thi nhâ n về thiên nhiên Tâ y Bắ c hiểm trở và con đườ ng hà nh quâ n
đầ y gian khổ .
Câ u thơ hiện lên vớ i cuộ c vạ n lý trườ ng chinh gian khổ mà hà o hù ng. Hình ả nh Sà i
Khao, Mườ ng Lá t gợ i sự mù mịt, â m u và cà ng huyền bí hơn cả qua ngò i bú t củ a Quang
Dũ ng. Ở Sà i Khao, sương như lấ p cả mộ t đoà n quâ n đang mỏ i và ngay câ u dướ i lạ i là mộ t
hình ả nh thơ thi vị, như thự c như hư. Câ u thơ “Mườ ng Lá t hoa về trong đêm hơi” đượ c tạ o
nên từ sá u thanh bằ ng nghe thậ t nhẹ nhà ng, chơi vơi. Hoa là hình ả nh tượ ng trưng cho cá i
đẹp mộ ng mơ củ a thiên nhiên Tâ y Bắ c. Hình ả nh thơ đẹp lung linh như hiện lên trong cõ i
mộ ng củ a ngườ i lính Tâ y Tiến, như hó a tâ m hồ n thi nhâ n.
Để rồ i, hình ả nh con đườ ng chiến tranh đượ c Quang Dũ ng đặ c tả qua khô ng gian nú i rừ ng
hoang vu, hiểm trở :
Cò n nú i thì lạ i “ngà n thướ c lên cao” – “ngà n thướ c xuố ng”. Câ u thơ đượ c ngắ t nhịp 4/3
đầ y ấ n tượ ng, đã bẻ gậ p khô ng gian thà nh hai chiều tương phả n: cao và sâ u. Cá i hay củ a
Quang Dũ ng là tá c giả mượ n cá i cao để nó i cá i sâ u, dù ng cá i sâ u khô n cù ng để tả cá i cao vô
tậ n. Đoạ n thơ cũ ng đượ c Quang Dũ ng sử dụ ng toà n thanh trắ c, tá i hiện cá i gồ ghề, hiểm trở
trên con đườ ng hà nh quâ n củ a ngườ i lính. Để rồ i ngay câ u sau, â m điệu thơ độ t ngộ t thay
đổ i. Câ u thơ toà n vầ n bằ ng “Nhà ai Pha luô ng mưa xa khơi” gợ i tả ấ n tượ ng về mộ t khô ng
gian dà n trả i, mênh mang. Dướ i mà n mưa giă ng mắ c khắ p đấ t trờ i, nhữ ng ngô i nhà nhỏ bé
như hiện lên giữ a biển khơi. Hình ả nh thơ cò n chấ t chứ a bao nỗ i niềm về quê hương, đấ t
nướ c củ a nhữ ng ngườ i lính Tâ y Tiến. Ta bắ t gặ p mộ t á nh nhìn bình yên, tha thiết trên
nhữ ng dò ng thơ ấ y...
Con đườ ng chiến tranh đâ u chỉ có địa hình hiểm trở mà cò n hiện lên trong sự dữ dằ n củ a
thiên nhiên:
Để rồ i, đoạ n thơ khép lạ i trướ c nhữ ng kỉ niệm khô ng thể nà o quên trong đờ i lính:
Hình ả nh thơ gợ i nhắ c kỉ niệm ấ m á p về bữ a cơm củ a binh đoà n Tâ y Tiến. Hai chữ “Mù a
em” là mộ t sá ng tạ o đầ y độ c đá o củ a hồ n thơ Quang Dũ ng. “Mù a em” là mù a yêu, là mù a ta
gặ p em. “Thơm nếp xô i” là hương vị đặ c trưng củ a vù ng đấ t nà y, hiện lên đầ y tình tứ , hà o
hoa. Chừ ng ấ y thô i cũ ng đã khiến thi nhâ n phả i nhớ mã i về mộ t Tâ y Tiến thi vị, mộ ng mơ!
ĐOẠN KẾT
Giọ ng thơ vang lên đầ y trìu mến, vui sướ ng đến ngạ c nhiên, ngỡ ngà ng khi chà ng thanh
niên bắ t gặ p vẻ đẹp e thẹn, kiêu sa củ a ngườ i vũ nữ . Dườ ng như, ngườ i lính Tâ y Tiến khô ng
chỉ đắ m say mà cò n ngậ p trà n bao ngưỡ ng mộ , xú c cả m. Trướ c hiện thự c chiến tranh khố c
liệt, bằ ng tâ m hồ n hà o hoa, lã ng mạ n; nhữ ng chà ng trai ấ y vẫ n cứ mê say trướ c vẻ đẹp củ a
nghệ thuậ t. Câ u chữ củ a Quang Dũ ng như gieo rắ c và o lò ng ngườ i nhữ ng quyến rũ , say
đắ m, đan cà i giữ a thự c và ả o, giữ a chấ t thự c và chấ t thơ, giữ a hiện thự c và lã ng mạ n. Giờ
đâ y, Tâ y Bắ c hiện lên là mộ t bứ c tranh mang đậ m bả n sắ c nú i rừ ng, đằ m thắ m tình ngườ i.
Cá i đẹp củ a â m nhạ c, củ a nghệ thuậ t sẽ theo ngườ i lính trong suố t hà nh trình, sẽ hó a thi ca.
Sự kết tinh cuả nỗ i nhớ đã đượ c Quang Dũ ng thể hiện bằ ng nhữ ng nét vẽ mềm mạ i, tinh
tế. Đó là dá ng vẻ yểu điệu củ a cô lá i đò hay nét đong đưa rấ t duyên củ a nhữ ng nụ hoa. Dướ i
ngò i bú t tà i hoa củ a Quang Dũ ng, Tâ y Bắ c hiện lên mang đậ m chấ t thơ, đầ y mộ ng ả o. Chừ ng
ấ y thô i cũ ng đủ để ngườ i ta nhớ mã i về mộ t Tâ y Tiến thi vị, mộ ng mơ đến lạ lù ng!
Như vậ y, “Tâ y Tiến” cũ ng đã tá i hiện bao khổ cự c củ a hiện thự c chiến tranh nhưng lạ i
bằ ng giọ ng thơ đầ y độ c đá o. Quang Dũ ng đã chọ n lọ c nhữ ng nét tiêu biểu nhấ t củ a đoà n
binh để xâ y dự ng tượ ng đà i nghệ thuậ t về họ . Để rồ i, đố i lậ p vớ i hình ả nh ấ y chính là mộ t sự
hù ng dũ ng, ngang tà ng “mắ t trừ ng” “dữ oai hù m”. Đó là khí phá ch hiên ngang, chấ t phá t, bấ t
chấ p bao khổ cự c củ a binh đoà n Tâ y Tiến. Dù gian khổ , khắ c nghiệt nhưng cố t cá ch ngườ i
lính vẫ n rấ t can trườ ng, gâ n guố t. Ngườ i lính ngay trong khó khă n, thiếu thố n vẫ n luô n bộ c
lộ phẩ m chấ t oai hù ng, lẫ m liệt. Nhữ ng câ u thơ vang lên như mộ t chứ ng nhâ n lịch sử về mộ t
thờ i đạ i hà o hù ng củ a dâ n tộ c. Đú ng như Chế Lan Viên từ ng viết: “Thơ hay như ngườ i con
gá i đẹp, ở đâ u đi đâ u cũ ng lấ y đượ c chồ ng”.
Hai câ u thơ như chứ a đự ng hai thế giớ i, đượ c ngườ i lính gử i về hai phương trờ i. Đó là
biên cương – nơi cò n đầ y bó ng giặ c và Hà Nộ i yêu dấ u, kiều diễm. “Đêm mơ” là sự lã ng mạ n,
đa tình đa cả m. Ngườ i lính dấ n thâ n nơi biên cương khô ng chỉ mang theo ý chí, mang mộ ng
lậ p cô ng mà cò n cả cá i lã ng mạ n, tình tứ củ a “dá ng kiều thơm”. Hình ả nh thơ vừ a tá i hiện
nét đẹp duyên dá ng củ a ngườ i thiếu nữ ; vừ a bộ c lộ bao tâ m tình củ a ngườ i lính cá ch mạ ng.
Câ u thơ vang lên ẩ n chứ a mộ t chú t gì đó đá ng yêu, thơ mộ ng.
Chiến trườ ng hiện lên trong thơ phả ng phấ t mộ t nét buồ n da diết. Cá i hay củ a thơ Quang
Dũ ng là ô ng khô ng hề né trá nh thự c tạ i mà đã tá i hiện trự c tiếp sự khố c liệt củ a hiện thự c
chiến tranh “Rả i rá c biên cương mồ viễn xứ ”. Ta chợ t nhớ đến nhữ ng dò ng thơ củ a Đoà n
Thị Điểm:
Thế nhưng, nếu chỉ gợ i sự tang tó c, đau thương thì chẳ ng thể là m nên sứ c nặ ng củ a “Tâ y
Tiến”, chẳ ng thể là m nên mộ t khú c ca hà o hù ng, oanh liệt đến vậ y. Ngay câ u thơ thứ hai,
hình ả nh ngườ i lính hiện lên vớ i mộ t chí khí đầ y anh dũ ng “Chiến trườ ng đi chẳ ng tiếc đờ i
xanh”. Đâ y là cá ch nó i đầ y chủ độ ng, sẵ n sà ng chiến đấ u vì lý tưở ng củ a Đả ng. Câ u thơ vang
lên trà n đầ y ý nghĩa, nâ ng ý thơ lên thà nh bi trá ng, bi hù ng. Hình ả nh thơ phả ng phấ t mộ t
lờ i thế sâ u nặ ng củ a nhữ ng trá ng sĩ “quyết tử cho tổ quố c quyết sinh”. Thế mớ i thấ y, cá i độ c
đá o củ a thơ Quang Dũ ng là viết về cá i bi, nhưng bi mà khô ng lụ y. Nhữ ng ngườ i lính nơi biên
cương phả i chịu đưng bao khổ cự c đến tậ n cù ng nhưng lạ i khô ng hề gụ c ngã trướ c cuộ c đờ i,
số mệnh. Cá c anh số ng hết mình vì lý tưở ng cao đẹp, vớ i tinh thầ n sẵ n sà ng hy sinh “mộ t đi
khô ng trở lạ i”. Câ u thơ vang lên như mộ t lờ i khẳ ng định, mộ t triết lý số ng củ a nhữ ng chà ng
trai thờ i loạ n. Thậ t đá ng ngưỡ ng mộ và trâ n quý!
Vậ y nên, cá i chết củ a nhữ ng ngườ i chiến sĩ hiện lên mớ i cao đẹp là m sao:
Vớ i hai lầ n xuấ t hiện trong bà i thơ, Sô ng Mã hiện lên như mộ t chứ ng nhâ n lịch sử , gắ n
liền trên con đườ ng hà nh quâ n củ a binh đoà n Tâ y Tiến. Sự ra đi củ a ngườ i lính là mộ t hiện
thự c tấ t yếu củ a chiến tranh và thiên nhiên cũ ng đau đớ n như lò ng ngườ i. Sô ng Mã thay lờ i
nú i sô ng cấ t lên khú c ca tiễn đưa ngườ i tử sĩ. Chữ “gầ m” đượ c Quang Dũ ng dù ng rấ t hay. Đó
là â m vang củ a sô ng nú i, củ a sự bi trá ng đượ c kết tinh từ nỗ i đau nhó i đến quặ n lò ng. Tá c
giả khô ng hề nhắ c đến nướ c mắ t củ a ngườ i ở lạ i mà chỉ mượ n Sô ng Mã - linh hồ n Tâ y Bắ c
để nêu bậ t bao bi thương, mấ t má t. Giờ đâ y, ngườ i lính cá ch mạ ng đã hò a nhậ p cù ng sô ng
nú i, quê hương. Bở i vậ y, nỗ i buồ n vang lên cũ ng thậ t đặ c biệt. Cá c anh trở về vớ i đấ t mẹ, vớ i
thiên nhiên – đó chính là sự hy sinh cao đẹp nhấ t.
Đoạ n thơ hiện lên là sự kết hợ p uyển chuyển giữ a cả m hứ ng lã ng mạ n và tinh thầ n bi
trá ng. Nét lã ng mạ n đượ c thể hiện qua cá i tô i trà n đầ y tình cả m, cả m xú c củ a thi nhâ n và
cũ ng là củ a ngườ i lính Tâ y Tiến. Cả m hứ ng ấ y đã phá t huy cao độ trí tưở ng tượ ng, tô đậ m
cá i phi thườ ng củ a con ngườ i cá ch mạ ng. Cò n tinh thầ n bi trá ng lạ i đượ c thi nhâ n đan cà i
trong nhữ ng nỗ i buồ n, niềm đau, nhờ cả m hứ ng lã ng mạ n mà cà ng trở nên bi hù ng. Chấ t bi
trá ng đượ c Quang Dũ ng tá i hiện qua nhữ ng hình ả nh đố i lậ p “khô ng mọ c tó c” – “xanh mà u
lá ” vớ i “mắ t trừ ng” – “dữ oai hù m”. Đặ c biệt, là khi ô ng viết về cá i chết nhưng đó khô ng phả i
là cá i chết bi lụ y mà lạ i đầ y oai hù ng, lẫ m liệt. Và cứ thế, cả m hứ ng bi trá ng và lã ng mạ n đã
trở thà nh nét đẹp riêng, khơi gợ i bao cả m xú c trong lò ng ngườ i.
(Giang Nam)