You are on page 1of 100

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ


CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


Đề tài:
VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở MỘT SỐ
QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC CHO CÁC DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Văn Hoà


Lớp : Anh 2
Khóa : 45A
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Trần Hồng Ngân

Hµ Néi - 05/2010
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

CHƢƠNG I: Lý luận chung về đạo đức kinh doanh ........................................... 4

1. Tổng quan về đạo đức kinh doanh. ........................................................... 4

1.1. Khái niệm đạo đức. ................................................................................ 4

1.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh. ............................................................. 6

1.2.1. Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh trong các thời kì
lịch sử. ....................................................................................................... 6

1.2.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh. .................................................... 10

2. Các khía cạnh thể hiện của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp. . 15

2.1. Đạo đức trong quản trị doanh nghiệp. .................................................. 15

2.2. Đạo đức trong quan hệ với cổ đông. .................................................... 18

2.3. Đạo đức trong quan hệ với khách hàng. ............................................... 19

2.4. Đạo đức trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường. ............................... 21

3. Vai trò của đạo đức kinh doanh. ............................................................. 23

3.1. Đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh
doanh. ............................................................................................................ 23

3.2. Đạo đức kinh doanh góp phần làm tăng chất lượng quản lý của doanh
nghiệp. ........................................................................................................... 24

3.3. Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân viên. .
............................................................................................................ 25

3.4. Đạo đức kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng. ..................... 25

3.5. Đạo đức kinh doanh góp phần tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. ....... 26
3.6. Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền kinh tế quốc
gia. ............................................................................................................ 27

Chƣơng II: Vấn đề đạo đức kinh doanh ở một số quốc gia ............................... 29

1. Mỹ - nền kinh tế và nền tảng đạo đức kinh doanh phát triển nhất
thế giới. ......................................................................................................... 29

2. Nhật Bản. ........................................................................................... 45

3. Trung Quốc. ....................................................................................... 61

Chƣơng III: Bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến
trình hội nhập. ..................................................................................................... 75

1. Thực trạng đạo đức kinh doanh Việt Nam. ............................................ 75

2. Bài học kinh nghiệm để phát triển đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. ... 86

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 94


LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, liên tiếp xảy ..ra những vụ bê
bối liên quan đến những hành vi thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp Việt
Nam đối với khách hàng, người tiêu dùng, cổ đông và toàn xã hội với những
hành vi tiêu biểu như: hành vi sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm không an
toàn, kém chất lượng, gây tác hại cho sức khỏe người tiêu dùng, trong đó nổi
cộm là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm...; hành vi thiếu minh bạch, thiếu
trung thực, thiếu trách nhiệm trong việc công bố các thông tin tài chính, thông
tin hoạt động của doanh nghiệp cho các cổ đông, cho công chúng nhà đầu tư,
đặc biệt là vấn đề công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường chứng khoán.... Những vụ bê bối ấy đang đặt ra nhiều câu hỏi về trách
nhiệm xã hội cũng như đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Liệu rằng khái niệm đó có thực sự tồn tại trong các doanh nghiệp? Nếu như
chúng tồn tại thì chúng đang đóng vai trò gì trong hoạt động của các doanh
nghiệp? Và làm thế nào để phát triển, phát huy vai trò của đạo đức kinh
doanh, trách nhiệm xã hội trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam?

Nhìn ra các nước phát triển trên thế giới, trong quá trình phát triển của
mình, họ đã đúc rút ra những bài học kinh nghiệm về vai trò, tầm quan trọng
của đạo đức kinh doanh, cũng như sự cần thiết phải áp dụng, phát triển vai trò
của chúng trong hoạt động của doanh nghiệp. Hiện nay, chính phủ và bản
thân doanh nghiệp ở những nước phát triển đã tích cực có những hành động,
biện pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu trên.

1
Hiện nay, khái niệm đạo đức kinh doanh vẫn còn khá mới mẻ ở Việt
Nam; trong khi đó ở các nước phát triển, đạo đức kinh doanh đã trở thành một
khái niệm quen thuộc, và đã có những bước phát triển không ngừng. Chúng ta
là những người đi sau, có lợi thế là có thể học hỏi, đúc rút được những kinh
nghiệm từ quá trình phát triển của các quốc gia đi trước để tránh những sai lầm
và thúc đẩy quá trình phát triển của chính mình. Theo nguyên tắc này, người
viết đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Vấn đề đạo đức kinh doanh ở một số quốc
gia và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập”, để góp phần phát triển đạo đức kinh doanh trong các doanh nghiệp
ở Việt Nam – một vấn đề rất bức thiết đối với Việt Nam hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu.

Thông qua nghiên cứu tìm hiểu sự phát triển của đạo đức kinh doanh
cũng như những biện pháp, cách thức mà Chính phủ, xã hội và bản thân các
doanh nghiệp ở một số quốc gia đã và đang tiến hành để nâng cao đạo đức
trong doanh nghiệp, người viết sẽ rút ra những kinh nghiệm, biện pháp phù
hợp cho Việt Nam để thực hiện mục tiêu xây dựng, nâng cao đạo đức kinh
doanh trong hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiện trạng và sự phát triển của đạo
đức kinh doanh ở ba quốc gia đó là: Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc. Lý do người
viết chọn ba quốc gia trên đó là Mỹ và Nhật Bản là hai cường quốc kinh tế
mạnh nhất trên thế giới, đồng thời cũng là những nước đã có sự phát triển cao
về thực hiện đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp; và Trung Quốc là một
đất nước đang phát triển đang trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế trên thế giới, bên
cạnh đó, bối cảnh cũng như các đặc điểm kinh tế - xã hội của Trung Quốc có

2
rất nhiều nét tương đồng đối với Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu là các chính
sách, luật pháp của các Chính phủ, các chính sách của các công ty và các tài
liệu của tổ chức xã hội liên quan đến đạo đức kinh doanh.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu để áp dụng chủ yếu là nghiên cứu phân tích
và tổng hợp tài liệu.
5. Bố cục.
Luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng I: Lý luận chung về đạo đức kinh doanh.
Chƣơng II: Vấn đề đạo đức kinh doanh ở một số quốc gia.
Chƣơng III: Một số bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
Cuối cùng, người viết xin gửi lời chân thành cảm ơn đến ThS. Trần
Hồng Ngân – Giảng viên Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế - Trường Đai
học Ngoại Thương đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ người viết trong quá
trình hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2010

3
CHƢƠNG I: Lý luận chung về đạo đức kinh doanh

1. Tổng quan về đạo đức kinh doanh.


1.1. Khái niệm đạo đức.
Theo quan niệm phương Tây, đạo đức được viết trong tiếng La-tinh là
từ Moralital (luân lý) có nghĩa là bản thân mình cư xử và trong tiếng Hi
Lạp là từ “Ethigos” (đạo lý) có nghĩa là người khác muốn ta hành xử và ta
muốn người khác như vậy.
Đối với quan niệm của người phương Đông mà tiêu biểu là trong văn
minh Trung Hoa, người ta quan niệm “đạo” là đường đi, đường sống của
con người, “đức” là các nguyên tắc luân lý, đức tính cần có của con người.

Như vậy, tổng kết lại, khái niệm đạo đức đƣợc hiểu là tập hợp các
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh, đánh giá hành
vi của con ngƣời đối với bản thân và trong quan hệ với cá nhân khác,
với toàn xã hội.[Dương Thị Liễu, 2006]

Có thể nói, đạo đức ra đời từ rất sớm ngay trong những hình thái xã
hội đầu tiên của loài người.Trong xã hội, đạo đức thường được thể hiện
qua những chuẩn mực và quy tắc đạo đức được phân ra hai loại là tốt và
xấu như: lòng độ lượng, bác ái, tính thật thà, tham lam, lùa dối... Những
chuẩn mực và quy tắc này được hình thành trên nguyên tắc phải có sự thừa
nhận tự nguyện của cả cộng đồng xã hội. Nó được chấp hành dựa trên sức
mạnh của sự thôi thúc của lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, của tập
quán truyền thống và của giáo dục.. Thông qua hệ thống các chuẩn mực và
quy tắc đạo đức này, đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của
mỗi người đối với bản thân, những người xung quanh và toàn xã hội. Qua

4
đó, đạo đức điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Đây chính là
chức năng cơ bản của đạo đức trong suốt các thời kì lịch sử.

Với bản chất là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có hai đặc điểm:

Đạo đức có tính giai cấp, tính khu vực, tính địa phương: Điều kiện,
hoàn cảnh sống có tác động trực tiếp, ảnh hưởng lớn lên cách thức sinh
sống, lên tư duy và quan niệm về các vấn đề xã hội của con người. So sánh
giữa quan niệm đạo đức của các dân tộc ở các khu vực địa lý khác nhau,
giữa các giai cấp khác nhau ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt.

Nội dung của các chuẩn mực đạo đức thay đổi theo điều kiện lịch sử
cụ thể: Qua từng giai đoạn phát triển khác nhau của các hình thái tổ chức
xã hội. Chúng ta dễ dàng nhân thấy sự khác biệt trong chuẩn mực đạo đức
của từng thời kỳ. Nếu như trong xã hội phong kiến, việc trung thành với
quân vương là tiêu chuẩn tiên quyết trong đánh giá tư cách đạo đức con
người thì đến các xã hội sau này, tiêu chuẩn này đã mất đi.

Trong các hình thái xã hội phát triển cao hơn về sau này, khi có sự
xuất hiện của Nhà nước, pháp luật đã được ra đời và cùng đóng vai trò
điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội với đạo đức. Tuy nhiên, đạo
đức có những đặc điểm khác biệt mà pháp luật không có được:

 Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không mang tính cưỡng chế,
cưỡng bức như pháp luật mà mang tính tự nguyện. Các chuẩn mực đạo
đức cũng không được qui định thành văn.

 Phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn so với pháp luật khi nó
không chỉ điều chỉnh những hành vi của con người như pháp luật mà còn
bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần.

5
1.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh.
1.2.1. Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh trong các thời kì
lịch sử.
a) Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh trước thời kì hiện đại.

Lịch sử xuất hiện của đạo đức kinh doanh gắn liền với sự ra đời và
phát triển của buôn bán, thương mại trên thế giới. Từ thuở ban đầu, trong
các hoạt động buôn bán, trao đổi người ta đã qui định, đòi hỏi với nhau
những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức như: không được trộm cắp, phải
trung thực, sòng phẳng trong trao đổi; phải có chữ tín, tôn trọng các cam
kết thỏa thuận... Đây là những nguyên tắc ban đầu của đạo đức kinh
doanh.

Trong giai đoạn đầu phát triển, những tín điều tôn giáo đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành và xây dựng ý thức tuân thủ các nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức của mọi người.

Ở phương Tây, trong Luật Tiên tri lâu đời đã có những lời khuyên
như: đến mùa thu hoạch, mọi người không nên gặt hái hết hoa màu mà nên
dành lại một phần để dành cho những người nghèo khó; hay mỗi tuần nên
dành một ngày để cho cả chủ và thợ được nghỉ ngơi... Đến thời Trung cổ,
Giáo hội La Mã đã có Luật đề ra những nguyên tắc của đạo đức kinh
doanh như: mọi người phải trung thực trong trao đổi, buôn bán theo
nguyên tắc “thuận mua vừa bán”; không nên trả lương quá thấp cho người
làm công...

Ở phương Đông, những tư tưởng về đạo đức kinh doanh đã được tìm
thấy trong Luật Hồi giáo với những điều răn dạy ngăn cản việc cho vay lấy
lãi, trừ trường hợp bỏ vốn ra đầu tư, buôn bán thì được phép hưởng lợi và

6
đặc biệt là những tư tưởng của các học giả Trung Quốc thời cổ đại mà tiêu
biểu đó là Khổng Tử và Hàn Phi Tử. Nhắc đến Khổng Tử là nhắc đến tư
tưởng Đức trị được thể hiện qua Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Dũng
của ông.

Nhẫn là biết yêu thương, giúp đỡ người khác và lấy đó làm phương
hướng rèn luyện của bản thân. Nhân là yếu tố quan trọng nhất, đóng vai
trò chi phối trong Ngũ thường.

Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì dốc sức làm không mưu lợi cá nhân
với cả phương châm “không thành công cũng thành nhân”. Quan điểm này
đã được phát triển thành tư tưởng “đạo đức vĩ mô” trong đạo đức phương
Tây thời gian sau này.

Lễ là hình thức của Nhân, chủ trương “điều mình không muốn làm
cho mình thì không nên làm cho người khác”.

Trí là có trí tuệ, biết mình, biết người.

Dũng là sự kiên cường, quả cảm vượt qua khó khăn để đạt được mục
đích đề ra, thậm chí là sẵn sàng hi sinh bản thân vì mục đích cao cả. Ở
phương Tây, triết lý quản lý của nhiều công ty coi rủi ro là một yếu tố tất
yếu trong quá trình hoạt động, ra quyết định và họ khuyến khích tinh thần
dám đối mặt và phấn đấu vượt qua thách thức, khó khăn.

Khác hẳn với Khổng Tử, Hàn Phi Tử lại chủ trương dùng pháp trị, coi
hình phạt là cách thức ngăn chặn những hành vi xấu hiệu quả nhất. Ông
đưa ra ba khái niệm trong học thuyết cai trị của mình đó là Thế, Pháp và
Thuật.

7
Thế là quyền thế, là sự coi trọng quyền lực. Theo ông, quyền lực phải
được tập trung và thưởng phạt là cách thức cai trị.

Pháp là pháp luật, là căn cứ để phân biệt đúng – sai, phải – trái, thể
hiện tính công bằng và phải được công khai, phổ biến rộng rãi.

Thuật là nghệ thuật cai trị. Ông cho rằng trong nghệ thuật cai trị bao
gồm 2 khía cạnh là kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật là cách thức tuyển
dụng, đánh giá, quản lý. Còn tâm thuật là các mưu mẹo, thủ thuật khống
chế, điều khiển hành vi.

Trong những giai đoạn về sau, khi xã hội loài người đã có những bước
phát triển lên các giai đoạn cao hơn đánh dấu với sự ra đời và hoan thiện
của Nhà nước thì các nguyên tắc của đạo đức kinh doanh được dần dần
đưa vào trong luật pháp để ngày càng có tính ràng buộc, có hiệu lực điều
chỉnh hành vi xã hội mạnh cao hơn.

b) Sự phát triển của khái niệm đạo đức kinh doanh hiện đại.

Sang đến thế kỷ XX, đạo đức kinh doanh đã có những bước phát triển
vượt bậc khi trở thành một lĩnh vực nghiên cứu thu hút sự quan tâm của
nhiều học giả, các công ty, Nhà nước và của cả xã hội. Đạo đức kinh
doanh đã trở thành một lợi thế cạnh tranh quan trọng đối với các doanh
nghiệp. Sự phát triển của đạo đức kinh doanh trong thế kỷ XX được phân
chia thành các giai đoạn như sau:

 Trước thập kỷ 60, đạo đức kinh doanh được khởi đầu bằng các vấn đề
chủ yếu do các Giáo phái đưa ra, đề cập chủ yếu đến mối quan hệ giữa
người lao động và các chủ doanh nghiệp như Đạo Thiên chúa giáo dành
nhiều sự quan tâm đến mức sống , quyền lợi của người công nhân...

8
 Trong thập kỷ 60, đối tượng những người tiêu dùng bắt đầu được chú
ý. Các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng được ban hành. Năm 1963,
Tổng thống Mỹ đã đưa ra thông báo đặc biệt về quyền lợi người tiêu
dùng. Từ năm 1968 – 1970, một số luật có nội dung bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng được ban hành. Đây cũng là thập kỷ mà các vấn đề liên
quan đến môi trường sinh thái như vấn đề ô nhiễm, các chất độc hại cũng
đã bắt đầu được chú ý đến.

 Đến thập kỷ 70, đạo đức kinh doanh đã trở thành một lĩnh vực nghiên
cứu. Các trung tâm nghiên cứu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
được thành lập. Người ta đã đưa ra những khuyến nghị về những nguyên
tắc đạo đức kinh doanh cần được áp dụng trong hoạt động của doanh
nghiệp. Đặc biêt, khi những vấn đề như hối lộ, quảng cáo lừa gạt, an toàn
sản phẩm, hành vi thông đồng câu kết với nhau để áp đặt giá của một số
doanh nghiệp bị phát giác thì khái niệm đạo đức kinh doanh đã ngày càng
trở nên quen thuộc với người tiêu dùng và trở thành một đòi hỏi bức thiết
họ đối với các doanh nghiệp.

 Trong những năm 80, việc giảng dạy và nghiên cứu về đạo đức kinh
doanh đã có những bước tiến vượt bậc. Chỉ tính riêng ở Mỹ, đã có hơn 30
trung tâm nghiên cứu về đạo đức kinh doanh được thành lập. Các khóa học
về đạo đức kinh doanh tại các trường đại học của Mỹ đã tăng lên 500 khóa
và thu hút 70.000 sinh viên theo học. Các công ty lớn như:
Johnson&Johnson, Caterpiller đã thành lập những Ủy ban Đạo đức và
chính sách xã hội để giải quyết những vấn đề đạo đức trong công ty.

 Trong thập kỷ 90, đạo đức kinh doanh đã được thể chế hóa. Tháng
11/1991, Quốc hội Mỹ đã thông qua chỉ dẫn xử án đối với các tổ chức có

9
các hành vi vô đạo đức gây thiệt hại cho các bên được ghi thành luật và
những khuyến khích đối với các doanh nghiệp có những biện pháp ngăn
ngừa các hành vi phi đạo đức.

Bước sang thế kỷ XXI, vấn đề đạo đức kinh doanh tiếp tục được
nghiên cứu, xem xét đa dạng hơn từ nhiều góc độ khác nhau gồm luật
pháp, triết học và các khoa học xã hội khác. Đặc biệt khi yếu tố phát triển
bền vững ngày càng được các doanh nghiệp và cộng đồng xã hội chú trọng
thì vai trò của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp càng được đề cao,
trở thành một nhân tố không thể thiếu trong hoạt động của doanh nghiệp
bở vì chỉ khi doanh nghiệp hoạt động có đạo đức, doanh nghiệp mới có thể
có được sự phát triển bền vững.

1.2.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh.


Trên thế giới hiện nay, tồn tại rất nhiều định nghĩa về đạo đức kinh
doanh của các học giả, các nhà nghiên cứu dựa trên những góc độ và quan
điểm nhìn nhận khác nhau.

Khái niệm đơn giản nhất về đạo đức kinh doanh của các học giả
phương Tây đưa ra đó là định nghĩa của Brenner theo đó: “Đạo đức kinh
doanh là những nguyên tắc được chấp nhận để phân định đúng sai, nhằm
điều chỉnh hành vi của các nhà kinh doanh”.[TS. Nguyễn Hoàng
Ánh,2009]
Giáo sư người Mỹ Phillip V.Lewis đã dành thời gian điều tra, thu thập
185 định nghĩa về đạo đức kinh doanh được đề cập trong các sách báo,
các bài nghiên cứu. Qua đó, ông đã tổng hợp những định nghĩa này và
đưa ra định nghĩa đạo đức kinh doanh là: “Đạo đức kinh doanh là tất cả

10
những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ để cung cấp
chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ chức)
trong những trường hợp nhất định”.[TS. Nguyễn Hoàng Ánh, 2009]
Một khuyết điểm lớn trong những định nghĩa về đạo đức kinh doanh
của Giáo sư Philip V.Lewis và các học giả trước đó đó là họ nêu ra đạo
đức kinh doanh bao gồm những chuẩn mực, qui tắc ứng xử để phân định
các hành vi đúng sai trong hoạt động kinh doanh nhưng lại chưa chỉ ra
được bằng cách thức nào để xác định điều gì là đúng và điều gì là sai
trong hoạt động kinh doanh.
Phát triển từ định nghĩa của Giáo sư Lewis, hai học giả Ferrels và
John Fraedrich đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ hơn về đạo đức kinh
doanh đó là: Đạo đức kinh doanh bao gồm những nguyên tắc cơ bản và
tiêu chuẩn điều chỉnh hành vi trong thế giới kinh doanh. Tuy nhiên, việc
đánh giá một hành vi cụ thể là đúng hay sai, phù hợp với đạo đức hay
không sẽ được quyết định bởi nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng,các
nhóm có quyền lợi liên quan, hệ thống pháp lý cũng như cộng đồng”.[TS.
Nguyễn Hoàng Ánh, 2009]
Còn ở Việt Nam, giữa các học giả nghiên cứu về đạo đức kinh doanh
hiện nay cũng có sự tồn tại đan xen của nhiều định nghĩa khác nhau về
đạo đức kinh doanh.
Theo tác giả Dương Thị Liễu trong cuốn sách “Bài giảng về văn hóa
kinh doanh” thì đạo đức kinh doanh được định nghĩa là: “Đạo đức kinh
doanh là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh,
đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh.
[Dương Thị Liễu, 2006]

11
Còn theo GS.TS Nguyễn Mạnh Quân thì: “ Đạo đức kinh doanh bao
gồm những nguyên tắc và chuẩn mực có tắc dụng nhằm hướng dẫn hành
vi trong các mối quan hệ kinh doanh, chúng được những người hữu quan
(nhà quản lý, nhà đầu tư, người lao động, khách hàng, đối tác, các cơ
quan pháp lý, cộng đồng dân cư...) sử dụng để phát xét xem một hành
động cụ thể là đúng hay là sai, là hợp đạo đức hay phi đạo đức.”[GS. TS
Nguyễn Mạnh Quân, 2008]
Về bản chất, đạo đức kinh doanh cũng là một đạng đạo đức nghề
nghiệp. So với những tiêu chuẩn đạo đức trong các ngành nghề khác, đạo
đức kinh doanh có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh vốn gắn liền với
các lợi ích kinh tế, nên khía cạnh thể hiện trong ứng xử về đạo đức có
những đặc điểm khác như: tính thực dụng, sự coi trọng hiệu quả kinh tế là
yếu tố dược chấp nhận trong đạo đức kinh doanh.. Tuy vậy, đạo đức kinh
doanh vẫn luôn phải chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo
đức xã hội chung.

Đạo đức kinh doanh có các nguyên tắc là:

Tính trung thực: Gồm trung thực với Nhà nước cụ thể là: trung thực
trong chấp hành pháp luật của Nhà nước, không làm ăn phi pháp, không
sản xuất và buôn bán những mặt hàng quốc cấm, thực hiện những dịch vụ
có hại cho thuần phong mỹ tục... và trung thực với đối tác, người tiêu dùng
cụ thể là: không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm lời, giữ lời
hứa, giữ chữ tín trong kinh doanh, nhất quán trong nói và làm...

Tôn trọng con người: Đối với cộng sự và những người dưới quyền thì
phải tôn trọng phẩm giá, quyền lợi chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn
trọng tiềm năng phát triển của nhân viên, quan tâm đúng mức, tôn trọng

12
quyền tự do cá nhân và các quyền hợp pháp khác. Đối với khách hàng:
phải tôn trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng. Đối với đối thủ
cạnh tranh thì phải tôn trọng lợi ích của đối thủ.

Gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi
trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội.

Bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt.

Đạo đức kinh doanh điều chỉnh các chủ thể trong hoạt động kinh
doanh bao gồm:

Tầng lớp doanh nhân thực hiện hoạt động kinh doanh: đạo đức kinh
doanh điều chỉnh hành vi đạo đức của tất cả các thành viên trong các tổ
chức kinh doanh ( hộ gia đình, công ty, tập đoàn, xí nghiệp) như ban giám
đốc, cán bộ nhân viên... Sự điều chỉnh này chủ yếu thông qua công tác
lãnh đạo, quản lý trong những tổ chức đó. Đạo đức kinh doanh chính là
đạo đức nghề nghiệp của họ.

Khách hàng và các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp: Các khách
hàng khi thực hiện hoạt động mua hàng cũng đều xuất phát từ lợi ích kinh
tế của bản thân, đều có tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ chu đáo. Vì
vậy, nó cũng cần phải chịu sự điều chỉnh của đạo đức kinh doanh, tránh
tình trạng, khách hàng lợi dụng vị thế của mình để chèn ép, xâm phạm
danh dự, nhân phẩm của các doanh nhân.

So sánh đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.


Khái niệm trách nhiệm xã hội.
Các học giả và các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra rất nhiều
định nghĩa về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

13
Keith Davis (1973) đã đưa ra một khái niệm khá rộng về CSR đó là:
“CSR là sự quan tâm và phản ứng của doanh nghiệp với các vấn dề vuợt
ra ngoài việc thỏa mãn những yêu cầu pháp lý, kinh tế, công nghệ”.
Trong khi đó, Carroll (1999) cho rằng CSR còn có phạm vi lớn hơn
“là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức, và những linh vực khác mà
xã hội trông dợi ở doanh nghiệp trong mỗi thời điểm nhất định.”
Theo Matten và Moon (2004): “CSR là một khái niệm chùm bao gồm
nhiều khái niệm khác nhu đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp làm từ thiện,
công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách nhiệm môi truờng. Ðó là
một khái niệm rộng và luôn đuợc thử thách trong từng bối cảnh kinh tế,
chính trị, xã hội đặc thù.” [Nguyễn Thu Quỳnh, 2009]
Theo WB, trách niệm xã hội của doanh nghiệp là cam kết của doanh
nghiệp đóng góp cho sự phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân
thủ các chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn về lao
động, tôn trọng quyền lợi người lao động, trả lương công bằng, đào tạo và
phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng...theo cách có lợi cho doanh
nghiệp cũng như sự phát triển chung của xã hội.[Dương Thị Liễu, 2006]
Trách nhiệm xã hội là nghĩa vụ mà một doanh nghiệp phải thực hiện
đối với xã hội. Có trách nhiệm với xã hội là tăng đến mức tối đa các tác
dụng tích cực và giảm tới mức tối thiểu các hậu quả tiêu cực với xã hội.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng cách
đạt một chứng chỉ quốc tế hay áp dụng những bộ quy tắc ứng xử.
Mối quan hệ giữa đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.
Trên thực tế, khái niệm trách nhiệm xã hội được nhiều người hiểu là
một biểu hiện của đạo đức kinh doanh nhưng giữa hai khái niệm này có ý
nghĩa hoàn toàn khác nhau.

14
Nếu trách nhiệm xã hội là những nghĩa vụ một doanh ngiệp hay cá
nhân phải thực hiện đối với xã hội nhằm đạt được nhiều nhất những tác
động tích cực và giảm tối thiểu các tác động tiêu cực đối với xã hội, thì
đạo đức kinh doanh lại bao gồm các qui định và tiêu chuẩn đạo đức điều
chỉnh hành vi trong kinh doanh. Trách nhiệm xã hội là một cam kết với xã
hội, còn đạo đức kinh doanh lại bao gồm các qui định về các phẩm chất
đạo đức của các tổ chức kinh doanh và nó sẽ chi phối quá trình ra quyết
định của các tổ chức này.
Nếu đạo đức kinh doanh liên quan đến các nguyên tắc và qui định chi
phối các quyết định của các tổ chức kinh doanh thì trách nhiệm xã hội
quan tâm tới hậu quả của những quyết định mà các tổ chức kinh doanh
thực hiện. Đạo đức kinh doanh thể hiện những mong muốn, kì vọng xuát
phát từ bên trong, còn trách nhiệm xã hội thể hiện những mong muốn, kì
vong xuất phát từ bên ngoài.
Tuy có sự khác nhau nhưng giữa hai khái niệm này cũng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Đạo đức kinh doanh chính là sức mạnh trong trách
nhiệm xã hội vì chỉ khi bản thân các tổ chức có sự tuân thủ đạo đức thì họ
mới có thể thực sự có thành ý thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội của
mình.

2. Các khía cạnh thể hiện của đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp.
2.1. Đạo đức trong quản trị doanh nghiệp.
Vấn đề đạo đức trong quản trị doanh nghiệp chủ yếu được thể hiện
trong các vấn đề cơ bản liên quan đến mối quan hệ giữa người chủ sở hữu
hay quản lý đối với nhân viên như sau:

15
Đạo đức trong tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng lao động

Những vấn đề đạo đức trong quá trình tuyển dụng, bổ nhiệm lao động
thường gặp bao gồm:

Tình trạng phân biệt đối xử: Phân biệt đối xử là việc không cho phép
một người nào đó được hưởng những lợi ích nhất định xuất phát từ định
kiến về phân biệt biểu hiện ở các dạng như: phân biệt chủng tộc, giới tính,
tôn giáo, địa phương, tuổi tác....Trong tất cả các công việc luôn có những
tính chất, đặc điểm đòi hỏi người lao động phải có những đặc điểm về tuổi
tác, giới tính... nhất định, nhưng nhất thiết những yêu cầu này phải được
dựa trên những nguyên nhân hợp lý, theo đúng đòi hỏi thực tế của công
việc. Tuy vậy, có nhiều trường hợp quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm nhân
sự của nhà quản lý lại dựa trên những định kiến về phân biệt đối xử. Họ
thường quyết định dựa trên cơ sở người lao động thuộc một nhóm người
nào đó, đặc điểm của nhóm người này sẽ được gán cho người lao động bất
kể họ có những đặc điểm đó hay không và dựa trên giả định là nhóm
người này kém cỏi hơn nhóm người khác. Đó là những định kiến như: phụ
nữ khó có thể đưa ra những quyết định hợp lý nên không thể làm được
lãnh đạo, người da màu kém thông minh hơn người da trắng... Những
quyết định như vậy không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động mà
còn ảnh hưởng đến chính bản thên doanh nghiệp khi họ có thể mất đi
nguồn nhân lực có chất lượng.

Tôn trọng quyền riêng tư cá nhân của người lao động: Việc yêu cầu
người lao động cung cấp các thông tin cá nhân cho doanh nghiệp để hoạt
động quản lý được dễ dàng là yêu cầu chính đáng. Tuy nhiên, ngược lại
doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm bảo mật thông tin cá nhân cho

16
người lao động. Những trường hợp các nhà quản lý doanh nghiệp sử dụng
các thông tin cá nhân để phục vụ cho các ý đồ cá nhân như trả thù cá nhân,
nói xấu, trù đập, gây sức ép cho người lao động cần bị lên án và loại bỏ
trong doanh nghiệp.

Sử dụng và đãi ngộ người lao động hợp lý, xứng đáng: Doanh nghiệp
cần phải có chính sách sử dụng người lao động hợp lý, phù hợp với năng
lực của họ để họ có thể phát huy, đóng góp hết khả năng cho công ty. Bên
cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp cũng phải có những sự đãi ngộ tương
xứng với công sức người lao động đã đóng góp cho doanh nghiệp. Làm tốt
công tác sử dụng lao động sẽ giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, tăng
trưởng lợi nhuận bền vững. Những hành vi chèn ép, bóc lột người lao động
là những trường hợp cần hết sức tránh trong hoạt động của doanh nghiệp.

Đạo đức trong đánh giá ngƣời lao động.

Hành vi hợp đạo đức của người quản lý trong đánh giá người lao động
là người quản lý không được đánh giá người lao động trên cơ sở định kiến
hay những tình cảm cá nhân. Những nhân tố như sự yêu ghét cá nhân, sự
ghanh ghét, đố kỵ... hay dùng ấn tượng của mình về một nhóm người mà
người lao động thuộc nhóm người đó để nhìn nhận họ là những điều người
quản lý phải hết sức tránh.

Đánh giá người lao động phải dựa trên những đóng góp thực tế của họ
cho doanh nghiệp một cách vô tư, công bằng thông qua sự giám sát của
các nhà quản lý. Sự giám sát này cũng phải được thực hiện một cách cẩn
trọng và tế nhị, trên nguyên tắc tôn trọng quyền cá nhân của người lao
động, tránh gây áp lực, tâm lý căng thẳng hay xâm phạm thô bạo quyền cá
nhân cho người lao động.

17
Đạo đức trong bảo vệ ngƣời lao động.

Vấn đề quan trọng nhất trong bảo vệ người lao động là đảm bảo điều
kiện cho người lao động có một môi trường lao động an toàn và lành
mạnh. Đây là quyền cơ bản của người lao động mà doanh nghiệp phải tuân
thủ. Mặt khác, nếu để xảy ra những tai nạn, rủi ro cho người lao động thì
bản thân các doanh nghiệp phải gánh chịu những ảnh hưởng xấu tác động
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải
nhận thức rõ việc đảm bảo một môi trường làm việc an toàn, thuận lợi cho
người lao động cũng chính là đảm bảo cho tương lai phát triển bền vững
của doanh nghiệp. Tuy nhiên nhiều khi việc đảm bảo các yếu tố an toàn
cho người lao động làm doanh nghiệp mất một khoản chi phí không nhỏ
nên đã có những doanh nghiệp chỉ thực hiện một cách hình thức, nửa vời.
Những hành vi này cũng rất đáng bị lên án.

2.2. Đạo đức trong quan hệ với cổ đông.


Cổ đông là các cá nhân, nhóm cá nhân hay các tổ chức đóng góp một
phần hay toàn bộ nguồn lực vật chất, tìa chính cần thiết cho các hoạt động
của doanh nghiệp và có quyền sở hữu, kiểm soát nhất định đối với doanh
nghiệp thông qua giá trị đóng góp. Cổ đông có thể trực tiếp tham gia quản
lý công ty hay ủy quyền cho những nhà quản lý chuyên nghiệp.

Các vấn đề đạo đức nảy sinh trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp
với các cổ đông chủ yếu phát sinh từ mối quan hệ giữa sở hữu và quản lý
doanh nghiệp thể hiện ở mâu thuẫn giữa nhiệm vụ của nhà quản lý đối với
các cổ đông với lợi ích của chính họ và lợi ích của xã hội. Về cơ bản lợi
ích của cổ đông là được bảo toàn và phát triển giá trị tài sản. Trên thực tế,
có những lúc nhà quản lý phải đứng trước sự lựa chọn, quyết định giữa

18
những hoạt động có thể đem đến nguồn lợi nhuận lớn cho các cổ đông
nhưng gây thiệt hại cho xã hội; hay làm lợi cho bản thân nhưng gây thiệt
hại cho các cổ đông... Các nguyên tắc đạo đức đề ra cho người quản lý
trong trương hợp này là phải có những hành động sáng suốt, vô tư nhất,
trung thực nhất để hài hòa lợi ích của cổ đông với lợi ích của xã hội và lợi
ích bản thân. Xét đến cùng, sự phát triển bền vững của doanh nghiệp xuất
phát từ những đóng góp của nó cho xã hội cũng sẽ đem lại lợi ích lâu dài
cho các cổ đông và bản thân các nhà quản lý.

2.3. Đạo đức trong quan hệ với khách hàng.


Khách hàng chính là đối tượng phục vụ, là người sử dụng hàng hóa,
dịch vụ, đánh giá chất lượng, tái tạo và phát triển nguồn lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Những vấn đề đạo đức của doanh nghiệp liên quan đến
khách hàng thường là những thủ đoạn marketing phi đạo đức và vấn đề an
toàn sản phẩm. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới nảy sinh những vấn đề trên
là từ sự tồn tại của sự bất bình đẳng thông tin giữa người sản xuất và người
tiêu dùng: người sản xuất luôn nắm rõ thông tin về sản phẩm của mình,
còn người tiêu dùng luôn ở thế bị động, họ phải quyết định có nên mua sản
phẩm hay không dựa trên những nguồn thông tin hạn hẹp về sản phẩm.
Hậu quả dễ xảy ra là người tiêu dùng phải chịu những thiệt thòi lớn.

2.3.1. Những hoạt động marketing phi đạo đức.

Bản chất của hoạt động marketing là hoạt động nhằm hướng dòng lưu
chuyển hàng hóa và dịch vụ từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Triết lý
của marketing là thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng nhờ đó tối đa lợi
nhuận cho doanh nghiệp và tối đa lợi ích cho xã hội. Nguyên tắc chỉ đạo
của marketing là tất cả các hoạt động marketing đều phải định hướng vào

19
người tiêu dùng . Vì vậy, nguyên tắc đạo đức trong hoạt động marketing
đòi hỏi hoạt động này phải cung cấp thông tin một cách chính xác, trung
thực nhất cho người tiêu dùng cũng như tôn trọng quyền cá nhân của họ
giúp người tiêu dùng có những quyết định lựa chọn phù hợp và chính xác
nhất. Bất kỳ biện pháp marketing nào cung cấp những thông tin dẫn đến
quyết định sai lầm của người tiêu dùng đều là phi đạo đức.

Các vấn đề liên quan đạo đức liên quan đến marketing thường nảy sinh
chủ yếu trong quảng cáo và bán sản phẩm, định giá hay trong các kênh
phân phối điều khiển dòng sản phẩm từ nơi sản xuất tới tay khách hàng.
Các hình thức quảng cáo bị coi là phi đạo đức thường gặp như: quảng cáo
phóng đại, thổi phồng sản phẩm vượt quá mức hợp lý hoặc che dấu sự
thật, đưa ra những thông tin mơ hồ về sản phẩm tạo nên niềm tin sai lầm
của người tiêu dùng về sản phẩm, gây trở ngại cho người tiêu dùng trong
việc đưa ra quyết định lựa chọn tiêu dùng tối ưu, dẫn dắt người tiêu dùng
đến những quyết định lựa chọn lẻ ra họ không thực hiện nếu không có
quảng cáo; hay quảng cáo có hình thức khó coi, phi thị hiếu, không phù
hợp với văn hóa bản địa, nhắm vào những đối tượng nhạy cảm như trẻ em,
trẻ vị thành niên gây ảnh hưởng xấu đến hành vi, làm xói mòn nền văn
hóa. Bên cạnh đó là những chiêu thức bán hàng lừa gạt như bán hàng giảm
giá nhưng thực chất giá sản phẩm chưa hề được giảm mức nào, hoặc là ghi
nhãn “ sản phẩm giới thiệu” cho sản phẩm bán đại trà; hay bán cho người
tiêu dùng một sản phẩm với giá thấp nhưng để sử dụng được sản phẩm đó
khách hàng phải mua sản phẩm khác với mức giá cao hơn....gây thiệt hại
cho người tiêu dùng. Những hành vi như vậy cần được lên án mạnh mẽ từ
phía khách hàng, cũng như các tổ chức xã hội và cơ quan nhà nước.

20
2.3.2. Vấn đề an toàn sản phẩm.
Những biểu hiện của sản phẩm không an toàn là: những sản phẩm có
thể gây tai nạn cao khi có sự cố, những sản phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe,
những sản phẩm mang nội dung độc hại, kích thích bạo lực... Trách nhiệm
của nhà sản xuất là phải đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm an
toàn. Tuy vậy, trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp đa phần nằm ở các
nước đang phát triển khi sự kiểm soát của Nhà nước chưa đủ mạnh vẫn vì
lợi nhuận trước mắt mà cố tình lờ đi những qui định an toàn về sản phẩm,
sản xuất những mặt hàng có hại cho sức khỏe người tiêu dùng. Hậu quả
đối với những doanh nghiệp này sẽ là rất nặng nề. Vì vậy, để hướng tới sự
phát triển lâu dài, bền vững, các doanh nghiệp nhất thiết phải nhận thức rõ
trách nhiệm của mình, luôn giữ chữ tín trong sản xuất – kinh doanh.

2.4. Đạo đức trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường.
Cạnh tranh là một nhân tố tất yếu trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong kinh doanh, nó được xem là một nhân tố tích cực
thúc đẩy các doanh nghiệp luôn cố gắng tự hoàn thiện, nâng cao chất
lượng sản phẩm của mình để có thể tồn tại, phát triển và thành công trên
thị trường. Có rất nhiều biện pháp cạnh tranh mà doanh nghiệp có thể áp
dụng để cạnh tranh với các đối thủ của mình bao gồm cả những biện pháp
cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Những biện pháp
cạnh tranh lành mạnh tuy không thể mang lại hiệu quả tức thì cho doanh
nghiệp nhưng nó mang lại cho doanh nghiệp sự phát triển và thành công
bền vững khi uy tín kinh doanh của doanh nghiệp liên tục được duy trì và
nâng cao, doanh nghiệp luôn có hình ảnh đẹp trong mắt khách hàng và đối
tác kinh doanh. Mặc dù vậy, có nhiều doanh nghiệp chỉ nhìn thấy những
lợi ích trước mắt, muốn có được những hiệu quả tức thì đã áp dụng những

21
biện pháp cạnh tranh không lành mạnh nhằm chèn ép, giảm uy tín kinh
doanh để triệt hạ đối thủ kinh doanh. Họ có thể giành được nhanh chóng
nguồn lợi nhuận và thị phần cao, tuy nhiên hậu quả sau này sẽ khiến doanh
nghiệp bị xã hội tẩy chay và phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nặng
nề.

Trong kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh thể hiện phổ biến
nhất là ở hành vi thông đồng, câu kết giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm
thao túng thị trườn. Họ ngầm ký kết với nhau một hợp đồng, một thỏa
thuận để qui định giá cả, dịch vụ nhằm độc quyền kinh doanh để thu được
lợi nhuận kếch xù. Hành vi này sẽ bóp méo thị trường, gây thiệt hại rất lớn
cho người tiêu dùng và cả xã hội.

Một hành vi canh tranh không lành mạnh khác cũng hay được các
doanh nghiệp áp dụng là việc doanh nghiệp tập trung thu thập các thông
tin tấn công đối thủ cạnh tranh nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín kinh doanh
của họ để làm lợi cho bản thân. Điển hình là trong các cuộc đấu thầu giữa
các doanh nghiệp. Hành vi này sẽ tạo ra hoạt động kinh doanh không công
bằng, thiếu lành mạnh, cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp làm ăn
chân chính trên thị trường.

Cạnh tranh không lành mạnh còn thể hiện ở hành vi ăn cáp bí mật
thương mại của đối thủ nhằm giành được những công nghệ tiên tiến,
những bí quyết sản xuất... để có thể đi trước đối thủ, giành được lợi nhuận,
thị phần một cách nhanh chóng .

Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh như vậy chỉ thể hiện sự
yếu kém, sự thiếu tự tin của doanh nghiệp khi họ không thể cạnh tranh
sòng phẳng với các doanh nghiệp khác.

22
3. Vai trò của đạo đức kinh doanh.
3.1. Đạo đức kinh doanh góp phần điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh
doanh.
Đạo đức kinh doanh cùng với pháp luật điều chỉnh các hành vi kinh
doanh theo các qui định của pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Tuy nhiên, hành vi kinh doanh lại là kết quả của quá trình tư duy, ra quyết
định của những người chủ doanh nghiệp. Pháp luật dù có chặt chẽ, đày đủ
nhưng chỉ điều chỉnh được hành vi còn việc quyết định có tuân thủ luật
pháp hay không; hay có làm những hành vi trái pháp luật hay không lại
nằm trong suy nghĩ, nhân cách của người chủ doanh nghiệp. Chỉ có đạo
đức kinh doanh mới có thể có ảnh hưởng, tác động đến suy nghĩ, thức tỉnh
lương tâm, khuyến khích họ làm những điều tốt, điều thiện. mặt khác,
pháp luật càng đày đủ, chặt chẽ và được thi hành một cách nghiêm minh
thì đạo đức càng được đề cao. Những hình phạt nghiêm khắc dành cho
những người có các hành vi kinh doanh phi đạo đức sẽ ép buộc họ cư xử
phải có đạo đức và tuân theo pháp luật.
Một doanh nghiệp muốn phát triển lâu dài thì phải hoạt động có hiệu
quả, phải thu được lợi nhuận. Lợi nhuận này chỉ có thể có khi doanh
nghiệp có đựoc sự hợp tác, ủng hộ từ phí người tiêu dùng. Điều này không
chỉ được quyết định bởi chất lượng của sản phẩm mà còn được quyết định
bởi hành vi của doanh nghiệp với cộng đồng với xã hội. Doanh nghiệp có
hành vi phi đạo đức sẽ bị mọi người tẩy chay, lên án gây thiệt hại lớn cho
doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp hoạt động có đạo sẽ nhận được sự
tín nhiệm từ phía người tiêu dùng và kết qaủ thể hiện ở nguồn lợi nhuận ổn
định, sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

23
3.2. Đạo đức kinh doanh góp phần làm tăng chất lượng quản lý của doanh
nghiệp.
Một doanh nghiệp có nền tảng đạo đức kinh doanh vững vàng với hệ
thống các chuẩn mực, qui tắc đạo đức rõ ràng có sức chi phối sẽ giúp cho
chất lượng hoạt động của doanh nghiệp được đảm bảo và thông suốt từ các
cấp lãnh đạo đến toàn thể nhân viên.
Việc xây dựng và truyền bá các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của
doanh nghiệp thông qua việc thiết lập các chương trình đàog tạo về đạo
đức kinh doanh cho nhân viên, hay ban hành hệ thống tiêu chuẩn đạo đức
trong công ty...được tiến hành càng tốt bao nhiêu thì càng giúp cho hoạt
động của doanh nghiệp càng hiệu quả, giúp ngăn chặn những hành vi phi
đạo đức, trục lợi cá nhân, phá hoại từ bên trong doanh nghiệp. Các nhà
lãnh đạo có đạo đức sẽ gây dựng được bầu không khí làm việc hòa đồng,
thuận lợi cho tất cả mọi người, thu hút được nhiều sự đóng góp tích cực từ
các nhân viên. Đồng thời, họ cũng dễ dàng đi đến những sự đồng thuận
cho các vấn đề trên nền tảng đạo đức có lợi cho sự phát triển của công ty,
tránh các hành vi trục lợi cá nhân bất chính. Tương tự như vậy, các nhân
viên có nhận thức đạo đức tốt se giúp nâng cao năng suất, hiệu quả lao
động khi khả năng hợp tác, làm việc theo nhóm giữa các nhân viên trong
một phòng hay giữa các phòng ban được nâng cao bởi giữa họ có sự tin
tưởng tuyết đối với nhau trên nền tảng đạo đức. Đồng thời, khi các nhân
viên hành động theo các tiêu chuẩn đạo đức, họ sẽ tạo được thiện cảm
trong mắt khách hàng giúp mối quan hệ giữa khách hàng với công ty ngày
càng gắn bó, bền chặt. Thực chất, những người được lam việc trong một
môi trường đạo đức tin rằng họ sẽ phải tôn trọng tất cả các đối tác kinh
doanh của mình, không kể những đối tác ấy ở bên trong hay bên ngoài

24
công ty. Họ cần phải cung cấp những giá trị tốt nhất có thể có cho các
khách hàng và cổ đông.

3.3. Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự cam kết và tận tâm của nhân
viên.
Chất lượng làm việc của nhân viên chính là yếu tố quyết định đến sự
hài lòng của khách hàng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các
nhân viên sẽ làm việc với khả năng cao nhất, sẽ trung thành, tận tâm đối
với doanh nghiệp khi họ nhận thấy rằng tương lai của họ gắn liền với
tương lai của doanh nghiệp và họ sẽ sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân của
mình cho lợi ích chung của toàn công ty. Muốn được như vậy thì trước hết
doanh nghiệp phải cho thấy sự quan tâm, sự đối xử công bằng, có đạo đức
của mình đối với nhân viên. Một môt trường lao động an toàn, vui vẻ, hòa
đồng, có thù lao xứng đáng và được tôn trọng, được doanh nghiệp thực
hiện đày đủ các cam kết sẽ là yếu tố quyết định giúp doanh nghiệp thể hiện
được điều đó.
Bên cạnh đó, những hoạt động, đóng góp có đạo đức kinh doanh của
công ty cho cộng đồng không chỉ tạo nên hình ảnh tốt đạp của doanh
nghiệp trong mắt công chúng mà còn tạo nên nièm tự hào, sự gắn bó của
các nhân viên đối với công ty.
Một doanh nghiệp luôn quan tâm, chăm sóc các nhân viên của mình
sẽ không chỉ giữ chân được các nhân viên hiện tại mà còn thu hút thêm
được những nhân viên tài năng đóng góp cho công ty. Điều này sẽ tạo nên
lợi thế cạnh tranh to lớn giúp công ty thành công trên thị trường.

3.4. Đạo đức kinh doanh góp phần làm hài lòng khách hàng.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các khách hàng thích mua các sản
phẩm của các công ty có danh tiếng tốt, luôn quan tâm đến lợi ích của

25
cộng đồng. Các công ty có đạo đức kinh doanh thể hiện trong việc luôn
liên tục cải tiến chất lượng sản phẩm, cung cấp cho khách hàng các thông
tin về sản phẩm một cách rõ ràng, trung thực ,dễ hiểu, dễ tiếp cận; cũng
như luôn quan tâm, chăm sóc đến quyền lợi của khách hàng khi mua sản
phẩm sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn và lợi nhuận cao. Ngược lại những công
ty có các hành vi phi đạo đức sẽ bị khách hàng tẩy chay, xa lánh.
Bằng việc chú trọng đến lợi ích và sự hài lòng của khách hàng thông
qua các hoạt động như; tư vấn đày đủ cho khách hàng khi mua hàng; hay
để khách hàng tham gia vào giải quyết các rắc rối... sẽ tạo niềm tin, thúc
đẩy khách hàng gắn bó với doanh nghiệp. Bản thân các khách hàng cũng
là những người quảng bá rất giá trị cho doanh nghiệp. Một khách hàng hài
lòng sẽ quay trở lại với doanh nghiệp, đồng thời họ sẽ giới thiệu về doanh
nghiệp cho bạn bè, người thân.. giúp nguồn khách hàng của doanh nghiệp
được mở rộng nhanh chóng. Nhưng nếu để khách hàng thất vọng về doanh
nghiệp thì tâm lý này sẽ được lan tỏa sang các khách hàng khác và gây tác
động không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Một môi trường đạo đức chú trọng đến khách hàng sẽ kết hợp được
lợi ích của tất cả các cổ đông trong các quyết định và hoạt động. Những
nhân viên làm việc trong môi trường đạo đức sẽ ủng hộ và đóng góp vào
sự hiểu biết về các yêu cầu và mối quan tâm của khách hàng. Các hành
động đạo đức hướng tới khách hàng xây dựng được vị thế cạnh tranh vững
mạnh có tác dụng tích cực đến thành tích của doanh nghiệp và công tác đổi
mới sản phẩm.

3.5. Đạo đức kinh doanh góp phần tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Theo một nghiên cứu được tiến hành với 500 tập đoàn lớn nhất ở Mỹ,
những doanh ngiệp cam kết thực hiện các hành vi đạo đức và chú trọng

26
đến việc tuân thủ các qui định về đạo đức nghề nghiệp thường đạt được
thành công lớn về mặt tài chính. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có các
hoạt động phi đạo đức thương phải chịu dự dụt giảm lợi nhuận nhanh
chóng. Sự quan tâm đến đạo đức đang trở thành một phần trong kế hoạch
chiến lược của các doanh nghiệp, đây không còn là một chương trình được
yêu cầu từ phía chính phủ mà đang dần trở thành một vấn đề quản lý để
dành lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hai giáo sư John Kotter và James Heskett của trường Đào tạo quản lý
kinh doanh thuộc Harvard đã thực hiện một công trình nghiên cứu cho
thấy, trong vòng 11 năm, những công ty “đạo đức cao” đã nâng thu nhập
của họ lên 682%, giá trị cổ phiếu của họ cũng đã tăng tới 901% và lãi ròng
tăng 756%. Trong khi đó, những công ty là đối thủ cạnh tranh ở bậc trung
của chuẩn mực đạo đức chỉ đạt được mức tăng trưởng doanh thu 36%, giá
trị cổ phiếu 74% và lợi nhuận ròng chỉ 1%.[GS.TS Nguyễn Mạnh Quân,
2008]
Như vậy, đầu tư vào cơ sở hạ tầng đạo đức trong doanh nghiệp sẽ
mang lại cơ sở cho tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt
tới thành công.

3.6. Đạo đức kinh doanh góp phần vào sự vững mạnh của nền kinh tế quốc
gia.
Các thể chế xã hội, đặc biệt là các thể chế thúc đẩy tính trung thực, là
yếu tố vô cùng quan trọng để phát triển đến sự thịnh vượng của nền kinh
tế. Các nước phát triển ngày càng trở nên giàu có hơn vì có một hệ thống
các thể chế bao gồm đạo đức kinh doanh để khuyến khích sản xuất. Trong
khi đó, tại các nước đang phát triển, cơ hội phát triển kinh tế bị hạn chế
bởi sự độc quyền, tệ nạn tham nhũng, sự hạn chế các tiến bộ cá nhân.

27
Nềm tin là điều mà các cá nhân trong xã hội cần có để hợp tác cùng
lao động, sản xuất, kinh doanh. Các quốc gia có các thể chế dựa vào niềm
tin sẽ có một nền kinh tế phát triển mạnh, có năng suất lao động cao vì họ
có một hệ thống đạo đức vững chắc giúp giảm thiểu các chi phí giao dịch,
tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và có một thị trường hiệu quả
hơn. Ngược lại ở các quốc gia có niềm tin hợp tác kinh doanh thấp, nền
kinh tế sẽ chậm phát triển và hoạt động thiếu ổn định.
Xét đến cùng, sự vững mạnh và ổn định của nền kinh tế một quốc gia
được quyết định bởi sự phát triển, mức độ điều chỉnh, chi phối của đạo đức
trong các hoạt động của nền kinh tế quốc gia đó. Tiến hành kinh doanh
theo một cách có đạo đức và có trách nhiệm sẽ tạo ra niềm tin và thiết lập
những mối quan hệ kinh doanh giúp tạo nên sự phát triển và thành công
bền vững.
Tóm lại, có thể nói đạo đức kinh doanh có vai trò rất lớn quyết đinh
sự thành công của doanh nghiệp. Các cổ đông sẽ muốn đầu tư vào các
doanh nghiệp có các chương trình đạo đức hiệu quả, quan tâm đến xã hội
và có danh tiếng tốt. Các nhân viên thích làm việc trong một công ty mà
họ có thể tin tưởng và khách hàng đành giá cao về tính trung thực trong
các hoạt động kinh doanh. Môi trường đạo đức của doanh nghiệp vững
mạnh sẽ đem lại niềm tin cho khách hàng và nhân viên, sự tận tâm của
nhân viên và sự hài lòng của khách hàng sẽ mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Và đạo đức còn đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và
thịnh vượng của một quốc gia.

28
Chƣơng II: Vấn đề đạo đức kinh doanh ở một số quốc gia
Trong chương này, người viết xin đề cập đến kinh nghiệm phát triển đạo
đức kinh doanh, về những gì đã đạt được và những mặt còn tồn tại tại các
quốc gia bao gồm: Mỹ - nền kinh tế mạnh nhất thế giới, Nhật Bản – nền kinh
tế phát triển thứ hai thế giới và phát triển nhất của châu Á và Trung Quốc –
nền kinh tế đang phát triển và trỗi dậy mạnh mẽ và có nhiều nét tương đồng
với Việt Nam. Thông qua việc tìm hiểu về sự phát triển của đạo đức kinh
doanh của 3 quốc gia này, chúng ta sẽ đúc rút những kinh nghiệm, bài học để
áp dụng vào việc xây dựng và phát triển đạo đức kinh doanh ở Việt Nam.

1. Mỹ - nền kinh tế và nền tảng đạo đức kinh doanh phát triển nhất thế
giới.
Mỹ là nền kinh tế đầu tàu, phát triển nhất của thế giới. Và cũng đồng thời,
Mỹ cũng là nước có nền tảng đạo đức kinh doanh phát triển nhất. Nước Mỹ là
nơi hình thành nên những nội dung đạo đức kinh doanh áp dụng trong hoạt
động kinh doanh hiện đại; là nơi đầu tiên đưa đạo đức kinh doanh trở thành
một lĩnh vực nghiên cứu học thuật.

Có thể nói, trong bước phát triển mạnh mẽ của đạo đức kinh doanh ở Mỹ,
chính những đặc điểm của xã hội Mỹ, văn hóa Mỹ đã tạo ra môi trường thuận
lợi, là cái nôi giúp đưa đạo đức kinh doanh phát triển. Điều này được thể hiện
trong tính chủ động của các doanh nhân Mỹ, của các doanh nghiệp Mỹ: chủ
động nhân thức về tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh, chủ động tìm hiểu
về các vấn đề đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp, chủ động đưa ra các
biện pháp giải quyết; cũng như sự tham gia tích cực của Chính phủ và cộng
đồng xã hội tạo sức ép phải phát triển đạo đức kinh doanh trong doanh
nghiệp.

29
1.1. Sự chủ động trong nhận thức và giải quyết các vấn đề đạo đức kinh
doanh của các doanh nhân Mỹ.
 Chủ động nhận thức về tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh.

Đa phần các doanh nhân Mỹ sở hữu những tập đoàn, những công ty có vai
trò quan trọng trong nền kinh tế Mỹ hiện nay là con cháu của những người da
trắng đến từ châu Âu và những người Do Thái di cư đến Mỹ. Tôn giáo của họ
là đạo Tin Lành và đạo Do Thái. Trong cả hai tôn giáo này, người ta đều quan
niệm đạo đức và kinh doanh luôn phải đi song hành, gắn bó chặt chẽ với
nhau. Người ta cũng đề cao việc giữ gìn uy tín kinh doanh và chống lại những
hành vi bất chấp đạo đức để đạt được lợi nhuận như: đối với các doanh nhân
người Do Thái, người ta không bao giờ bán các mặt hàng có hại cho khách
hàng của mình. Họ quan niệm sự thành công và giàu có của các doanh nhân
phải là kết quả của đức hạnh và sự nỗ lực cá nhân.

Các doanh nhân Mỹ được sinh ra, lớn lên và được giáo dục trong môi
trường xã hội nước Mỹ mang những đặc điểm:

Thứ nhất, xã hội Mỹ đề cao vai trò của cá nhân nhưng cũng đòi hỏi tinh
thần có trách nhiệm cao của mỗi cá nhân trong xã hội. Học thuyết về đạo đức
quan trọng nhất ở nước Mỹ là thuyết vị lợi. Theo học thuyết này, mỗi khi đưa
ra một quyết định, hay thực hiện một hành động, người ta phải cân nhắc kĩ
lưỡng đến kết quả, hậu quả và những tác động của nó không chỉ đối với bản
thân người ra quyết định mà còn cả đối với những người khác, đối với cộng
đồng và toàn xã hội. Một hành động chỉ được nên thực hiện khi nó có thể đem
lại cả lợi ích cho người thực hiện và cho cả cộng đồng. Những hành động chỉ
mang lại lợi ích cho một cá nhân mà gây phương hại đến lợi ích của cộng
đồng thì phải tránh. Vì vậy, hành động của các cá nhân luôn vừa phải đem lại

30
lợi ích cho cá nhân họ và vừa phải đem lại lợi ích cho xã hội hay ít nhất là
không xâm hại đến lợi ích xã hội.

Thứ hai, trong nhận thức của người Mỹ, các nguyên tắc, chuẩn mực, luật
lệ trong xã hội bao gồm cả những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức là pháp
luật tối cao mà họ có trách nhiệm phải tuân theo để đảm bảo cho chính lợi ích
và quyền được tôn trọng của họ trong xã hội. Điều này xuất phát từ nguyên
nhân lịch sử là xã hội Mỹ bao gồm nhiều nhóm người với các sắc tộc, các nền
văn hóa khác nhau. Để xã hội đa sắc tộc, đa văn hóa ấy có thể tồn tại và phát
triển thì phải có trật tự, kỉ cương xã hội vững chắc. Một hệ thống các nguyên
tắc, luật lệ xã hội và đạo đức thống nhất được mọi người tuân thủ là yếu tố
đảm bảo cho trật tự xã hội. Hơn thế nữa, mỗi người Mỹ tin rằng họ đều có
quyền và cơ hội ngang bằng nhau trong xã hội, vì vậy họ cũng có trách nhiệm
ngang bằng nhau trong việc duy trì sự ổn định xã hội. Một cuộc thăm dò ý
kiến được tiến hành tại một số nước phát triển đã chứng minh rằng người Mỹ
là những người có niềm tin vững chắc nhất vào sự tồn tại của một hệ thống
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Với yêu cầu những người tham gia lựa chọn
một trong hai ý kiến xem ý kiến nào phù hợp nhất với suy nghĩ của họ đó là:

1 – Họ tin rằng trong xã hội tồn tại những chỉ dẫn, hướng dẫn cụ thể với
họ điều gì là tốt và điều gì là xấu. Những chỉ dẫn này áp dụng cho tất cả mọi
người và trong mọi hoàn cảnh.

2 – Họ tin rằng trong xã hội không tồn tại những chỉ dẫn cụ thể cho họ
thấy điều gì là tốt, điều gì là xấu. Một điều là tốt hay xấu phụ thuộc hoàn toàn
vào hoàn cảnh sống của chúng ta.

Kết quả được thể hiện trong bảng sau:

31
Bảng 1: Kết quả cuộc điều tra về niềm tin vào sự tồn tại của một hệ thống
nguyên tắc và chuẩn mực rõ ràng về đạo đức trong xã hội.

Tỷ lệ số người Tỷ lệ số người Tỷ lệ số người


tham gia lựa chọn tham gia lựa chọn tham gia không có
ý kiến thứ 1(%) ý kiến thứ 2 (%) sự lựa chọn (%)
Mỹ 50 45 5

Italia 42 52 5

Canada 30.5 62 8

Đức 26 64 11

Pháp 24 68 7

Thụy Điển 19 76 5

(Nguồn: Inglehart – World Value Survey 1990)

Thứ ba, người Mỹ tin rằng họ có thể chủ động quản lý cuộc sống, cũng
như có thể tự quyết định số phận của chính bản thân họ. Những khẩu hiệu
quen thuộc đối với người Mỹ đó là: “Điều đó tùy thuộc vào bạn” hay “ Bạn
có quyền lựa chọn”...Theo một cuộc thăm dò ý kiến với câu hỏi: “ Thành
công của một cá nhân được quyết định bởi những nỗ lực của cá nhân người
đó hay là bởi sự may mắn và phụ thuộc vào các mối quan hệ mà anh ta có?”,
có 44% người Mỹ được hỏi đã trả lời rằng điều đó phụ thuộc chủ yếu bằng nỗ
lực cá nhân của họ. Đây cũng là tỷ lệ cao nhất trong số các quốc gia tiến hành
cuộc thăm dò ý kiến này. Cũng vì vậy, trong cách nhận xét,nhìn nhận, đánh
giá về một con người, người Mỹ không xem trọng những tiêu chí như: địa vị
xã hội, tuổi tác, hay xuất thân gia đình như ở nhiều quốc gia khác, mà họ đánh
giá chủ yếu dựa trên những gì người đó đã làm, đã đạt được. Với vấn đề đạo

32
đức - một vấn đề được xem là trừu tượng, phức tạp và mang tính phụ thuộc
vào các cá nhân mà người ta cho là không thể kiểm soát được, thì với người
Mỹ, họ cho rằng có thể kiểm soát được đạo đức của chính mình thông qua
những hành động hành động của họ. Bởi vì như chúng ta đã nói ở trên, thước
đo đánh giá con người trong xã hội Mỹ chính là hành động của người đó.
Chính vì những điều kiện xã hội như vậy, các doanh nhân Mỹ đã có sự chủ
động trong giải quyết các vấn đề liên quan đến đạo đức kinh doanh trong hoạt
động của mình bao gồm:

 Chủ động tìm hiểu các vấn đề đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp
và để ra biện pháp giải quyết.

Từ sự chủ động trong nhận thức về tầm quan trọng của đạo đức kinh
doanh đối với doanh nghiệp, các doanh nhân Mỹ đã chủ động đưa các nguyên
tắc, chuẩn mực đạo đức kinh doanh áp dụng trong hoạt động của doanh
nghiệp mình. Quá trình này được gọi là quá trình thể chế hóa đạo đức kinh
doanh. Họ là những người đi tiên phong trên thế giới trong quá trình này.
Những biện pháp để thực hiện quá trình này bao gồm: (1) xây dựng bản Quy
tắc đạo đức kinh doanh (Codes of Ethics) trong hoạt động doanh nghiệp; (2)
thành lập Ủy ban đạo đức kinh doanh có nhiệm vụ xây dựng, phát triển, giải
quyết các vấn đề liên quan đến đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp, trong
Ủy ban này sẽ bao gồm các bộ phận như: bộ phận tổ chức các chương trinh
đào tạo, phổ biến kiến thức về đạo đức kinh doanh cho các nhân viên trong
doanh nghiệp; bộ phận thực hiện chức năng, giám sát, điều tra, phát hiện các
hành vi phi đạo đức trong doanh nghiệp; Hội đồng kỷ luật để đưa ra những
phán xét, xử phạt các hành vi vi phạm các nguyên tắc đạo đức... Các chương
trình hành động cụ thể và chuyên nghiệp này đã cho thấy rõ sự quan tâm và

33
đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ trong việc nâng cao đạo đức kinh doanh của
doanh nghiệp mình.

Theo một cuộc khảo sát được tiến hành vào năm 2005, 96% trong tổng số
225 doanh nghiệp Mỹ được tiến hành điều tra đã có những hành động cụ thể,
tích cực nhằm nâng cao nhận thức và sự tuân thủ đạo đức kinh doanh trong
hoạt động của doanh nghiệp. Gần 60 % doanh nghiệp đã bổ nhiệm vị trí quản
lý cấp cao (Chief Ethics Officer) chuyên trách về đạo đức kinh doanh trong
doanh nghiệp, và 1/3 các chương trình hành động nâng cao đạo đức kinh
doanh trong doanh nghiệp ấy đã được thực hiện bằng cách lấy ý kiến đóng
góp rộng rãi trong toàn công ty. 92% số nhân viên được hỏi đã từng được
tham gia vào các chương trình đào tạo nhằm nâng cao đạo đức kinh doanh
trong công ty. Đã có những doanh nghiệp Mỹ đã đưa đạo đức kinh doanh trở
thành yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh và làm nên thành công của công ty.
Câu chuyện thành công của Johnson&Johnson là trường hợp rất điển hình
chứng minh cho lợi ích của đạo đức kinh doanh cho các doanh nghiệp.

Johnson&Johnson (J&J) là một trong những tập đoàn hàng đầu của Mỹ
chuyên sản xuất, kinh doanh dược phẩm và dụng cụ y tế... Từ thập niên 1920
đến nay, J&J luôn đề cao bản sắc của doanh nghiệp dựa trên hai giá trị chung:
“The Identity of J&J: Integrity & Respondibility” (“Bản sắc của J&J: Ngay
thẳng và trách nhiệm”) được khởi xướng bởi con trai nối nghiệp của người
sáng lập công ty là Robert Wood Johnson. Trong lịch sử, J&J đã có những
hành động cụ thể để minh chứng cho bản sắc đó của công ty mà hai hành
động sau đây là minh chứng rõ rệt nhất:

Năm 1965, J&J tung ra thị trường sữa dưỡng da cho trẻ em rất được ưa
thích. Một số khách hàng lại dùng sữa ấy cho chính mình những khi tắm

34
nắng, vì thế thị phần của sữa dưỡng da J&J càng ngày càng lớn. Cuối 1968,
bộ phận nghiên cứu & phát triển của J&J nhận thấy rằng nếu dùng sữa dưỡng
da ấy để tắm nắng sẽ có nguy cơ bị ung thư da. J&J tự nguyện nhờ một số
phòng thí nghiệm độc lập kiểm định thêm và khi chắc chắn kết quả, ban lãnh
đạo J&J họp nhân viên lại để cùng làm bản thông báo cho các hãng thông tấn
xã về kết quả xét nghiệm của mình. Kể từ tháng 2-1969, J&J thu lại tất cả sữa
dưỡng da chưa được bán trên thị trường, và ngưng sản xuất cho đến khi J&J
khắc phục được nguy cơ trên. Doanh số hằng năm của loại kem dưỡng da J&J
lúc đó là khoảng 240 triệu USD/năm.
Một sự kiện khác xảy ra vào năm 1981, ở thành phố Chicago có một
người bệnh tâm thần cho thuốc độc vào một số lọ thuốc trị nhức đầu nhãn
hiệu Tylenol do J&J sản xuất và bày bán ở các quầy hàng bán thuốc trong
những siêu thị. Sự kiện trên làm thiệt mạng bốn người và cảnh sát không bắt
được người tâm thần gây các án mạng trên. Mặc dù chỉ xảy ra ở Chicago và
giới chức trách an ninh địa phương nghĩ rằng người rối loạn tâm thần trên chỉ
cho thuốc độc vào một số lọ Tylenol đã bày bán ở siêu thị, ban lãnh đạo J&J
sau khi hội ý với nhân viên vẫn cương quyết rút lại để kiểm định tất cả lọ
thuốc Tylenol đã phân phối không chỉ ở Mỹ mà ở toàn thế giới, vì theo J&J,
không có gì bảo đảm là người bị bệnh thần kinh trên chỉ bỏ thuốc độc vào các
lọ Tylenol lúc đã bày bán, mà không bỏ vào lúc sản xuất hoặc trước khi được
phân phối đi khắp nơi. Toàn bộ chi phí để thực hiện quyết định trên là 350
triệu USD.
Có thể nói, tinhh thần trách nhiệm đã trở thành hành vi chuẩn mực để
đánh giá mọi hoạt động của J&J và trở thành văn hóa “trách nhiệm”, được
xuất phát từ cái tâm của toàn thể cán bộ nhân viên, đặc biệt từ lãnh đạo cao
nhất của J&J đối với khách hàng. Chính bằng tinh thần luôn có trách nhiệm

35
ấy, J&J đã dành được cảm tình, sự trung thành của khách hàng và đến lượt
mình, sự ủng hộ từ phía khách hàng đã đem lại cho công ty những thành công
nổi bật. Theo thống kê, trong suốt hơn 100 năm qua, thương hiệu J&J luôn
tồn tại bền vững và công ty luôn đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm là
10.5% trong suốt thời gian tồn tại, đáng chú ý là càng ngày tốc độ tăng trưởng
ấy càng cao. Ngay trong năm 2008, năm khó khăn nhất của nền kinh tế Mỹ,
doanh số bán của công ty đã tăng 4,3% và lợi nhuận tăng thêm 22%. Điều đó
đã khiến cho J&J trở thành công ty đứng thứ 6 đạt lợi nhuận cao nhất và là
một trong 5 công ty có giá trị nhất ở Fortune 500.

1.2. Sự tham gia giám sát và phản biện xã hội tích cực của công chúng Mỹ.

Ở Mỹ, việc xem xét, đánh giá, giải quyết các vấn đề trong phạm vi một cá
nhân, để một cá nhân tự giải quyết là điều rất hạn chế, đặc biệt đối với các
vấn đề đạo đức. Những cuộc tranh luận mang tính chất mở, rộng rãi trong
công chúng để đánh giá, nhận xét về một vấn đề là điều thường hay được
người Mỹ tiến hành. Ba bộ phận luôn đóng góp những ý kiến phản biện xã
hội quan trọng nhất trong xã hội Mỹ đó là các tổ chức xã hội, các hiệp
hội...đại diện cho tiếng nói của người dân Mỹ; giới học giả và giới truyền
thông Mỹ.

Sự tham gia tích cực của người dân Mỹ trong việc thúc đẩy đạo đức kinh
doanh trong doanh nghiệp được thể hiện số lượng ngày càng tăng các hiệp hội
người tiêu dùng Mỹ. Họ là những người đóng góp những tiếng nói phản biện
quan trọng, những quyết định của họ là ủng hộ hay tẩy chay đối với một công
ty cso tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của công ty đó. Có thể nói,
họ là nhân tố có thể gây sức ép đến chính sách của các công ty Mỹ.

36
Bên cạnh đó, giới học giả Mỹ ngày càng quan tâm đến vấn đề đạo đức
kinh doanh trong doanh nghiệp. Sự quan tâm ấy được thể hiện qua số các
Trung tâm nghiên cứu về đạo đức kinh doanh liên tục gia tăng thuộc các
trường Đại học hay các Tổ chức nghiên cứu xã hội. Hầu hết các trường Đại
học ở Mỹ đã đưa đạo đức kinh doanh vào giảng dạy với tổng số sinh viên
theo học ngày càng tăng cao. Ở Mỹ, hiện đã có tạp chí nghiên cứu chuyên
ngành về đạo đức kinh doanh được xuất bản trong đó có những tạp chí nổi
tiếng như: Journal of Business Ethics, Business Ethics Weekly... Những đóng
góp của các học giả cho việc thúc đẩy phát triển đạo đức kinh doanh trong
doanh nghiệp được thể hiện qua những kết quả nghiên cứu, những lời khuyến
cáo, tư vấn cho các doanh nghiệp về tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh.
Trong đó, đóng góp quan trọng nhất là vào những năm 1980, các học giả Mỹ
đã hoàn thành học thuyết, lý luận về xây dựng văn hóa và đạo đức daonh
nghiệp được dựa trên tư tưởng đạo đức Katian, học thuyết về hợp đồng xã
hội, học thuyết về vai trò giám sát của cổ đông trong doanh nghiệp... Có thể
nói, đây là kim chỉ nam để các doanh nghiệp Mỹ áp dụng trong xây dựng đạo
đức và văn hóa daonh nghiệp.

Trong thời gian gần đây, nhận thức của giới truyền thông Mỹ về đạo đức
kinh doanh đang ngày càng được nâng cao. Thông qua hoạt động đưa tin của
mình, các phương tiện truyền thông Mỹ không những góp tiếng nói phê phán,
đả kích các doanh nghiệp phi đạo đức mà còn góp phần nâng cao sự nhận
thức của toàn xã hội về vấn đề này. Tiếng nói của các phương tiện thông tin
đại chúng đang ngày càng thể hiện vai trò phản biện xã hội quan trọng của
mình trong việc tạo sức ép, buộc các doanh nghiệp phải hoạt động nghiêm
chỉnh có đạo đức.

37
Hàng năm,dựa trên sự bình bầu của người tiêu dùng, các học giả và các
phương tiện truyền thông Mỹ, người ta đều chọn ra danh sách 100 doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh có đạo đức tốt nhất trong năm để tôn vinh trong
xã hội. Những giải thưởng như thế này cũng chính là sự ghi nhận xứng đáng
cho sự nỗ lực, phấn đấu của các doanh nghiệp; đông thời khuyến khích họ
nâng cao hơn nữa đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp mình.

Bản thân những người lao động Mỹ cũng có nhận thức rõ ràng về đạo đức
kinh doanh và có những yêu cầu, mong muốn của họ về đạo đức của các công
ty nơi họ làm việc. Những nhân viên làm việc trong các công ty Mỹ có quyền
và trách nhiệm phán xét xem liệu những người chủ, những người đứng đầu
quản lý công ty đã thực sự hoạt động kinh doanh có đạo đức hay không? Và
họ có quyền được tiếp cận các thông tin về hành vi của những người đứng
đầu để đưa ra nhận xét này.

Việc đưa việc đánh giá về các hành vi, hoạt động của các doanh nhân Mỹ
có theo đúng các tiêu chuẩn đạo đức hay không ra tranh luận, phản biện trong
công chúng đã tạo nên một sức ép đủ mạnh để các doanh nhân Mỹ phải nhận
thức được tầm quan trọng và việc cần thiết của việc hoạt động kinh doanh có
đạo đức đối với sự thành công hay thất bại của bản thân và của công ty. Một
doanh nhân luôn là một người đáng tin cậy, một người luôn hoạt động vì lợi
ích của khách hàng và của đối tác, anh ta sẽ là một doanh nhân thành đạt. Và
ngược lại, một doanh nhân thành đạt thì luôn phải suy nghĩ và hành động có
đạo đức đối với nhân viên, khách hàng và cộng đồng xã hội.

1.3. Sự quan tâm của chính phủ Mỹ đến vấn đề đạo đức kinh doanh.

Chính phủ Mỹ luôn dành sự quan tâm đúng mức và có nhưng chương
trình hành động cụ thể nhằm thúc đẩy, yêu cầu và ràng buộc các doanh

38
nghiệp hoạt động phải có văn hóa kinh doanh. Mỹ là nước đầu tiên trên thế
giới ban hành các đạo Luật nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cho đến
nay hệ thống pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của Mỹ được coi là một
trong những hệ thống hoàn chỉnh nhất trên thế giới. Hệ thống pháp luật này
bao gồm các đạo luật và các cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm giám sát,
thực thi chúng. Các đạo luật tiêu biểu của Mỹ là:

 Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm: Nội dung chính của luật là yêu
cầu các nhà sản xuất, phân phối và bán lẻ phải có trách nhiệm đối với
thương tật và thiệt hại do những khuyết tật của sản phẩm gây ra cho
người sử dụng hoặc những người ở gần sản phẩm đó. Trách nhiệm sản
phẩm thường dựa trên các nguyên tắc pháp lý về sự bất cẩn, vi phạm
bảo hành hoặc trách nhiệm tuyệt đối. Phạm vi điều chỉnh của luật áp
dụng đối với tất cả các doah nghiệp bán hàng hóa của mình trên thị
trường Mỹ.
 Luật an toàn sản phẩm tiêu dùng: Luật này qui định các tiêu chuẩn an
toàn sản phẩm liên quan đến sự vận hành, thành phần, nội dung, thiết
kế, sản xuất, hoàn tất, đóng gói và dán nhãn. Nguyên tắc chung là nhà
sản xuất sản phẩm tiêu dùng là đối tượng của quy định này phải phát
hành giấy chứng nhận khẳng định hàng phù hợp với các tiêu chuẩn qui
định và phải dán nhãn trên sản phẩm ghi rõ ngày và nơi sản xuất sản
phẩm, tên và địa chỉ của nhà sản xuất, chứng nhận tuân thủ các luật lệ
áp dụng và mô tả ngắn gọn các luật lệ đó.

Bên cạnh những đạo luật trên, chính phủ Mỹ còn ban hành rất nhiều các
đạo luật qui định chi tiết về các ngành hàng cụ thể như: Luật về các chất nguy
hiểm, Luật về vải dễ cháy, Luật về thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, Luật về
an toàn tủ lạnh gia đình.....

39
Luật pháp về bảo đảm tính công bằng trong cạnh tranh, chống độc quyền,
chống các hành vi câu kết của các doanh nghiệp cũng được ra đời từ sớm ở
Mỹ. Đến năm 1980, hệ thống luật về cạnh tranh của Mỹ được coi là chặt chẽ
và nghiêm khắc nhất thế giới, với các đạo luật tiêu biểu như: đạo luật
Sherman (1890), luật Clayton (1914) là hai luật cơ bản cho chính sách chống
Tơrớt của Mỹ, luật Robinson - Patman (1936) qui định việc xử lý các hành vi
phân biệt đối xử.

Văn bản pháp luật có sự điều chỉnh trực tiếp nhất đến đạo đức kinh doanh
của doanh nghiệp là Những hướng dẫn về hình phạt của liên bang (The
Federal Sentencing Guideline ) được ban hành vào năm 1991 hướng dẫn các
Tòa án trong việc xét xử các vụ việc liên quan đến các hành vi phi đạo đức
của các công ty Mỹ. Bản qui tắc xét xử này được ra đời nhằm mục đích không
chỉ đề ra biện pháp trừng phạt đích đáng đối với các doanh nghiệp vi phạm,
mà qua đó nó còn thúc đẩy, khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện các
chương trình phát triển đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp. Một qui định
quan trọng trong bản qui tắc xét xử này đó là: nếu một doanh nghiệp bị đưa ra
xét xử do có hành vi vi phạm đạo đức kinh doanh thì việc xử phạt mà doanh
nghiệp đó phải gánh chịu có thể được xem xét giảm nhẹ nếu doanh nghiệp đó
chứng minh được rằng họ đã có chương trình phát triển đạo đức kinh doanh
trong doanh nghiệp mình.

Tuy các doanh nghiệp Mỹ đã đạt được những thành công, tiến bộ trong
việc thực hiện, áp dụng đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp, nhưng trong
thời gian gần đây, nước Mỹ đã phải đối mặt với hàng loạt vụ bê bối liên quan
đến đạo đức kinh doanh dẫn tới phá sản trong các doanh nghiệp từng là niềm
tự hào của kinh tế Mỹ. Làn sóng các vụ bê bối ấy được bắt đầu với vụ bê bối
về gian lận thông tin tài chính của gã khổng lồ Enron vào năm 2001, tiếp theo

40
đó người ta lại khám phá thêm những vụ bê bối cũng liên quan đến gian lận
thông tin tài chính của Worldcom, Tyco International, Adelphia… mà trách
nhiệm gây ra những vụ bê bối này chủ yếu thuộc về những người quản lý cấp
cao ở các công ty trên. Những vụ bê bối đó đã hé lộ ra những điểm còn tồn tại
trong hệ thống đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp Mỹ, đặc biệt là đạo đức
trong việc công bố trung thực, minh bạch các thông tin tài chính doanh
nghiệp. Trong hoạt động của mình, tập đoàn Enron và công ty kiểm toán
Arthur Andersen (công ty chịu trách nhiệm thực hiện công tác kiểm toán cho
Enron) đều đã ban hành những Qui tắc đạo đức kinh doanh (Codes of Ethics)
trong công ty, thậm chí, công ty Arthur Andersen còn cho xuất bản các video
về các tình huống đạo đức kinh doanh được sử dụng rộng rãi trong các trường
Đại học. Vậy điều gì đã làm cho những qui tắc đạo đức kinh doanh ở các doanh
nghiệp này không phát huy hiệu quả? Đã có những nghiên cứu trước đó của
các học giả cho thấy rằng nhân tố quan trọng nhất tác động để người quản lý
thực hiện các hành động có đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc đạo đức
của chính bản thân người đó; tiếp đến là hành vi của những nhà quản lý cấp cao
hơn; còn yếu tố quan trọng nhất tác động để nhà quản lý thực hiện hành vi phi
đạo đức là hành vi của cấp trên, tiếp đến theo thứ tự là xu thế đạo đức của các
công ty cùng trong lĩnh vực, ngành nghề của công ty họ; chính sách đạo đức
của công ty và cuối cùng là nhu cầu tài chính cá nhân của họ. Như vậy vấn đề
được đặt ra là doanh nghiệp phải xây dựng được môi trường văn hóa đạo đức
thực sự, sâu sắc trong doanh nghiệp để từ đó tạo tác động để tất cả các nhà lãnh
đạo, quản lý cũng như các nhân viên trong doanh nghiệp nhận thức được rõ
rằng hành động có đạo đức là quyền lợi, trách nhiệm của họ; tránh tình trạng
chính sách, phương hướng hoạt động của doanh nghiệp đề ra theo một hướng,
nhưng bản thân các nhân viên lại nghĩ khác và hành động khác.

41
Đứng trước những tác động ấy, trong bản công bố kết quả nghiên cứu của
mình, Viện nghiên cứu về đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp (The
Business Roundtable Institute for Corporate Ethics) đã chỉ ra những vấn đề
đạo đức cấp thiết cần được giải quyết trong các doanh nghiệp Mỹ đó là: (1)
Lấy lại lòng tin của công chúng; (2) Đáp ứng được sự kì vọng của các nhà
đầu tư không chỉ về lợi nhuận mà còn về đạo đức doanh nghiệp; (3) Đảm bảo
tính trung thực, chính xác của các bản báo cáo tài chính; (4) Công bằng trong
việc chi trả cac khoản bồi hoàn và (5) Xây dựng hình mẫu đạo đức của các
nhà quản lý doanh nghiệp. Để giải quyết những vấn đề này, các doanh nghiệp
Mỹ đã tập trung vào 3 biện pháp sau:

1 – Tiếp tục đẩy mạnh các chương trình xây dựng, áp dụng đạo đức kinh
doanh, xây dựng niềm tin trong doanh nghiệp, đưa đạo đức kinh doanh thực
sự trở thành một yếu tố văn hóa trong doanh nghiệp.

Theo điều tra của Hội đồng đạo đức kinh doanh Mỹ (The Council for
Business Ethics), 85% các CEO trong các công ty Mỹ đã xác nhận rằng doanh
nghiệp của họ đang ngày càng quan tâm, chú trọng đạo đức kinh doanh.
Trong đó, những sự thay đổi chủ yếu là: nâng cao vai trò của hệ thống báo
cáo và trao đổi thông tin nội bộ (chiếm 33%), thiết lập các đường dây nóng về
đạo đức kinh doanh (chiếm 17%), phát triển nội quy tuân thủ đạo đức trong
công ty (chiếm 12%), tăng cường sự kiểm soát của ban giám đốc (chiếm
10%).

2 – Chuyên nghiệp hóa, riêng biệt hóa bộ phận đảm trách về đạo đức kinh
doanh trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp tiến hành bổ nhiệm nhân sự cấp
cao như một Phó chủ tịch để chuyên trách về đạo đức kinh doanh trong hoạt
động của mình. Sự thay đổi đó được thể hiện qua số thành viên của Hiệp hội

42
các nhà quản lý đạo đức doanh nghiệp (The Ethics Officer Asociation) đã
tăng từ 12 thành viên năm 1992 lên tới 995 thành viên năm 2004.

3 – Siết chặt quản lý, tăng cường hiệu lực của Bộ qui tắc ứng xử (Codes
of Conduct) và những hướng dẫn thực hành đạo đức trong doanh nghiệp
(Ethical guidelines). Nguyên nhân tại sao các công ty đã có những chương
trình xây dựng và phát triển đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp này lại bị
vướng vào vụ bê bối liên quan đến đạo đức kinh doanh? Sau vụ bê bối Enron,
vấn đề được đặt ra đối với các doanh nghiệp Mỹ là làm sao để có thể đảm bảo
hiệu lực, để Qui tắc đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp thực sự có tác
dụng. Cách thức để thực hiện điều này là phải xây dựng được cơ chế giám sát,
quản lý chặt chẽ; phải xây dựng cơ chế qui định trách nhiệm rõ ràng từ thấp
đến cao của tất cả các thành viên trong công ty và phải khuyến khích việc tố
giác các hành vi phi đạo đức phát sinh trong công ty để có thể ngăn chặn từ
sớm những hành vi đó tránh gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho công ty.

Những tập đoàn lớn như: Boeing, Lockheed Martin, Deloitte&Touche... là


những điển hình đã làm tốt những biện pháp này.

Ở Boeing, họ đã tổ chức các chương trình đào tạo nhằm nâng cao và phát
triển kĩ năng ra quyết định và giải quyết các vấn đề một cách có đạo đức đối
với toàn thể 178.000 nhân viên của công ty. Đồng thời, họ đã tiến hành soạn
thảo Những hướng dẫn về thực hành đạo đức một cách cụ thể và có qui mô
rộng lớn hơn trước. Lý giải cho vấn đề này, các nhà lãnh đạo Boeing đã nói
rằng sở dĩ họ làm như vậy, vì họ nhận thức được rằng chỉ có hoạt động kinh
doanh có đạo đức mới là con đường dẫn họ đến thành công bền vững trong
tương lai.

43
Ở Lockheed – Martin, họ đã được biết tới với các chương trình phát triển
đạo đức doanh nghiệp rất bài bản và có khả năng bao quát mọi vấn đề. Ngoài
việc cung cấp cho nhân viên các chương trình đào tạo về đạo đức kinh doanh,
Lokheed Martin còn thiết lập một đường dây liên lạc để trợ giúp các nhân
viên trong bộ phận phụ trách về đạo đức kinh doanh của hãng qua rất nhiều
các phương tiên liên lạc khác nhau để các nhân viên có thể yêu cầu những lời
tư vấn từ những người có chuyên môn. Phương châm của họ là sẽ không bao
giờ có sự trách phạt nhân viên khi thường xuyên sử dụng đường dây trợ giúp
về đạo đức kinh doanh.

Ở Deloitte&Touche, chương trình nâng cao đạo đức doanh nghiệp của họ
được tập trung vào 3 điểm nhấn: (1) xây dựng giá trị doanh nghiệp; (2) xây
dựng chương trình quản lý, giám sát chặt chẽ và (3) phương pháp giải quyết
các hậu quả xảy ra. Yếu tố thứ nhất, xây dựng giá trị doanh nghiệp có sức lan
tỏa mạnh mẽ sẽ là yếu tố thúc đẩy các nhân viên hành động đúng đắn, có đạo
đức. Yếu tố thứ hai, một chương trình giám sát hiệu quả không chỉ giám sát
thông qua các dữ liệu, thông tin mà còn giám sát chính hành vi của các nhân
viên, sẽ giúp ngăn chặn những hành vi phi đạo đức ngay từ khi nó bắt đầu
hình thành. Và yếu tố thứ ba, nếu một hành vi phi đạo đức xảy ra trong doanh
nghiệp, công ty sẽ tiến hành giải quyết ngay từ sớm, xác định rõ nguyên nhân
và trách nhiệm của những người liên quan.

Bên cạnh sự quan tâm, đầu tư của bản thân các doanh nghiệp, chính phủ,
Quốc hội Mỹ cũng thúc đẩy quá trình luật hóa các nguyên tắc, chuẩn mực đạo
đức kinh doanh để ràng buộc hơn nữa trách nhiệm của họ đối với các vấn đề
đạo đức kinh doanh. Tiêu biểu là ngay sau khi xảy ra hàng loạt các vụ bê bối
của các tập đoàn lớn liên quan đến thông tin tài chính, Quốc hội Mỹ đã thông
qua Đạo luật Sarbanes – Oxley đưa ra những qui định chặt chẽ đối với các

44
doanh nghiệp về báo cáo, cung cấp các thông tin tài chính trong doanh
nghiệp. Đây là Đạo luật gây được nhiều sự chú ý nhất vì nó giải quyết vấn đề
nhức nhối nhất là chống các hành vi gian lận của các doanh nghiệp Mỹ trong
công bố các thông tin tài chính. Nó được kì vọng là sẽ vá những lỗ hỏng hiện
nay trong kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp Mỹ sau sự ra đời của
Những hướng dẫn về hình phạt của liên bang (the Federal Sentencing
Guideline) vào năm 1991.

2. Nhật Bản.
Những tư tưởng đạo đức kinh doanh đầu tiên đã xuất hiện từ khá sớm
trong xã hội phong kiến Nhật Bản khi hoạt động buôn bán, trao đổi bắt đầu có
những bước phát triển mạnh mẽ với hai luồng tư tưởng chủ đạo là Đinh nhân
đạo hay đạo của thị dân và Bushido ( Võ sĩ đạo ) đề cập đến những giá trị của
giới võ sĩ (Samurai) được truyền thụ trong giới cầm quyền Nhật Bản.

Bushido là hệ tư tưởng ra đời sớm nhất từ cuối thế kỷ 12, được xây dựng
dựa trên cơ sở lý luận của Nho học và những giá trị đạo đức của giới võ sĩ.
Những đức tính được nhấn mạnh trong Bushido là: trung thành; không ngại
hy sinh; trọng tín nghĩa, lễ nghĩa; có liêm sỉ; sống thanh bạch, giản dị, cần
kiệm; có tinh thần thượng võ; trọng danh dự và có lòng thương người.
Bushido là cột trụ tinh thần của chính quyền phong kiến, của giới võ sĩ Nhật
Bản. Sau này, đến thời Minh Trị duy tân, những con người lèo lái công cuộc
duy tân của Nhật Bản vốn xuất thân từ giới võ sĩ đã đưa Bushido áp dụng vào
những nguyên tắc đạo đức kinh doanh hiện đại. Điều này được thể hiện đậm
nét qua những lời “gia huấn” (kakun, tức là những điều răn dạy người nhà)
của Iwasaki Yataro (1834-1885), một võ sĩ cấp dưới ở Tosa (đảo Shikoku) và
cũng là người sáng lập Công ty Mitsubishi sau đây:

45
Điều l: Không bị chi phối bởi những việc nhỏ mà phải chú tâm đến việc
kinh doanh những sự nghiệp lớn.

Điều 2: Khi đã bắt đầu một sự nghiệp thì chắc chắn phải làm cho thành
công.

Điều 3: Không làm những sự nghiệp có tính cách đầu cơ.

Điều 4: Khi toan tính, mọi sự nghiệp phải đặt lợi ích quốc gia lên trên
hết.

Điều 5: Không bao giờ quên tinh thần vị công trong sáng không để mất
lòng thành.

Điều 6: Phải cần mẫn, cần kiệm, và biết nghĩ đến người khác.

Điều 7: Phải sử dụng nhân sự cho thích đáng.

Điều 8: Đối đãi tử tế với người làm.

Điều 9: Phải gan dạ, quả cảm khi bắt đầu một sự nghiệp nhưng cặn kẽ, kỹ
lưỡng khi thực hiện.[8]

Một doanh nhân nổi tiếng khác trong thời kì này là Shibusawa Eiichi
(1840- 1931), cũng là một nhân vật theo luân lý Bushido đã để lại những lời
răn dạy để đời cho các thế hệ doanh nhân sau này về tầm quan trọng của đạo
đức kinh doanh. Ông được coi là “cha đẻ” của giới tài chính Nhật Bản và là
người đã có công xây dựng 500 xí nghiệp tạo nền móng vững chắc cho nền
công nghiệp Nhật Bản. Trong sự nghiệp của mình, Shibusawa luôn luôn chú
trọng và nhấn mạnh khía cạnh luân lý trong kinh doanh. Ông cho rằng không

46
thể tách rời luân lý ra khỏi kinh doanh. Ông khẳng định: “Đừng lầm tưởng là
thương nghiệp và đạo đức không thể dung hòa được với nhau như nước với
lửa. Cho dầu tri thức có phát triển và tài sản có gia tăng bao nhiêu chăng nữa,
nếu không có đạo đức thì không thể nào phát huy được hết sức mình trong
thiên hạ”. Một trong những câu châm ngôn nổi tiếng của ông dành cho giới
doanh nhân đó là “Sĩ hồn thương tài” (shikon shosai). Theo ông, một người
doanh nhân cần có “Sĩ hồn thương tài”, tức là cần có sự tổng hợp giữa tinh
thần của một người võ sĩ với tài thương mại, kinh doanh. Bởi vì, phàm muốn
lập thân ắt phải có tinh thần võ sĩ, luôn cố gắng, nỗ lực phấn đấu không biết
mệt mỏi, nhưng nếu chỉ có “sĩ hồn” mà không có “thương tài” sẽ bị “tự diệt”
về kinh tế. “Thương tài” cũng phải đặt căn bản trên đạo đức. Những loại
“thương tài”, bất đức, dối trá, điêu ngoa, phù phiếm - tách rời khỏi đạo đức,
thì chỉ là tài vặt và khôn vặt và không thể thành công lâu bền. Shibusawa tin
rằng những người trong công nghiệp và thương nghiệp cần phải có tinh thần
Bushido vì bất kỳ ở nước văn minh nào các nhà xí nghiệp và kinh doanh cũng
lấy lời hứa làm trọng, và người Nhật nếu không muốn bị thua thiệt thì phải
tuyệt đối tôn trọng chữ Tín.

Đinh nhân đạo là hệ tư tưởng ra đời sau Bushido vào khoảng cuối thế kỉ
17. Người sáng lập ra Đinh nhân đạo là nhà tư tưởng Ishida Baigan (1685-
1744). Trong học thuyết Đinh nhân đạo của mình, ông đã đề cao vai trò của
tầng lớp thương nhân đối với xã hội. Ông cho rằng cấu trúc xã hội với 4 thành
phần: sĩ, nông, công, thương đã có từ xưa, trong đó mỗi giai tầng có một vai
trò của nó, không thể thiếu được thành phần nào. Cả 4 giai tầng ấy đều sống
trên đất của quân vương, phục vụ quân vương, nên đều được hưởng ân trạch
của quân vương. Vì cùng là bề tôi, nên vũ sĩ được hưởng niên bổng của quân
vương, nông dân được hưởng thóc lúa, thì thương nhân được hưởng lời lãi -

47
tất cả đều là bổng lộc vua ban. Từ chỗ khẳng định vị trí của người thị dân,
Baigan đã đưa ra “đạo” - tức là chuẩn mực đạo đức của giai tầng này. Ông
cho rằng: Các giai tầng khác nhau đều phải tự hạn chế dục vọng và hành xử
theo đạo để giữ giá trị giai tầng của mình: Sĩ có trách nhiệm khai phóng tư
tưởng và cầm giữ cương thường, nông dân có bổn phận cần cù nơi đồng
ruộng để cung cấp lương thực, thì người thị dân cũng phải hành xử theo đạo.
Đạo của người thị dân thể hiện thành 3 đức: tiết kiệm trong việc sử dụng tài
nguyên quốc gia; tiết kiệm trong chi tiêu cho bản thân; cần cù, sáng tạo và 2
nghĩa: chính trong kinh doanh sản xuất; trực trong giao dịch thương mại. Về
luân lý, nên tránh tửu, sắc, cờ bạc để dành thì giờ và tiền bạc cho sáng tạo và
kinh doanh. Luân lý ấy không cấm việc thưởng thức xướng ca, nhưng không
được sa vào trác táng.[9]

Có thể khẳng định, chính những tư tưởng này đã đóng góp rất lớn vào
công cuộc duy tân của Nhật Bản, đưa Nhật Bản từ một đất nước nông nghiệp,
nghèo nàn, lạc hậu trở thành một trong những đất nước giàu mạnh trên thế
giới. Đồng thời, nó cũng tạo thành nền móng vững chắc để xây dựng nên môi
trường văn hóa doanh nghiệp đặc trưng, và hơn nữa là đạo đức kinh doanh
cho các doanh nghiệp Nhật Bản sau này.

Đến thời kì hiện đại, từ sau cuộc chiến tranh thế giới thứ II, trong hoàn
cảnh Nhật Bản là nước bại trận phải chịu nỗi nhục nhã và sự tàn phá nặng nề
của chiến tranh, chính phủ, các doanh nhân và người dân Nhật Bản đã đặt
mục tiêu phải nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh phát
triển kinh tế nhằm đưa nước Nhật trở về vị trí một cường quốc kinh tế, phát
triển và thịnh vượng như năm xưa là mục tiêu hàng đầu. Cũng vì thế, mà đã
có những giai đoạn, việc xây dựng, phát triển đạo đức kinh doanh đã dường

48
như bị lãng quên trong xã hội và trong các doanh nghiệp Nhật Bản, nhưng
càng về sau này nó lại càng khẳng định được tầm quan trọng của chính mình.
Trong bài viết “ Đạo đức kinh doanh ở Nhật Bản” (Business Ethics in Japan)
của tác giả Iwao Taka, ông đã chia sự phát triển của đạo đức kinh doanh Nhật
Bản thời hiện đại ra 5 giai đoạn chính:

 Giai đoạn 1: Từ trước thập kỷ 60: Giai đoạn tập trung cho phát triển
kinh tế.

Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiệm vụ hàng đầu mà Chính phủ, doanh
nghiệp, người dân Nhật Bản đặt ra lúc này là tập trung tất cả cho phát triển
kinh tế, khắc phục những hậu quả của chiến tranh. Các doanh nghiệp Nhật
Bản dường như không quan tâm đến các vấn đề xã hội và môi trường. Cụm từ
“ Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” gần như đã bị quên lãng trong cộng
đồng các doanh nghiệp Nhật Bản.

Một ví dụ rất đặc trưng về đạo đức của các doanh nghiệp trong thời kì này
là về cách thức giải quyết tranh chấp của doanh nghiệp với người dân bị ảnh
hưởng do tác động làm ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp. Bất kể
mức độ gây thiệt hại của doanh nghiệp đối với các nạn nhân là bao nhiêu, họ
chỉ phải trả một khoản tiền tượng trưng như là lòng thương hại của họ đối với
các nạn nhân mà không phải là những khoản bồi thường thỏa đáng. Trách
nhiệm pháp lý của doanh nghiệp trong những trường hợp này rất mập mờ,
không được qui định rõ ràng.

 Giai đoạn 2: Từ giữa những năm 1960 đến giữa những năm 1970: Giai
đoạn xuất hiện ngày càng nhiều các vấn đề xã hội liên quan đến doanh
nghiệp.

49
Giai đoạn này đã ghi nhận những chuyển biến tích cực trong thái độ của
các doanh nghiệp cũng như của xã hội đối với các vấn đề về trách nhiệm với
môi trường và xã hội của doanh nghiệp. Nguyên nhân trực tiếp tạo ra sự
chuyển biến này là từ vụ việc của 4 công ty lớn của Nhật Bản bị phát hiện đã
có những hoạt động xâm hại nghiêm trọng đến môi trường xung quanh công
ty mà tiêu biểu là vụ việc ở Minamata. Năm 1968, sau 12 năm điều tra
nguyên nhân gây ra dịch bệnh lạ bùng phát ở Minamata, Chính phủ Nhật Bản
đã đưa ra được những bằng chứng chính thức chứng minh được rằng nguyên
nhân gây ra dịch bệnh này xuất phát từ quá trình sản xuất thủy ngân ở nhà
máy Chisso.

Với những trường hợp bị phát hiện trên, một vấn đề cấp bách được đặt ra
với Chính phủ, với xã hội Nhật Bản là họ phải có những hành động cần thiết
để ép buộc các doanh nghiệp phải hoạt động có trách nhiệm với xã hội. Năm
1967, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành “Đạo luật về kiểm soát ô nhiễm môi
trường” (The Basic Law of Enviromental Polluttion Control). Ba năm sau đó,
vào năm 1971, một cơ quan chuyên trách về môi trường của Chính phủ cũng
đã được thành lập nhằm thúc đẩy việc thi hành đạo luật trên.Về phía người
tiêu dùng Nhật Bản, họ cũng đã có những hoạt động, tiếng nói phản đối các
doanh nghiệp Nhật Bản có những hành vi xâm hại môi trường, gây tác hại
cho xã hội.

Dưới sức ép từ phía Chính phủ và người dân, các doanh nghiệp Nhật Bản
đã phải có những hành động để nâng cao trách nhiệm xã hội của mình. Hai tổ
chức kinh tế lớn của Nhật Bản là Keidaren ( Liên đoàn các tổ chức kinh tế
Nhật Bản) với 1000 thành viên và Keizai Doyukai (Hiệp hội các chủ doanh
nghiệp Nhật Bản) với 1500 thành viên đã khuyến nghị các thành viên của

50
mình rằng họ cần nỗ lực hơn nữa để xây dựng một xã hội thịnh vượng và thực
hiện việc quản lý lấy lợi ích xã hội làm trung tâm trong hoạt động của doanh
nghiệp mình.

 Giai đoạn 3: Nửa cuối những năm 1970: Bước giật lùi của đạo đức
kinh doanh.

Năm 1973, thế giới chịu tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng dầu
mỏ. Vốn là nước phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn dầu nhập khẩu, nền công
nghiệp Nhật Bản đã phải gánh chịu những hậu quả nặng nề từ cuộc khủng
hoảng. Các doanh nghiệp Nhật Bản đã phải tập trung đẩy mạnh công cuộc cơ
cấu lại tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp để tồn tại. Rất tiếc là trong hoàn
cảnh đó, doanh nghiệp đã lại không chú ý vào việc thay đổi, xây dựng đạo
đức kinh doanh của doanh nghiệp. Ngay cả khi, vụ scandal nhận hối lộ của
Chính phủ Nhật Bản bị phanh phui, nó cũng không làm gia tăng thêm sự quan
tâm của doanh nghiệp Nhật Bản với đạo đức kinh doanh.

 Giai đoạn 4: Những năm 1980: Giai đoạn bong bóng kinh tế bùng nổ.

Sau giai đoạn khủng hoảng, nhờ những quyết định thực hiện quá trình tái
cơ cấu kịp thời, các doanh nghiệp Nhật Bản đã vượt qua khó khăn và bước
vào thời kì phát triển mạnh mẽ. Nền kinh tế Nhật Bản cũng đã tăng trưởng
với tốc độ chóng mặt. Với thành công như vậy, các nhà doanh nghiệp Nhật
Bản đã nhận được không ít lời ngợi khen từ phía các học giả trong nước cũng
như nước ngoài. Họ đặc biệt đánh giá cao mối quan hệ hợp tác, linh hoạt giữa
các nhà quản lí với nhân viên, giữa các nhà cung cấp nguyên liệu với các
công ty sản xuất, giữa các định chế tài chính với khách hàng...

51
Những lời khen ngợi ấy vô hình chung đã khiến các nhà doanh nghiệp
Nhật Bản nghĩ rằng cách thức quản lí doanh nghiệp của họ hiện nay không
chỉ hiệu quả mà còn đảm bảo được các chuẩn mực đạo đức kinh doanh. Bởi
vì, các mối quan hệ kinh doanh bên trong và bên ngoài doanh nghiệp ấy đang
được xây dựng dựa trên nền tảng tin cậy, hợp tác chặt chẽ, đôi bên cùng có
lợi. Chính tâm lý lạc quan thái quá ấy đã cản trở việc áp dụng những nguyên
tắc đạo đức kinh doanh trong hoạt động của doanh nghiệp Nhật Bản thời kì
này.

 Giai đoạn 5: Từ những năm 1990 đến nay: Đạo đức kinh doanh khẳng
đinh lại vai trò quan trọng của mình.

Sự phát triển của đạo đức kinh doanh trong giai đoạn này được chia theo
2 xu hướng: xu hướng chủ động và xu hướng bị động.

Xu hướng chủ động được thể hiện qua việc các tổ chức,hiệp hội của doanh
nghiệp Nhật Bản như Keidaren, Keizai Doyukai đang ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong việc định hướng cho các nhà doanh nghiệp Nhật Bản có
những bước phát triển hoạt động kinh doanh theo hướng tích cực có đạo đức
kinh doanh.

Tuy nhiên, xu hướng bị động lại là xu hướng có vai trò quan trọng nhất
trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động có đạo đức kinh doanh. Xu
hướng bị động được bắt nguồn từ hàng loạt các vụ scandal xảy ra liên tục
trong các doanh nghiệp Nhật liên quan đến các vấn đề đạo đức. Vụ việc đầu
tiên trong chuỗi các scandal này xảy ra vào năm 1988 liên quan đến hoạt động
giao dịch nội gián. Trong vụ việc này, công ty Recruit (một công ty chuyên
cung cấp thông tin tài chính) đã dành cho các chính trị gia, các quan chức

52
quyền mua cổ phiếu chưa niêm yết của công ty Recruit Comos (một công ty
kinh doanh bất động sản)với giá rẻ để đổi lại, các quan chức, các chính trị gia
này sẽ dành cho họ những ưu đãi trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Tiếp đó
là hàng loạt các vụ bê bối liên quan đến việc hối lộ các quan chức của các
công ty xây dựng, việc thu của khách hàng những khoản tiền bất hợp lí của
các nhà cung cấp gas, việc gia tăng các khoản nợ xấu và mất khả năng kiểm
soát của các định chế tài chính, việc bán các sản phẩm máu bị nhiễm HIV của
các công ty dược phẩm...đã thực sự làm chấn động xã hội Nhật Bản. So sánh
với các vụ bê bối đã xảy ra trong các giai đoạn trước đây, thì các vụ bê bối về
sau này càng có qui mô rộng và tính chất nghiêm trọng hơn trước. Đi kèm với
đó, trong chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như trong xã hội Nhật
Bản đã có những bước thay đổi, bổ sung căn bản trong các điểm sau:

1- Sự gia tăng trong nhận thức của công chúng Nhật Bản đối với các vấn
đề bảo vệ môi trường, thay đổi khí hậu toàn cầu.
2- Áp lực quốc tế đòi hỏi Nhật Bản phải mở cửa thị trường hơn nữa.
3- Việc có hiệu lực của các đạo luật về trách nhiệm pháp lý của doanh
nghiệp đối với các sản phẩm, luật sửa đổi của luật Thương mại về qui định
quản lí của Chính phủ đối với doanh nghiệp.
4- Việc gia tăng quyền lực cho Ủy ban chuyên trách về đảm bảo công
bằng trong hoạt động thương mại của Chính phủ.

Đứng trước những tác động sâu sắc của các vụ bê bối và sức ép ngày càng
cao của Chính phủ và công chúng, các doanh nghiệp Nhật Bản đã nhận thức
được trách nhiệm phải quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng đạo đức kinh
doanh trong hoạt động của doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó, sự tham gia tích
cực nghiên cứu, truyền bá rộng rãi của các học giả, các viện nghiên cứu và

53
giới truyền thông về đạo đức kinh doanh cũng là đóng góp quan trọng để phát
triển đạo đức kinh doanh ở Nhật Bản.

Có một đặc điểm rất thuận lợi là trong quá trình xây dựng và phát triển
đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp Nhật Bản có một
điểm tựa, một chỗ dựa vững chắc từ nền văn hóa doanh nghiệp đặc trưng
Nhật Bản đã được xác lập từ lâu đới với các đặc điểm:

Luôn xác lập triết lý kinh doanh: Có thể nói, hầu hết các doanh nhân Nhật
Bản đều có triết lí kinh doanh. Triết lí kinh doanh được hiểu như sứ mệnh của
doanh nhân trong sự nghiệp kinh doanh. Nó được hình thành trên cơ sở đề
cao ý nghĩa cộng đồng và phù hợp với các chuẩn mực xã hội, hướng tới
những giá trị mà xã hội tôn vinh. Nội dung chủ đạo của các triết lí kinh doanh
Nhật Bản là bày tỏ quyết tâm xây dựng doanh nghiệp vững mạnh toàn diện,
phát triển lâu dài, luôn hướng về lợi ích của khách hàng, của đất nước. Ví dụ
như triết lý kinh doanh của công ty Điện khí Matsushita là "Tinh thần xí
nghiệp phục vụ đất nước" và " Kinh doanh là đáp ứng như cầu của xã hội và
người tiêu dùng", hay tập đoàn Sony: "Sáng tạo là lí do tồn tại của chúng
ta"...
Luôn lựa chọn những giải pháp tối ưu: Trong những mối quan hệ giữa
doanh nhân - xã hội; doanh nhân - khách hàng; doanh nhân - các đối tác kinh
doanh; cấp trên - cấp dưới thường nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn về lợi ích,
tiêu chí, đường lối. Để giải quyết các doanh nhân Nhật Bản thường tìm cách
mở rộng đường tham khảo giữa các bên, tránh gây ra những xung đột đối đầu.
Các bên đều có thể đưa ra các quyết định trên tinh thần giữ chữ Tình trên cơ
sở hợp lí đa phương. Các qui định Pháp luật hay qui chế của DN được soạn

54
thảo khá " lỏng lẻo" rất dễ linh hoạt nhưng rất ít trường hợp lạm dụng bởi
một bên.
Đối nhân xử thế khéo léo: Trong quan hệ, người Nhật Bản chấp nhận
người khác có thể mắc sai lầm, nhưng luôn cho họ hiểu rằng điều đó không
được phép lặp lại và tinh thần sửa chữa luôn thể hiện ở kết quả cuối cùng.
Mọi người đều có ý thức rất rõ rằng không được xúc phạm người khác, cũng
không cần buộc ai phải đưa ra những cam kết cụ thể. Nhưng những chuẩn
mực đạo đức xã hội, đạo đức doanh nhân (trách nhiệm đặt trên tình cảm) đã
tạo một sức ép vô hình lên tất cả khiến mọi người phải xác định được bổn
phận của mình nếu muốn có chỗ đứng trong tổ chức. Người Nhật Bản có qui
tắc bất thành văn trong khiển trách và phê bình như sau: (1) Người khiển
trách là người có uy tín, được mọi người kính trọng và chính danh; (2) Không
phê bình khiển trách tùy tiện, vụn vặt, chỉ áp dụng khi sai sót có tính hệ
thống, gây lây lan, có hậu quả rõ ràng; (3) Phê bình khiển trách trong bầu
không khí hòa hợp, không đối đầu.
Phát huy tính tích cực của nhân viên: Người Nhật Bản quan niệm rằng
trong bất cứ ai cũng đồng thời tồn tại cả mặt tốt lẫn mặt xấu, tài năng dù ít
nhưng đều ở đâu đó trong mỗi cái đầu, khả năng dù nhỏ nhưng đều nằm trong
mỗi bàn tay, cái Tâm có thể còn hạn hẹp nhưng đều ẩn trong mỗi trái tim và
nhiều khi tài năng đó còn ở dạng tiềm ẩn, hoặc do những cản trở khách quan
hay chủ quan. Vấn đề là phải tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi,
thúc đẩy bằng đào tạo để cho mọi người có thể phát huy khả năng của mình,
có thể tham gia vào việc ra quyết định theo nhóm hoặc từ dưới lên. Các doanh
nghiệp Nhật Bản đều coi con người là tài nguyên quí giá nhất, nguồn động
lực quan trọng nhất làm nên giá trị gia tăng và phát triển bền vững của doanh
nghiệp. Người Nhật Bản quen với điều: sáng kiến thuộc về mọi người, tích

55
cực đề xuất sáng kiến quan trọng không kém gì tính hiệu quả của nó, bởi vì
đó là điều cốt yếu khiến mọi người luôn suy nghĩ cải tiến công việc của mình
và của người khác. Một doanh nghiệp sẽ thất bại khi mọi người không có
động lực và không tìm thấy chỗ nào họ có thể đóng góp.
Luôn coi trọng khách hàng: Tinh thần kinh doanh hiện đại là lấy thị
trường làm trung tâm, xuất phát từ khách hàng và hướng tới khách hàng. Điều
này đã thể hiện rất sớm trong phong cách và đường lối kinh doanh Nhật Bản.
Các doanh nhân Nhật Bản luôn đề cao chất lượng thỏa mãn nhu cầu khách
hàng, các cam kết kinh doanh. Họ luôn cố gắng đi trước thị trường, kết hợp
hài hòa các lợi ích, cải tiến liên tục ở từng nhân viên, từng bộ phận để tăng
tính cạnh tranh của doanh nghiệp và thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách
hàng.
Công ty như một cộng đồng: Các công ty Nhật Bản được coi như những
gia đình lớn, chủ tịch công ty như cha mẹ của cán bộ nhân viên, ông ta phải
có trách nhiệm và nghĩa vụ chăm lo cho cuộc sống của nhân viên và cả gia
đình họ, phải nhân từ và họ theo tín điều kinh doanh: “Gánh vác toàn bộ trách
nhiệm đối với người Nhật. Chịu trách nhiệm trước người làm công của
mình”. Mọi thành viên trong công ty gắn kết với nhau trên tinh thần chia sẻ
trách nhiệm hơn là do hệ thống quyền lực vì họ nhận thức được rằng họ là
những người “đồng hội, đồng thuyền”, cùng sống trong một mái nhà chung và
có vận mệnh chung. Sự chăm lo chu đáo của những người chủ doanh nghiệp
đối với nhân viên khiến họ luôn sẵn sằng cống hiến và bảo vệ lợi ích cho công
ty. Họ nhận thức rõ rằng sự nghiệp và lộ trình công danh của cá nhân họ gắn
với các chặng đường thành công của doanh nghiệp. Mọi người sống vì doanh
nghiệp, nghĩ về doanh nghiệp, vui buồn với thăng trầm của doanh nghiệp. Sự
dìu dắt của lớp trước đối với lớp sau, sự gương mẫu của những người lãnh

56
đạo làm cho tinh thần cộng đồng ấy càng bền chặt. Trong nhiều chục năm chế
độ tuyển dụng chung thân suốt đời và thăng tiến nội bộ đã làm sâu sắc thêm
điều này.
Luôn chú trọng công tác đào tạo và sử dụng người: Thực tế và hoàn cảnh
của Nhật Bản khiến nguồn lực con người luôn là yếu tố quyết định đến sự
phát triển và thành công. Các doanh nghiệp Nhật Bản khi hoạch định chiến
lược kinh doanh luôn coi đào tạo nhân lực và sử dụng tốt con người là khâu
trung tâm. Các doanh nghiệp thường có những hiệp hội và có quĩ học bổng
dành cho sinh viên trong những ngành nghề mà họ quan tâm. Họ không đẩy
nhân viên vào tình trạng bị thách đố do không theo kịp sự cải cách quản lí hay
tiến bộ của khoa học công nghệ mà chủ động có kế hoạch ngay từ đầu tuyển
dụng và thường kì nâng cấp trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên.
Các hình thức đào tạo rất đa dạng, nhưng chú trọng các hình thức đào tạo nội
bộ mang tính thực tiễn cao. Việc sử dụng người luân chuyển và đề bạt từ dưới
lên cũng là một hình thức giúp cho nhân viên hiểu rõ yêu cầu và đặc thù của
từng vị trí để họ xác định cách hiệp tác tốt với nhau, hiểu được qui trình
chung và trách nhiệm về kết qua cuối cùng, cũng như thuận lợi trong điều
hành sau khi được đề bạt. Cách thức ấy cũng làm cho các tầng lớp, thế hệ
hiểu nhau, giúp đỡ nhau và cho mọi người cơ hội gắn mình vào một lộ trình
công danh rõ ràng trong doanh nghiệp.
Có thể nói, trong các đặc điểm của văn hóa doanh nghiệp Nhật Bản đã
chứa đựng nhiều yếu tố thể hiện đạo đức kinh doanh trong cách ứng xử với
khách hàng, với xã hội và đặc biệt là với các nhân viên.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Nhật Bản cũng đã tích cực học hỏi và áp
dụng các biện pháp tiên tiến mà các doanh nghiệp Mỹ đang thực hiện để xây
dựng và phát triển đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp. Họ cũng đã thành

57
lập một bộ phận hay Ủy ban chuyên trách về giải quyết các vấn đề liên quan
đến đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp. Giám đốc hay người đứng đầu
ủy ban này sẽ được tuyển dụng từ bên ngoài doanh nghiệp. Đa phần các
doanh nghiệp Nhật Bản đều muốn thuê các chuyên gia về lĩnh vực đạo đức
kinh doanh làm việc trong Ủy ban hay bộ phận đạo đức kinh doanh của mình.
Để phát triển nhận thức về đạo đức kinh doanh trong nhân viên, các công ty
Nhật Bản cũng thường tổ chức những cuộc trao đổi, nói chuyện về đạo đức
kinh doanh, hay tổ chức các lớp đào tạo để phổ biến kiến thức cho nhân viên.
Một vài doanh nghiệp Nhật Bản nhận thấy tầm quan trọng của việc minh bạch
thông tin và cơ chế giải trình thông tin với doanh nghiệp đã để ra Bộ qui tắc
ứng xử (Codes of Conduct) để áp dụng trong doanh nghiệp của mình. Gần
đây, sau khi phát hiện lỗi dính chân phanh xảy ra đối với các sản phẩm ô tô
của Toyota. Tập đoàn ô tô lớn nhất thế giới của Nhật Bản này đã có trách
nhiệm thông báo, thu hồi các xe ô tô bị lỗi trên khắp thế giới. Chủ tịch tập
đoàn Toyota đã đi nhiều nước để xin lỗi khách hàng và hứa sẽ đền bù thiệt hại
cho các khách hàng.

Mặc dù đã có những cố gằng nỗ lực để nâng cao đạo đức kinh doanh
trong doanh nghiệp nhưng các doanh nghiệp Nhật Bản vẫn đang phải đối phó
với các thách thức rất phổ biến từ các hành vi như: câu kết trái pháp luật của
các doanh nghiệp, vấn nạn quấy rối tình dục nơi công sở, hành vi lừa gạt
khách hàng và chính phủ của doanh nghiệp... Một bộ phận doanh nghiệp Nhật
Bản vẫn chưa thực sự tôn trọng đạo đức trog kinh doanh. Điển hình là tập
đoàn ô tô Mitsubishi, khi trong ba năm 1997, 2000 và 2003 tập đoàn đã liên
tiếp dính vào các vụ bê bối liên quan đến gian lận kết quả họp Đại hội cổ
đông, đến các lỗi hư hỏng trong sản phẩm xe ô tô của họ. Bên cạnh những
vấn đề phi đạo đức đó, có một vấn đề đạo đức doanh nghiệp đặc trưng và là

58
vấn đề nhức nhối trong xã hội Nhật Bản đó là karoshi là việc lao động quá tải
dẫn đến suy kiệt, thậm chí là tử vong của người lao động Nhật Bản. Khái
niệm Karoshi được đề cập tới lần đầu tiên vào đầu những năm 1980 khi ngày
càng có nhiều những người lao động Nhật Bản chịu những hậu quả đáng tiếc
về mặt sức khỏe do phải làm việc trong thời gian quá dài. Biểu đồ sau đây cho
thấy số lượng các trường hợp người lao động bị mắc các bệnh tim mạch và bị
tổn thương tâm lý vì phải làm việc quá tải ở Nhật Bản:

Biểu đồ 1: Số trƣờng hợp ngƣời lao động là nạn nhân của Karoshi từ
1990 – 2006.

600

500

400

300
Số trường hợp
200

100

0
1990
1991

1995
1996

2001
2002
1992
1993
1994

1997
1998
1999
2000

2003
2004
2005

(Nguồn: Bộ Y tế, lao động và phúc lợi Nhật Bản 2007)

Biểu đồ trên đã cho thấy sự gia tăng đáng báo động của số nạn nhân
karoshi qua các năm cho thấy môi trường lao động ở Nhật Bản đang ngày
càng tạo ra nhiều áp lực, nhiều tác động có hại cho sức khỏe của người lao
động. Nguyên nhân trực tiếp của tình trạng này chính là do tình trạng phải

59
làm việc trong thời gian dài của người lao động. Theo thống kê, Nhật Bản là
nước luôn dẫn đầu về tổng số thời gian làm việc của người lao động trong
một năm. Biểu đồ sau cho thấy tổng thời gian lao động của một người lao
động ở Nhật Bản trong 1 năm so với một số nước phát triển khác.

Biểu đồ 2: Biểu đồ so sánh tổng thời gian lao động hàng năm ở một số
quốc gia phát triểngiai đoạn 1988 - 2002
Tổng thời gian lao động

(Nguồn: Bộ Y tế, lao động và phúc lợi Nhật Bản 2004)

Như vậy, có thể thấy, Nhật Bản luôn là nước dẫn đầu về thời gian lao
động trên thế giới. Tuy xu hướng gần đây là việc số thời gian lao động đã
được giảm dần, nhưng vấn đề áp lực, cường độ lao động lại ngày một tăng.
Tác hại của Karoshi là đang làm giảm sút chất lượng nguồn nhân lực của
Nhật Bản, đồng thời, cả xã hội và các doanh nghiệp Nhật Bản đều đang phải
chi trả những khoản chi phí không nhỏ để khắc phục hậu quả của vấn đề này.
Đây là một vấn đề đạo đức rất cần được các doanh nghiệp Nhật Bản giải
quyết triệt để. Các biện pháp cần được tiến hành là các doanh nghiệp cần qui

60
định khoảng thời gian lao động hợp lí, phong cách làm việc để đảm bảo sức
khỏe cho người lao động.

3. Trung Quốc.

Có thể nói, những tư tưởng đầu tiên về đạo đức kinh doanh xuất hiện từ
rất sớm ở Trung Quốc. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm Đạo đức
kinh của Lão Tử... Tuy nhiên, những tư tưởng này chỉ dừng lại ở việc nêu ra
một số nguyên tắc đạo đức trong kinh doanh mà các thương nhân nên có cơ
bản như: phải giữ chữ Tín trong trao đổi buôn bán, tuân thủ các cam kết, các
thỏa thuận...., mà không có tính ràng buộc rõ ràng. Việc có kinh doanh có đạo
đức hay không là tùy thuộc vào quyết định của bản thân các thương nhân. Sự
phát triển của đạo đức kinh doanh của Trung Quốc luôn gắn liền với sự biến
đổi của nền kinh tế - chính trị và mang những đặc điểm của nề kinh tế - chính
trị đó. Chúng ta có thể sự phát triển đó theo ba thời kì: (1) Những tư tưởng
đạo đức kinh doanh trong xã hội phong kiến; (2) Những tư tưởng đạo đức
kinh doanh thời kì cận đại bắt đầu cuối những năm 1890 khi giới cầm quyền
Trung Quốc bắt đầu có những hoạt động canh tân đát nước theo phương Tây;
(3) Nền đạo đức kinh doanh hiện đại của Trung Quốc bắt đầu từ năm 1978
khi Đảng Cộng sản Trung Quốc tiến hành cải cách, chuyển đổi nền kinh tế
sang nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường.

a) Thời kì 1: Những tư tưởng đạo đức kinh doanh trong xã hội phong kiến.

Đây là thời kì hình thành nên những tư tưởng về đạo đức kinh doành
truyền thống của Trung Quốc. Trong thời gian này, xã hội Trung Quốc mang
những đặc điểm cơ bản như sau:

61
 Nền kinh tế truyền thống là nền kinh tế nông nghiệp. Trong đó, sản
xuất nông nghiệp rất được coi trọng, thủ công nghiệp và thương nghiệp tuy đã
có những bước phát triển nhất định song không được chú trọng đúng mức.
Quyền sở hữu đều nằm trong tay nhà vua và cac lãnh chúa phong kiến.
 Hệ thống xã hội được phân chia cấp bậc theo tước vị phong kiến được
lưu truyền theo kiểu “cha truyền con nối”. Lễ giáo phong kiến xếp thương
nhân là hạng thứ dân có vị trí rất thấp trong xã hội.
 Chính quyền phong kiến áp dụng mô hình quản lý độc đoán, chuyên
quyền trong cả chính trị và kinh tế.

Những đặc điểm về kinh tế - chính trị - văn hóa như vậy đã hình thành
nên tư tưởng đạo đức kinh doanh có các đặc điểm đặc trưng như:(1)Đề cao lợi
ích của cộng đồng, xã hội hơn lợi ích cá nhân; đề cao sự công bằng hơn là yếu
tố lợi nhuận, , (2) Coi trọng chữ Tín trong kinh doanh, không chấp nhận các
hành vi cạnh tranh, (3) Trách nhiệm của người lao động là phải cần cù, chăm
chỉ lao động.

b) Thời kì 2: Những tư tưởng đạo đức kinh doanh thời kì cận đại.

Đây được coi là thời kì xã hội Trung Quốc trải qua rất nhiều những biến
động lớn qua việc liên tiếp thay đổi thể chế chính trị. Khởi đầu với việc Trung
Quốc tiến hành cuộc canh tân kinh tế - kĩ thuật theo phương Tây để phát triển
sản xuất trong nước, theo vào đó là những tư tưởng kinh tế, đạo đức của
phương Tây du nhập vào Trung Quốc. Đã có những học giả lên tiếng ủng hộ
việc cải cách những nguyên tắc, giá trị đạo đức truyền thống, học theo những
giá trị phương Tây, như coi trọng công nghiệp, coi trọng vai trò của các nhà
tư bản, các thương nhân.... Quan điểm này vấp phải sự phản đối của những
người có tư tưởng bảo thủ muốn duy trì các giá trị đạo đức truyền thống đã có

62
ở Trung Quốc ngàn đời nay. Tuy nhiên, do những cuộc chiến tranh, xung đột,
đấu tranh chính trị liên tiếp xảy ra đã khiến cho việc ngiên cứu, áp dụng, phát
triển đạo đức kinh doanh không được quan tâm đến. Đến năm 1949, khi Đảng
Cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền, đã tiến hành một cuộc cải tổ sâu sắc
nền kinh tế- xã hội của Trung Quốc. Họ áp dụng thể chế kinh tế kế hoạch tập
trung, quan liêu, bao cấp. Tất cả các giá trị đạo đức xã hội bao gồm cả đạo
đức kinh doanh đều phải theo tư tưởng mới là chủ nghĩa Mác – Lênin, trong
đó đề cao vai trò sở hữu Nhà nước, sở hữu công, đề cao sự cống hiến, hi sinh
của các cá nhân cho lợi ích tập thể, lợi ích của đất nước...

c) Thời kì 3: Đạo đức kinh doanh hiện đại của Trung Quốc.

Nền đạo đức kinh doanh hiện đại của Trong Quốc được bắt đầu từ cuối
năm 1978 khi Trung Quốc bắt đầu quá trình chuyển đổi tư duy kinh tế từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị
trường. Theo tác giả Xiaohe Lu trong bài viết “A Chinese Perspective:
Business Ethics in China Now and in the Future” (Suy ngẫm về đạo đức kinh
doanh ở Trung Quốc trong hiện tại và tương lai), sự phát triển của đạo đức
kinh doanh hiện đại của Trung Quốc có thể chia thành 2 giai đoạn dựa theo
thời điểm gia nhập WTO của Trung Quốc do để có thể gia nhập WTO, Trung
Quốc cần phải đáp ứng một số tiêu chuẩn về đạo đức kinh doanh.
Giai đoạn 1: Từ năm 1978 đến năm 2001.
Trong giai đoạn này, sự phát triển của đạo đức kinh doanh được gắn liền
với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường. Cùng
với sự chuyển hướng này, tư duy về đạo đức kinh doanh cũng đã có sự thay
đổi để theo kịp sự thay đổi của nền kinh tế. Đây cũng được coi là bước
chuyển biến quan trọng của đạo đức kinh doanh ở Trung Quốc. Trước khi

63
thực hiện cuộc cải cách kinh tế này, trong xã hội Trung Quốc, đạo đức kinh
doanh chỉ tồn tại những tư tưởng, nguyên tắc về đạo đức trong hoạt động kinh
doanh được “trộn lẫn” trong đạo đức xã hội, chứ chưa tồn tại như một lĩnh
vực độc lập được nghiên cứu cụ thể. Chỉ khi đến giai đoạn này, những hoạt
động mang tính học thuật, giảng dạy mới được tiến hành.
Có thể nói, cuộc chuyển đổi về thể chế kinh tế ấy đã làm thay đổi căn bản
quan điểm về lợi ích kinh tế trong xã hội Trung Quốc và cũng đã đem lại
bước phát triển mới cho đạo đức kinh doanh ở Trung Quốc. Đạo đức kinh
doanh trong thời kì này đứng trước sự du nhập của các quan điểm về đạo đức
kinh doanh của phương Tây đi kèm với sự du nhập của những tư tưởng, học
thuyết về nền kinh tế thị trường đang được nghiên cứu, áp dụng trong quá
trình chuyển đổi nền kinh tế của Trung Quốc. Nếu như trước đây, đạo đức
kinh doanh ở Trung Quốc chỉ bao gồm 2 nhân tố là quan điểm của đạo đức
kinh doanh truyền thống và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin; thì đến
giai đoạn này, đạo đức kinh doanh Trung Quốc đã thành công trong việc tiếp
nhận và chuyển hóa quan điểm về đạo đức kinh doanh của phương Tây để
làm phong phú, sâu sắc thêm tư tưởng, quan điểm về đạo đức kinh doanh của
mình. Và chính việc dựa trên những tư tưởng của đạo đức kinh doanh truyền
thống, quan điểm về đạo đức kinh doanh của chủ nghĩa Mác – Lênin và của
phương Tây ấy, từ bài học của các nước phương Tây trước kia và cả Nhật
Bản trong thời gian đầu thúc đẩy phát triển kinh tế, Trung Quốc đã sớm nhận
thức được vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh. Họ đã nhận thức được
rằng phát triển đạo đức kinh doanh không hề là nhân tố cản trở sự phát triển
kinh tế. Hơn nữa, đạo đức kinh doanh còn có thể là thước đo để đánh giá các
hoạt động kinh tế. Trong quan điểm của các học giả Trung Quốc, một hoạt
động kinh tế nên được đánh giá kĩ lưỡng hơn về cách thức mà nó đem lại lợi

64
ích kinh tế và cách thức nó phân phối lợi ích đó trong xã hội hơn là việc đơn
thuần chỉ xem xét xem liệu nó có đem lại lợi ích hay không. Tuy nhận được
sự ủng hộ rất lớn từ phí chính phủ và xã hội, đạo đức kinh doanh ở Trung
Quốc thời gian này lại chủ yếu nằm trên lý thuyết, chỉ tồn tại trong những
nghiên cứu học thuật, trong chương trình giảng dạy đại học, mà thiếu sự áp
dụng thực sự vào thực tế các doanh nghiệp.
Giai đoạn 2: Từ năm 2001 đến nay.
Nếu như trong giai đoạn trước, đạo đức kinh doanh chủ yếu tập trung vào
vấn đề trong chuyển đổi thể chế kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang
nền kinh tế thị trường , thì bước sang giai đoạn này, đạo đức kinh doanh tập
trung vào giải quyết các vấn đề của nền kinh tế thị trường. Cũng trong giai
đoạn này, sự xuất hiện của 4 yếu tố mới đã thực sự thúc đẩy sự phát triển của
đạo đức kinh doanh đó là:
(1) Trung Quốc phải tiến hành thay đổi hệ thống luật pháp để phù hợp với
các qui định của WTO.
(2) Cũng dưới sự tác động của quá trình Trung Quốc gia nhập WTO,
Trung Quốc cũng phải xây dựng những tiêu chuẩn đạo đức cho phù hợp với
các yêu cầu của WTO. Trong hoạt động này, Trung Quốc đã tìm kiếm sự giúp
đỡ từ các tiêu chuẩn đạo đức của Nho giáo.
(3) Sự phát triển kinh tế trong nước đã nâng cao nhận thức của công
chúng, người tiêu dùng Trung Quốc về quyền và lợi ích của họ, đặc biệt là
qua các phương tiện thông tin đại chúng và qua Internet.
(4) Sự thay đổi trong cách nhìn nhận của chính phủ. Họ đã có những hành
động cụ thể để thúc đẩy áp dụng đạo đức kinh doanh trong các doanh nghiệp.

Bốn nhân tố trên đã góp phần quan trọng đưa đạo đức kinh doanh từ lý
thuyết đi vào thực tiễn áp dụng ở Trung Quốc. Trên bình diện vĩ mô, chính

65
phủ Trung Quốc đã có những nỗ lực tăng cường sức mạnh quản lý của Nhà
nước như: ban hành thêm và sửa đổi nhiều qui định luật pháp để ràng buộc
hơn nữa trách nhiệm của các doanh nghiệp; siết chặt quản lý Nhà Nước về
chất lượng, độ an toàn sản phẩm; áp dụng mạnh tay các biện pháp phòng
chống tham nhũng...Bên cạnh đó, chính phủ Trung Quốc cũng đã có những
chính sách nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống kinh tế thị trường, nhằm đảm
bảo sự hài hòa lợi ích kinh tế hơn nữa giữa các thành phần,tầng lớp trong xã
hội. Họ đã không còn chú trọng quá mức vào tốc độ tăng trưởng GDP mà chủ
yếu chú trọng vào chất lượng tăng trưởng, cân đối sự phát triển kinh tế giữa
các vùng miền, tiêu biểu là chính sách tập trung đầu tư công, đưa ra những ưu
đãi thu hút nguồn vốn của các doanh nghiệp đầu tư về những vùng khó khăn
miền Tây Trung Quốc.

Việc nâng cao nhận thức của người dân, người tiêu dùng Trung Quốc về
quyền lợi của họ đã phát huy những hiệu quả tích cực trong việc ràng buộc
trách nhiệm đối với các doanh nghiệp. Người dân sẽ là những người giám sát,
đóng góp những tiếng nói phản biện, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải
hoạt động nghiêm chỉnh, tuân thủ các qui định luật pháp, cũng như các
nguyên tắc của đạo đức kinh doanh.

Những kết quả bước đầu đã cho thấy sự hợp tác tích cực của các doanh
nghiệp Trung Quốc. Hiện nay, mục tiêu xây dựng doanh nghiệp “ngay thẳng
và trách nhiệm” đang được các công ty Trung Quốc nỗ lực thực hiện. Việc áp
dụng các tiêu chuẩn như SA8000, ..trong hoạt động doanh nghiệp hay nâng
cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang được đẩy mạnh. Mục tiêu của
các doanh nghiệp lúc này không chỉ là lợi nhuận mà còn là phải đảm bảo hài
hòa giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của cộng đồng, xã hội.

66
Tuy nhiên, dù đã có những bước đi tích cực trong nỗ lực xây dựng môi
trường hoạt động kinh doanh có đạo đức, song Trung Quốc hiện nay đang
đứng trước những thách thức nghiêm trọng từ những vụ bê bối liên tiếp xảy ra
về chất lượng của các sản phẩm, hàng hóa Trung Quốc ngay tại thị trường
Trung Quốc và trên thị trường thế giới gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy
tín của hàng hóa Trung Quốc, thậm chí còn gây ác cảm từ phía khách hàng
khi họ nghĩ rằng hàng hóa Trung Quốc luôn đi liền với chất lượng thấp và độc
hại. Những vụ việc tiêu biểu như:

Vụ việc kem đánh răng Trung Quốc nhiễm chất độc diethylene glycol
(DEG): vụ việc được bắt đầu vào ngày 28/5/2007, khi hàng loạt các nước Mỹ-
Latinh gồm: Panama, Costa Rica, Honduras... phát hiện trong sản phẩm kem
đánh răng nhập từ Trung Quốc có chưa chất độc diethylene glycol (DEG) và
đã cho thu hồi hàng chục nghìn tuýp kem đánh răng có các nhãn hiệu như:
Mr.Cool, Excel...Tiếp theo đó, đến lượt Cơ quan Quản lý Dược phẩm và
Thực phẩm Mỹ (FDA) cũng đã vào cuộc điều tra và tiến hành thu hồi rất
nhiều sản phẩm kem đánh răng Trung Quốc với các nhãn hiệu tương tự. Động
thái trên cũng được Chính phủ ở nhiều quốc gia tiến hành. Vụ bê bối này
không những gây thiệt hại về kinh tế mà còn đánh mạnh vào niềm tin của
người tiêu dùng về hàng hóa Trung Quốc.

Trong khi diễn biến của vụ kem đánh răng Trung Quốc còn chưa lắng dịu
xuống, thì vào ngày 13/6/2007, một công ty nhập khẩu của Mỹ đã tuyên bố tự
nguyện thu hồi 1,5 triệu bộ tàu hỏa đồ chơi bằng gỗ của Trung Quốc sản xuất
do sơn có chứa chì. Tiếp đó vào tháng 8/2007, Mattel - tập đoàn sản xuất đồ
chơi lớn của Mỹ đã thu hồi 19.5 triệu sản phẩm được sản xuất ở Trung Quốc
và đang được bán trên toàn thế giới. Vụ việc này đã làm dấy lên một mối lo

67
ngại mới và làm căng thẳng thêm những nghi ngờ về chất lượng hàng hóa
Trung Quốc.

Đến cuối năm 2007, dư luận thế giới lại được nghe tin về scandal sữa có
pha hóa chất melamin của Trung Quốc. Vụ việc được bắt đầu vào tháng
12/2007, khi bắt đầu xuất hiện những lời than phiền của người tiêu dùng về
sữa của tập đoàn Tân Lộc khiến con họ bị ốm. Đến tháng 6/2008, tập đoàn
Tân Lộc thừa nhận trong sữa của họ nhiễm chất melamin – một chất gây ra
bệnh sỏi thận cho người bị nhiễm, và cho tiến hành thu hồi sản phẩm. Tuy
nhiên, Tân Lộc lại không thông báo rộng rãi vụ việc này ra công chúng. Vụ
việc càng trở nên nghiêm trọng khi tính tới ngày 15/9/2008, đã có tới 1200 trẻ
em ở Trung Quốc mắc sỏi thận do uống sữa bẩn, trong đó 2 em đã tử vong.
Nhà chức trách Trung Quốc đã cho tiến hành kiểm tra 109 công ty sản xuất
sữa cho trẻ em và phát hiện 22 sản phẩm sữa của các công ty có chứa
melamin. Tác hại của vụ việc lan nhanh đến mức ngày 22/9/2008, Bộ y tế
Trung Quốc thông báo đã có tới 53.000 trường hợp trẻ em nhập viện do uống
sữa bẩn, trong đó có 104 trẻ trong trạng thái nguy kịch. Vụ việc này thực sự
đã gây chấn động đối với toàn thế giới, càng cho thấy sự xuống dốc nghiêm
trọng của đạo đức trong các doanh nghiệp Trung Quốc.

Dường như chỉ trong khoảng thời gian vài tuần lễ, người ta lại được nghe
thấy những thông tin về độ mất an toàn hay chất lượng thấp của hàng hóa
Trung Quốc. Vậy tại sao lại xảy ra nhiều vụ bê bối đối với hàng hóa Trung
Quốc như vậy? Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng đó?

Dễ hiểu, chúng ta có thể thấy rằng, về cơ bản, nền kinh tế của Trung Quốc
tuy đã có những bước thành công nhất định trong phát triển kinh tế thì nền
kinh tế ấy vẫn là một nền kinh tế đang phát triển đi lên từ một nền kinh tế

68
nông nghiệp và phải chịu những hệ lụy, tàn dư nhất định của tâm lý làm ăn
manh múi, chộp giật của thời kì đó. Bên cạnh đó, thể chế kinh tế thị trường
non trẻ của Trung Quốc mới xây dựng được trong hơn 30 năm so với hàng
trăm năm phát triển của thể chế kinh tế thị trường ở các nước Mỹ và Tây Âu
rõ ràng là chưa thể đạt được sự ổn định, hoàn thiện về thể chế. Hệ thống giám
sát nền kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong giám sát, quản lý từ
phía chính phủ đang tồn tại nhiều vấn đề từ sự nhận thức còn hạn chế đến ảnh
hưởng của vấn nạn tham nhũng đang làm suy yếu chức năng của đối tượng
này. Phân tích một cách chi tiết, tác giả Xiaohe Lu đã đưa ra ba vấn đề chính
đang tồn tại cản trở sự phát triển của đạo đức kinh doanh ở Trung Quốc đó là:

Vấn đề thứ nhất là vấn đề trong cách thức vận dựng nền kinh tế thị
trƣờng và sử dụng vốn của Trung Quốc. Có thể nói, quá trình đổi mới,
chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi bộ mặt của
Trung Quốc, từ một đất nước nghèo nàn lạc hậu, trở thành một nền kinh tế
mới nổi, đang phát triển mạnh mẽ ngày càng có tầm ảnh hưởng trên thế giới.
Nếu như trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền sản xuất của
Trung Quốc bị đình trệ, không đủ khả năng cung cấp đủ nhu cầu cho người
dân, thì bước sang nền kinh tế thị trường, sức sản xuất trong xã hội ấy đã
được giải phóng và phát triển một cách. Trong ba thập niên gần đây, thế giới
đã được chứng kiến sự tấn công ào ạt của hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc vào
tất cả các thị trường trên thế giới, đặc biệt là thị trường các nước phát triển.
Tuy nhiên, thể chế kinh tế thị trường du nhập vào Trung Quốc đem lại thành
công cho quốc gia này nhưng cũng đem theo vào những mặt trái của nó đang
gây ra những vấn đề đạo đức nhức nhối trong xã hội Trung Quốc. Những giá
trị tốt đẹp của đạo đức truyền thống đang bị nền kinh tế thị trường dần dần
làm biến mất. Nếu như trong thời gian trước đây, người dân Trung Quốc luôn

69
sẵn sàng cống hiến cho đất nước, cho sự nghiệp chung, luôn đặt lợi ích của
cộng đồng, của đất nước lên trên lợi ích cá nhân thì hiện nay, lợi ích cá nhân
mới là yếu tố được đặt lên trên hết, cả xã hội đều chạy theo đồng tiền mà
dường như đã lãng quên lợi ích của cả xã hội. Điều này được thể hiện rất rõ
trong hoạt động của các doanh nghiệp Trung Quốc. Bất kể các doanh nghiệp
ấy được sở hữu bởi Nhà nước hay tư nhân thì mục tiêu hoạt động của họ đều
là tối đa hóa lợi nhuận. Hơn nữa, như đã nói ở trên, Trung Quốc đi lên từ một
nền kinh tế nông nghiệp, qui mô nhỏ với hạt nhân là kinh tế tiểu chủ, hộ gia
đình, tâm lý hoạt động manh múi, chộp giật, coi trọng lợi ích trong tức thời
mà quên đi lợi ích lâu dài vẫn đang đè nặng lên tư tưởng của nhiều doanh
nhân Trung Quốc mà chưa thể xóa bỏ một sớm một chiều. Vì yếu tố lợi
nhuận, các doanh nghiệp Trung Quốc sẵn sàng làm tất cả để có được nó kể cả
việc lừa dối, lợi dụng, làm tổn hại đến khách hàng không những chỉ là những
người tiêu dùng trong nước mà cả những người tiêu dùng nước ngoài.

Vấn đề thứ hai là vấn đề trong cách suy nghĩ và quản lý nền kinh tế của
Nhà nƣớc Trung Quốc. Nếu như trước kia, chính quyền Trung Quốc hạn
chế, cấm đoán ngặt nghèo đối với kinh tế cá nhân bao nhiêu, thì ngày nay họ
càng buông lỏng quản lý, để mặc các doanh nghiệp tư nhân hoạt động tự do
bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ những nhận thức sai lầm về nền kinh tế thị
trường của Nhà nước Trung Quốc. Thứ nhất, các chính quyền địa phương
Trung Quốc nhận thức rằng các doanh nghiệp tư nhân là hiện thân của nền
kinh tế mới, đưa ra càng nhiều các chính sách ưu đãi để doanh nghiệp tư nhân
phát triển mạnh là càng ủng hộ sự phát triển của nền kinh tế mới. Trong khi
đó, họ lại không nhận thưc được rằng, ngay trong cả nền kinh tế thị trường
Nhà nước cũng cần đưa ra những chính sách, nguyên tắc, khuôn khổ pháp lý
để quản lí hoạt động của doanh nghiệp tư nhân. Thứ hai, các nhà chức trách

70
Trung Quốc cũng lo lắng rằng nếu họ đưa ra những biện pháp thắt chặt quản
lý sẽ gây ra tác động tiêu cực làm cản trở sự phát triển và gây ra tình trạng rút
vốn đồng loạt của các doanh nghiệp tư nhân. Một số ý kiến còn cho rằng
trong trường hợp nguồn gốc của dòng vốn đầu tư ấy là không hợp pháp,
nhưng nếu nó đem lại hiệu quả lợi nhuận, đem lại lợi ích cho nền kinh tế thì
chính quyền cũng không nên truy tố trách nhiệm với nó. Thứ ba, nhận thức
nhầm lẫn giữa phát triển kinh tế và tăng trưởng kinh tế của các nhà quản lý
Trung Quốc. Rất nhiều các nhà quản lý ở các địa phương trong chính quyền
Trung Quốc đã cho rằng phát triển kinh tế tức là đạt được tốc độ tăng trưởng
GDP cao. Chính vì vậy, họ chỉ tập trung làm sao cho tốc độ tăng trưởng GDP
cao bằng mọi giá mà không để ý đến vấn đề liệu rằng sự tăng trưởng đó có
đem lại lợi ích hay đang gây ra những tác động xấu con người và môi trường
xung quanh? Thứ tư ,quá trình cải cách nền kinh tế của chính phủ Trung Quốc
được đi kèm với quá trình phân bổ, tăng thêm quyền lực cho các chính quyền
địa phương. Bản thân các chính quyền địa phương đã có nhiều nhận thức sai
lầm về thực hiện nền kinh tế thị trường và thúc đẩy phát triển kinh tế, khi
được có thêm nhiều quyền lực quản lý lại càng làm cho những hạn chế đó gây
ra nhiều tác động tiêu cực đối với toàn bộ nền kinh tế. Quá trình phân quyền
cho các địa phương này cũng đồng thời làm tăng vấn nạn tham nhũng trong
bộ máy quản lý lại càng làm suy yếu hơn vai trò quản lý của bộ máy Nhà
nước, tạo điều kiện cho các hoạt động trục lợi của các cá nhân, doanh nghiệp
phát triển.

Vấn đề thứ ba là các doanh nghiệp Trung Quốc đang thiếu một lí luận
thực sự trong xây dựng văn hóa và đạo đức doanh nghiệp. Rất nhiều các
doanh nghiệp Trung Quốc khi được hỏi về vấn đề này, họ không có những
khái niệm rõ ràng về văn hóa và đạo đức doanh nghiệp và nếu họ nhận thức

71
được thì lại không biết làm thế nào để xây dựng được chúng trong doanh
nghiệp. Tất cả những gì họ có chỉ là những quan điểm, lý luận về đạo đức xã
hội hay cụ thể hơn là vai trò xã hội của các cá nhân. Những lý luận về xây
dựng văn hóa và đạo đức trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu công đã thiếu
thì lý luận ấy cho doanh nghiệp tư nhân lại càng không hề có do trong giai
đoạn trước đây hình thức doanh nghiệp tư nhân chỉ tồn tại rất hạn chế và
không có được sự quan tâm từ phía xã hội. Thêm nữa, lý luận trong nước đã
không có nhưng việc giới thiệu những lý luận và học thuyết về vấn đề trên
của nước ngoài cũng rất ít hoặc chỉ dừng lại ở mức giới thiệu sơ lược. Đa số
những sách viết về kinh doanh được dịch , xuất bản và giới thiệu ở Trung
Quốc chủ yếu lại nói về cách thức để doanh nghiệp đạt được lợi nhuận, chứ
không hề đề cập đến trách nhiệm xã hội hay đạo đức của doanh nghiệp.
Người Trung Quốc có câu “Thương trường là chiến trường”, chính những tư
tưởng như vậy cộng với việc truyền bá những học thuyết kinh doanh đề cao
lợi nhuận vô hình chung đã cổ súy cho việc chạy theo lợi nhuận của các
doanh nghiệp Trung Quốc và gần như lãng quên khái niệm văn hóa và đạo
đức doanh nghiệp.

Mặc dù, chính phủ Trung Quốc đang cố gắng hoàn thiện và xiết chặt hơn
nữa hệ thống luật pháp để ràng buộc các doanh nghiệp hoạt động có đạo đức.
Tuy nhiên, vẫn phải khẳng định rằng dù những qui định của luật pháp có chặt
chẽ đến mức nào đi nữa, nó vẫn không thể thay thế được tầm quan trọng của
nền móng văn hóa và đạo đức doanh nghiệp vững chắc. Chỉ có đứng trên nền
móng được xây dựng từ hệ thống luật pháp và văn hóa doanh nghiệp đủ
mạnh, các doanh nghiệp mới có thể hoạt động có đạo đức kinh doanh.

72
Để có thể giải quyết triệt để những vấn đề trên, ngoài việc hoàn thiện hệ
thống luật pháp, siết chặt quản lý Nhà nước, tăng cường giám sát, xử lý mạnh
tay các trường hợp vi phạm, phòng chống tham nhũng, điều mà Trung Quốc
rất cần phải làm là phải thay đổi được tư duy chạy theo lợi nhuận của các
doanh nhân Trung Quốc bằng tư duy mới hoạt động kinh doanh vì lợi ích của
cả xã hội và doanh nghiệp, trong đó luôn phải xem trọng lợi ích xã hội; phải
xây dựng được trong các doanh nghiệp Trung Quốc một nền tảng văn hóa
doanh nghiệp vững mạnh thông qua đó có thể ngăn chặn có hiệu quả các hành
vi phi đạo đức của các nhân viên và lãnh đạo công ty. Các biện pháp mà
Trung Quốc tiến hành để đạt được mục tiêu trên đó là:

Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, làm thay đổi nhận thức của
các doanh nhân Trung Quốc, phê phán tâm lý kinh doanh chạy theo lợi
nhuận; đồng thời có các hình phạt mạnh tay với các doanh nghiệp, doanh
nhân có hành vi phi đạo đức. Các chương trình đào tạo, nâng cao nhận thức
cho các doanh nhân về đạo đức kinh doanh đang được chính phủ Trung Quốc
thúc đẩy. Tuy nhiên, với số lượng rất lớn các doanh nghiệp, trong đó có nhiều
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì nhiệm vụ này rất nặng nề với chính phủ Trung
Quốc.

Thứ hai, chính phủ Trung Quốc cùng với giới học giả đang tìm kiếm sự
giúp đỡ của các tư tưởng đạo đức của Nho giáo truyền thống để hình thành lý
luận cho việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp Trung Quốc. Đã có một số các
tập đoàn lớn của Trung Quốc nhận thức rõ được vấn đề này và chủ động tiến
hành xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tiêu biểu như tập đoàn Fuda, Haier... Ở
Fuda, người ta coi “công ty cũng như một cá nhân”, xây dựng văn hóa công ty

73
tốt cũng như xây dựng văn hóa của một con người tốt. Ông Yuan Li – chủ
tịch của Fuda đã đưa ra quan niệm của Fuda về vấn đề này:

(1) Thế nào là một con người tốt? Đó là một con người luôn hoạt động,
cống hiến vì lợi ích của đất nước, của xã hội và cộng đồng nơi anh ta sinh
sống. Theo ông, một con người khi quyết định thực hiện một hành động thì
70% bị chi phối bởi lợi ích thu được, 30% còn lại bị chi phối bởi cảm xúc,
niềm tin vào hành động của mình. Một người tốt là người biết cân bằng giữa
cái 70% và 30% ấy.
(2) Phải hành động như thế nào để trở thành một người tốt? Theo ông
Yuan Li, văn hóa doanh nghiệp của Fuda được xây dựng từ 3 yếu tố: học
thuyết về quản lý doanh nghiệp của phương Tây kết hợp với tư tưởng của
Nho giáo và Đạo giáo. Trong đó, học thuyết về quản lý doanh nghiệp đóng
vai trò là nguyên tắc quản lý doanh nghiệp, còn tư tưởng Nho giáo và Đạo
giáo là nguyên tắc hoạt động và xây dựng văn hóa đạo đức trong doanh
nghiệp. Ông cho rằng, Nho giáo dạy cho doanh nghiệp biết cách cư xử đúng
mực trong xã hội và Đạo giáo sẽ chỉ dẫn cho ông làm thế nào để điều hành
một công ty tốt.Những tiến bộ trong văn hóa doanh nghiệp của Fuda có thể kể
đến như: tất cả các nhà quản lý, thậm chí là cả CEO của Fuda đề do các nhân
viên của công ty bầu chọn; tiêu chuẩn để đánh giá các cá nhân ở Fuda đó là
ngay thẳng, trung thực, luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác, hiếu thảo với cha
mẹ..

74
Chƣơng III: Bài học kinh nghiệm cho các doanh
nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập.

1. Thực trạng đạo đức kinh doanh Việt Nam.


Sự ra đời của đạo đức kinh doanh luôn đi kèm với sự xuất hiện của các
hoạt động thương mại, trao đổi buôn bán. Và Việt Nam cũng không nằm
ngoài qui luật này. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, người ta vẫn chưa tìm ra một
văn bản chính thức nào ghi chép về những nguyên tắc đạo đức trong kinh
doanh của các thương nhân Việt Nam thời kì xa xưa. Phải cho đến cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đem theo mô hình
phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, thì những văn bản đầu tiên về đạo đức
trong kinh doanh mới được xuất hiện. Đó là tác phẩm “Đạo làm giàu” của cụ
Lương Văn Can. Mặc dù tác phẩm của cụ mới chỉ giới hạn trong hoạt động
thương nghiệp, khuyên người thương nhân luôn phải giữ chữ Tín, không được
gian lận trong buôn bán trao đổi, không được nâng giá một cách tùy tiện,
không được ép giá đối tác kinh doanh...., nhưng phần nào đó nó đã thể hiện sự
quan tâm của giới tri thức Việt Nam đến vấn đề đạo đức trong kinh doanh.
Một đặc điểm rất nổi bật trong đạo đức kinh doanh của các nhà tư sản dân tộc
thời kì này đó là tinh thần dân tộc, yêu nước. Họ luôn tâm niệm rằng họ phải
gắn hoạt động kinh doanh của mình với vận mệnh chung của dân tộc, luôn đề
cao tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc thể hiện trước hết trong việc
cạnh tranh với các thương nhân nước ngoài, đặc biệt là với giới tư sản Pháp.
Đến khi đất nước giành được độc lập năm 1945, trong bức thư gửi cho
các nhà công thương Việt Nam, Bác Hồ đã đề cao vai trò của giới công
thương trong phát triển kinh tế đất nước, khuyên họ hoạt động theo có đạo
đức trong hoạt động kinh doanh với mục tiêu cao cả nhất là kiến tạo một nước

75
Việt Nam hiện đại và đặt Việt Nam trong xu thế hội nhập với thế giới. Tuy
nhiên trong 30 năm sau đó, khi đất nước luôn ở trong hoàn cảnh chiến tranh,
toàn dân tộc phải tập trung cho mục tiêu giành độc lập, tự do, hòa bình cho
đất nước thì nền kinh tế không có điều kiện để phát triển và những nội dung
liên quan đến đạo đức kinh doanh không được để ý đến. Khi đất nước bước
vào giai đoạn hòa bình sau chiến tranh, chúng ta lại thực hiện theo mô hình
kinh tế kế hoạch tập trung làm hạn chế rất nhiều khả năng phát triển kinh tế
của đất nước. Nền sản xuất chỉ hoạt động theo kế hoạch của Nhà nước, trì trệ,
đình đốn; thương mại bị kìm hãm, ngăn cấm, chỉ tồn tại ở hình thức phân phối
của Nhà nước không dựa trên sự trao đổi, buôn bán được phép hoạt động. Khi
các hoạt động kinh doanh không thể phát triển, bị kìm hãm, thì đạo đức kinh
doanh cũng không thể có những bước tiến, và chỉ dừng lại ở nguyên tắc tuân
thủ sự phân công của Nhà nước.
Cho đến khi nước ta thực hiện quá trình Đổi mới từ năm 1986, xây dựng
một nền kinh tế hiện đại theo cơ chế thị trường, đạo đức kinh doanh ở Việt
Nam mới có những điều kiện để hình thành và phát triển chính thức. Đặc biệt
là khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, gia nhập WTO,
thì vấn đề đạo đức kinh doanh mới trở nên cấp thiết với các doanh nghiệp
Việt Nam.
Xem xét tổng thể đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay, chúng ta nhận
thấy có rất nhiều hạn chế. Những vấn đề, thách thức về đạo đức mà Việt nam
đang gặp phải đó là:
Thứ nhất, vấn đề hoạt động kinh doanh có đạo đức, có trách nhiệm xã hội
dường như đang không được nhiều các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm, đặc
biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận chủ yếu của hệ thống
doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề này được thể hiện trong tất cả các mối quan

76
hệ của doanh nghiệp với khách hàng, người lao động, cổ đông và đối thủ cạnh
tranh.
Đối với khách hàng: Liên tục trong thời gian gần đây, người tiêu dùng
Việt Nam liên tiếp đón nhận những thông tin về tình trạng mất an toàn vệ sinh
thực phẩm của bột ớt, hạt dưa,... do các các cơ sở sản xuất tiêu thụ trên thị
trường. Trở lại mấy năm trước vào năm 2007, người tiêu dùng Việt Nam đã
từng xôn xao vì hàng loạt chai nước tương của các công ty Việt Nam từ
những nhãn hàng của các công ty có uy tín, thương hiệu cao trên thị trường
như: Chinsu, Trung Thành.. cho đến những nhãn hàng của các công ty, cơ sở
sản xuất qui mô nhỏ đều bị phát hiện nhiễm chất 3-MCPD (một chất độc có
khả năng gây ung thư). Vụ việc này đã gây ra sự hoang mang, lo lắng về sự
an toàn của các sản phẩm Việt Nam đối với người tiêu dùng; là biểu hiện về
sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với sức khỏe người tiêu dùng.
Đối với người lao động: Theo thống kê trong những năm gần đây, số vụ
đình công của công nhân ở Việt Nam lên tới hàng trăm vụ mỗi năm và ngày
càng gia tăng về số lượng qua các năm. Năm 2006, cả nước xảy ra 387 vụ
đình công, sang năm 2007 là 561 vụ và năm 2008 là 650 vụ. Tuy đến năm
2009 số vụ đình công đã giảm chỉ còn 200 vụ, nhưng đó là do cuộc khủng
hoảng kinh tế dẫn đến tâm lý người lao động sợ mất việc nên không dám đấu
tranh cho quyền lợi của mình. Phần lớn các cuộc đình công của công nhân
hiện nay là vì mục đích kinh tế. Trong đó, các nguyên nhân chính dẫn đến
đình công đó là:
 Người lao động không hài lòng với điều kiện làm việc, môi trường ô
nhiễm, công cụ lao động không được thẩm tra, an toàn lao động kém, không
có kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân công và tình trạng tai nạn nghề nghiệp
khá phổ biến.

77
 Mức lương các doanh nghiệp trả cho lao động vẫn rất thấp so với mặt
bằng giá cả, đặc biệt trong tình hình lạm phát gia tăng cao trong những năm
gần đây, mức lương của không theo kịp với diễn biến lạm phát càng làm cho
đời sống người công nhân càng khó khăn. Vì thế, người lao động không hài
lòng và không trung thành với doanh nghiệp.[1, tr8]
Bên cạnh đó, tình trạng tăng giờ làm, nợ lương, bớt xén tiền thưởng, trốn
đóng hay chậm đóng BHXH cho công nhân (theo ước tính, số tiền nợ BHXH
của các doanh nghiệp đã lên đến con số 2000 tỷ đồng) của các doanh nghiệp
đang có diễn biến lan tràn trong các doanh nghiệp gây tổn hại rất lớn đến
quyền lợi và đời sống của người lao động. Nghiêm trọng hơn là đã có những
trường hợp người sử dụng lao động có những hành vi xúc phạm, đánh đập
người lao động như vụ việc diễn ra vào năm 2003, bà Lê Thị Lan – Giám đốc
Xí nghiệp thủy sản Phú Hải (Bình Thuận) đã đánh đập chị Văn Thị Dung –
nhân viên trong xí nghiệp trước mặt đông đảo các nhân viên vì đã có những
lời phàn nàn về bà Lan. Việc các doanh nghiệp có các hành vi đối xử thô bạo
với người lao động hay chạy theo lợi nhuận mà cố tình bỏ qua quyền lợi của
người lao động là những hành vi rất đáng lên án trong xã hội.
Đối với cổ đông: Tình trạng phổ biến hiện nay trong mối quan hệ giữa
doanh nghiệp Việt Nam đối với các cổ đông đó là tình trạng thiếu minh bạch,
thiếu sự công bố rộng rãi các thông tin hoạt động của doanh nghiệp đối với cổ
đông và tình trạng các doanh nghiệp không quan tâm đến quyền lợi của cổ
đông nhỏ, lẻ. Theo Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, tính đến 31-3-2009, trên
sàn Hà Nội có 95,8% công ty niêm yết xây dựng website của mình. Tuy
nhiên, phần lớn các website của các công ty niêm yết hiện còn sơ sài và chưa
cập nhật đầy đủ thông tin, đặc biệt đối với các công ty có quy mô vốn nhỏ,
nằm trên địa bàn vùng sâu, xa. Còn tại sàn TPHCM, dù đã có 176/177 công ty

78
có website nhưng vẫn có tới 31 công ty chưa cập nhật đầy đủ thông tin đã
công bố, 7 website không truy cập được hoặc đang được xây dựng lại. Trong
việc thực hiện nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính của doanh nghiệp, tình trạng
chậm nộp, thường xuyên xin gia hạn thời gian nộp liên tục xảy ra. Cũng theo
thống kê của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, đối với việc công bố thông tin
định kỳ các báo cáo tài chính trong từng quý của năm 2008, không có lúc nào
không có doanh nghiệp công bố chậm (ít thì 11 doanh nghiệp, nhiều lên đến
79 doanh nghiệp chậm nộp)[10]. Đáng chú ý trong các báo cáo quý, số doanh
nghiệp nộp chậm báo cáo của sàn TP.HCM thường nhiều hơn sàn Hà Nội.
Không chỉ nộp chậm báo cáo, mà bản thân các báo cáo mà các doanh nghiệp
công bố thường xuyên có những tình trạng: báo cáo tài chính trước và sau
kiểm toán có nhiều khác biệt, có thể dẫn đến tình trạng doanh nghiệp chuyển
từ lãi sang lỗ; báo cáo tài chính quý còn thiếu phần thuyết minh; nhiều thuyết
minh không đầy đủ, chi tiết để nhà đầu tư có thể hiểu rõ tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty; các khoản đầu tư tài chính không được công
bố đầy đủ ra thị trường và chưa được trích lập dự phòng thường xuyên, chủ
yếu dồn vào quý IV. Đáng chú ý, đã có tình trạng doanh nghiệp niêm yết cố
tình làm sai báo cáo tài chính để che giấu tình hình hoạt động thua lỗ của
doanh nghiệp để che mắt cổ đông và nhà đầu tư. Đó là trường hợp của công ty
cổ phần bánh kẹo Biên Hòa Bibica đã có hành vi gian dối kết quả kinh doanh
trong các báo cáo tài chính năm 2002 và 6 tháng đầu năm 2003. Trong bối
cảnh, Bibica đang triển khai thực hiện đồng loạt nhiều dự án mới như triển
khai sản xuất các sản phẩm mới (bánh bông lan...) và xây dựng thêm Nhà
máy bánh kẹo Biên Hòa 2 lại phải đương đầu với nhiều khó khăn thách thức
đến từ số nợ ngân hàng gia tăng, sự tăng giá của nguyên vật liệu đầu vào và
sự biến động trong bộ máy nhân sự, khiến công ty rất cần một nguồn vốn lớn

79
để duy trì, tiếp tục hoạt động, Ban lãnh đạo Bibica đã có động thái điều chỉnh
con số hoạt động thua lỗ của công ty từ 10.08 tỷ đồng về 5.4 tỷ đồng để làm
yên lòng các nhà đầu tư. Sau khi vụ việc bị vỡ lỡ đã làm cho giá trị cổ phiếu
của Bibica bị sụt giảm nghiêm trọng gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Bản thân
Bibica phải chịu những hình phạt nặng của các cơ quan quản lý, bị mất uy tín
kinh doanh nghiêm trọng và đứng bên bờ vực phá sản [1]. Đây có thể coi là
bài học đắt giá cho tất cả các công ty Việt Nam về tính trung thực trong hoạt
động của mình.
Trong quan hệ với cổ đông nhỏ, đối với các doanh nghiệp, tiếng nói của
các cổ đông nhỏ “có cũng như không”. Qua một số kỳ Đại hội cổ đông cho
thấy, sự có mặt của các cổ đông nhỏ lẻ gần như chỉ để đủ cơ cấu, không thể
hiện được quyền của mình trong mọi vấn đề hoạt động của doanh nghiệp mà
mình góp vốn. Cá biệt còn có những trường hợp các doanh nghiệp đưa ra yêu
cầu cổ đông phải có một tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu nhất định, thường ở mức cao
mới được dự họp Đại hội để loại bỏ từ đầu những cổ đông nhỏ, lẻ. Tình trạng
phân biệt đối xử về lợi ích giữa các cổ đông nhỏ và các cổ đông lớn cũng đã
xảy ra như trường hợp ở cty cổ phần Vận tải xăng dầu (VIPCO) đã cho phép
cổ đông lớn mua cổ phiếu phát hành tăng vốn điều lệ với giá 15.000 đồng/cổ
phiếu, còn các cổ đông nhỏ phải mua với giá 40.000 đồng/cổ phiếu, cao gấp
2,67 lần so với cổ đông lớn; tương tự như vậy, tại Cty CP Dịch vụ Sài Gòn -
Savico (SVC) cũng đã từng cho cán bộ lãnh đạo mua cổ phiếu ưu đãi với giá
30.000 đồng/cổ phiếu trong khi đó giá thị trường là 118.000 đồng/cổ
phiếu.[8]
Đối với đối thủ cạnh tranh: Quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
nhằm phân chia và giành giật thị trường là một đặc điểm tất yếu trong nền
kinh tế thị trường. Bên cạnh những phương pháp cạnh tranh minh bạch, hợp

80
pháp, các doanh nghiệp cũng đã có những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trên thị trường. Những cuộc đua tranh để hạ chi phí sản phẩm, dịch vụ
mà các doanh nghiệp lớn phát động nhằm triệt hạ các doanh nghiệp nhỏ, các
doanh nghiệp mới bước vào thị trường là chiêu bài được thường xuyên sử
dụng. Điển hình là trên thị trường viễn thông di động Việt Nam, việc 3 đại gia
là Viettel, Vinaphone, Mobiphone trong quá khứ liên tục đưa ra các chương
trình khuyến mại gây sốc để thu hút khách hàng như tặng 100% giá trị thẻ
nạp, tặng một khoản tiền lớn cho khách hàng khi hòa mạng di động..., thậm
chí đã có tình trạng các nhà mạng có hành vi giành khách của đối thủ khi đưa
ra chương trình khuyến mại cho những khách hàng chấm dứt sử dụng dịch vụ
của đối thủ để chuyển sang sử dụng dịch vụ của công ty. Những hành vi cạnh
tranh đó đã làm bóp méo thị trường di động Việt Nam, chèn ép các công ty di
động nhỏ và tạo nguy cơ biến thị trường di động Việt Nam thành sân chơi
riêng của 3 đại gia này.
Một hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác được các doanh nghiệp
Việt Nam sử dụng phổ biến đó là quảng cáo sai sự thật. Công ty Kim Đan –
một doanh nghiệp nổi tiếng chuyên sản xuất đệm cao su đã có những đoạn
quảng cáo nói xấu những loại đệm làm bằng nhựa poly - urethane và đệm lò
xo không có căn cứ khoa học để nổi bật sản phẩm của mình. Hay như trường
hợp của công ty Xuân Lộc Thọ cũng có những đoạn quảng cáo gây nhầm lẫn
xuất xứ, nguồn gốc của sản phẩm. Cty này quảng cáo: “Hàng Mỹ không đắt
như bạn nghĩ”. Bất cứ khách hàng nào khi đọc đoạn quảng cáo trên thì đều
nghĩ đến những sản phẩm có xuất xứ từ Mỹ và được bán với giá cả hợp lý.
Thế nhưng, Cty Xuân Lộc Thọ lại giải thích “Mỹ” ở trong đoạn quảng cáo đó
không phải là nước Mỹ mà là “mỹ thuật”.[2]

81
Tình trạng các doanh nghiệp sử dụng các thương hiệu của công ty na ná
nhau cũng là một thực tế đáng báo động hiện nay, đặc biệt diễn ra với các
thương hiệu nổi tiếng của các công ty đa quốc gia. Cty Thuý Hương (Thanh
Trì – Hà Nội) đã sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn giữa Freshtea và
Nestea. Sự tương tự về phần chữ: Cấu tạo, cách phát âm và tương tự cả về
cách trình bày, bố cục, mầu sắc. Trông bề ngoài, nếu không để ý sẽ khó phát
hiện hai gói trà chanh này là do hai cty khác nhau sản xuất. Một số người tiêu
dùng được hỏi thì cho rằng, cả Freshtea và Nestea cùng là sản phẩm của cty
Nestle, vì trông chúng rất... giống nhau!
Cùng nằm trong dòng sản phẩm của cty Nestlé, sản phẩm sữa Milo bị tới
hai hãng khác cạnh tranh không lành mạnh thông qua các chỉ dẫn thương mại
gây nhầm lẫn. Sản phẩm sữa Good Cacao của Cty Mina được sản xuất với
những điểm tương tự sữa Milo như: Tương tự về bao gói sản phẩm, cách thức
trình bày, bố cục, mầu sắc. Cty Hoàng Gia cũng có những chỉ dẫn thương mại
gây nhầm lẫn tương tự với sản phẩm Milo của Nestlé. Cty Hoàng Gia đã sản
xuất sữa đóng túi Inso có bao gói sản phẩm tương tự với bao gói của sữa
Milo.[2]
Ngoài những vấn đề với các đối tượng liên quan trên, một vấn đề khác
nữa rất đáng được lưu tâm đó là các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thiếu ý
thức trong trách nhiệm bảo vệ môi trường. Dư luận vẫn chưa quên vụ việc về
hành vi xả thải trái phép ra sông Thị Vải của công ty Vedan Việt Nam. Trong
suốt 14 năm cho đến khi hành vi đó bị phát hiện, công ty Vedan Việt Nam đã
liên tục xả hàng nghìn tấn nước thải trái phép trực tiếp ra sông Thị Vải mà
hậu quả trực tiếp của hành vi này đang đe dọa biến sông Thị Vải thành dòng
sông chết. Cho đến thời gian gần đây, dư luận lại tiếp tục đón nhận những
thông tin về hành vi “đầu độc” môi trường của 2 công ty đó là công ty

82
Tungkuang ở Hải Dương đã sử dụng công nghẹ sản xuất rất độc hại cho chính
bản thân những người công nhân, cũng như cho cộng đồng dân cư và môi
trường xung quanh và công ty mía đường Quãng Ngãi đã xả thải trái phép
hàng ngìn m3 nước thải ra sông Trà Khúc đe dọa hủy diệt hệ sinh thái ở đây.
Những vụ việc trên thực sự đã đặt ra một dấu hỏi lớn về trách nhiệm đối với
môi trường hiện nay của các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam khi ở đâu
đó vẫn còn có những hành vi phá hoại môi trường vẫn chưa bị phát hiện.
Có thể nói, những thực trạng, những vụ việc được nêu ở trên đây thực sự
là những tiếng chuông báo động về sự vô trách nhiệm, thiếu đạo đức rong
hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam. Vì mục tiêu lợi nhuận, vì những
lợi ích của riêng bản thân doanh nghiệp, vì lợi ích ngắn hạn mà các doanh
nghiệp sẵn sàng không quan tâm, thậm chí chà đạp lên lợi ích của các đối
tượng khác trong hoạt động của mình.
Thứ hai, hệ thống pháp luật, chế tài xử phạt đối với các hành vi phi đạo
đức của các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn còn vừa thiếu vừa yếu và chưa
thực sự chặt chẽ. Đến nay, Nhà nước Việt Nam vẫn chưa ban hành một bộ
luật chính thức nào để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Theo dự kiến, chính
phủ đang xây dựng Dự thảo về luật bảo vệ người tiêu dùng và phải chờ đến
tháng 10/2010 mới trình Quốc hội để xem xét thông qua. Bên cạnh đó, hoạt
động của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam – tổ chức chính
thức bảo vệ cho quyền lợi của người tiêu dùng còn rất hạn chế hay có thể nói
rất mờ nhạt, một phần cũng là do họ chưa có được chỗ dựa pháp lý để có thể
lên tiếng bảo vệ thực sự người tiêu dùng, ngoài việc chỉ đưa ra những cảnh
báo, lên án các doanh nghiệp. Hội cũng chưa thực sự tập hợp được sự đoàn
kết, tập trung của người tiêu dùng để đưa ra những tiếng nói, sức ép có trọng
lượng đối với các doanh nghiệp như vai trog của các Hiệp hội bảo vệ người

83
tiêu dùng ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật bản...Trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường, chính phủ Việt Nam đã ban hành luật Bảo vệ môi trường từ năm
2005. Tuy nhiên, theo nhận xét của nhiều chuyên gia, hệ thống pháp luật và
chính sách về bảo vệ môi trường của Việt Nam còn thiếu, chưa cụ thể, nhiều
văn bản sau một thời gian áp dụng đã không còn phù hợp với thực tế, bộc lộ
những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, công tác
thi hành luật còn chưa chặt chẽ, khi đội ngũ thanh tra viên môi trường vẫn còn
rất mỏng, tuy gần đây đã có sự tham gia thêm của cảnh sát môi trường nhưng
vấn đề quản lý phát hiện sai phạm vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Một khó khăn
khác khiến cho hệ thống pháp luật của Nhà nước ban hành không có hiệu quả
chính là thái độ thiếu tôn trọng pháp luật, kém nhận thức của người dân trong
việc thi hành luật pháp, dẫn đến tình trạng “nhờn luật” trong một bộ phận
không nhỏ người dân.
Thứ ba, năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh
nghiệp của các cơ quan quản lý doanh nghiệp vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Nguyên nhân của yếu kém này cũng nằm ở vấn đề vừa thiếu vừa yếu năng lực
của các cán bộ quản lý Nhà nước. Bên cạnh đó, việc thiếu chế tài, hướng dẫn
xử lí cũng làm giảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Một bộ phận
các chính quyền địa phương đang có nhận thức sai lầm vì chạy theo thành
tích, cạnh tranh, chạy đua với nhau trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư
của các doanh nghiệp đã buông lỏng quản lý, dành nhiều ưu đãi cho các
doanh nghiệp tự do hoạt động để thu hút họ, giữ chân họ đầu tư kinh doanh
tại địa phương. Một vấn đề nữa cũng phải kể tới đó là vấn nạn tham nhũng
hiện nay trong các cơ quan công quyền cũng là một vấn đề gây nhức nhối
trong xã hội, làm suy giảm nghiêm trọng sức mạnh quản lý, đảm bảo sự công
bằng, trung thực trong xã hội của các cơ quan Nhà nước.

84
Thứ tư, các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các doanh nghiệp Trung
Quốc đang thiếu hẳn lý luận về xay dựng văn hóa doanh nghiệp đặc trưng cho
các doanh Việt Nam. Khái niệm về văn hóa doanh nghiệp cũng chỉ được du
nhập vào Việt Nam trong thời kì hội nhập. Trong những thời kì trước đây,
cũng đã có một số các doanh nhân, các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng
được bản sắc kinh doanh riêng cho bản thân người doanh nhân và công ty,
hãng buôn của họ. Tuy nhiên đó chỉ là những trường hợp mang tính đơn lẻ,
chưa tạo thành một hệ thống tư tưởng đặc trưng cho văn hóa doanh nghiệp
Việt Nam. Hiện nay, cũng đã có một số các công ty, tập đoàn lớn của Việt
Nam cũng đang tự bắt tay, chủ động trong việc tự xây dựng văn hóa doanh
nghiệp cho công ty của mình. Họ chủ yếu dựa trên việc tự mò mẫm, nghiên
cứu tài liệu của nước ngoài để áp dụng, thực hiện xây dựng văn hóa và đạo
đức kinh trong doanh nghiệp. Điển hình như là tập đoàn FPT, công ty Trung
Nguyên... Bên cạnh đó, Trung tâm văn hóa doanh nhân cũng đã được thành
lập. Với một số hoạt động tích cực của mình, trung tâm đã góp phần đáng kể
trong việc phát triển đạo đức, văn hóa kinh doanh của doanh nhân Việt Nam.
Nhưng hiện nay, hoạt động của trung tâm vẫn còn bị hạn chế ở qui mô địa lý,
và chưa thể đến được với tất cả các doanh nhân Việt Nam ở tất cả các tỉnh
thành, vùng miền. Có thể nói, tuy vẫn còn những điểm còn hạn chế song với
những nỗ lực kể trên cũng đã đem lại hiệu quả nhất định. Việc làm của họ là
những người đi tiên phong mở đường để phát triển nền văn hóa và đạo đức
của doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ năm, sự tham gia còn hạn chế của giới học giả cũng như giới truyền
thông Việt Nam trong thúc đẩy đạo đức doanh nghiệp. Hiện nay, có thể nói,
chưa có nhiều lượng thông tin về đạo đức kinh doanh được đề cập trong xã
hội Việt Nam. Số lượng các công trình nghiên cứu, các sách báo chuyên

85
ngành, nguồn tài liệu tham khảo về đạo đức kinh doanh vẫn còn rất ít. Việc
giảng dạy về đạo đức kinh doanh vẫn còn hạn chế chỉ có ở một số trường đại
học và phần lớn ưu tiên đào tạo cho các doanh nhân. Đạo đức kinh doanh
chưa trở thành một môn học bắt buộc trong hệ thống chương trình giảng dạy
của các trường kinh tế Việt Nam và nó cũng chưa trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu độc lập tại các trường Đại học Việt Nam. Hoạt động đưa tin, phản
ánh về các hành vi phi đạo đức của các doanh nghiệp của các phương tiện
thông tin đại chúng phần nào đó đã giúp cho người dân nhận biết và có các
biện pháp phòng tránh những tác hại do những hành vi đó gây ra, tuy nhiên
do nhận thức của người Việt Nam còn hạn chế, họ chưa dám đấu tranh, lên
tiếng mạnh mẽ để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình đã làm cho khả năng
tạo sức ép đối với các doanh nghiệp của công chúng bị hạn chế rất nhiều.

2. Bài học kinh nghiệm để phát triển đạo đức kinh doanh ở Việt Nam.
Nhìn tổng quan bối cảnh lịch sử, các giai đoạn phát triển của nền kinh tế
Việt Nam nói chung và đạo đức kinh doanh ở Việt Nam nói riêng, chúng ta có
thể nhận thấy rõ rằng bối cảnh Việt Nam có rất nhiều nét tương đồng với bối
cảnh phát triển của Trung Quốc và hiện nay, chúng ta cũng đang phải tập
trung toàn bộ trí lực cho công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Tìm
hiểu về quá trình phát triển kinh tế, những kinh nghiệm, bài học trong phát
triển đạo đức kinh doanh của Trung Quốc và những nước phát triển đi trước
như Mỹ, Nhật Bản cho chúng ta những bài học, kinh nghiệm đúc rút để phát
triển đạo đức kinh doanh tại Việt Nam để hướng tới một nền kinh tế phát triển
bền vững.
Từ những thực tế nêu trên về đạo đức kinh donh hiện nay trong các doanh
nghiệp Việt Nam. Và qua tìm hiểu về tình hình phát triển của đạo đức kinh

86
doanh ở một số quốc gia trên, chúng ta có thể rút ra những bài học và các giải
pháp sau để phát triển đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp Việt Nam như
sau:
2.1. Nhóm giải pháp từ góc độ doanh nghiệp:
Thứ nhất, doanh nghiệp phải chủ động nhận thức tầm quan trọng của đạo
đức kinh doanh đối với doanh nghiệp. Những bài học của các công ty Trung
Quốc như Tam Lộc...hay của các tập đoàn lớn của Mỹ như Enron,
Worldcom...vì không tuân thủ đạo đức kinh doanh, kinh doanh gian dối mà
phải chịu hậu quả nặng nề đưa doanh nghiệp đến sự phá sản. Trong bối cảnh
kinh doanh hiện đại, khi nhận thức của người tiêu dùng ngày càng được nâng
cao, đặc biệt khi doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường quốc tế thì yếu tố
đạo đức kinh doanh đang trở thành một lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ quyết
định sự thành công bền vững của doanh nghiệp trên thị trường. Các doanh
nghiệp Việt Nam cần loại bỏ tâm lý kinh doanh “ăn xổi ở thì”, chạy theo lợi
nhuận mà phải hướng tới việc nâng cao trách nhiệm xã hội, đạo đức của
doanh nghiệp vì chính những lợi ích mà doanh nghiệp đem lại cho xã hội
cũng sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho chính bản thân doanh nghiệp.
Trên thực tế, đạo đức kinh doanh vẫn còn là một khái niệm mới mẻ đối
với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Sau hàng loạt các vụ việc liên quan đến
các hành vi phi đạo đức của một số doanh nghiệp bị phát giác và bị dư luận xã
hội lên án gay gắt, nhiều doanh nghiệp đã gấp rút thực hiện việc xây dựng
hình ảnh đạo đức cho doanh nghiệp của mình. Tuy nhiên, việc xây dựng đạo
đức doanh nghiệp đó nhiều khi chỉ dừng lại ở những hoạt động mang tính
hình thức mà không đi vào thực chất. Các doanh nghiệp dường như có tâm lý
muốn sử dụng đạo đức kinh doanh để đánh bóng cho tên tuổi của mình mà

87
không quan tâm đến việc liệu nó có thực sự tồn tại và phát triển trong doanh
nghiệp mình.
Vậy doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhận thức về đạo đức kinh doanh
như thế nào? Điều cần thiết đó là doanh nghiệp cần nhận thức đùng và đầy đủ
về đạo đức kinh doanh. Đạo đức kinh doanh chính là giá trị cốt lõi cho sự tồn
tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Đạo đức kinh doanh không phải
là cái để doanh nghiệp sử dụng để đánh bóng cho tên tuổi của mình, mà đạo
đức kinh doanh là thể hiện sự tôn trọng, sự trung thực luôn hướng về khách
hàng, đối tác, cổ đông và toàn thể xã hội.
Thứ hai, khi đã nhận thức đày đủ về đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp
phải có những hành động cụ thể để xây dựng và phát triển đạo đức kinh
doanh trong hoạt động của mình, tránh tâm lý thụ động, đã nhận thức nhưng
chậm thực hiện gây ra những hậu quả đáng tiếc hay chỉ thực hiện mang tính
chất phô trương, hình thức mà không có thực chất bên trong.
(1) Các hoạt động bên trong doanh nghiệp: Qua kinh nghiệm xây dựng
đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp Mỹ, Nhật Bản đã cho thấy, doanh
nghiệp cần có những hành động như: ban hành những bộ Qui tắc đạo đức
kinh doanh trong doanh nghiệp, tổ chức các chương trình đào tạo về đạo đức
kinh doanh trong toàn doanh nghiệp, thiết lập cơ chế giám sát chặt chẽ để
sớm phát hiện và ngăn chặn các hành vi phi đạo đức trong doanh nghiệp;
thành lập Ủy ban hay bộ phận chuyên trách, độc lập để xử lý các vấn đề đạo
đức kinh doanh trong qui mô doanh nghiệp.... Việc thực hiện những hoạt
động trên được sắp xếp theo 4 bước như sau:
Bước 1: Xây dựng chương trình đạo đức kinh doanh.
Trong bước này, doanh nghiệp sẽ tiến hành thành lập một Ủy ban hay một
bộ phận chuyên trách về các vấn đề liên quan đến đạo đức kinh doanh trong

88
doanh nghiệp. Sau đó, doanh nghiệp tiến hành xây dựng và ban hành những
nguyên tắc, qui định trong hoạt động của doanh nghiệp tuân thủ theo các
nguyên tắc của đạo đức kinh doanh.
Bước 2: Phổ biến chương trình đạo đức kinh doanh.
Doanh nghiệp thực hiện phổ biến rộng rãi các qui định về đạo đức kinh
doanh cho tất cả các nhân viên thông qua các lớp đào tạo, các buổi họp, các
buổi hướng dẫn đi kèm với việc phát hành thành tài liệu chính thức lưu hành
trong công ty. Đồng thời, doanh nghiệp cũng nên thông báo cho các khách
hàng và các đối tác biết về các qui định này để họ có thể kiểm tra, giám sát.
Bước 3: Thực hiện, kiểm tra, đánh giá chương trình đạo đức kinh doanh.
Trước hết, các nhà lãnh đạo, nhà quản lý doanh nghiệp phải là những
người tiên phong, là những gương mẫu điển hình trong thực hiện các qui định
đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp. Việc thực hiên theo các qui định về
đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp cũng cần được phát động thành một
phong trào sâu rộng có sự tham gia của tất cả các nhân viên trong công ty.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần có một bộ phận để thực hiện công
tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện các qui tắc đó của tất cả cán bộ,
nhân viên trong doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp khen thưởng những cá
nhân, bộ phận làm tốt cũng như có những hình thức xử lý thích đáng đối với
các cá nhân, bộ phận vi phạm.
Bước 4: Tiếp tục hoàn thiện chương trình đạo đức kinh doanh.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, hội nhập sâu rộng trên thế giới, các
điều kiện kinh tế - xã hội liên tục có những bước biến chuyển đòi hỏi các
doanh nghiệp phải kiên tục đổi mới để vươn lên, trong đó có chương trình đạo
đức kinh doanh của doanh nghiệp cũng cần được cập nhật, bổ sung, thay đổi

89
để phù hợp với hoàn cảnh mới để luôn đảm bảo hiệu quả trong điều chỉnh
hành vi của doanh nghiệp.
Bên cạnh việc xây dựng một chương trình đạo đức kinh doanh đúng đắn,
hợp lý, một yếu tố không kém phần quan trọng để đảm bảo tính hiệu quả
trong việc thực hiện chương trình này là doanh nghiệp phải xây dựng được
một môi trường văn hóa đạo đức trong doanh nghiệp vững mạnh để mỗi nhân
viên, mỗi nhà quản lý đều có ý thức tự giác nhận thức và tuân thủ các nguyên
tắc đạo đức kinh doanh vì chính quyền lợi và trách nhiệm của bản thân họ.
(2) Các hoạt động bên ngoài doanh nghiệp: Đó là doanh nghiệp phải
nghiêm túc chấp hành pháp luật của Nhà nước liên quan đến vấn đề bảo vệ
quyền lợi người lao động, bảo vệ môi trường, thực hiện minh bạch, công khai
trong việc cung cấp các thông tin hoạt động, thông tin tài chính của doanh
nghiệp đối với các cổ đông, các nhà đầu tư... Hiện nay những qui định về các
vấn đề này được Nhà nước ban hành trong luật Doanh nghiệp, luật Lao động,
luật Đẩu tư, luật Chứng khoán, luật Kế toán doanh nghiệp... Những hoạt động
doanh nghiệp cần thực hiện để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong doanh
nghiệp mình đó là:
 Thành lập bộ phận chuyên trách về pháp lý trong hoạt động doanh
nghiệp. Những người chịu trách nhiệm làm việc trong bộ phận này là các luật
sư có sự am hiêu sâu sắc về luật pháp trong nước cũng như luật pháp nước
ngoài.
 Xây dựng đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp có kiến thức vững chắc về
pháp luật, luôn có ý thức tuân thủ pháp luật.
 Bồi dưỡng và nâng cao kiến thức về pháp luật rộng rãi cho toàn thể
nhân viên trong công ty trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của họ.

90
2.2. Nhóm giải pháp từ góc độ Nhà nƣớc:
Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam phải sớm có nhận thức rõ ràng và đầy đủ
về vai trò và tác dụng của đạo đức kinh doanh trong phát triển kinh tế và phải
có những hành động cụ thể để khuyến khích phát triển đạo đức kinh doanh
trong doanh nghiệp. Tránh tình trạng quá chú tâm vào phát triển kinh tế như
các chính phủ Nhật Bản, Trung Quốc mà lãng quên đi các vấn đề đạo đức dẫn
đến những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.
Thứ hai, Nhà nước cần đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống luật pháp. Hiện nay
theo đánh giá chung hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn còn thiếu và chưa
thực sự chặt chẽ, vẫn còn nhiều kẽ hở để các doanh nghiệp có thể lách luật.
Trên thế giới hiện nay, có một qui trình xây dựng pháp luật mà Việt Nam nên
áp dụng đó là qui trình RIA/RIE. RIA là sử dụng các báo cáo đánh giá tác
động của dự luật và RIE là sử dụng các báo các đánh giá hiệu quả của các văn
bản pháp luật khi được áp dụng trong thực tế. RIA sẽ phân tích các tác động
có thể có đối với môi trường kinh tế - xã hội cũng như sự phân bổ tác động ấy
đến từng nhóm đối tượng khác nhau người tiêu dùng, doanh nghiệp... của một
sự thay đổi trong chính sách pháp luật và đưa ra nhiều lựa chọn để thực hiện
điều này. Còn RIE sẽ đánh giá sự tuân thủ của các qui định trong văn bản
pháp luật cũng như tính răn đe của các chế tài xử phạt, qua đó đề xuất ra các
kiến nghị sửa đổi, bổ sung hay thậm chí là hủy bỏ một văn bản pháp luật.
RIA/RIE được thực hiện thông qua các cuộc khảo sát, lấy ý kiến các nhóm
đối tượng trong xã hội mà chủ yếu là các doanh nghiệp. Mục đích của
RIA/RIE là xây dựng một bộ luật hiệu quả trong thực tế. Qui trình xây dựng
pháp luật theo RIA/RIE đã được các nước phát triển áp dụng từ 20 năm trở lại
đây và đã thể hiện được tính hiệu quả của nó.

91
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước cũng phải đồng
thời tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan thi hành luật pháp như
tăng cường đào tạo cán bộ, đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tránh tư duy
thành tích... để thực sự nâng cao sức mạnh của luật pháp trong xã hội.
Thứ ba, đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao hiểu biết về đạo đức kinh doanh
sâu rộng trong các tầng lớp xã hội đi kèm với nâng cao ý thức tuân thủ luật
pháp của người dân. Ngoài doanh nghiệp là đối tượng quan trọng nhất phải
phổ biến và nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh, thì những nhóm đối
tượng như cán bộ, công chức Nhà nước trực tiếp làm công tác quản lý liên
quan đến hoạt động của doanh nghiệp; người tiêu dùng, và đông đảo mọi
người trong xã hội cũng cần có những nhận thức nhất định về đạo đức kinh
doanh tùy theo vai trò của họ để họ có thể đóng cai trò giám sát, kiểm tra sự
tuân thủ đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp. Đồng thời với các hình
thức tuyên truyền nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về đạo đức kinh
doanh, Nhà nước cũng phải có cư chế khen thưởng các doanh nghiệp làm tốt
và có các biện pháp xử phạt nghiêm minh, có sức răn đe đối với các doanh
nghiệp có hành vi phi đạo đức.

92
KẾT LUẬN

Thông qua việc tìm hiểu về nội dung, vai trò, cũng như việc áp dụng, phát
triển của đạo đức kinh doanh ở một số quốc gia, chúng ta có thể nhận thấy
đạo đức kinh doanh là một phần không thể thiếu, một bộ phận không thể tách
rời trong hoạt động của các doanh nghiệp. Trong triết lý kinh doanh hiện đại,
bên cạnh đề cao việc xây dựng một nền văn hóa doanh nghiệp vững mạnh, thì
việc phát triển sâu rộng, đưa đạo đức kinh doanh trở thành nguyên tắc nền
tảng trong các hoạt động của doanh nghiệp cũng là một việc làm hết sức quan
trọng, mang tính quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp hiện đại.
Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn là vẫn còn có nhiều doanh nghiệp
Việt Nam chưa nhận thức được hay đã nhận thức nhưng lại phớt lờ vấn đề
này. Đáng buồn hơn là chính những doanh nghiệp này đang có những hành
động làm tổn hại cho lợi ích chung của xã hội, thậm chí là tổn hại đến sức
khỏe cộng đồng. Việc làm cần thiết là cần thiết để giải quyết tình trạng này đó
là cần tăng cương việc giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các
doanh nghiệp về sự quan trọng của đạo đức kinh doanh với lợi ích của doanh
nghiệp. Đồng thời, Nhà nước cũng cần có những biện pháp xử lý nghiêm
khắc đối với các hành vi phi đạo đức, đi kèm với sự lên án mạnh mẽ và tẩy
chay từ phía xã hội và người tiêu dùng đối với các doanh nghiệp có các hành
vi đó.
Bên cạnh đó, cần có sự tham gia tích cực của các học giả, các nhà nghiên
cứu cùng với nỗ lực tự thân của các doanh nghiệp để xây dựng, phát triển đạo
đức kinh doanh trong doanh nghiệp, đưa đạo đức kinh doanh trở thành yếu tố
nền tảng trong mọi hoạt động của doanh nghiệp.

93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt.
[1]. TS. Nguyễn Hoàng Ánh (2009) – “Đạo đức kinh doanh ở Việt Nam –
Thực tại và giải pháp” –Đại học Ngoại Thương.

[2]. Báo điện tử Gia Đình (2010) – “Cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam: Nhiều đại gia xấu chơi?” – Website: www.giadinh.net.vn
http://baoxuan.giadinh.net.vn/11073p0c1000/canh-tranh-khong-lanh-manh-o-
viet-nam-nhieu-dai-gia-xau-choi.htm

[3]. CCID – “Thực thi bảo vệ người tiêu dùng tại Mỹ” – Cục quản lý cạnh
tranh, ngày 9/4/2009
http://www.vcad.gov.vn/Web/Content.aspx?distid=1836&lang=vi-VN
[4]. PGS – TS. Đoàn Lê Giang (2009) – “Đạo đức kinh doanh của thị dân
Nhật Bản” – Website: www.doanhnhan360.com

http://www.doanhnhan360.com/Desktop.aspx/Lanh-dao-360/Van-hoa-
360/Dao_duc_kinh_doanh_cua_thi_dan_Nhat_Ban/

[5]. Huy Hào (2009) – “Báo cáo tài chính còn thiếu minh bạch ở nhiều góc
độ” – Báo Đầu Tư.

http://cafef.vn/20090509110148362CA36/bao-cao-tai-chinh-thieu-minh-
bach-o-nhieu-goc-do.chn
[6]. Dương Thị Liễu (2006) - Giáo trình “ Bài giảng văn hóa doanh nghiệp”,
NXB Kinh tế quốc dân .
[7]. Hoài Linh (2010) – “Scandal sữa bẩn ở Trung Quốc” - Báo điện tử
Vietnamnet.

94
http://vietnamnet.vn/thegioi/event/10281/
[8]. Hà Minh (2008) – “Bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ: Biết bệnh nhưng
chưa tìm thấy thuốc?” – Website: www.saga.vn
http://www.saga.vn/view.aspx?id=12506

[9]. Quốc Phương (2008) – “Đình công ở Việt Nam sẽ tiếp tục tăng” – BBC
Việt ngữ

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080807_ilo_director
.shtml

[10]. Ngọc Quang (2009) – “Công bố thông tin của doanh nghiệp trên sàn
chứng khoán: Siết chặt để minh bạch hơn” – Báo Sài Gòn giải phóng, ngày
8/4/2009.

http://www.sggp.org.vn/kinhte/2009/4/186832/

[11]. GS.TS. Nguyễn Mạnh Quân (2008) - Giáo trình “Đạo đức kinh doanh
và văn hóa doanh nghiệp” , NXB Kinh tế quốc dân .
[12]. Nguyễn Thu Quỳnh (2009) – Luận văn “Xây dựng đạo đức kinh doanh
của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập” – Đại học Ngoại
thương.
[13]. Saga.vn (2007) – “Văn hóa kinh doanh Nhật Bản” –
Website: www.saga.vn
http://www.saga.vn/Kynangquanly/Vanhoakinhdoanh/5199.saga
http://www.saga.vn/Kynangquanly/Vanhoakinhdoanh/5198.saga
[14]. Vĩnh Sính (2009) – “Bushido và tư tưởng kinh doanh Nhật Bản” –
Website: www.doanhnhan360.com

95
http://www.baomoi.com/Home/KinhTe/doanhnhan360.com/Bushido-va-tu-
tuong-kinh-doanh-o-Nhat/3011697.epi.
[15]. Tôn Thất Nguyễn Thiêm – “Đạo đức kinh doanh” – Thời báo Kinh tế
Sài Gòn.
[16]. Nguyễn Tất Thịnh (2007) – “Văn hóa kinh doanh Nhật bản” –
Website: www.nhatban.net
http://www.nhatban.net/ttnb/a0053.html
[17]. Trần Văn Toản (2006) – Giáo trình “Đạo đức kinh doanh” – NXB Lao
động xã hội.
Tiếng Anh:
[18]. Atsuko Kanai (2009) – “Karoshi in Japan” - Journal of Business
Ethics.
[19]. Bettina Palazzo (2002) – “U.S-American and German business ethics:
An intercultural comparison” – Journal of Business Ethics, Dec 2002,
pg 195.
[20]. Charles Fombrun / Christopher Foss (2004) – “Business Ethics:
Corporate Responses to Scandal” – Corporate Reputation Review, Fall 2004,
pg. 284.
[21]. Ethics Resource Center (2007) - “US Business Ethics Survey: An Inside
View of Private Sector Ethics” (Ethics Resource Center, Arlington, VA).
[22]. Iwao Taka (1997) – “Business Ethics in Japan” – Journal of Business
Ethics, Oct 1997, pg. 1499.
[23]. Lori Verstegen Ryan (2005) – “Corporate Governance and Business
Ethics in North America: The State of the Art” – Business And Society,
March 2005, pg. 40.

96
[24]. Nobuyuki Demise (2005) - “Business Ethics and Corporate
Governance in Japan” – Business And Society, June 2005, pg. 211.
[25]. T. McCollum (2006) – “U.S. Firms Boost Compliance and Ethics
Programs” - The Internal Auditor, Dec 2006.
[26]. Thomas W.Dunfee, Patricia Wayhen (1997) – “Report on business
ethics in North America” – Journal of Business Ethics, Oct 1997.
[27]. Xiaohe Lu - Georges Enderle (2006) – “Developing business ethics in
China” - Palgrave MacMilan Publishing, 2006.
[28]. Xiaohe Lu (2009) - “A Chinese Perspective: Business Ethics in China
now and in the future” – Journal of Business Ethics, 2009.

97

You might also like