Professional Documents
Culture Documents
Kiểu trượt:
Hoạt động dựa vào nguyên lý dùng điện áp kế, có điện trở thay đổi kiểu trượt. Đây là
một trong những cảm biến quan trọng nhất. Tín hiệu đo gió được sử dụng để tính toán lượng
nhiên liệu phun cơ bản và góc đánh lửa sớm cơ bản nhờ kết hợp với cảm biến nhiệt độ khí nạp
(quy ra tỉ lệ không khí). Loại cảm biến kiểu trượt này sử dụng trên hệ thống L –Jetronic.
Bộ đo gió kiểu trượt bao gồm: cánh đo gió được giữ bằng lò xo hoàn lực, điện áp kế
kiểu trượt được gắm đồng trục với cánh đo gió, vít chỉnh hỗn hợp cầm chừng (vít CO), công
tắt bơm xăng, buồng giảm chấn, cánh giảm chấn.
Theo hình vẽ, mạch điện trở từ p1-p5 nối tiếp nhau. Khi cung cấp một điện áp 12
Volt (V) vào mạch. Thì điện áp ở p5 là 12V, p4 là 9V, p3 là 6V, p2 là 3V, p1 là 0V. Tiếp
điểm di động của điện áp kế (mũi tên trên hình) di chuyển theo cánh đo từ đó sinh ra
một tín hiệu điện áp thay đổi gởi đến ECU.
Bộ đo gió luôn gồm hai mạch gió: mạch gió chính đi qua cánh đo, mạch gió rẽ đi
qua vít CO.
Lượng gió hút vào động cơ được quyết định theo độ mở cánh bướm ga. Nếu
lượng gió qua mạch tẽ tăng thì sẽ làm giảm lượng gió qua cánh đo gió, góc mở cánh
đo sẽ nhỏ lại. Ngược lại nếu lượng gió qua mạch rẽ giảm thì sẽ làm tăng lượng gió qua
cánh đo gió, góc cánh đo lớn hơn. Vì lượng xăng phun cơ bản được quyết định theo
góc mở cánh đo nên tỉ lệ xăng gió có thể thay đổi bằng cách chỉnh lượng gió qua mạch
rẽ. Nhờ chỉnh tỉ lệ hỗn hợp ở mức cầm chừng thông qua vít CO nên thành phần %CO
trong khí thải sẽ được điều chỉnh. Tuy nhiên điều này chỉ được thực hiện ở tốc độ cầm
chừng vì khi cánh đo gió đã mở lớn, lượng gió qua mạch rẽ ảnh hưởng rất ít đến lượng
gió qua mạch chính.
Để ngăn ngừa dao động người ta thiết kế một cánh giảm chấn liền với cánh đo để
tiếp tục nhận độ rung. Dao động do áp lực hút sẽ tác động đồng thời và bằng nhau lên
cả hai cánh. Kết quả là moment lực tác dụng lên hai cánh. Mặt khác, cánh giảm chấn
ép khí trong buồng giảm chấn có tác dụng như một bộ giảm dao động.
+ Công tắc bơm nhiên liệu: Được thiết kế chung vào điện áp kế. khi động cơ
chạy, gió được hút vào nâng cánh đo lên làm công tắc đóng. Khi động cơ ngừng đo
không có lực gió tác động lên cánh đo làm cánh đo hạ xuống, công tắc hở. Do một lý
do nào đó mà động cơ không hoạt động dù công tắc máy đang ở vị trí ON (như trường
hợp tai nạn) thì bộ đo gió vẫn không làm việc và bơm xăng không hoạt động. Trừ
TOYOTA các loại xe khác không mắc công tắc điều khiển bơm trên bộ đo gió kiểu
trượt.
Mạch điện: Thường có hai loại, chỉ khác nhau về bản chất mạch điện.
Loại 1: điện áp tăng khi lượng khí nạp tăng.
Loại này được cung cấp điện áp bình tại cực VB. Khi VC có điện áp không đổi
thì điện áp VS tăng tỷ lệ với góc mở của cánh đo gió. ECU so sánh điện áp bình (VB)
với độ chênh điện áp giữa VC và VS để xác định lượng gió nạp.
Vì tính chất mạch như vậy nên dù điện áp bình có thay đổi thì phép đo vẫn chính
xác.
Nếu cực VC bị đoãn mạch, lúc đó lượng gió nạp sẽ tăng, ECU sẽ điều khiển
lượng nhiên liệu phun là cực đại bất chấp sự thay đổi ở tín hiệu VS. Có nghĩa là khi
động cơ ở cầm chừng, nhiên liệu được phun quá nhiều và động cơ sẽ bị ngộp xăng dẫn
đến ngưng hoạt động.
Nếu cực VS bị đoãn mạch, VC sẽ luôn ở mức cực đại làm cho lượng gió nạp
giảm, lúc này ECU sẽ điều khiển lượng phun nhiên liệu giảm đi mặc dù có sự thay đổi
ở tín hiệu VS.
Loại 2: loại điện áp giảm
Trong loại này ECU được thết kế trong một mạch điện áp không đổi, luôn cung
cấp điện áp 5V đến cực VC. Điện áp ra VS thay đổi chỉ định chính xác góc mở của
cánh đo tức là chỉ định chính xác lượng gió hút vào.
1. Photo transistor 2. Đèn led 3. Gương (được tráng nhôm) 4. Mạch đếm dòng xoáy
5. Lưới ổn định 6. Vật tạo xoáy 7. Cảm bíến áp suất khí trời 8. Dòng xoáy
Hoạt động:
Gương
Gió vào ít Lưu lượng Gió vào nhiều
trung bình
Bộ tạo xoáy
Cấu tạo các dạng xung Karman
Mạch điện
Để làm sạch điện trở nhiệt (bị dơ vì bị bám bụi, dầu…), trong một số ECU dùng
cho động cơ có phân khối lớn, với số xylanh Z 6 còn có mạch nung dây nhiệt trong
vòng một giây, đưa nhiệt độ từ 1500C lên 10000C sau khi tắt công tắc máy, trong
trường hợp động cơ đã chạy trên 1500 vòng/phút, tốc độ xe trên 20km/h và nhiệt độ
nước dưới 1500C (air mass senssor NISSAN). Theo số liệu của một số hãng, độ ẩm
của không khí gần như không ảnh hưởng đến độ chính xác của cảm biến.
Trên cảm biến hãng HITACHI, cảm biến đo gió loại dây nhiệt thường được đặt
trên mạch gió rẽ, song song với đường gió chính. Nhờ vậy mà hoạt động của cảm biến
ít phụ thuộc vào sự rung động của dòng khí.
Thang đo của cảm biến từ 9 360 kg/h sai số 5 7% và có độ nhạy cao nhờ
hằng số thời gian của mạch chỉ vào khoảng 20ms.
Đối với các xe MỸ thay vì dây nhiệt, người ta sử dụng màng nhiệt. Cảm biến đo
gió loại màng nhiệt khắc phục được nhược điểm chủ yếu của loại dây nhiệt là độ bền
cơ học của cảm biến được tăng lên.
Cảm biến tốc độ động cơ (Engine speed ; crankshaft angle sensor hay còn gọi
là tín hiệu NE) dùng để báo tốc độ động cơ để tính toán hoặc tìm góc đánh lửa tối ưu
và lượng nhiên liệu sẽ phun cho từng xylanh. Cảm biến này cũng được dùng vào mục
đích điều khiển tốc độ cầm chừng hoặc cắt nhiên liệu ở chế độ cầm chừng cưỡng bức.
Có nhiều cách bố trí cảm biến G và NE trên động cơ: trong delco, trên bánh đà,
hoặc trên bánh răng cốt cam. Đôi khi ECU chỉ dựa vào một xung lấy từ cảm biến hoặc
IC đánh lửa để xác định vị trí piston lẫn tốc độ trục khuỷu.Cảm biến vị trí xilanh và
cảm biến tốc độ động cơ có nhiều dạng khác nhau như: cảm biến điện từ loại nam
châm quay hoặc đứng yên, cảm biến quang, cảm biến Hall...
2.2.1. Cảm biến điện từ
Bộ phận chính của cảm biến là một cuộn cảm nhận, một nam châm vĩnh cửu, một
đĩa thép khắc rãnh hoặc tạo cựa răng phụ thuộc vào cách thiết kế hệ thống phun xăng.
Khi cựa của đĩa thép không nằm đối diện cực từ, thì từ trường trong cuộn cảm
ứng sẽ yếu vì khe hở không khí có từ trở cao. Khi một cựa đến gần cực từ khe hở
không khí giảm dần, từ trường tập trung vào phía trong. Khi từ trường di chuyển vào
trong thì các đường sức từ cắt qua cuộn cảm ứng sinh ra một điện áp. Khi cựa đối diện
với cực từ thì từ trường mạnh nhất và điện áp bằng không. Khi cựa di chuyển tiến ra
khỏi cực từ, thì khe hở không khí tăng dần làm từ trường giảm sinh ra một điện áp theo
chiều ngược lại.
Engine ECU
1800C
G A
G
Tín hiệu
G
G-
Tín hiệu
NE Ne
NE
Một số mạch điện và dạng xung tín hiệu G và NE với số răng khác nhau trên TOYOTA
1. Tín hiệu G (1 cuộn kích, 2 răng).
Tín hiệu NE (1 cuộn kích, 24 răng).
1800CA
G
G
Tín hiệu
G
G-
1800CA
Tín hiệu
NE Ne
N
E
G
G- Tín hiệu
G1
NE
NE Tín hiệu
Ne
1800 CA
Engine ECU
NE
NE
Igniter
Tín hiệu NE
NE
NE 1800 CA
Tín hiệu
NE
NE-
Cảm biến quang thường dùng để đo tốc độ động cơ. Nó gồm một diode phát
quang (đèn LED), một transistor cảm quang này cảm nhận ánh sáng và sẽ mở. Khi đĩa
phẳng cản ánh sáng đến transistor cảm quang thì nó sẽ đóng. Tín hiệu số này sẽ được
gởi đến bộ xử lý. Tại đây, số xung sẽ được đếm trong một khoảng thời gian nhất định.
Số xung sẽ chỉ định tốc độ động cơ khi đó thì đĩa phẳng thường được bắt trên đầu dây
cáp của bộ tốc kế.
Cảm biến Hall dùng để xác định tốc độ động cơ và vị trí cốt máy. Cảm biến Hall
dùng một chất bán dẫn đặt biệt có dạng một thanh hình chữ nhật mỏng, bằng phẳng
gọi là vật liệu Hall hoạt động dựa trên nguyên tắt của hiệu ứng Hall.
Hiệu ứng Hall: Khi một dòng điện I đi qua vật liệu Hall có đường sức từ xuyên
qua thì nó sinh ra một điện áp vuông góc với chiều dòng điện và vuông góc với chiều
của từ thông. Điện áp này có giá trị tỉ lệ với dòng điện và cường độ từ thông. Hiệu ứng
sinh ra điện áp phụ thuộc vào từ trường gọi là hiệu ứng Hall. Dòng điện (I) biểu hiện là
những electron (e), đi từ trái sang phải, từ trường B vuông góc và đi vào trang giấy
dưới tác dụng lực của Lorenxơ các electron bị lệch xuống điện cực dưới lực này tỉ lệ
tốc độ electron và cường độ từ thông. Điện cực dưới tập trung nhiều electron sẽ mang
tính điện âm hơn điện cực trên. Vì vậy giữa hai điện cực sẽ phải phát sinh một điện áp
V0. Nếu dòng điện I giữ không đổi thì V0 tỉ lệ với cường độ từ thông. Tín hiệu điện áp
V0 tương đối nhỏ nên được khuyếch đại lên.
Cảm biến Hall: Thông thường cảm biến Hall đặt ở bộ chia điện. Nó gồm một
nam châm vĩnh cửu với một khe từ nhỏ đặt đối diện với vật liệu Hall. Một van xoay
gắn đồng trục với bộ chia trên van xoay là các cánh chắn. Khi van xoay các cánh chắn
sẽ chắn vào khe hở giữa nam châm và vật liệu Hall nhưng không chạm vào chúng.
Khi cánh chắn không vào khe hơ: thì đường sức từ xuyên qua vật liệu Hall làm
sinh ra một điện áp. Khi cánh chắn vào khe hở thì đường sức từ không đến được vật
liệu Hall, và điện áp sinh ra bằng 0. Sự thay đổi điện áp sẽ điều khiển đóng mở một
con transistor như trên sơ đồ mạch. Cánh chắn không vào khe hở: Tín hiệu điện áp
sinh ra kích cực gốc (B) của transistor dẫn điện, cho dòng điện đi từ nguồn cung cấp
đến cực góp (C) dẫn đến cực phát (E) rồi về mass. Điều này, làm đầu cảm nhận tín
hiệu sụt áp chỉ còn 1V.
Cánh chắn vào khe hở: Tín hiệu điện áp ra rất thấp không kích cực gốc transistor
dẫn điện được. Kết quả là đầu cảm nhận không bị sụt áp, điện áp ghi nhận là 12V. Sự
chênh lệch giữa 1V và 12V xem như tín hiệu xung vuông hay tín hiệu số (đóng mở
transistor). Tín hiệu này dùng xác định tốc độ động cơ và vị trí cốt máy.
Số cánh chắn bằng với số xy lanh của động cơ và vị trí được xác định theo thứ tự
đánh lửa, vì vậy để xác định vị trí của piston của xy lanh số 1 (dùng xác định thứ tự
phun) thì cánh chắn của xy lanh số 1 có chiều rộng khác với cánh chắn của các xylanh
khác. Khi van xoay tạo xung thì xung của xylanh số 1 sẽ có thời gian nhỏ hơn. Tín
hiệu xung khác này báo cho ECU biết vị trí của piston số1.
Cảm biến kích nổ thường được dùng là một bộ gia tốc kế áp điện. Nó sẽ cảm
nhận xung kích nổ phát sinh trong động cơ và gởi tín hiệu này đến bộ xử lý. Thành
phần áp điện thông thường là thủy tinh, thạch anh là những vật liệu khi chịu áp lực sẽ
sinh ra được điện áp. Một gia tốc kế sẽ đo sự tăng tốc. Sự dao động là những xung
Cảm biến vị trí cánh bướm ga được lắp ở thân cánh bướm. Cảm biến này chuyển
vị trí góc mở cánh bướm sang vị trí điện áp gởi đến ECU.
Có nhiều loại cảm biến tùy theo yêu cầu và thiết kế trên các đời xe ta thường có
các loại:
2.4.1 Loại hai tiếp điểm:
Trên các hệ thống L-jetronic, LE, LU, LH, EFI thông thường sử dụng loại hai tiếp
điểm. Loại này cho ra hai tín hiệu tới ECU. Tín hiệu cầm chừng dùng chủ yếu để điều khiển
việc ngắt nhiên liệu.
Hoạt động:
(a) Cầm chừng:
Khi cánh bướm ga đóng gần hoàn toàn thì tiếp điểm di động sẽ tiếp xúc với tiếp
điểm cầm chừng thông báo cho ECU biết động cơ đang hoạt động ở mức cầm chừng.
Loại này có cấu tạo gồm hai con trượt, ở đầu mỗi con trượt được thiết kế có các tiếp
điểm cho tín hiệu cầm chừng và tín hiệu góc mở cánh bướm. Một điện áp không đổi với 5V
(cung cấp) từ ECU cung cấp đến cực VC. Khi cánh bướm ga mở, con trượt trượt dọc điện trở
và tạo ra điện áp ở cực VTA tương ứng với góc mở cánh bướm.
Khi cánh buớm ga đóng hoàn toàn thì tiếp điểm cầm chừng nối cực IDL với cực E2.
Mạch điện:
Trên đa số các xe trừ Toyota, cảm biến bướm ga loại biến trở chỉ có 3 dây VC, VTA
và E2 mà không có dây IDL.
Một số loại cảm biến vị trí cánh bướm ga có thêm các giắc phụ
Trên xe có trang bị hộp số tự động, khi sang số cảm biến vị trí cánh bướm ga sẽ
đồng thời bật sang vị trí L1, L2, L3 tương ứng với các vị trí tay số. Tín hiệu này được
gởi về ECU để điều chỉnh lượng xăng phun phù hợp với chế độ tải.
Đối với loại cảm biến có công tắc ACC1 và ACC2. Khi động cơ tăng tốc ở các chế độ
khác nhau, tín hiệu từ hai vị trí công tắc này được gởi về ECU điều khiển tăng lượng xăng
phun đáp ứng được quá trình tăng tốc động cơ.
Cấu tạo: Thân cảm biến được giữ trong một chân bắt tiếp ren và bao ngoài một
ống bảo vệ và được nối với các đầu điện. Bề mặt của chất ZrO2 có phủ một lớp platin
rất xốp và mỏng. Ngoài lớp platin là một lớp gốm rất xốp và kết dính mục đích bảo vệ
lớp platin không bị mòn hỏng do va chạm các phần tử rắn có trong khí thải.
Một ống kim loại bảo vệ bao ngoài cảm biến tại các đầu mối điện uốn kép giữ
liền với vỏ, ống này có khoảng một lỗ để bù trừ áp suất trong cảm biến và để đỡ lò xo
đĩa. Để giữ muội than không đóng vào lớp thân ZrO2 thì đầu cảm biến tiếp xúc khí thải
có một ống đặc biệt có cấu tạo dạng rãnh mục đích để khí thải và phân tử khi vào sẽ
giữ và không tiếp xúc trực tiếp với thân gồm ZrO2.
Vì vậy để tăng nhanh khả năng làm việc của cảm biến oxy người ta dùng loại
cảm biến có điện trở tự nung bên trong.
Cảm biến oxy loại nung nóng:
Nguyên lý cấu tạo cũng tương tự loại không nung. Nhưng ở đây phần gồm ZrO 2
được nung nóng nhờ một phần tử nung. Điện trở phân tử nung này được lắp trong cảm
biến và được cung cấp điện từ accu. Nó là loại có trị số nhiệt điện trở dương. Việc
nung phần gồm ZrO2 mục đích để giữ nhiệt độ trên mức giới hạn 3500C.
Ưu điểm của cảm biến loại nung: Việc điều khiển hiệu qua đáng tin cậy dù nhiệt
độ khí thải thấp (ví dụ ở cầm chừng) Bị ảnh hưởng của sự thay đổi nhiệt độ khí thải rất
nhỏ. Thời gian kích động ngắn tránh được sự sai lệch về việc xác định thành phần khí
thải.
Vì phụ thuộc việc sưởi nóng của môi trường xung quanh nên cảm biến có tính
vạn năng trong việc lắp đặt. Dựa trên tín hiệu ra của cảm biến, ECU sẽ tăng hay giảm
lượng xăng phun giữ tỉ lệ hòa khí gần với mức lý tưởng theo lý thuyết.
Cảm biến oxy với thành phần Titanium
Cấu tạo: Cảm biến này có cấu tạo tương tự như loại Zirconium nhưng thành
phần nhận biết oxy trong khí thải được làm từ titanium dioxide (TiO 2). Đặc tính của
chất này là sự thay đổi điện trở theo nồng độ oxy còn trong khí thải.