Professional Documents
Culture Documents
Xác định hiệu suất rây: khối lượng đem rây M = 80 gam
Lần rây Thời gian (phút) Khối lượng qua rây (g)
1 5 23
2 10 0.8
3 15 0.4
4 20 0.3
5 25 0.2
Kết quả phân tích rây: khối lượng đem rây M = 80 gam
Kích thước rây Khối lượng trên rây (g) Thời gian (phút)
(mm)
0,425 25.2 20
0,315 28.3 20
0,200 6.7 20
0,160 9.2 20
2. Xử lý số liệu:
Trước khi nghiền, kích thước hạt gạo (xác định một cách tương đối) là:
Dài: h = 6 mm
Giả thiết hạt gạo trước khi nghiền có dạng hình trụ tròn xoay:
𝑑2 1.52 27
+ Thể tích hạt gạo: 𝑉 = 𝜋 ℎ=𝜋× ×5= 𝜋
4 4 8
𝑑2 1.52 153
+ Diện tích bề mặt hạt gạo: 𝑆 = 𝜋𝑑ℎ + 𝜋 = 𝜋 × 1.5 × 6 + 𝜋 × = 𝜋
4 4 16
+ Đường kính tương đương của hạt gạo trước khi nghiền là:
27
𝑉 𝜋
𝐷𝑝1 = 6 = 6× 8 = 2.12 𝑚
𝑆 153
16 𝜋
Dựa vào giản đồ Log∆ϕn theo LogDpn, ta được phương trình đường thẳng y =
1.415x - 0.0954
𝑏 + 1 = 1.415 𝑏 = 0.415
Từ đó, suy ra: { ⇔{ ′
𝑙𝑜𝑔𝐾 ′ = 0.0954 𝐾 = 1.2457
Do các giá trị r không bằng nhau nên ta lấy giá trị trung bình:
Giản đồ phân phối tích lũy của sự phân phối kích thước của vật liệu trên rây:
𝑑Φ
− = 𝐾𝐷𝑝𝑏
𝑑𝐷𝑝
⇔ ∫ 𝑑Φ = −𝐾 ∫ 𝐷𝑝𝑏 𝑑𝐷𝑝
Φ−1 1/1.415
Φ = −2.0907𝐷𝑝1.415 + 1 ⇒ 𝐷𝑝 = (−2.0907)
Theo định luật Bond, vật liệu sau khi nghiền có 80% qua rây, tức tích lũy lại trên
rây 20% => Ф = 0.2
4 1 1
𝑁 = 19𝑊𝑖 ( − )𝐺
3 √𝐷𝑝2 √𝐷𝑝1
4 1 1 200 × 10−6
= × 19 × 13 × ( − )× = 0.1233𝑘𝑊 = 123.3𝑊
3 √0.507 √2.12 23
60
𝑁 123.3
𝐻= × 100% = × 100% = 15.92%
𝑃 774.4
- Tính toán thí nghiệm rây:
o Dựa vào giản đồ ∑Ji theo số lần rây => Đường cong tiệm cận đến đường thẳng ∑Ji =
24.7
o F.a = 24.7
𝐽 23
o Hiệu suất rây: 𝐸 = 𝐹𝑎1 × 100 = 24.7 × 100% = 93.12%
o 𝐶𝐵 = 1 − 𝐶𝐴 = 1 − 0.6667 = 0.3333
o 𝑛 = ∑𝑁
𝑖=1(𝑆ố ℎạ𝑡 𝐴 + 𝑆ố ℎạ𝑡 𝐵) với N=8
𝐶 𝐶𝐵 (𝑁−1)
o Chỉ số trộn: 𝐼𝑠 = √𝑛 ∑𝑁𝐴 2
𝑖=1(𝐶𝐴 −𝐶𝑖𝐴)
4 20 0.3 24.5
5 25 0.2 24.7
• Giản đồ:
24.8
24.6
24.4
24.2
24
23.8
23.6
23.4
23.2
23
22.8
0 1 2 3 4 5 6
2.3 Xác định sự phân bố kích thức hạt sau khi nghiền
Khối lượng vật liệu ban đầu: F = 80 ( gam)
Khối lượng tích
(mm) Khối lượng
lũy trên rây(gam)
trên rây(gam)
0.425 25.2 25.2 0.3150 0.3150
0.315 28.3 53.5 0.6688 0.3538
0.200 6.7 60.2 0.7525 0.0838
0.160 9.2 69.4 0.8675 0.1150
• Giản đồ:
0.45
0.4
0.35
0.3
0.25
0.2
0.15
0.1
0.05
0
0 0.2 0.4 0.6 0.8 1
Hình 2. Giản đồ phân phối tích lũy của sự phân phối kích thước của vật liệu trên rây
0
-1.2 -1 -0.8 -0.6 -0.4 -0.2 0
-0.1
-0.2
-0.3
-0.4
-0.5
-0.6
-0.7
-0.8
-0.9
(nành) (Xanh)
1 130 107 0.54852 0.01396 0.45148 0.01396 0.014524 2174 0.07019
(nành) (Xanh)
1 131 82 0.61502 0.00267 0.8498 0.00267 0.12300 2323 0.07378
2 144 168 0.46154 0.04208 0.53846 0.04208
3 164 140 0.53947 0.01618 0.46053 0.01618
(nành) (Xanh)
1 182 92 0.66423 0.00001 0.33577 0.00001 0.12060 2300 0.07489
(nành) (Xanh)
1 175 117 0.59932 0.00454 0.40068 0.00454 0.09171 2412 0.08386
2 192 140 0.57831 0.00781 0.42169 0.00781
(nành) (Xanh)
1 171 103 0.62409 0.00181 0.37591 0.00181 0.05292 2102 0.11826
2 156 92 0.62903 0.00142 0.37097 0.00142
300”
Mẫu A B CiA (CiA-CA)2 CiB (CiB-CB)2 (CiA-CA)2 N Is
(nành) (Xanh)
1 139 99 0.58403 0.00683 0.41597 0.00683 0.18051 2546 0.05818
0.14
0.12
0.1
0.08
0.06
0.04
0.02
0
0 50 100 150 200 250 300 350
4. Bàn luận
1) Bàn luận sự thích nghi của định luật Bond để tiên đoán công suất nghiền, đặc biệt chú
trọng về các giả thiết.
Dựa vào phần “Các thuyết về nghiền” đã trình bày, ta thấy rằng:
- Thuyết bề mặt của P.R.Rittinger: chỉ có thể áp dụng đúng đắn trong điều kiện năng lượng
cung cấp cho một đơn vị khối lượng chất rắn là không quá lớn và có thể được dùng để ước
tính cho quá trình nghiền thực với Kr được xác định bằng thực nghiệm trên máy nghiền
cùng loại với máy nghiền thực. Vì có điều kiện ràng buộc về năng lượng và việc xác định
về hệ số Kr rất phức tạp do phải xác định, cho nên thuyết này không có tính thực tế cao
trong việc tiên đoán công suất nghiền.
- Thuyết thể tích của Kick: được dựa trên cơ sở cảu thuyết phân tích ứng suất của biến dạng
dẻo trong giới hạn đàn hồi. Thuyết này cũng không có giá trị thực tế cao do việc xác định
hằng số Kk khá phức tạp.
- Định luật Bond: là định luật có tính thực tế hơn so với định luật Kick và định luật Rittinger
trong việc ước tính công suất nghiền vì:
+ Chỉ số công Wi đã bao gồm cả ma sát trong máy nghiền và công suất tính theo công thức
𝑁 1 1
= 𝐾𝑏 ( − ) là công suất trên trục máy nghiền.
𝐺 √𝐷𝑝2 √𝐷𝑝1
+ Đồng thời nó có giá trị sai khác không nhiều khi tính công suất cho các máy nghiền khác
nhau nhưng cùng loại và dùng cho cả quá trình nghiền khô lẫn nghiền ướt. Cho nên, định
luật này rất thuận tiện cho việc tính toán.
Định luật Bond sử dụng kích thước hạt sau khi nghiền là kích thước lỗ rây có 80% vật liệu
sau khi nghiền lọt qua, tức Bond đã xem các hạt vật liệu sau khi nghiền luôn có một tỉ lệ
sao cho kích thước trung bình của chúng bằng kích thước nói trên. Giả thuyết này xem ra
vẫn chưa hợp lí lắm vì sau khi nghiền, các hạt có kích thước không đồng nhất nhau và tỉ lệ
giữa các hạt không chắc sẽ đúng như định luật Bond đã giả sử.
Để tìm được kích thước này, ta cần biết sự phân phối cỡ hạt trong vật liệu, tức là phải
thống quá thí nghiệm phân tích rây mới có thể tính được công suất nghiền.
2) Nhận xét về hiệu suất rây và nghiền đo được. So sánh với kết quả trong sách. Giải thích
các sai biệt.
+ Độ ẩm của vật liệu thấp, thuận lợi cho quá trình rây.
o Kết quả phân tích rây không chính xác dẫn đến kích thước hạt sau khi nghiền
không chính xác.
o Do khối lượng vật liệu đem cân chưa được chính xác
o Do quá trình cân sau khi rây vật liệu. Vì vật liệu lúc rất dễ bay ra môi tường xung
quanh và còn bám nhiều trên bề mặt rây, không lấy ra được.
o Sai số trong quá trình vẽ đồ thị.
3) Bàn về độ tin cậy của kết quả và các yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất.
+ Nhưng vẫn còn một số các yếu tố làm giảm độ tin cậy của kết quả như:
o Việc ước lượng F.a trên giản đồ 1 chưa được chính xác tuyệt đối
o Việc tính toán phức tạp gây nên nhiều sai số. Đặc biệt, hệ rây sử dụng không phải là
hệ rây tiêu chuẩn nên tỉ lệ Dpn-1/Dpn không phải là hằng số
Độ tin cậy của kết quả rây là thấp dẫn đến độ tin cậy của kết quả nghiền là thấp
Cách lấy mẫu ở những vị trí như trên đảm bảo có thể khảo sát hết toàn bộ khối hạt, làm
cho mẫu lấy có tính đặc trưng và như vật kết quả sẽ có độ chính xác cao. Bởi vì trong quá trình trộn
không phải tại mọi vị trí đều có sự phân bố các hạt như nhau, cho nên ta phải lấy tại nhiều vị trí để
tính trung bình của nó.
Tuy nhiên, những mẫu đã lấy chỉ nằm trên bề mặt khối hạt, không khảo sát được bên
trong.
Ngoài ra, số lượng mẫu lấy là 8 mẫu trên một lần lấy, mẫu lấy là một nắm tay nên phần
mẫu này cũng chiếm tỉ lệ đáng kể so với toàn bộ khối hạt. Sau khi đếm số lượng các hạt ta lại đổ
vào trong thùng trộn, vô tình làm thay đổi sự phân bố các hạt. Ảnh hưởng này sẽ không đáng kể
nếu lượng vật liệu ban đầu đem trộn lớn.
Bên cạnh đó, ta phải lấy mẫu tại 6 thời điểm khác nhau để khảo sát sự thay đổi của chỉ số
trộn theo thời gian. Từ đó tìm ra được thời điểm mà khối hạt đạt được chỉ số trộn cao nhất. Đó
chính là thời gian mà ta nên tiến hành trộn khối hạt để đạt được độ đồng đều cao nhất.
5) Bàn về độ tin cậy của kết quả trộn và các yếu tố nào trong thí ngihệm có ảnh hưởng
nhiều nhất đến thí nghiệm trộn.
- Các yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến kết quả trộn:
+ Sự phân phối cỡ hạt: vì hạt đậu xanh và đậu nành có kích thước thước sai lệch nhiều nên
sẽ ảnh hưởng xấu đến quá trình trộn.
+ Thời gian trộn: được xác định bằng thì kế (bấm bằng tay) nên có sai số. Nhưng sai số này
không đáng kể.
+ Khối lượng riêng của vật liệu: vì đậu xanh và đậu nành có khối lượng riêng xấp xỉ nhau
nên có tác động tốt đối với quá trình trộn.
+ Tính dễ vỡ (dòn): đậu xanh và đậu nành không có tính chất dễ vỡ vụn nên quá trình trộn
diễn ra dễ dàng hơn.
+ Mẫu được lấy tại nhiều vị trí (theo sơ đồ) nên đảm bảo được tính đặc trưng của mẫu lấy,
làm tăng độ chính xác của kết quả.
+ Người đếm hạt có sai số trong quá trình đếm, mẫu lấy không đồng đều.
[1] Vũ Bá Minh – Hoàng Minh Nam, “ Quá trình và thiết bị trong công nghệ hóa học – Tập 2:
Cơ học vật liệu rời”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1998
[2] Bộ môn Quá trình – Thiết bị, “ Thí nghiệm Quá trinh – Thiết bị”, Đại học Bách Khoa
Tp.HCM, 2003