Professional Documents
Culture Documents
Chương 1 Lý thuyết Swot và AHP - Nguyễn Sơn Lâm
Chương 1 Lý thuyết Swot và AHP - Nguyễn Sơn Lâm
HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
Sơ đồ ma trận SWOT
Nguồn: Xin Chan (2011)
Trong đó:
ØSO: Là chiến lược sử dụng những điểm mạnh bên trong của doanh
nghiệp để tận dụng những cơ hội bên ngoài. Tất cả nhà quản trị đều mong
muốn muốn doanh nghiệp của họ ở vào vị trí mà những điểm mạnh bên trong
có thể được sử dụng để lợi dụng những xu hướng và biến cố của môi trường
bên ngoài. Thông thường các tổ chức sẽ đuổi theo các chiến lược WO,ST,WT
để có thể ở vào vị trí mà họ có thể áp dụng các chiến lược SO. Khi doanh
nghiệp có những điểm yếu lớn thì nó sẽ cố gắng vượt qua, làm cho chúng trở
thành điểm mạnh. Khi doanh nghiệp phải đối đầu với những mối đe dọa quan
trọng thì nó sẽ tìm cách tránh chúng để có thể tập trung vào những cơ hội.
ØST: Là chiến lược sử dụng cấc điểm mạnh của doanh nghiệp để tránh
khỏi hay giảm đi ảnh hưởng của những mối đe dọa bên ngoài. Điều này không
có nghĩa là một doanh nghiệp hùng mạnh luôn gặp phải những mối đe dọa từ
bên ngoài
ØWO: Là chiến lược nhằm cải thiện những điểm yếu bên trong bằng
cách tận dụng những cơ hội bên ngoài. Đôi khi những cơ hội lớn bên ngoài
đang tồn tại, nhưng doanh nghiệp có những điểm yếu bên trong ngăn cách nó
khai thác những cơ hội này.
ØWT: Là chiến lược phòng thủ nhằm làm giảm đi những điểm yếu bên
trong và tránh khỏi những đe dọa từ bên ngoài. Một tổ chức doanh nghiệp đối
đầu với vô số mối đe dọa bên ngoài và những điểm yếu bên trong có thể khiến
cho nó lâm vào hoàn cảnh không an toàn chút nào. Trong thực tế một doanh
nghiệp như vậy phải đấu tranh để tồn tại, liên kết, hạn chế chi tiêu, tuyên bố
phá sản hay chịu vỡ nợ.
Ưu điểm và nhược điểm của ma trận SWOT
Collins-Kreiner và Wall nhấn mạnh rằng phân tích SWOT rất đơn giản
và hữu ích cho việc tổ chức thông tin, đặc biệt là cho nghiên cứu sơ bộ nhưng
cũng là cơ sở cho các công việc lý thuyết và ứng dụng [1]. Một trong những ưu
điểm nhưng đồng thời cũng là nhược điểm của phân tích SWOT là phương
pháp giả định. Sự nhấn mạnh vào việc đánh giá công việc dường như được áp
dụng nhiều hơn lý thuyết. Ma trận SWOT tỏ ra rất hữu ích trong việc hiểu biết
môi trường của tổ chức và trong việc lập kế hoạch chiến lược cho sự tăng
trưởng và phát triển của tổ chức. Ngoài ra, còn có thể kể đến khi nhắc về ưu
điểm của ma trận SWOT như đây là ma trận có thể phục vụ phân tích bất kỳ
ngành nghề nào và bất kì mục đích sử dụng nào mà không hề tốn kém chi
phí[*]
Khi kể đến những bất lợi, phân tích SWOT không thể định lượng được
ảnh hưởng của trọng số và các yếu tố chiến lược đối với các giải pháp thay thế
[4].Mặc dù một số nghiên cứu đã bao gồm trọng số định lượng như vậy nhưng
không có nghiên cứu nào tính đến mối quan hệ hoặc các yếu tố phụ thuộc trong
phân tích SWOT. Điều này rất quan trọng vì không thể giả đình rằng các yếu tố
của phân tích SWOT là độc lập và không kết nối giữa các yếu tố này với nhau.
Khi sử dụng SWOT không có khả năng đánh giá toàn diện các tình huống ra
quyết định chiến lược[*]. Ngoài ra, phân tích SWOT sẽ không tốn kém về kinh
phí để xác định mức độ quan trọng của các yếu tố vì vây mà phân tích chủ yếu
dựa vào phân tích định tính; kỹ năng chuyên môn của con người. Vì quá trình
lập kế hoạch thường phức tạp bởi 1 số tiêu chí và sự phụ thuộc lẫn nhau nên
đôi khi việc sử dụng SWOT là không đủ [*]. Trong một nghiên cứu từ năm
1997 (Hill và Wesbrook) [5] phát hiện ra rằng không có công ty nào trong số
20 công ty là đối tượng nghiên cứu của họ không ưu tiên các yếu yếu tố SWOT
riêng lẻ và chỉ có ba công ty sử dụng phân tích SWOT trong việc xác định sứ
mệnh, chiến lược cho doanh nghiệp của họ. Ngoài ra, biểu hiện của một số yếu
tố rất ngắn gọn và mang tính chất chung chung. Như vậy, có thể kết luận rằng
kết quả của phân tích SWOT thường chỉ là tổng hợp bên ngoài và mức độ
chính xác chưa cao hoặc không có đầy đủ các thử nghiệm định tính của các yếu
tố bên trong và bên ngoài[*].
Ứng dụng của ma trận SWOT
Sự khởi đầu của phân tích SWOT bắt đầu từ năm 1960 và việc áp dụng
phân tích SWOT từ đó cho đến nay đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực. Phân tích
SWOT được sử dụng trong nhiều trường hợp, ví dụ: để lập kế hoạch và phát
triển tình hình như một công cụ để tổ chức và giải thích thông tin. Phân tích
SWOT thường được sử dụng bởi cái nhà tư vấn nhưng phân tích hiếm khi được
các nhà khoa học sử dụng. Chang el.al cho biết rằng các yếu tố bên ngoài có
thể được phân loại theo mức độ hấp dẫn của nó và khả năng tiềm ẩn: Cơ hội
thành công và mối đe dọa không thành hiện thực. Các yếu tố bên trong có thể
được xếp hạng dựa trên mức độ hiệu quả và mức độ liên quan của chúng [6].
Hơn nữa, chúng tóm tắt các yếu tố chiến lược bên trong và bên ngoài trong ma
trận EFAs ( Tổng hợp các yếu tố chiến lược bên ngoài) và ma trận IFAs (Tổng
hợp các yếu tố chiến lược bên trong). Phân tích đã cho thấy các yếu tố bên
trong và bên ngoài có thể được cân nhắc như thế nào để minh họa cách ban
lãnh đạo phản ứng với các yếu tố đánh giá cụ thể này dựa trên tầm quan trọng
được nhận thức của chúng đối với công ty. Trọng số được thực hiện trên thang
điểm từ 0 (không quan trọng nhất) đến 1 (rất quan trọng nhất). Kết quả là một
điểm số có trọng số cho biết mức độ phản ứng của công ty đối với các yếu tố
chiến lược hiện tại và dự đoán trong môi trường. Ngoài trọng số và đánh giá
các yếu tố SWOT riêng lẻ, phân tích còn đề xuất trọng số của bốn nhóm trong
phân tích SWOT và việc sử dụng chúng làm hệ số nhân bổ sung cho các yếu tố
riêng lẻ để đánh giá ý nghĩa tổng thể của chúng.
Sau phân tích này, các nhà quản lý có thể nhận được một số nền tảng,
chẳng hạn như các yếu tố mà chúng ta nên dựa vào đó để đạt được thành công
trong lai của chiến lược. Tuy nhiên, không có phương pháp tiếp cận nào được
trình lại không bao gồm một kỹ thuật có hệ thống để xác định tầm quan trọng
của các yếu tố.
Phương pháp phân tích thứ bậc (AHP)
Saaty (1980) đã phát minh ra phương pháp phân tích thứ bậc (AHP) ,
đây là một phương pháp ra quyết định để phân tích các cấp thứ bậc trong một
mô hình. Dựa trên việc sử dụng các thuật toán cơ bản, phương pháp phân tích
tích thứ bậc có cơ sở lý thuyết để hỗ trọ các cá nhân và nhóm chuyên gia
nghiên cứu, phân tích trong việc ra quyết định hay đề xuất các chiến lược
Phương pháp phân tích thứ bậc (AHP) là một lý thuyết đo lường tổng
quát thông qua so sánh từng cặp và dựa vào nhận định của các chuyên gia để
đưa ra các thang điểm ưu tiên. Ngày nay, phương pháp này được sử dụng áp
dụng cho rất nhiều vấn đề lựa chọn đơn giản của cá nhân, hoạch định chiến
lược kinh doanh, lựa chọn danh mục đầu tư và phân tích tài chính (Saaty,2008).
AHP là một kỹ thuật ra quyết định đa tiêu chí có thể giúp thể hiện hoạt
động ra quyết định chung bằng cách phân tách một vấn đề phức tạp thành một
cấu trúc phân cấp gồm mục tiêu, tiêu chí và lựa chọn thay thế [11]. AHP thực
hiện so sánh theo từng cặp để tìm ra ra tầm quan trọng tương đối của biến trong
mỗi cấp của hệ thống phân cấp và / hoặc đánh giá các lựa chọn thay thế ở cấp
thấp nhất của hệ thống phân cấp để đưa ra quyết định tốt nhất trong số các lựa
chọn thay thế. AHP là một phương pháp ra quyết định hiệu quả, đặc biệt khi
tính chủ quan tồn tại và rất thích hợp để giải quyết các vấn đề mà các tiêu chí
quyết định có thể được sắp xếp theo thứ bậc thành các tiêu chí phụ [12].
> 10%
Độ nhất
quán cho
toàn bộ sơ
đồ
≤10%
chấp nhận. Khi A chứa các điểm không nhất quán, các ưu tiên ước tính có
thể nhận được bằng cách sử dụng ma trận (CT1) làm đầu vào bằng kỹ
thuật giá trị riêng kỹ thuật (CT2).
CT 2
CT 3
CI ước tính mức độ nhất quán đối với ma trận so sánh. Sau đó, vì
CI phụ vào n, tỷ lệ nhất quán CR được tính, tỷ lệ này không phụ thuộc
vào n (CT4). Nó đo lường tính chặt chẽ của so sánh theo từng cặp. Để
ước tính CR, chỉ số nhất quán trung bình của các so sánh được tạo ngẫu
nhiên, ACI, phải được tính toán. ACI thay đổi theo chức năng, theo kích
thước của ma trận (Saaty,1980).
CT 4
Theo quy tắc chung, giá trị CR từ 10% trở xuống được coi là chấp
nhận được. Nếu không, tất cả hoặc một số phép so sánh phải được lặp lại
để giải quyết sự mâu thuẩn của các phép so sánh theo cặp.
Do đó, kết quả của các phép so sánh là các giá trị định lượng thể
hiện mức độ ưu tiên của các yếu tố được đưa vào phân tích SWOT. Qua
đó, những người xây dựng chiến lược có quyền truy cập vào thông tin
định lượng mới về môi trường xung quanh công ty của họ để hỗ trợ việc
ra quyết định của họ. Họ có thể tập trung vào việc kết nối các cơ hội và
điểm mạnh tương thích và quan trọng nhất trong quá trình xây dựng chiến
lược hoặc xem liệu công ty có đang đối mặt với một số mối đe dọa hoặc
điểm yếu nghiêm trọng cần phải phản ánh lại hay không.
1.12 Mô hình kết hợp SWOT và AHP
Do ưu điểm của SWOT là dựa trên các yếu tố tác động trong và
ngoài doanh nghiệp từ đó đề xuất các phương án chiến lược để giải quyết
vấn đề doanh nghiệp đang gặp phải. Tuy nhiên lại có quá nhiều phương
án chiến lược được đề xuất, do vậy cần có công cụ phân tích để đánh giá
khách quan nhằm sắp xếp thứ tự ưu tiên các chiến lược đó. Nhằm lựa
chọn chiến lược kinh doanh tối ưu cho doanh nghiệp các bước được tiến
hành mô tả như sau:
Bước 1: Xây dựng ma trận SWOT dựa trên việc nhận dạng các nhân tố
ảnh hưởng bên trong và bên ngoài thông qua phỏng vấn hoặc các câu hỏi
tới các chuyên gia
Tổ chức nghiên cứu
Phân tích môi trường bên Phân tích môi trường bên
trong ngoài
Hình 1.10 Đáng giá các tiêu chí theo cặp dựa vào mức độ ưu tiên
Nguồn: Mai Khắc Thành, Đại học Hàng Hải Việt Nam (2020)
Bước 4: Tính toán các trọng số cho các tiêu chí chính như S,W,O,T, các
tiêu chí phụ như S1 ...Sn, W1 ...Wn, O1 ...On, T1 ... Tn, các phương án
chiến lược SO,ST,WO,WT.
C1 C2 Cn Trọng số
C1 W11 W12 W1n W1
... ...
Cn Wn1 Wn2 Wnn Wn
λmax =
lRI ( Randon index): chỉ số ngẫu nhiên được tra từ bảng sau
n 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
Tóm lại, hoạch định chiến lược kinh doanh vô cùng quan trọng với
tất cả các doanh nghiệp. Một chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ giúp
doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và tránh những tổn thất không đáng có,
phát huy tối đa các điểm mạnh hiện có của doanh nghiệp và khắc phục
các yếu điểm quan trọng. Có thể nói chiến lược kinh doanh sẽ là thỏi nam
châm chỉ hướng, quyết định doanh nghiệp có hoạt động hiệu quả hay
không từ đó ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị
trường. Nhưng để có được một chiến lược kinh doanh đúng đắn, nhà
quản trị của doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt khâu hoạch định chiến
lược để làm giảm thiểu các sai sót, khiến kế hoạch hoạch định trở nên
hoàn hảo hơn và các ma trận phân tích như SWOT và AHP sẽ là một
trong những công cụ sáng giá và chất lượng giúp các nhà quản trị thực
hiện công việc này
Nguồn tài liệu tham khảo:
CHƯƠNG 2: ỨNG DỤNG MA TRẬN SWOT VÀ PHƯƠNG PHÁP
PHÂN TÍCH THỨ BẬC (AHP) CHO CÔNG TY CỔ PHẦN HÀNG
KHÔNG VIETJET
2.1 Tổng quan về ngàng hàng không Việt Nam
Ngành hàng không bao gồm chuỗi dịch vụ vận tải hàng không,
cảng hàng không đến các dịch vụ phụ trợ ngành hàng không. Trong đó,
vận tải hàng không đóng vai trò quan trọng nhất trong chuỗi giá trị ngành
bao gồm hai nhân tố đó là hàng hóa và khách hàng. Khi vận tải hàng
không phát triển thì cảng hàng không và các dịch vụ phụ trợ cũng sẽ phát
triển theo. Nếu xem vận tải hàng không là xương sống vững chắc của
ngành thì cảng hàng không là lĩnh vực chịu trách nhiệm cung cấp cơ sở
hạ tầng cho hầu hết các hoạt động của các phân khúc kinh doanh khác
trong chuỗi giá trị ngành hàng không, là nơi kết nối hệ thống hàng không
của mỗi quốc giá với các phương thức vận chuyển khác.
Tại Việt Nam, vận tải hàng không chiếm khoảng 25% giá trị xuất nhập
khẩu. Theo thống kê báo cáo ngành hàng không cuối năm 2021 được
tổng hợp từ CAVV, SCI, hiện có 55 hãng hàng không nước ngoài và 4
hãng hàng không nội địa đang hoạt động tại Việt Nam. Trong số đó, bốn
hàng hàng không nội địa Việt Nam chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong các
tuyến bay nội địa nhờ vào các chính sách hỗ trợ, bảo hộ của chính phủ.
Còn các tuyến bay quốc tế thì hiễn nhiên ngược lại, ưu thế thuộc về các
hãng bay nước ngoài với 82% thị phần. Các tuyến vận chuyển hàng hóa
hàng không quốc tế chủ yếu ở Việt nam là Châu Á - Thái Bình Dương,
Bắc Mỹ và EU. Tăng trưởng hàng hóa vận chuyển bằng đường hàng
không của Việt Nam theo IATA đạt khoảng 11% từ giai đoạn 2010 đến
2019 và được dụ báo sẽ tăng lên 1% thành 12% trong giai đoạn từ 2020
đến 2030. Đến thời điểm hiện nay, đây vẫn là ngành có rào cản gia nhập
rất cao, tại Nội Bài, Thủ đô Hà Nội có 3 công ty cạnh tranh nhau trong
lĩnh vực vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không là NCT,ASCV và
ALS. Trong số đó, NCT là doanh nghiệp lớn nhất và có mối quan hệ thân
thiết, gắn bó với hãng hàng không quốc gia Vietnam Airline. Về thị
trường vận tải hàng khách, hiện nay dang được thống trị bởi 5 hãng hàng
không nổi tiếng tại Việt Nam đó là: Vietnam Airlines, Vietjet Air, Jetstar
Pacific, VASCO và gần nhất vừa gia nhập là Bamboo Airways 2018.
Trong đó, cả ngành hàng không được chia làm 2 mô hình vận chuyển rõ
ràng và khác biệt là: Hàng không giá rẻ và hàng không truyền thông (giữa
mô hình quản lý tư nhân và mô hình quản lý nhà nước) và hai đại diện
nổi bật đang nắm thị phần nhất trong ngành lần lượt là Vietnam Airline
và Vietjet Air. Sựu cạnh tranh của ngành hàng không càng tăng thêm khi
có sự gia nhập của một doanh nghiệp mang hơi hướng cộng hưởng cả
Vietnam Airline và Vietjet Air từ những lợi thế và bù đắp cách khoảng hở
của cả hai, và đó chính là Bamboo Airways. Bamboo Airways đem đến
kết quả tăng trưởng thị phần trong ngành rất ấn tượng chỉ trong khoảng 3
năm vận hành và còn phát huy đang kể hơn nữa ngay trong tình hình dịch
bệnh căng thẳng vừa đi qua.