Professional Documents
Culture Documents
Thi Nghiem Hoa Sin L N 2
Thi Nghiem Hoa Sin L N 2
Nhóm 2
Tên Sv MSSV
Heng Tuệ Minh Gwendoline 61703101
Ngô Bảo Ngân 61703151
Vũ Thanh Tâm 61703199
1
ĐIỂM
Bài số: 2
Tên bài: ĐỊNH TÍNH & KHẢO SÁT GLUCIDE
Ngày thí nghiệm: 25/08/2018
I. Xác định tính khử của đường đơn bằng phản ứng
Fehling
1. Nguyên tắc:
- Vì trong phân tử monosaccrit như glucose, fructose có các nhóm chức
–CHO,-C=O mang tính khử nên ta sử dụng các chất chứa ion kim loại
như Cu, Fe để xác định tính khử của chúng.
- Sử dụng hỗn hợp Fehling để xác định tính khử của đường đơn. Khi đó,
dung dịch sẽ cho kết tủa màu đỏ vì Cu2+ bị khử thành Cu1+
- Trong dung dịch Fehling gồm có Fehling A và Fehling B:
+ Fehling A chứa CuSO4
+ Fehling B chứa hỗn hợp NaOH và muối Kali natri tartrate.
2
Dưới đây là phương trình rút gọn cho cả quá trình:
3
Dung dịch sau khi đun cách thủy
(Ống nghiệm bên trái chứa Glucose, Ống nghiệm bên phải chứa Fructose)
Kết tủa đỏ gạch ở đáy ống nghiệm là kết quả của phản ứng giữa nhóm chức –
CHO và –CO với Cu2+ trong dung dịch Fehling cho ra sản phẩm là Cu2O.
Nhưng ống nghiệm số 2 có kết tủa đậm hơn vì tính khử của fructose mạnh hơn
glucose.
II. Xác định tính khử của đường đôi bằng phản ứng
Fehling
1. Nguyên tắc
Disaccarit là phân tử đường đôi được tạo nên từ 2 phân tử đường đơn
monosaccarit . Ta sử dụng dung dịch Fehling để xác định tính khử của
disaccarit nhờ vào sự liên kết của nhóm OH glucozit của monosaccarit
thứ 1 với nhóm OH ancol của monosaccarit thứ 2
4
2. Cách tiến hành:
Đun
2 2ml 1ml 1ml cách Có kết tủa
thủy
Không kết
tủa,dung dịch
3 2ml 1ml 1ml
vẫn ở trạng
thái trong suốt
3. Kết quả:
Ở cả ống 1 và ống 2 đều thấy xuất hiện kết tủa sau 1 khoảng thời gian
đun. Sau khi thấy kết tủa ở ống 1 và 2 thì đun thêm 1 thời gian ngắn
ống 3 vẫn không thấy xuất hiện kết tủa .
5
Dung dịch sau khi đun cách thủy
( Từ trái qua phải, ống nghiệm 1 là Maltose, ống nghiệm 2 là Lactose,
ống nghiệm 3 là Saccarose)
4. Nhận xét và so sánh với lý thuyết
Có thể nhận thấy khi các đường đôi như maltose và lactose có nhóm
OH glucozit(monosaccarit 1) liên kết với nhóm OH
alcol(monosaccarit 2) thì vẫn còn để lại nhóm andehit tự do của 1
trong 2 phân tử đường còn lại
Ở đường saccarose có liên kết 1-2 glucozit, vì thế các nhóm andehit tự
do bị khóa lại Khi không còn nhóm OH hemiaxetal tự do thì không
chuyển được thành dạng mạch hở chứa anđehit và làm đường
saccarose mất tính khử.
III. Chiết xuất glycogen
1. Nguyên tắc
Chiết xuất glycogen từ gan động vật bằng cách lọc hết các chất còn lại
có trong gan như protein,lipit,….
Sử dụng các dung dịch kiềm,cồn và nước để tiến hành chiết xuất
6
2. Cách tiến hành:
B1:5g gan tươi( nghiền
sẵn)+20ml KOH 30% đã đun nóng
B2:Cho vào cốc thủy
tinh. Đun và khuấy liên
tục đến khi gan tan hết
B3:Để nguội, thêm 2ml
Na2SO4 10% + 50ml cồn 96%
B6:Khuấy cho
dung dịch hòa tan
B7:Thu tủa, đem
sau đó để lắng,
sấy khô
gạn bỏ phần dịch
bên trên
7
3. Kết quả
Thu được 1 khối lượng kết tủa rắn màu vàng sau khi sấy khô chính là
glycogen đã đuợc chiết xuất.
Dung dịch sau khi để nguội, thêm 2ml Na2SO4 10% + 50ml cồn 96%
8
Glycogen đã được chiết xuất
4. Các lưu ý và bài học rút ra:
a)Tại sao không sử dụng HCl thay vì KOH ở bước 1, KOH có tác
dụng gì ?
Trả lời: Chúng ta sử dụng KOH ở bước này để tạo môi trường kiềm
mạnh nhằm phá hủy mô gan, thứ chúng ta không cần trong thí nghiệm
này. Không sử dụng HCl trong trường hợp là vì HCl là acid mạnh, nó
không những phá hủy mô gan mà còn phá hủy cả glycogen, thứ chúng
ta cần chiết xuất.
b) Tại sao lại cần sử dụng muối Na2SO4 và cồn ở bước 3 ?
Trả lời:
c) Tại sao phải lặp lại bước 5 đến 3 lần ?. Công dụng của nước và cồn
trong thí nghiệm này là gì ?
3. Kết quả:
Ở ống 1 ta thấy xuất hiện dung dịch màu vàng nhạt
Ở ống 2 sau khi đun 1 phút 15s, ta thấy xuất hiện kết tủa đỏ gạch,sau
khi đun thêm 1 thời gian kết tủa vẫn giữ nguyên.
10
Ống nghiệm bên trái chứa dịch thủy phân và Fehling A+B, ống
nghiệm bên phải chứa dịch thủy phân và I2/KI
Dung dịch sau khi đun ống nghiệm chứa dịch thủy phân và Fehling
A+B (bên phải)
4. Nhận xét và so sánh với lý thuyết
Ở đây chúng ta có thể kết luận màu vàng nhạt ở ống 1 là màu của
dung dịch iod do tinh bột đã phân giải hoàn toàn. Có thể khẳng định
điều đó là do ở ống 2, lượng dịch thủy phân tác dụng với thuốc thử
hỗn hợp Fehling cho ra kết tủa màu đỏ gach, hiện tượng chỉ xảy ra khi
có chất có tính khử mạnh nhờ nhóm andehit như maltose và glucose.
Lưa ý: Khi chúng ta thấy ở ống nghiệm 1 xuất hiện màu vàng nhạt
11
không nên vội kết luận rằng tinh bột đã bị phân hủy hoàn toàn, cần
phải thử thêm xem ống nghiệm thứ 2 đã có kêt tủa đỏ gạch hay chưa.
Nếu chưa rất có thể tinh bột vẫn còn đang ở dạng trung gian do sản
phẩm trung gian dextrin tác dụng với dung dịch iod vẫn có thể cho ra
màu vàng nhạt như trên.
Thứ tự các sản phẩm xuất hiện khi phân giải tinh bột:
Amylodextrin
Erythrodextrin
Achrodextrin
Malto dexttrin
Maltose và glucose
12