Professional Documents
Culture Documents
2. Ý nghĩa
Ở hầu hết các nước phát triển, hàng đổi hàng thường chỉ tồn tại song song
với các hệ thống tiền tệ ở một mức độ rất hạn chế. Các tác nhân thị trường
sử dụng hàng đổi hàng thay thế cho tiền làm phương thức trao đổi trong thời
điểm khủng hoảng tiền tệ như khi tiền tệ trở nên không ổn định (ví dụ: siêu
lạm phát hay vòng xoáy giảm phát) hay đơn giản là không có sẵn để tiến
hành thương mại.
Quy luật ‘Tiền tệ xấu đuổi tiền tệ tốt ra khỏi lưu thông”
1. Tiền xấu, tiền tốt là gì?
Tiền tốt là tiền có ít khác biệt giữa giá trị danh nghĩa (ghi trên mặt đồng xu)
và giá trị thực (giá trị của kim loại dùng để đúc, thường là kim loại quý,
nickel, hoặc đồng).
Tiền xấu là tiền mà giá trị hàng hoá thấp hơn nhiều giá trị danh nghĩa và
được lưu thông cùng với tiền tốt, nơi cả hai dạng phải được chấp nhận ngang
giá như là tiền pháp định.
Trong chế độ này, hầu như các quốc gia sẽ đồng ý quy đổi thành một lượng
vàng cố định. Mỗi quốc gia sử dụng bản vị vàng đều đặt ra một mức giá cố
định cho vàng và mua bán vàng ở mức giá đó. Mức giá cố định đó sẽ được
dùng để xác định giá trị của tiền tệ.
Nhờ sự ổn định tỷ giá tiền vàng, người tiêu dùng ở các nước khác sẽ mua
hàng hóa được định giá thấp nhất và do đó vàng sẽ chảy về các nước có nền
kinh tế hiệu quả nhất.
• Lúc đó, quốc gia mới nhận luồng vàng đến phải tăng cung tiền tệ và chịu
áp lực lạm phát vừa phải để bù lại việc giảm giá trước đó.
• Đồng thời, lượng tiền lưu hành ở các nước nền kinh tế kém hiệu quả bị
giảm đi, vì vậy giá cả ở các nước này giảm xuống cho đến khi sự cân bằng
này được khôi phục
• Ngân hàng trung ương của một quốc gia sẽ phá giá tiền tệ bằng cách tăng
giá vàng trong nước, tức là đặt mức giá cố định của vàng cao hơn bình
thường, từ đó giá trị tiền tệ sẽ bị giảm.
CHẾ ĐỘ BRETTON WOODS
1. Đặc điểm của chế độ BWS
Đây là hệ thống dựa trên Đô la Mỹ và IMF được giao trách nhiệm quản lí hệ
thống này. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là một hệ thống do Hoa Kỳ thống trị
với đồng Đô la Mỹ đóng vai trò chủ chốt. Mối quan hệ giữa Mỹ và các nước
khác rất bất cân xứng. Mỹ, với tư cách là quốc gia trung tâm, cung cấp sự ổn
định giá cả trong nước mà các quốc gia khác có thể "nhập khẩu", nhưng bản
thân không can thiệp vào tiền tệ (đây được gọi là sự bỏ qua lành tính; tức là
Mỹ không quan tâm đến tỷ giá hối đoái, điều này được mong muốn). Ngược
lại, tất cả các quốc gia khác có nghĩa vụ can thiệp vào thị trường tiền tệ để
cố định tỷ giá hối đoái của họ so với đô la Mỹ.
Về phía Mỹ: Cho dù tỷ lệ lạm phát sau nhiều năm tuy có cao, nhưng chính
phủ Mỹ không thể phá giá USD đối với vàng được, bởi vì nếu phá giá sẽ làm
xói mòn lòng tin vào toàn hệ thống Bretton Woods. Hơn nữa, giả sử chính
phủ Mỹ phá giá USD so với vàng thì cũng không cải thiện được sức cạnh
tranh thương mại quốc tế nếu như các bạn hàng vẫn duy trì tỷ giá cố định
đối với USD. Như vậy, để duy trì và kiểm soát được thâm hụt BOP chính
phủ Mỹ buộc phải áp dụng các chính sách thiểu phát nền kinh tế.
Đối với các nước có BOP thâm hụt: Rõ ràng hành động phá giá là phương
thuốc cuối cùng để cải thiện BOP của các nước bị thâm hụt. Nhưng thực tế
chỉ ra rằng các nước có BOP thâm hụt lại tỏ ra rất miễn cưỡng khi phá giá
đồng tiền của mình, bởi vì phá giá thường được xem là biểu hiện yếu kém
của chính phủ và của cả một quốc gia. Một khi các quốc gia có thâm hụt
BOP miễn cưỡng áp dụng các chính sách thiểu phát nền kinh tế cũng như
phá giá đồng bản tiền tệ, có nghĩa là hệ thống Bretton Woods phải trông chờ
vào các nước có thặng dư BOP là một cái gì đó để BOP của họ giảm xuống.
Đối với các nước có thặng dư BOP: như Đức, Nhật, Thuỵ Sỹ... cũng muốn
chứng tỏ rằng việc nâng giá đồng tiền của họ cũng khó khăn và miễn cưỡng
chẳng kém gì các nước phải phá giá đồng tiền. Điều này xảy ra là vì khi
đồng tiền của họ tiếp tục được định giá thấp sẽ cho phép duy trì tốc độ tăng
trưởng cao trong xuất khẩu và hướng nền kinh tế vào sản xuất hàng xuất
khẩu. Họ lo ngại rằng nếu nâng giá đồng bản tệ sẽ khiến cho tăng trưởng
xuất khẩu chậm lại, thất nghiệp gia tăng bởi vì các ngành sản xuất hàng xuất
khẩu phải co lại. Hơn nữa, các quốc gia này không dễ gì áp dụng chính sách
mở rộng tiền tệ như là các biện pháp giảm thặng dư BOP bởi vì họ luôn lo
ngại về những hậu quả của lạm phát có thể gây ra.
Trong chế độ tỷ giá cố định, áp lực luôn đè nặng lên con nợ phải tiến hành
biện pháp điều chỉnh nào đó bởi vì nếu không dự trữ ngoại hối sẽ cạn kiệt để
bảo vệ tỷ giá.
2.4. Chính sách tiền tệ lạm phát không phù hợp với quốc gia tiền tệ chủ
chốt
Hệ thống Bretton Woods dựa trên các quy tắc, trong đó quan trọng nhất là
tuân thủ các chính sách tiền tệ và tài khoá nhất quán với tỷ giá cố định. Mỹ
đã vi phạm quy tắc này sau năm 1963.
QŨY TIỀN TỆ QUỐC TẾ - IMF
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (viết tắt IMF) – tên tiếng anh là International Monetary
Fund: là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng cách
theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và
giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu. Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington,
D.C., thủ đô của Hoa Kỳ.
Quỹ tiền tệ Quốc tế được thành lập từ năm 1945 nhằm thúc đẩy hợp tác tiền
tệ và đảm bảo an ninh hệ thống tiền tệ toàn cầu, bao gồm 189 quốc gia làm
việc để thúc đẩy hợp tác tiền tệ toàn cầu, đảm bảo ổn định tài chính, tạo điều
kiện cho thương mại quốc tế, thúc đẩy việc làm và tăng trưởng kinh tế bền
vững, giảm nghèo trên toàn thế giới.
1. Chức năng của IMF
IMF gồm 3 chức năng chính
1.1. Giám sát
Giám sát tình hình kinh
tế tài chính toàn cầu và
các nước thành viên,
đồng thời tư vấn về
chính sách kinh tế cho
các nước thành viên.
Điều này được thực hiện
thông qua việc nghiên
cứu, thống kê, phân tích
và dự báo các nền kinh tế
quốc gia, khu vực hoặc toàn cầu. Ngoài ra, IMF sẽ cung cấp lời khuyên cho
các nước thành viên và thúc đẩy các chính sách được thiết kế để thúc đẩy sự
ổn định kinh tế, giảm tính dễ bị tổn thương trước các cuộc khủng hoảng kinh
tế và tài chính, và nâng cao mức sống.
Bên cạnh đó, IMF còn có một số loại tín dụng khác như: vay để duy trì dự
trữ điều hòa, vay để điều chỉnh cơ cấu…
Các nước thành viên cũng được quyền vay hay quyền rút vốn đối với IMF.
Các nước có thể sử dụng quyền rút vốn và dự trữ quốc tế của mình để tài trợ
cho các khoản thâm hụt cán cân thanh toán. Đối với cơ chế quyền rút vốn tại
IMF, các nước thành viên cần đảm bảo:
Nếu gặp khó khăn về cán cân thanh toán các nước thành viên có thể
rút vốn. Tức là mua đồng tiền nước ngoài của IMF bằng đồng tiền
của nước mình trong giới hạn bằng 125% hạn mức của mình, trong
đó các nước có thể rút 25% đầu tiên bất kì khi nào có nhu cầu.
Khi muốn rút một hay cả bốn phần 25% còn lại, các nước phải nhất
trí với IMF về một chương trình bao gồm các biện pháp xử lý thâm
hụt cán cân thanh toán của mình.
Các nước thành viên phải hoàn trả lại phần rút vốn của mình trong
khoảng thời gian từ 3 - 5 năm.
Liên quan đến quyền rút vốn của các nước thành viên, năm 1970, IMF đã
tạo ra một tài sản dự trữ quốc tế gọi là Quyền Rút vốn Đặc biệt (viết tắt là
SDR) để tăng thêm mức cung về phương tiện thanh toán quốc tế. Quyền này
cũng tạo ra những phương tiện vay nợ bổ sung cho các nước thành viên
nghèo của IMF.
BỘ BA BẤT KHẢ THI (Impossible Trinity)
1. Khái niệm
Bộ ba bất khả thi (Bộ ba chính sách không thể đồng thời hoặc tam nan kinh
tế) chỉ một giả thuyết kinh tế cho rằng không thể thực hiện đồng thời ba
chính sách gồm:
1. Tỉ giá hối đoái cố định thể hiện ở: dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán...
2. Tự do lưu chuyển vốn thể hiện ở: tăng trưởng GDP, đầu tư nước ngoài,
nhập siêu, tài khóa ngân sách công, nợ nước ngoài...
3. Chính sách tiền tệ độc lập thể hiện ở: lạm phát, lãi suất, ...
Trong kinh tế học, chỉ có thể thực hiện đồng thời hai trong ba chính sách này
mà thôi. Thuật ngữ này còn dùng để chỉ tình thế kinh tế dễ đổ vỡ khi mà một
quốc gia cố tình thi hành ba chính sách trên cùng lúc.
2. Nội dung
- Các lý luận kinh tế như sơ đồ DD-AA hay
mô hình Mundell-Fleming đều chỉ ra quan
hệ giữa chính sách tiền tệ và tỉ giá hối đoái
với giả định là vốn được tự do lưu chuyển
qua biên giới quốc gia.
- Một nước phải chọn một cạnh của tam
giác và từ bỏ góc đối diện.
* (3) + (1): Nếu một quốc gia chọn tỉ giá hối đoái cố định và chính sách tiền
tệ độc lập thì quốc gia đó sẽ không thể có dòng vốn tự do. Tiếp tục trong
trường hợp này, tỉ giá hối đoái cố định và dòng vốn tự do là riêng biệt với
nhau.