You are on page 1of 20

Việt Bắc – Tố Hữu

Ý nghĩa nhan đề của tác phẩm Việt Bắc.


Không chỉ là tên gọi của đoạn trích trong tác phẩm trong sách giáo khoa, Việt
Bắc còn là tên của toàn bộ tập thơ này. Việt Bắc chính là căn cứ địa Cách
Mạng ( từ năm 1941 sau khi khởi nghĩa Bắc Sơn 9/1940 nổ ra, nơi đây được
hình thành và đến năm 1954 thì hoàn thành sứ mệnh trong kháng chiến chống
Pháp ) gồm 6 tỉnh: Cao Bằng- Bắc Kạn-Lạng Sơn-Hà Giang-Tuyên Quang-
Thái Nguyên.Việt Bắc trong kí ức của mọi con người Việt Nam luôn được
nhớ tới là quê hương cách mạng, thủ đô kháng chiến.
Sau năm 1954, chúng ta lập lại hòa bình ở miền bắc, chiến dịch Điện Biên
Phủ kết thúc, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết.Miền bắc xây dựng cuộc sống
mới tiến lên xã hội chủ nghĩa, cán bộ từ Việt Bắc trở về tiếp quản thủ đô Hà
Nội chia tay nhân dân tại chiến khu Việt Bắc.Nhân sự kiện có tính lịch sử -
thời sự, Tố Hữu đã dồn cảm xúc của mình để gửi gắm cả vào tác phẩm , vừa
như ôn lại kỉ niệm vừa là tri ân nhân dân tại chiến khu Việt Bắc trong những
ngày tháng đã qua trong kháng chiến chống Pháp.

Về tác giả Tố Hữu:


Mỗi một nhà thơ họ luôn lựa chọn cho mình một lối đi riêng trong sáng tác.
Đối với Tố Hữu, ông luôn được nhớ tới là cánh chim đầu đàn của thơ cách
mạng Việt Nam, nhà thơ mang hồn thơ của dân tộc, trưởng thành trong giai
đoạn thơ mới phát triển nhưng ông không đi theo con đường ấy mà khẳng
định tên tuổi của mình với phong cách thơ : Trữ Tình Chính Trị. Những tác
phẩm của ông luôn gắn liền với những mốc son trong lịch sử của dân tộc,
cũng như đọng lại trong từng bài thơ ta cảm nhận được sự chân thành, mộc
mạc tha thiết ân tình. Một người thư kí của của Cách Mạng, đem thơ ca viết
lại trang sử vẻ vang của dân tộc, những ngày tháng không thể nào quên. Sở dĩ
được gọi là Trữ Tình - Chính Trị là bởi những tác phẩm này bày tỏ cảm xúc
chân thành của bản thân tác giả nhưng lại tập trung đề cập đến những vấn đề
to lớn, lớn lao, trọng đại của dân tộc.Có thể nói Việt Bắc là đỉnh cao nghệ
thuật trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu.
Đặc trưng về kết cấu của tác phẩm là cách hát đối đáp : Ta – mình
Người miền Bắc chúng ta vẫn có câu:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta níu vạt áo ta đề câu thơ.”
Hay như trong miền Nam khi những người thương, yêu nhau tiễn nhau bồi
hồi cảm xúc cũng có câu :
“Chàng về , em nắm vạt áo em la làng
Bỏ chữ thương, chữ nhớ giữa đàng cho ai?”
Tố Hữu sử dụng để thể hiện tình cảm của cán bộ về xuôi với nhân dân, cũng
như nhân dân với người ra về. Ông mượn kết cấu lối hát đối đáp, ca dao viết
về một đề tài không mới là cuộc chia ly nhưng để ghi lại một sự kiện lịch sử
vừa mới diễn ra.Không phải là cá nhân chia tay với cá nhân mà là của tập thể
với tập thể của chiến sĩ ra về với nhân dân ở lại.Không phải ngẫu nhiên ông
được gọi là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn.Thơ ông đậm đà tính dân
tộc. Hình thức đối đáp không chỉ là sự ướm hỏi mà đó chính là để bày tỏ tình
cảm, tạo ra âm thanh mang tính điệp trùng cộng hưởng, đồng vọng không
dứt, âm vang của thời đại.Mà cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ xuyên suốt toàn bộ
tác phẩm.
Phân tích chi tiết tác phẩm
4 câu thơ đầu : ( lời nhắn nhủ của người ở lại với cán bộ về xuôi )
Mình về mình có nhớ ta Lời của nhân dân Việt Bắc dành cho người
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không ra về.Hai câu thơ 1-3 đều là câu hỏi tu từ
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn. không tìm kiếm câu trả lời, mà chủ yếu là
bày tỏ cảm xúc của nhân vật trữ tình.Hỏi
nhưng mục đích chính là để giãi bày tâm
trạng của mình với cán bộ ra về , nhắc đi
nhắc lại chỉ thay đổi một từ "ta"” và từ
"không".Mười lăm năm là nhắn nhủ về
khoảng thời gian gắn bó của chiến sĩ với
nhân dân Việt Bắc , từ năm 1940 khi khởi
nghĩa Bắc Sơn nổ ra cho đến năm 1954 khi
miền Bắc dã hoàn toàn được giải phóng kết
hợp với từ láy thiết tha và mặn nồng chủ
yếu nói về tình cảm trước sau thủy chung
như một trong những ngày tháng gắn bó
máu cùng đổ, kề vai sát cánh, chung lưng
đấu cật.
Cặp câu thơ sau lại hướng về không gian
khi tác giả sử dụng những danh từ mang ý
nghĩa bao trùm, cội rễ “Sông” và “Nguồn” ,
“Cây” và “Núi”.Kết hợp với cặp động từ là
Nhìn và Nhớ.gợi nhắc về có núi thì mới có
cây, có nguồn thì mới có sông và có Việt
Bắc mới có ngày Miền Bắc hoàn toàn độc
lập. Cách bày tỏ cảm xúc của người ở lại là
bật lên thành lời.
4 câu thơ sau: trả lời tấm lòng của nhân dân ( hành động của người ra về,
chiến sĩ Cách Mạng bộc lộ tâm tư tình cảm khi trở về thủ đô )
Tiếng ai tha thiết bên cồn Trong những câu thơ viết về tình cảm của
Bâng khuâng trong dạ , bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly người cán bộ ra về chủ yếu là những câu
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay khẳng định.Khẳng định lại tình cảm của
chiến sĩ với nhân dân.Tác giả sử dụng
hàng loạt các từ láy Hán Việt để miêu tả
nhiều cung bậc cảm xúc của cán bộ ra
về.Tha thiết là canh cánh trong lòng, là
khắc khoải khôn nguôi.Bâng khuâng
không chỉ đơn thuần là một trạng thái cảm
xúc , mà đem tới nhiều những cảm xúc
khác nhau : một chút thương , một chút
nhớ, một chút bồi hồi, một chút thương,
một chút bịn rịn.Bồn chồn có thể hiểu là
trở đi trở lại liên tục. Áo chàm là nghệ
thuật hoán dụ kép lấy bộ phận chỉ toàn thể.
Áo chàm là áo của người dân tộc Tày, họ
là người chiếm số đông ở Việt Bắc. Nói áo
chàm chính là để nói nhân dân Việt Bắc.
Để hoán dụ hay đến như vậy đòi hỏi đó
phải là người hiểu về nơi đây, Tố Hữu
cũng là cán bộ từng gắn bó với Việt Bắc
bởi vậy ông hoán dụ hay đến vậy. Hành
động được nhắc tới là cầm tay mang nhiều
ý nghĩa. Cầm tay là trao cho nhau hơi ấm,
là trao cho nhau tình cảm, là trao cho nhau
sức mạnh.
Từ câu thơ 9 đến câu thơ 20, lượt lời thứ 2 của nhân dân nhắn nhủ tới cán bộ
- Mình đi, có nhớ những ngày Hàng loạt những câu thơ 6 chữ đều
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? là những câu hỏi đồng dạng khơi gợi
Mình về, có nhớ chiến khu lại kí ức.
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Những câu thơ 8 chữ đều nhắc lại về
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già những khắc nghiệt đặc trưng về núi
Mình đi, có nhớ những nhà rừng Việt Bắc.Những ngày tháng
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son khó khăn nhất, “mưa nguồn, suối lũ”
Mình về, còn nhớ núi non nỗi ám ảnh của những con người đã
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh từng ở miền cao. Mây cùng mù khắc
Mình đi, mình có nhớ mình nghiệt giăng kín lối, che đường đi và
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
lạnh tới thấu xương.Ở một góc độ
khác ta cũng có thể hiểu mây mù ẩn
dụ cho một tương lai mờ mịt trong
ngày đầu kháng chiến. Mặc dù
không gian thì khắc nghiệt nhưng
tương phản hoàn toàn với con người
Việt Bắc thủy chung, ân tình.
( tiểu đối )
miếng cơm chấm muối > < mối thù
nặng vai
Hắt hiu lau xám > < đậm đà lòng
son
( ăn uống đạm bạc thiếu thốn nhưng
trách nhiệm lớn lao.Cuộc sống
hoang vu, khó khăn, tiêu điều thì
tấm lòng của con người Việt Bắc lại
sâu đậm, đầy ắp những yêu thương.
Bên cạnh đó tác giả vẫn không quên
gợi nhắc tới những giai đoạn lịch sử
đầy tự hào như chống phát xít Nhật,
chống thực dân Pháp.
Mái đình Hồng Thái
Đây là điểm dừng chân đầu tiên của
Bác từ Cao Bằng về căn cứ địa cách
mạng Tân Trào ngày
21/5/1945.Đình Hồng Thái cũng là
nơi đón tiếp các đại biểu về dự Quốc
dân đại hội tháng 8/1945, trong
kháng chiến chống Pháp nơi đây trở
thành trạm đặc biệt quan trọng của
Ban bảo vệ an toàn khu

Cây đa Tân Trào


Dưới gốc đa này, chiều 16/8/1945,
đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc
bản quân lệnh số 1 và ngay sau đó
quân Giải Phóng làm lễ xuất quân
lên đường qua Thái Nguyên tiến về
giải phóng Hà Nội.
Từ câu thơ 21-câu thơ 25
( lời khẳng định tình cảm của chiến sĩ với nhân dân ở lại )

Ta với mình, mình với ta Câu thơ đầu về mặt kết cấu gồm 2 vế
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
với từ ngữ là hoàn toàn giống nhau
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu chỉ có chăng là sự thay đổi về vị
trí.Ta và mình tuy hai mà một tuy
một mà hai.Tình cảm của nhân dân
dành cho chiến sĩ nhiều bao nhiêu
thì tình cảm của chiến sĩ dành cho
nhân dân nhiều bấy nhiêu.Từ tình
cảm quân dân nhưng qua cách nhìn
nhận tinh tế của Tố Hữu lại chẳng
khác nào tình cảm của lứa đôi dành
cho nhau.
Với chiến sĩ ra về họ luôn bộc lộ
cảm xúc bằng những lời khẳng định,
Câu thơ “lòng ta sau trước mặn mà
đinh ninh” là lời khẳng định, lời thề
về tấm lòng của họ dành người ở
lại.Câu thơ thứ 3 không còn đại từ
“Ta” mà chỉ còn ba đại từ
“Mình”.Vừa là nhớ người ở lại
nhưng cũng vừa diễn tả nhớ tới
chính mình trong những ngày tháng
đã từng gắn bó với mảnh đất này.
Tình cảm ấy được cụ thể hóa ở câu
thơ sau cùng , ví von nỗi nhớ với
nước trong nguồn chảy ra, chỉ đầy
vơi không bao giờ vơi cạn, ào ạt,
dào dạt vô tận
Từ câu thơ 26 - câu thơ 33 ( Hồi ức đẹp về chiến khu Việt Bắc của chiến sĩ
ra về )
Nhớ gì như nhớ người yêu Vẫn biết rằng cảm xúc bao trùm lên toàn bộ tác
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương phẩm là nỗi nhớ.Nhưng đến với đoạn thơ ta
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về được cảm nhận một cách rõ rệt về nỗi nhớ của
Nhớ từng rừng nứa bờ tre cán bộ ra về. “Nhớ người yêu"
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”.Bên cạnh đó tác
giả sử dụng phép điệp “Nhớ từng” như lật giở
lại từng trang của ký ức về mảnh đất Việt Bắc
đong đầy nghĩa tình này.Hàng loạt những hình
ảnh được thi sĩ gợi lên với cảnh tượng Việt Bắc
thanh bình : Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng
nương.Trăng và nắng gợi lên về thời gian tuần
tự, kết hợp với khung cảnh đầu núi, lưng
nương.Từ những hình ảnh quen thuộc bỗng trở
nên thi vị, đậm chất nên thơ trữ tình.Đó là hình
ảnh những bản làng được giăng mắc lên bằng
màu sương khói.Vừa huyền ảo, vừa thơ
mộng.Trong những mái nhà những bản làng là
hình ảnh con người Việt Bắc chờ đợi , chờ
mong.Cho đến khuất tầm mắt là những rừng
nứa bờ tre, một màu xanh mướt trải rộng khắp.
Tất cả làm nên một khung cảnh Việt Bắc vừa
thân quen mộc mạc nhưng lại nên thơ nên họa.
Nếu như trong cách liệt kê của nhân dân là
những chiến thắng vang dội, thì trong lối nói
của những người ra về, kí ức của họ là những
dòng sông, con suối ở Việt Bắc, cảnh đẹp thiên
nhiên nhưng cũng là đặc trưng của nơi
đây.Gian khổ đắng cay nào cũng cùng nhân
dân trải qua, diễn tả cảm xúc nỗi thương nỗi
nhớ chia sẻ mọi điều trong 15 năm hoạt động
tại Việt Bắc
Từ câu thơ 34 đến câu thơ 43
Kỷ niệm đong đầy và cụ thể về những ngày tháng khó khăn nhất nhưng
luôn có người dân Việt Bắc ở cạnh bên
Thương nhau chia củ sắn lùi Liên tục tác giả sử dụng những hình ảnh
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng thân quen mà thiếu thốn trong kháng chiến
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô như cơm sẻ nửa, chia củ sắn lùi, chăn sui
Nhớ sao lớp học i tờ đắp cùng.Khó khăn chồng chất khó khăn,
Đồng quê đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan nhưng đối với chiến sĩ cách mạng luôn có
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo nhân dân đùm bọc, cưu mang, sẻ chia vượt
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
qua những khó khăn của nghịch cảnh.Tác
giả sử dụng hàng loạt những động từ như :
Chia, sẻ, cùng... lúc nào cũng có nhân dân
chia sẻ đắng cay ngọt bùi. Trong những kí
ức của người cán bộ ra về có lẽ ấn tượng
hơn cả là những người mẹ ở Việt Bắc.Họ
là những người mẹ kháng chiến ta bắt gặp
nhiều trong những tác phẩm :
Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ
Mẹ ấp con bằng lồng ngực không còn mùa
đông
Mẹ xoa đầu con
Bằng bàn tay mẹ xoa cánh đồng
(Quê hương mặt trời vàng – Thu Bồn )
Cảm xúc mang ơn những bà mẹ kháng
chiến trong những ngày tháng khó khăn
gian khổ nhất.Họ đã tự nguyện lao động
để nuôi kháng chiến , chăm chỉ để góp
phần san sẻ gánh nặng mưu sinh với cán
bộ.
Không chỉ dừng lại ở cảnh vật bình yên,
Tố Hữu nhắc lại về những ngày tháng sinh
hoạt ở nơi đây của cán bộ.Bình dân học
vụ, là những đêm giao lưu văn hóa văn
nghệ.. là hình ảnh là âm thanh quen thuộc
trong đời thường.Việc dạy học và tuyên
truyền có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc dẫn tới toàn thắng trong kháng
chiến chống Pháp.
Những đêm giao lưu văn hóa không hề xa
lạ ta đã từng bắt gặp trong thơ ca Quang
Dũng :
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Chiến sĩ vẫn tin tưởng vào một ngày mai
nhất định thành công thắng lợi, ý chí của
họ vẫn cao hơn những khó khăn trước mắt,
gợi cảm hứng về tương lai.Sống trong khó
khăn vẫn yêu đời thắm thiết.
Từ câu 44 đến câu thơ 53 ( Bộ tranh tứ bình về con người và thiên nhiên
Việt Bắc trong kí ức của người chiến sĩ cách mạng về xuôi )
Ta về, mình có nhớ ta *Cặp câu thơ đầu tiên mang kết cấu
Ta về ta nhớ những hoa cùng người “ta - mình”.Người chiến sĩ đưa ra câu
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi hỏi tu từ gieo vào lòng người ở lại,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng liệu khi họ ra về, nhân dân nơi đây có
Ngày xuân mơ nở trắng rừng nhớ mình hay chăng.Không tìm kiếm
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi câu trả lời, câu 8 một lần nữa tác giả
giang khẳng định lại về tình cảm của người
Ve kêu rừng phách đổ vàng ra về.Đối tượng hướng đến trong nỗi
Nhớ cô em gái hái măng một mình nhớ của họ hướng đến “Hoa” và
Rừng thu trăng rọi hòa bình "Người”.Hoa là ẩn dụ tượng trưng
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. cho thiên nhiên Việt Bắc, người là
con người Việt Bắc.Hai câu thơ mở ra
một bộ tranh tứ bình trong tác
phẩm.Tứ bình là một bộ tranh gồm
bốn bức tranh, khác nhau về mặt nội
dung nhưng lại có chung một chủ
đề.Tố Hữu bằng tài văn của mình ông
vẽ lên kí ức một bộ tranh bằng thơ về
con người và thiên nhiên Việt Bắc cả
bốn mùa trong năm.Khác với trình tự
khi ta đề cập tới là Xuân – Hạ – Thu –
Đông.
*Mùa đầu tiên được nhắc tới lại là
bức tranh mùa Đông. Trải lên toàn bộ
vùng địa bàn rộng lớn ở Việt Bắc là
gam màu lạnh, gam màu xanh lá của
núi rừng trầm măc.Tố Hữu khéo léo
sử dụng bút phát điểm xuyết, chủ yếu
là chấm phá. Đặt lên trên khung cảnh
núi rừng là những bông hoa chuối đỏ
tươi,Với việc sử dụng những gam
màu tương phản làm nổi bật lẫn nhau
và tôn vinh lên nhau. Bức tranh mùa
đông không hề lạnh lẽo, mà trái lại
sinh động rực rỡ sắc màu. “Đèo cao”
là cụm từ thể hiện hình ảnh của thiên
nhiên hùng vĩ, nhưng với góc nhìn
của một nhiếp ảnh gia, tác giả chụp
lại khoảng khắc đẹp của người đi
rừng Việt Bắc. Những tia nắng chiếu
vào lưỡi dao của người đi rừng Việt
Bắc và lóe sáng. Người Việt Bắc
mạnh mẽ tự tin, đứng lên làm chủ quê
hương mình, làm chủ đất nước
mình.Con người vượt qua khó khăn ,
vượt lên trên nghịch cảnh.
*Bức tranh mùa xuân , không còn sử
dụng những gam màu nóng lạnh
tương phản, thi sĩ sử dụng nghệ thuật
đảo ngữ “trắng rừng” nhấn mạnh vào
vẻ đẹp đặc trưng thiên nhiên Việt Bắc
sang xuân. Ở đó là màu trắng tinh
khiết tinh khôi của hoa mơ. Màu hoa
mơ trắng đã nhiều lần bước vào trong
bài thơ Theo Chân Bác, Tố Hữu viết:
Ôi sớm xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Hay như trong bài thơ : “hoan hô
chiến sĩ Điện Biên” Tố Hữu cũng dã
từng viết :
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại
vàng”.Cứ câu thơ lục viết về vẻ đẹp
thiên nhiên thì câu thơ bát lại viết về
vẻ đẹp con người.Nhân dân Việt Bắc
tài hoa , tinh tế trong hoạt động sản
xuất đời thường được thể hiện qua
hình ảnh “Chuốt từng sợi
giang”.Khác với sự mạnh mẽ tự tin,
đứng lên làm chủ thiên nhiên như bức
tranh mùa đông.Bức tranh con người
và mùa xuân lại toát lên sự tỉ mỉ, cần
cù , tài hoa, chỉ là một công việc nhẹ
nhàng, quen thuộc nhưng lại tinh tế ,
những công việc bình dị đời thường
nhưng họ thực sự trở thành người
nghệ sĩ trong công việc của mình.Vẻ
đẹp này ta cũng bắt gặp trong người
lái đò sông Đà hay Huấn Cao trong
chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
*Bức tranh mùa hạ trước tiên đến với
chúng ta trước tiên không phải là màu
sắc , lại là âm thanh đến với bạn đọc.
Tiếng ve kêu râm ran báo hiệu mùa
hè, âm thanh đặc trưng đã nhuộm
vàng cả rừng phách. Trong vỏn vẹn 6
từ , vậy mà chinh phục bạn đọc bằng
một chuỗi vận động liên hoàn từ âm
thanh đến hình ảnh.

Từ có lẽ ta quan tâm nhiều hơn là


động từ mạnh “đổ”. Về mặt nghĩa đen
đó là tốc độ chuyển mùa mau lẹ của
thiên nhiên từ màu trắng tinh khôi của
hoa mơ, chỉ sau những tiếng ve kêu
đã đồng loạt đổ sang màu vàng mỡ
màng của rừng phách.Nhìn vào lịch
sử mùa hạ năm 1954 chúng ta liên tục
giành chiến thắng trên mọi mặt
trận.Chỉ một từ đổ nhưng đạt tới độ
chính xác mang nhiều trường liên
tưởng, dù hiểu theo cách nào cũng
đều đặc sắc.
Màu sắc trong 4 bức tranh thay đổi
linh hoạt. Trong bức tranh mùa hạ
thay vì viết về cách thức lao động sản
xuất thì tác giả viết về tinh thần trong
lao động. Điều này được thể hiện ở
nhịp thơ 2/2/2/2 gieo vần ai vần ái thể
hiện niềm vui.Những cô gái lao động
một mình , đóng góp âm thầm trong
suốt những năm tháng kháng chiến.
Họ vui tươi, trẻ trung, hồn nhiên.
Những con người ta không thể nhớ
mặt đặt tên nhưng họ làm nên đất
nước muôn đời.
*Sau cùng là bức tranh mùa thu, tuy
nhiên là không hề có bất cứ màu sắc
nào cả thay vào đó là hình ảnh của
ánh trăng. Khác với xu thế bình
thường là xuân-hạ-thu-đông, mở đầu
lại là mùa đông và kết lại bằng mùa
thu.Bởi trong 9 năm ấy là từ mùa
đông năm 1946 Bác đưa ra lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến và khép lại
bằng tháng 10/1954. Đây là sự phá lệ
trong việc đảo lại trật tự các mùa của
bộ tranh tứ bình. Các bức tranh trước
chỉ viết về thiên nhiên vào ban ngày
nhưng đến bức tranh mùa thu lại là vẻ
đẹp đặc trưng núi rừng Việt Bắc vào
ban đêm.
Thay vì những đêm thao thức trăn trở
về con đường giải phóng dân tộc của
cán bộ, chiến sĩ giờ đây chúng ta đã
làm nên những chiến công hiển hách,
giành lại độc lập cho miền bắc và ở
đó là vẻ đẹp của hòa bình, những
tháng ngày bình yên.
Với việc sử dụng đại từ phiếm chỉ
“Ai” , tác giả nhắc tới một truyền
thống đẹp của con người Việt Nam.
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây , uống nước
nhớ nguồn, những con người thủy
chung, yêu thương, nghĩa tình trong
những ngày tháng khó khăn nhất để
làm nên những điều kì diệu nhất.Thời
gian trôi qua nhưng tình cảm là mãi
mãi không chỉ là câu chuyện của cán
bộ với nhân dân và là toàn thể nhân
dân Việt Nam luôn nhớ tới Việt Bắc.
Từ câu 54 đến câu 64
tác giả kể lại những ngày tháng chiến đấu trường kì gian khổ
Nhớ khi giặc đến giặc lùng Trong hoàn cảnh khó khăn những
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây ngày đầu kháng chiến, thế giặc mạnh
Núi giăng thành lũy sắt dày và chúng liên tục reo rắc đau
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù thương.Tác giả sử dụng từ “cùng” để
Mênh mông bốn mặt sương mù thấy thiên nhiên và con người hòa
Đất trời ta cả chiến khu một lòng vào làm một chiến đấu với quân
Ai về ai có nhớ không địch.Thậm chí với cách viết này ta
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng cảm nhận được ngay cả thiên nhiên
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng cũng được trao nhiệm vụ.Núi non
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị cũng trở thành bức tường thành ngăn
Hà… cả sự tấn công của quân địch.
Rừng cũng có vai trò quan trọng, có
hồn, có chính kiến, có tư tưởng,
cùng lúc vây quân thù và che chở
cho bộ đội ta.
Cùng với rừng già, sương mù Tây
Bắc che chắn tầm nhìn của kẻ thù,
gây cản trở.Không chỉ có con người
mà cả thiên nhiên cũng góp phần
vào thành công của cuộc kháng
chiến.Sự thành công đến từ tinh thần
đoàn kết, hợp sức đồng lòng cả con
người cả thiên nhiên.
4 câu thơ sau tác giả sử dụng phép
điệp từ “nhớ” kết hợp với thủ pháp
nghệ thuật liệt kê hàng loạt các địa
danh : “Phủ Thông”, “đèo Giàng”,
“sông Lô”, “phố Ràng”…Báo tin
thắng trận trên khắp các nơi khi
chúng ta đã vùng lên chiến đấu.
Từ câu thơ 63 đến câu thơ 74 : Cảnh ra quân
Những đường Việt Bắc của ta “Những đường Việt Bắc” ta vừa có
Đêm đêm rầm rập như là đất rung thể hiểu đó là những con đường ra
Quân đi điệp điệp trùng trùng trận nhưng cũng có thể hiểu đó là
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nam những con đường kháng chiến, con
Dân công đỏ đuốc từng đoàn đường giải phóng dân tộc.Cụm từ
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay “của ta” thể hiện khát khao được
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày đứng lên làm chủ quê hương mình
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên làm chủ đất nước mình mà ta đã
Tin vui chiến thắng trăm miền từng bắt gặp đồng điệu trong “đất
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui nước” của Nguyễn Đình Thi:
về “Trời xanh đây là của chúng ta
Vui từ Đồng Tháp, An Khê Núi rừng đây là của chúng ta”.
Vui lên Việt Bắc, đèo De , núi Hồng Hàng loạt những từ láy được sử
dụng như “đêm đêm”, như “rầm
rập” với thủ pháp so sánh và phụ âm
“rung” ta thấy được sự đông đảo của
tất cả những anh bộ đội ngày đêm
hành quân nung nấu với ý chí quyết
chiến quyết thắng rung chuyển đất
trời.Câu thơ trên thể hiện âm thanh
thì câu thơ sau lại viết nhiều hơn về
hình ảnh. “Điệp điệp trùng trùng”
thường được sử dụng miêu tả núi
hoặc sóng, tác giả muốn thể hiện
đoàn quân Việt Nam ta ra trận đông
đảo người người lớp lớp, cuộn lên
như sóng trào kéo dài vô tận.
Nếu ánh sao đầu súng là nghệ thuật
hoán dụ chỉ các anh bộ đội thì ta
cũng có thể hiểu mũ nan là hoán dụ
với dân quân du kích, hợp sức chiến
đấu.Sự khác biệt là từ hình ảnh nhìn
nhận ở tầm rộng thì tới đây tác giả
đặc tả vào từng anh bộ đội.
Trong cuộc kháng chiến ấy không
thể bỏ qua một lực lượng có vai trò
quan trọng : “dân công”.Họ là hậu
phương vững chắc để anh bộ đội vào
trận đánh quân thù.Họ ủng hộ hết
mình cho cuộc kháng chiến của dân
tộc mang tầm vóc lớn lao khi thi sĩ
kết hợp với ngoa ngữ : “ Bước chân
nát đá, muôn tàn lửa bay”.Sự kì vĩ
của những con người mang tầm vóc
khổng lồ, hết mình vì kháng chiến,
gánh trên đôi vai của mình là nhiệm
vụ lớn lao.
Những con người làm nên huyền
thoại của Việt Nam ở thế kỉ XX.
Trong hai câu thơ tiếp tác giả có đề
cập tới thăm thẳm sương mù, nhìn
về nghĩa tường minh thì đó là những
khắc nghiệt về mặt thời tiết, nhưng
đặt trong hai câu thơ thì đó lại là ẩn
dụ cho những khó khăn thiếu thốn
trong những ngày đầu quân và dân ta
chống Pháp.Chúng ta chỉ có vũ khí
thô sơ, nhưng quân ta càng đáng
càng mạnh đã khắc phục được hết
những thiếu thốn khó khăn.Chúng ta
đã có những đoàn xe ra mặt trận, đã
có pháo binh và ở đó là một bình
minh huy hoàng và tráng lệ vẫy gọi
toàn thể dân tộc Việt Nam.
Nếu ta nhìn nhận 8 câu thơ trên là
cảnh ra quân thì ở 4 câu thơ sau lại
là khúc ca khải hoàn ăn mừng chiến
thắng.Với việc sử dụng phép điệp từ
“vui” nhắc đi nhắc lại 4 lần cũng
như liệt kê ra hàng loạt những địa
danh trên khắp miền Bắc như Hòa
Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng
Tháp, An Khê, Việt Bắc, đèo De, núi
Hồng…Tác giả thể hiện tiếng reo
vui từng hàng triệu trái tim con
người Việt Nam khi chúng ta liên
tục giành chiến thắng, chiến thắng
sau còn vang dội hơn chiến thắng
trước.Ngày vui chiến thắng chúng ta
đã chờ đợi từ lâu, ngày hội của cả
dân tộc.
Câu thơ 75 đến câu thơ 82
Việt Bắc là điểm đến của hy vọng của nhân dân, quê hương cách mạng, mang
vai trò vị trí trung tâm lãnh đạo của.
Ai về ai có nhớ không Tác giả đang miêu tả lại về những
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang cuộc họp của Chính phủ.Chúng ta
Nắng trưa rực rỡ sao vàng đều biết rằng hang động luôn là nơi
Trung ương , Chính phủ luận bàn tăm tối thế nhưng với hình ảnh lá cờ
việc công đỏ thắm và ngôi sao vàng rực
Điều quân chiến dịch Thu – đông rỡ.Thay vì thấy âm u tăm tối, ta thấy
Nông thôn phát động, giao thông mở rực rỡ sáng ngời lý tưởng.Tất cả đều
đường tập trung cho những công việc vì
Giữ đê, phòng hạn, thu lương nhân dân trong kháng chiến.Từ
Gửi dao miền ngược, thêm trường những cuộc họp thế này mà cuộc
các khu cách mạng của chúng ta tiến dần tới
sự thắng lợi hoàn toàn.Từ điều động
chiến sĩ, cho tới phát triển nông
nghiệp, giữ đê… Vai trò của Việt
Bắc được thể hiện rõ nét trong việc
lãnh đạo, định hướng…

Từ câu thơ 83 đến câu thơ 90


Việt Bắc không chỉ là căn cứ quan trọng của cuộc Cách Mạng. Nơi đây còn
trở thành một địa chỉ tin cậy của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Ở đâu u ám quân thù Nhân dân đặt trọn niềm tin vào Việt
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Bắc khi trong những ngày tháng
Ở đâu đau đớn giống nòi chiến tranh khó khăn gian khổ
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền nhất.Từ Việt Bắc chúng ta đã làm
Mười lăm năm ấy, ai quên nên chiến thắng lớn lao.
Quê hương Cách mạng dựng nên
Cộng Hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân
Trào

You might also like