You are on page 1of 11

BỆNH TRĨ

MỤC TIÊU

1. Trình bày được các yếu tố dịch tễ học của trĩ và các yếu tố thuận lợi gây bệnh trĩ.
2. Mô tả được các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng bệnh trĩ.
3. Kể và mổ tả được các biến chứng của bệnh trĩ.
4. Nêu được các chẩn đoán phân biệt của bệnh trĩ.
5. Trình bày được các phương pháp điều trị bệnh trĩ.
Bệnh trĩ đã được biết từ bao thế kỷ nay nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu
biết tường tận về bệnh sinh, bệnh nguyên, thương tổn giải phẫu bệnh của nó, vì thế
vẫn chưa có được định nghĩa thỏa đáng.

I. DỊCH TỄ HỌC
A. TẦN SUẤT
Bệnh trĩ là một bệnh phổ biến ở mọi xứ sở với tỉ lệ người mắc bệnh khá cao. Nhiều
thống kê ở nước ngoài cho thấy tỉ lệ bệnh người trên 50 tuổi là 50% và có khoảng 5%
dân số có triệu chứng của bệnh trĩ. Ở Việt Nam, trong một điều tra dịch tễ học trên
3.103 người ở một nhà máy hóa chất thuộc vùng trung du Bắc bộ, số người mặc bệnh
trĩ là 1.089, chiếm tỉ lệ 35%.

B. TUỔI, GIỚI
Đa số xảy ra ở người lớn tuổi và không gặp ở trẻ em.
Tỉ lệ bệnh ở phái nam gấp đôi phái nữ (thống kê nước ngoài).

C. YẾU TỐ THUẬN LỢI


Nguyên nhân của bệnh trĩ đến nay vẫn chưa được xác định rõ ràng và chắc chắn, tuy
nhiên có những yếu tố được coi như là điều kiện thuận lợi cho bệnh trĩ phát sinh.
1, Táo bón kinh niên, hội chứng lỵ
Những bệnh nhân này mỗi khi đi cầu phải rặn gắng sức để tống phân ra, khi rặn áp
lực trong ống hậu môn tăng lên gấp 10 lần (theo Best và Taylor), sự lặp đi lặp lại kéo
dài của rặn gắng sức làm tăng sự ứ đọng máu ở đám rối tĩnh mạch trĩ lên và làm cho
khối trĩ sa ra ngoài hậu môn.
2. Tăng áp lực ổ bụng
Những bệnh nhân ho nhiều do viêm phế quản mạn tính, dãn phế quản. Những người
thường xuyên lao động nặng nhọc như khuân vác, vận động viên các môn thể thao
nặng như cử tạ, quần vợt,... những người làm công việc đứng lâu, ngồi nhiều như thư
ký, thợ may, nhân viên bán hàng... áp lực ổ bụng liện tục tăng, cản trở sự hồi lưu tĩnh
mạch của vùng hậu môn, dễ dàng cho bệnh trĩ xuất hiện.
3. U bƣớu hậu môn trực tràng và vùng xung quanh
Ung thư trực tràng, u bướu vùng tiểu khung (ung thư tử cung, u xơ tử cung), thai
nhiều tháng cản trở máu tĩnh mạch hồi lưu là những nguyên nhân của trĩ đã được xác
minh, Trong những trường hợp này, trĩ được tạo nên do những nguyên nhân cụ thể,
rõ ràng nên được gọi là trĩ triệu chứng,

II. SINH BỆNH HỌC


Trĩ là một bệnh lý thường gặp và gây ra nhiều phiền toái cho con người, nhưng cho
đến nay người ta vẫn chưa có được hiểu biết đầy đủ về bệnh lý này. Sự khởi phát của
bệnh trĩ được giải thích bằng nhiều cơ chế khác nhau, những thuyết này bổ sung cho
nhau và không nhất thiết loại trừ lẫn nhau,

A.THUYẾT CƠ HỌC
Đám rối tĩnh mạch nằm ở tầng sâu của lớp dưới niêm mạc và được giữ tại chỗ nhờ
các mô sợi cơ đàn hồi. Khi tuổi tác tăng lên thì các mô sợi cơ đàn hồi có hiện tượng
thoái hóa keo chùng nhão dần, mô trở nên lỏng lẻo bất thường. Tình trạng này làm
cho đám rối trĩ di chuyển nhiều hơn mỗi khi áp lực trong xoang bụng tăng lên do táo
bón hay do rối loạn đi cầu, gây ra trĩ nội sa. Đều này giải thích tỷ lệ mắc bệnh trĩ cao
ở một số gia đình do sự mỏng manh có tính chất di truyền của mô sợi cơ đàn hồi này.

B. THUYẾT HUYẾT ĐỘNG HỌC


Trong lớp dưới niêm mạc của phần thấp trực tràng và của ống hậu môn có rất nhiều
khoang mạch. Vách các khoang mạch này chỗ dầy chỗ mỏng tạo nên tổ chức hang, Ở
đấy có sự thông nối giữa động và tĩnh mạch. Các búi tĩnh mạch nằm ở lớp dưới niêm
mạc trong ống hậu môn không đối xứng nhau và nằm ở các vị trí 4, 7, 11 giờ lại có
tính cách co giãn giống chức năng của một cái đệm, có vai trò trong khép kín hậu
môn và giữ cho đi cầu tự chủ (Hình 1).

Hình 1
Có giả thuyết cho rằng trĩ là do sự phình dãn của tĩnh mạch ở ống hậu môn (quan sát
đầu tiên do Sappey thực hiện năm 1874 và được củng cố thêm trong các nghiên cứu
gần đây của Thomson). Cơ chế phình dãn tĩnh mạch là do sự gia tăng áp lực tĩnh
mạch gây ra bởi các yếu tố như tư thể đứng lâu, di truyền, mất van tĩnh mạch và sự
tắc nghẽn hệ thống tĩnh mạch. Gần đây qua các nghiên cứu về mô học và quan sát
trên kính hiển vi điện tử, người ta đã ghi nhận ở diện vi tuần hoàn của ống hậu môn
có chứa các shunt động tĩnh mạch. Các shunt này chịu tác động của các kích thích nội
tiết hoặc sinh lý thần kinh. Bình thường các shunt động-tĩnh mạch đóng lại, giúp cho
sự trao đổi máu trong mô xảy ra. Khi có kích thích chuyên biệt liên quan đến sự gia
tăng lưu lượng máu trong tĩnh mạch trĩ trên(chẳng hạn như thay đổi áp suất trong
khoang bụng, thức ăn nhiều gia vị) dẫn đến hiện tượng co thắt các cơ thắt trước mao
mạch và các shunt động tĩnh mạch mở ra, hậu quả là mô không được nuôi dưỡng, gia
tăng áp lực đột ngột ở các đám rối tĩnh mạch trĩ làm giãn các tĩnh mạch trĩ(Hình 2).

Chức năng shunt động tĩnh mạch bình Rối loạn chức năng shunt động tĩnh
thường: Shunt động tĩnh mạch đóng, mạch: các shunt động tĩnh mạch mở
cơ thắt trước mao mạch mở ra, cơ thắt trước mao mạch co lại

Hình 2

Điều này giải thích tại sao chảy máu trong trĩ có màu đỏ tươi(do động mạch hóa các
tĩnh mạch, do hiện tượng mở các shunt động tĩnh mạch). Nếu có tình trạng viêm
nhiễm và huyết khối thì dòng máu tĩnh mạch càng bị tắc nghẹn nhiều hơn, làm cho
các búi trĩ lớn và giãn to.

III. TRIỆU CHỨNG


A. TRIỆU CHỨNG TOÀN THÂN
Phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện gì vì tuy chảy máu có khi thường xuyên
nhưng với số lượng ít. Một số ít bệnh nhân có triệu chứng thiếu máu. Thỉnh thoảng
gặp bệnh nhân thiếu máu rất nặng, dung tích hồng cầu dưới 10%. Tuy nhiên khi phát
hiện triệu chứng thiếu máu nặng ta cần chú ý đến các bệnh lý khác về huyết học hay
xuất huyết tiêu hóa trên và dưới.

B. TRIỆU CHỨNG CƠ NĂNG


Có hai triệu chứng chính đưa bệnh nhân đến khám bệnh là chảy máu và sa trĩ.
1. Chảy máu
Chảy máu là triệu chứng có sớm nhất và thường gặp nhất. Lúc đầu chảy máu rất
kín đáo, tình cờ bệnh nhân phát hiện khi nhìn vào giấy vệ sinh sau khi đi cầu hoặc
nhìn vào phân thấy vài tia máu nhỏ dính vào thỏi phân rắn. Về sau mỗi khi đi cầu
phải rặn nhiều do táo bón thì máu chảy thành giọt hay thành tia. Muộn hơn nữa cứ
mỗi lần đi cầu, mỗi lần đi lại nhiều, mỗi lần ngồi xổm máu lại chảy. Có khi máu chảy
rất nhiều khiến bệnh nhân phải vào cấp cứu. Đôi khi máu từ búi trĩ chảy ra đọng lại
trong lòng trực tràng rồi sau đó mới đi cầu ra nhiều máu cục.
2. Sa trĩ
Sa trĩ cũng là triệu chứng thường gặp. Tùy theo mức độ sa mà biểu hiện lâm sàng
khác nhau. Nếu trĩ sa độ 2 thì không gây phiền hà nhiều. Nếu trĩ sa độ 3 bệnh nhân
rất khó chịu mỗi khi đi cầu, khi đi lại nhiều, khi làm việc nặng. Nếu trĩ sa độ 4 , bệnh
nhân thường xuyên khó chịu,
3. Triệu chứng khác
a. Đau
Có thể hoàn toàn không đau, hay chỉ thấy cồm cộm vương vướng. Nhưng cũng có thể
đau thực sự, thường xảy ra khi:
-Tắc mạch, xuất hiện những cục máu đông nhỏ bên trong búi trĩ. Khi bị tắc mạch
bệnh nhân không dám ngồi ngay ngắn trên ghế, mà chỉ đăt một mông trên ghế.
-Sa trĩ nghẹt làm búi trĩ phù nề, có khi sưng rất to, không thể đẩy lên được, làm bệnh
nhân rất đau.
-Nứt hậu môn đi kèm, thương tổn này làm bệnh nhân rất đau nhất là khi đi cầu. làm
cho bênh nhân không dám đi cầu
Hay ổ áp xe đi kèm nằm ngay dưới lớp niêm mạc hay nằm ở trong hố ngồi trực tràng
b. Chảy dịch nhầy ở hậu môn
Dịch nhầy này có thể do sự bài tiết của niêm mạc ống hậu môn, thường xảy ra ở bệnh
nhân có kèm theo sa trĩ nặng, có khi là triệu chứng của bệnh lý khác như viêm trực
tràng, u trực tràng...
c.Ngứa hậu môn và quanh hậu môn do viêm da quanh hậu môn vì các chất dịch
nhầy. cũng có thể do các bệnh lý ngoài da hay hậu quả của các thuốc thoa tại chỗ
trong điều trị trĩ.
C. TRIỆU CHỨNG THỰC THỂ
Khám bệnh nhân ở các tư thế nghiêng trái, gối khuỷu (chổng mông) hay tư thế sản
khoa (Hình 3).

Hình 3. Tƣ thế trong khám hậu môn

1.Nhìn
Khám nhìn Có thể thấy búi trĩ ngoại nằm ở ngoài, da chung quanh lỗ hậu môn phồng
căng bóng, dưới lớp da căng bóng có thể thấy màu xanh của các tĩnh mạch nổi. Thấy
búi trĩ nội sa khi bệnh nhân rặn mạnh. Nếu trĩ sa độ 4, thấy chung quanh lỗ hậu môn
có một vòng niêm mạc gồm nhiều búi trĩ, cái to cái nhỏ không đều, giữa các búi trĩ là
các ngấn nông sâu khác nhau. Khi nhìn ta cần chú ý đến các dấu hiệu khác như viêm
da quanh hậu môi do sử dụng các lại thuốc bôi hay tọa dược gây kích thích hay phản
ứng tại chỗ. Các chất tiết ở quanh hậu môn như chất nhầy hay mủ mà nguyên nhân có
thể do các bệnh lý khác như Crohn, viêm đại tràng, bệnh da liễu (lậu, giang mai), từ
xoang lông hay rò hậu môn. Các bất thường da vùng quanh hậu môn như chàm, ung
thư bạch huyết(leukemia). Crohn, condylomata. Ta còn có thể thấy niêm mạc sa ra
ngoài thành vòng tròn trong bệnh sa trực tràng.
2. Sờ
Sở nắn ngoài hậu môn vào các búi trĩ ngoại thấy mềm, ấn xẹp, khi có tắc mạch sờ có
cảm giác những cục cứng nhỏ như hạt tấm ấn rất đau.
3. Thăm hậu môn trực tràng
Khó phát hiện trĩ, các ngón tay của thầy thuốc kinh nghiệm phát hiện được các chỗ
niêm mạc phồng lên, khi ấn vào mất đi. Thăm hậu môn trực tràng là động tác cần
thiết có thể phát hiện được các biến chứng của trĩ như thuyên tắc mạch hay ung thư
ống hậu môn và ung thư phần dưới bóng trực tràng. Khi thăm khám hậu môn cẩn chú
ý đến trương lực của cơ vòng khi bệnh nhân rặn cũng như lúc nghỉ. Khi rút găng tay
ta cần lưu ý đến các chất dịch dính trên găng như máu, mủ, chất nhầy…
4. Soi hậu môn trực tràng
Qua ống soi thấy rõ tình trạng các búi trĩ, đó là những chỗ niêm mạc phồng lên, sẫm
màu hơn, thường nằm ở các vị trí 4, 7, 11 giờ, Soi hậu môn là phương pháp tốt nhất,
có giá trị nhất để chẩn đoán Trĩ nội độ 1. Soi hậu môn còn giúp phát hiện thương tổn
nứt hậu môn đó là thương tổn mất niêm mạc của ống hậu môn, thường nằm ở nửa
ngoài của ống hậu môn, ở chính giữa hay hơi lệch sang phải hay trái một ít, chỗ mất
niêm mạc có hình cái vợt với đầu phình hướng ra phía ngoài và cán vợt quay vào
trong. Trên đầu chỗ phình ở phía ngoài nhiều khi thấy một mẩu da thừa, đó là u hạt
viêm mạn tính và xơ hóa. Soi trực tràng là bắt buộc để phát hiện ung thư bóng trực
tràng và ung thư đoạn dưới đại tràng chậu hông, do trên thực tế thường có lầm lẫn
Với trĩ vì cũng có triệu chứng đi cầu ra máu,
5. Quay video hậu môn khi đi cầu(Videoproctoscopy)
Để phân biệt các độ sa của trĩ nội, trước đây ta chỉ dựa vào lời khai của bệnh nhân,
nay với máy quay phim đặt trong nhà cầu chúng ta có thể ghi lại quá trình đi cầu của
bệnh nhân để từ đó định được chính xác các độ sa trĩ nội.

V. THƢƠNG TỔN GIẢI PHẪU BỆNH


A. TRĨ NỘI
Trĩ nội được hình thành do dãn quá mức đám rối tĩnh mạch trĩ trong nằm trên đường
lược. Phủ trên búi trĩ là niêm mạc màu hồng. Lúc đầu búi trĩ còn nhỏ, nằm trên đường
lược, về sau dần dần to ra và sa xuống. Tùy theo kích thước và độ sa, trĩ nội được
chia làm nhiều mức độ (Hình 4):

Hình 4: Phân loại trĩ nội


-Trĩ độ 1: Búi trĩ nằm hoàn toàn trong ống hậu môn,
-Trĩ độ 2: lúc thường thì búi trĩ nằm gọn trong ống hậu môn, khi rặn đi cầu thì búi trĩ
thập thò ở lỗ hậu môn hay lòi ít ra ngoài. Khi đi cầu xong, đứng dậy búi trĩ tự thụt
vào,
-Trĩ độ 3: mỗi lần đại tiện hay đi lại nhiều, ngồi xổm, làm việc nặng thì búi trĩ lại sa
ra ngoài. Khi đã sa ra ngoài thì phải nằm nghỉ một lúc búi trĩ mới tụt vào hay phải
dùng tay ấn nhẹ vào.
-Trĩ độ 4: búi trĩ gần như thường xuyên nằm ngoài ống hậu môn. Lúc này các búi trĩ
khá to, thường liên kết với nhau tạo thành trĩ vòng.

B. TRĨ NGOẠI
Được hình thành do dãn quá mức đám rối tĩnh mạch trĩ ngoại. Trĩ ngoại bao giờ cũng
nằm ngoài ống hậu môn, phủ trên búi trĩ là da quanh hậu môn.

C. TRĨ HỖN HỢP


Lúc đẩu trĩ nội nằm trong ống hậu môn, trên đường lược và trĩ ngoại nằm ngoài ống
hậu môn, phân cách giữa chúng là đường lược, Ở đây có dây chằng Parks, đây chàng
này làm cho niêm mạc dính chặt vào mặt trong cơ thắt. Khi dây chằng Parks chùng,
trị nội và trĩ ngoại liên kết nhau tạo thành trĩ hỗn hợp.

V. BIẾN CHỨNG
A. TẮC MẠCH
Tắc mạch là do sự hình thành các cục máu đông nằm trong các búi trĩ. Khi rặn đi cầu,
khuân vác, thể thao, mang thai, hậu sản, làm tăng áp lực trong xoang bụng, gây xung
huyết vùng hậu môn là những yếu tố thuận lợi gây ra tắc mạch trĩ.
-Tắc mạch trĩ ngoại: khi thăm khám thấy ở vùng rìa hậu môn một khối sưng có màu
phớt xanh, kích thước to hơn hay nhỏ hơn hạt đậu, bệnh nhân có cảm giác đau rát, sờ
vào thấy căng. Nếu được rạch ngay thì thấy bật ra một cục máu đông và bệnh nhân
thấy dễ chịu ngay.
-Tắc mạch trĩ nội: Ít hơn so với tắc mạch trĩ ngoại, bệnh nhân đau ở trong sâu, có
cảm giác như có một vật lạ nằm trong lòng ống hậu môn ví như hòn sỏi nằm trong
chiếc giày đang đi. Thăm trực tràng ấn tay vào thành trực tràng thấy một cục cứng có
ranh giới rõ rệt.

B. SA VÀ NGHẸT BÚI TRĨ


Trĩ nội trong lòng ống hậu môn có thể bị sa ra ngoài và mắc kẹt. Khối trĩ có thể bị
nghẹt một phần hay toàn bộ vòng tròn trĩ, phía bên ngoài của khối nghẹt da phù nề tái
nhợt, phía bên trong niêm mạc đỏ sẫm sưng phù, đụng vào rất đau, ở khối trĩ sa và
nghẹt đôi khi có những chấm đen, bắt đầu của hiện tượng hoại tử. Ấn nhẹ vào khối trĩ
sa thấy có những nốt cứng do những cục máu đông tạo thành.

C. VIÊM NHÚ VÀ VIÊM KHE


Biểu hiện lâm sàng bằng cảm giác nóng rát ở hậu môn, có khi chỉ là cảm giác ngứa
ngáy, thăm trực tràng rất đau và thấy cơ thắt dãn nở kém. Soi hậu môn thấy các nhú
bị phù nề, màu trắng, các khe nằm giữa các búi trĩ bị loét nông, màu đỏ.
VI. CHẨN ĐOÁN
A. CHẨN ĐOÁN XÁC ĐỊNH: Căn cứ vào các triệu chứng chính:
-Cháy máu trực tràng: là triệu chứng phổ biến của trĩ, đưa bệnh nhân đến khám.
-Búi trĩ nội sa ra ngoài: thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng:
+ Thăm khám lâm sàng bằng: nhìn, sờ, thăm trực tràng.
+ Cận lâm sàng: nội soi hậu môn trực tràng, quay video hậu môn khi đi tiêu.

B. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT


+Chảy máu trực tràng: Có thể thấy ở các bệnh
- Pô-líp hay bệnh đa pô-líp.
-Viêm loét đại tràng-trực tràng chảy máu.
- Ung thư trực tràng.
+Búi trĩ nội sa ra ngoài: cần phân biệt với sa trực tràng. Để chẩn đoán phân biệt, cần
phải thăm khám thêm bằng thăm trực tràng, nội soi hậu môn trực tràng, X quang đại
tràng có cản quang.

VII. ĐIỀU TRỊ


Chỉ cần điều trị cho các trường hợp có biểu hiện lâm sàng.
1. Điều trị bảo tồn và chế độ sinh hoạt
Tránh các hoạt động quá mạnh, tránh ngồi nhiều hoặc đứng lâu. Ăn nhiều chất xơ,
tránh dùng các chất kích thích như rượu, ớt. Thay đổi thói quen trong đi cầu, tránh
táo bón.
Ngâm hậu môn nước ấm cải thiện các triệu chứng trĩ. Chườm túi đá để giảm sưng nề.
2. Thuốc tại chỗ
Dùng các thuốc có tác dụng sát trùng, chống phù nề, chống co thắt, chống đau, chống
đông.
3. Các thủ thuật:
Chích xơ làm xơ hóa các búi trĩ, chỉ định cho trĩ độ 1 và độ 2. Không dùng cho trĩ
ngoại, trĩ huyết khối, trĩ nội bị viêm loét hay hoại tử. Có thể dùng: phenol 5%,
quinine và urea hydrochloride, sodium morrhuate, sodium tetradecyl sulfate,
polidocanol.
Làm đông nhiệt bằng tia hồng ngoại (infrared thermocoagulation). Dùng cho các búi
trĩ nhỏ không đáng thắt
Thắt bằng dây thun là một trong các phương pháp phổ biến nhất trong điều trị trĩ nội.
Ở nhiều nước, phương pháp này thay thế cho mổ cắt trĩ trong 80% trường hợp. Đơn
giản, rẻ, Có thể điều trị ngoại trú cho các trường hợp trĩ chảy máu và sa trĩ, lý tưởng
cho trĩ độ 2 và độ 3.
4. Phẫu thuật
+Mổ cắt trĩ. Có nhiều phương pháp cắt trĩ:
-Kỹ thuật để mở của Milligan và Morgan (khi vết mổ khó khâu kín, trĩ hoại thư, trĩ
vòng);
-Kỹ thuật khâu kín của Ferguson; kỹ thuật khâu kín không hoàn toàn (với khâu niêm
mạc ống hậu môn và để hở da quanh hậu môn)...
+Thắt các mạch máu đến nuôi các búi trĩ. Dựa theo giải phẫu hay tiến hành dưới
hướng dẫn của siêu âm
+Phương pháp Longo (1998), được thừa nhận ở nhiều nước châu Âu, châu Á.
Phương pháp này không là “cắt trĩ” mà nguyên lý là làm gián đoạn các mạch máu trĩ
trên và giữa đồng thời khâu treo niêm mạc hậu môn trực tràng bị sa lên trên, đưa các
búi trĩ về lại vị trí trong hậu môn, do đó làm teo các mô trĩ. Chỉ định cho các trường
hợp trĩ nội sa độ 3 và 4

TÀI LIỆU ĐỌC THÊM

1.Nguyễn Đình Hối. Hậu môn trực tràng học nhà xuất bản y học 2002; 73-105
2. Stanley M.Goldberg. Essentials of anorectal surgery, 1980:69-85
CÂU HỎI LƢỢNG GIẢ
1. Bệnh trĩ là bệnh phổ biến ở lứa tuổi:
A. Mọi lứa tuổi.
B. 10 tuổi.
C. 20-30 tuổi,
D. 30-40 tuổi.
E > 50 tuổi.
2. Bệnh trĩ:
A. Đa số xảy ra ở người lớn tuổi (> 50 tuổi).
B. Nam nhiều gấp đôi nữ.
C. Xảy ra ở cả trẻ em.
D. A, B và C đúng
E. A, B đúng.
3. Yếu tố thuận lợi của bệnh trĩ:
A. Táo bón kinh niên.
B. Tăng áp lực trong ổ bụng.
C. U bướu vùng tiểu khung.
D, A, B và C đúng.
E. A, B đúng.
4 Khi khám bệnh nhân bị bệnh trĩ có triệu chứng thiếu máu nặng cần chú ý đến:
A. Bệnh lý về huyết học.
B. Xuất huyết tiêu hóa dưới.
C. Xuất huyết tiêu hóa trên.
D. A, B và C đúng.
E, B, C đúng.
5, Hai triệu chứng cơ năng chủ yếu của bệnh trĩ đƣa bệnh nhân đến khám là:
A. Chảy máu và đau,
B. Đau và sa trĩ.
C. Chảy máu và sa trĩ.
D. Chảy dịch nhầy và máu.
E Chảy máu và ngứa.
6. Triệu chứng ngứa hậu môn và quanh hậu môn là do
A. Tắc mạch tĩnh mạch trĩ ngoại.
B. Tắc mạch tĩnh mạch trĩ nội.
C. Nứt hậu môn đi kèm.
D. Chảy dịch nhầy do sa trĩ.
E. Tất cả đều đúng.
7. Trĩ nội sa độ 4 là búi trĩ nội sa ra ngoài
A. Đi đại tiện.
B, Làm việc nặng. .
C. Ngồi xổm lâu.
D. Dùng tay đẩy búi trĩ không lên được.
E. Tất cả đều đúng.
8. Thăm hậu môn trực tràng trong bệnh trĩ có thể giúp phát hiện:
A. Áp xe cạnh hậu môn.
B. Ung thư trực tràng.
D. Nứt hậu môn.
C. Thuyên tắc mạch.
E. Tất cả đều đúng.
9. Phƣơng tiện chẩn đoán nào tốt nhất, có giá trị nhất để chẩn đoán trĩ nội độ 1:
A. Thăm hậu môn trực tràng.
B. Nội soi hậu môn trực tràng.
C. Chụp đại tràng có cản quang
D. A, B đúng.
E. A, B và C đúng
10. Đệm hậu môn là dạng sinh lý bình thƣờng giúp cho sự đi cầu tự chủ của
bệnh nhân:
A. Đúng.
B. Sai.
ĐÁP ÁN: 1.E; 2.E; 3. E; 4D; 5C; 6D; 7E; 8E; 9B; 10A;

You might also like