Professional Documents
Culture Documents
Tự động hóa thiết bị bay bơi nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chính:
- Cấp đầy đủ và đều đặn môi chất lỏng cho thiết bị bay hơi
- Bảo vệ thiết bị bay hơi và hệ thống lạnh tránh các chế độ làm việc nguy hiểm hoặc
không kinh tế.
Phương pháp tự động hóa phụ thuộc vào từng loại thiết bị bay hơi và từng loại môi chất
lạnh. Giống như thiết bị ngưng tụ, thiết bị bay hơi được chia làm hai loại chính:
- Bình bay hơi làm lạnh chất lỏng trong đó có loại môi chất lạnh sôi trong ống và loại
môi chất lạnh sôi ngoài ống
- Dàn bay hơi làm lạnh không khí trực tiếp, môi chất lạnh sôi trong ống.
Ngoài ra, đối với bình bay hơi ống chùm, theo mức độ choán chỗ của môi chất lạnh
trong thiết bị bay hơi có thể phân ra loại ngập lỏng và loại không ngập lỏng:
+ Thiết bị bay hơi kiểu ngập lỏng: môi chất lạnh lỏng bao phủ toàn bộ bề mặt trao đổi
nhiệt của thiết bị
+ Thiết bị bay hơi kiểu không ngập lỏng: môi chất lạnh lỏng không bao phủ toàn bộ bề
mặt trao đổi nhiệt của thiết bị mà một phần bề mặt này dùng để quá nhiệt hơi hút về máy
nén.
Đối với các loại dàn bay hơi trực tiếp thì phân ra theo kiểu cấp lỏng từ trên xuống hoặc
cấp lỏng từ dưới lên. Khi cấp lỏng từ dưới lên, hiệu quả trao đổi nhiệt lớn hơn vì diện
tích dàn được phủ lỏng sôi nhiều hơn. Tuy nhiên, khả năng lọt lỏng về máy nén gây ra va
đập thủy lực lại lớn hơn. Ngược lại, cấp lỏng từ trên xuống có hiệu quả trao đổi nhiệt
nhỏ. Phần dưới dàn sử dụng chủ yếu vào việc quá nhiệt hơi hút nên an toàn hơn, lỏng khó
lọt về máy nén.
Theo môi chất lạnh, phân ra hai loại chính là thiết bị bay hơi amoniắc và thiết bị bay hơi
freôn. Các freôn có nhiệt độ hóa hơi nhỏ hơn nhiều lần so với amoniắc, hệ số tỏa nhiệt
cũng nhỏ hơn, do đó với cùng năng suất lạnh, lưu lượng freôn tuần hoàn trong hệ thống
lạnh lớn hơn nhiều lần, bề mặt trao đổi nhiệt cũng phải lớn hơn nên thường có cánh phía
freôn. Hầu hết các freôn hòa tan dầu tạo khả năng tốt hồi dầu về máy nén qua đường hút
nhưng hệ thống amoniắc cần trang bị bình tách dầu và các bầu dầu cho các thiết bị để thu
hồi và trả dầu về bình chứa.
Bảo vệ thiết bị bay hơi gồm 3 công việc chính:
- Bảo vệ thiết bị bay hơi không bị ngập lỏng, gây nguy cơ lọt lỏng về máy nén
- Bảo vệ thiết bị bay hơi không bị đóng băng chất tải lạnh lỏng trong ống trao đổi nhiệt,
gây nguy cơ nổ ống
- Xả băng định kỳ cho các dàn bay hơi làm lạnh không khí bảo đảm quá trình trao đổi
nhiệt hiệu quả
1
5.1. Tự động cấp lỏng cho thiết bị bay hơi
Mức lỏng của thiết bị bay hơi ảnh hưởng rất lớn đến chỉ tiêu năng lượng của máy lạnh.
Phần lớn các thiết bị bay hơi đều có mức lỏng tiêu chuẩn. Thấp hơn hoặc cao hơn mức đó
thì hiệu quả năng lượng sẽ giảm đi vì không sử dụng hết diện tích bề mặt trao đổi nhiệt
hoặc sẽ dẫn tới chế độ làm việc nguy hiểm như nguy cơ lỏng lọt về máy nén,…
Mức chứa lỏng của thiết bị bay hơi được đặc trưng bằng mức sử dụng diện tích bề mặt
trao đổi nhiệt nhưng việc xác định trực tiếp diện tích bề mặt trao đổi nhiệt đó khá khó khăn.
Có ba chỉ tiêu gián tiếp cho việc đánh giá mức độ cấp lỏng cho thiết bị bay hơi là:
- Độ quá nhiệt của hơi ra khỏi thiết bị bay hơi
- Mức lỏng của môi chất
- Áp suất bay hơi
5.1.1. Tự động cấp lỏng theo độ quá nhiệt hơi hút
Điều chỉnh cấp lỏng theo độ quá nhiệt hơi hút hiện nay là phương pháp phổ biến nhất vì
độ quá nhiệt phản ánh đúng độ khô của hơi, đây là một thông số quan trọng để lỏng không
lọt vào máy nén. Tuy nhiên, độ khô của hơi rất khó xác định và hầu như chưa có dụng cụ
nào cấp lỏng dựa trên nguyên tắc này.
Độ quá nhiệt hơi hút càng cao, càng đảm bảo an toàn cho máy nén. Nhược điểm của nó
là hiệu quả trao đổi nhiệt kém.
Năng suất lạnh của thiết bị bay hơi được xác định như sau:
Q0 = K.F.ttb
Giả sử diện tích bề mặt trao đổi nhiệt F = const, chỉ còn hệ số truyền nhiệt phụ thuộc
vào mức lỏng cấp trong thiết bị bay hơi hay độ quá nhiệt hơi hút về máy nén vì mức lỏng
tỷ lệ nghịch với độ quá nhiệt hơi hút. Mức lỏng càng thấp, độ quá nhiệt càng cao và ngược
lại, mức lỏng càng cao thì độ quá nhiệt càng thấp. Hình 5.1 biểu diễn mối quan hệ giữa hệ
số truyền nhiệt của thiết bị bay hơi và độ quá nhiệt hơi hút theo thực nghiệm.
2
5.1.1.1. Tự động cấp lỏng bằng van tiết lưu nhiệt
và nhiệt độ quá nhiệt lại tăng, chu kỳ lặp lại và dao động quanh vị trí đã đặt. Van tiết lưu
nhiệt cân bằng trong chỉ sử dụng cho máy lạnh nhỏ, dàn bay hơi bé, tổn thất áp suất trong
dàn nhỏ. Khi cần giữ áp suất bay hơi và nhiệt độ bay hơi ổn định, đối với các dàn lạnh có
công suất lớn và tổn thất áp suất lớn, người ta phải sử dụng van tiết lưu nhiệt cân bằng
ngoài.
Thực tế, những hệ thống này chỉ làm việc ổn định khi độ quá nhiệt đạt từ 3 5K. Để khắc
phục nhược điểm của van tiết lưu nhiệt, người ta dung đã phát triển nhiều loại van tiết lưu
khác; đặc biệt là van tiết lưu điện tử.
5.1.1.2. Tự động cấp lỏng theo độ quá nhiệt cho bình bay hơi
Hiệu nhiệt độ đầu vào và đầu ra bình bay hơi là tín hiệu đưa về rơ le hiệu nhiệt độ để điều
khiển van điện từ đóng, mở cấp lỏng cho bình bay hơi. Van tiết lưu tay có nhiệm vụ tiết
lưu giảm áp suất môi chất từ áp suất ngưng tụ xuống áp suất bay hơi.
3
Khi hiệu nhiệt độ (hay độ quá nhiệt) giảm,
rơ le hiệu nhiệt độ ngắt mạch van điện từ.
Van đóng không cho môi chất vào bình.
Khi hiệu nhiệt độ tăng, rơ le đóng mạch cho
van điện từ mở cấp lỏng cho bình bay hơi.
Lượng môi chất vào bình cần khống chế để
có lưu lượng lớn hơn lưu lượng hơi được
hút về máy nén. Như vậy, mức lỏng trong
bình bay hơi dao động xung quanh giá trị
đặt trước.
Hình 5.4. Tự động cấp lỏng theo độ quá
nhiệt cho bình bay hơi
xuống dưới giá trị cài đặt thì rơ le mức lỏng phát tín hiệu đưa về van điện từ mở ra cấp
lỏng cho bình bay hơi. Khi mức lỏng trong bình vượt giá trị cho phép thì rơ le mức lỏng
tác động để van điện từ đóng lại ngừng cấp lỏng cho bình bay hơi.
5.1.3. Một số sơ đồ cấp lỏng thường gặp
5.1.3.1. Cấp lỏng cho bình bay hơi môi chất sôi ngoài ống
4
Đối với hệ thống lạnh sử dụng môi chất amoniắc, thường sử dụng phương pháp cấp lỏng
theo mức lỏng bằng điều chỉnh hai vị trí.
Đối với hệ thống lạnh sử dụng môi chất lạnh freôn, thường sử dụng phương pháp cấp
lỏng theo độ quá nhiệt hơi hút sử dụng van tiết lưu điện tử hoặc cấp lỏng theo mức lỏng
bằng điều chỉnh 2 vị trí. Tuy nhiên, sơ đồ cấp lỏng theo độ quá nhiệt hơi hút sử dụng van
tiết lưu điện tử có nhược điểm là việc tái tuần hoàn dầu không ổn định nên ít được sử dụng.
Người ta nghiên cứu lắp thêm một bộ hồi nhiệt và lấy tín hiệu quá nhiệt từ bộ hồi nhiệt để
cải thiện hiệu quả trao đổi nhiệt và hồi dầu về máy nén. Khi bố trí bầu cảm nhiệt trên thiết
bị hồi nhiệt, có thể xê dịch vị trí bầu cảm nhiệt từ trái sang phải hoặc ngược lại để đạt được
độ quá nhiệt trong bình bay hơi bằng 0, vì nhiệt độ bộ hồi nhiệt có nhiệt độ thay đổi phụ
thuộc vào lỏng nóng đến và hơi ở dàn bay hơi ra dọc theo chiều dài thiết bị. Với độ quá
nhiệt bằng 0, bình bay hơi sẽ đạt được hệ số truyền nhiệt lớn nhất và dầu cũng được hồi
lưu tốt hơn. Nhược điểm của sơ đồ này là sự cấp lỏng chịu ảnh hưởng rất lớn của sự thay
đổi phụ tải nhiệt, nhiệt độ ngưng tụ và nhiệt độ bay hơi. Sơ đồ này làm việc hiệu quả đối
với những hệ thống lạnh có chế độ làm việc ổn định.
5.1.3.2. Cấp lỏng cho bình bay hơi môi chất sôi trong ống
5
5.1.3.4. Cấp lỏng cho dàn bay hơi frêon lớn
áp động với 5 ống phân phối lỏng có chiều dài và kích thước bằng nhau để có tổn thất áp
suất giống nhau. Tổn thất áp suất của các dàn bay hơi loại này nằm trong khoảng 1 đến 2
bar. Do đó, ở đây phải sử dụng loại van cân bằng ngoài. Khi chọn van cần phải chọn năng
suất lạnh định mức cao hơn năng suất lạnh cực đại của dàn bay hơi từ 20 30%.
5.1.3.5. Cấp lỏng cho dàn bay hơi amôniắc
5.1.3.6. Cấp lỏng cho nhiều dàn bay hơi nhờ cột lỏng
6
Các dàn lạnh bố trí ở các độ cao giống nhau là tốt nhất. Nếu các dàn bố trí chênh lệch nhau
về độ cao thì dàn dưới cùng sẽ có nhiệt độ sôi cao hơn do áp suất thủy tĩnh của cột lỏng.
Hơn nữa, nếu bố trí nhiều tầng thì vị trí đặt bình tách lỏng sẽ rất cao và gây khó khăn vận
hành và không gian lắp đặt.
5.1.3.7. Cấp lỏng cho nhiều dàn bay hơi nhờ bơm tuần hoàn
Để đạt được mức lỏng như quy định trong bình chứa, cần chọn van tiết lưu tay và van
điện từ có năng suất lạnh lớn hơn phụ tải lớn nhất toàn bộ dàn bay hơi ít nhất từ 20 30%.
Như vậy, khi van điện từ tác động thì lỏng được cấp vào nhiều và mức lỏng nhanh chóng
được phục hồi.
Bình chứa tuần hoàn thường là loại hình trụ đứng nhưng cũng có thể là loại bình hình
trụ nằm ngang. Khống chế mức lỏng, dùng rơ le mức lỏng kiểu phao nhưng về nguyên tắc
có thể sử dụng bất kỳ dụng cụ khống chế mức lỏng nào khác, miễn sao đạt được mục đích
là khống chế được mức lỏng và đảm bảo an toàn cho máy nén không hút phải lỏng.
5.2. Tự động bảo vệ thiết bị bay hơi
5.2.1. Bảo vệ thiết bị bay hơi không bị tràn lỏng
5.2.1.1. Bảo vệ bình bay hơi amôniắc không bị tràn lỏng
7
Tín hiệu của rơ le này một mặt được đưa về Hình 5.12. Bảo vệ bình bay hơi NH3 ống
chuỗi an toàn CAT để ngắt bảo vệ máy nén, vỏ kiểu ngập bằng rơ le mức lỏng
một mặt cho tín hiệu ngắt van điện từ ngừng cấp lỏng cho bình bay hơi. Tín hiệu cho van
điện từ cũng cần được xử lý nhanh chóng và khi máy nén dừng trong bất kỳ tình huống
nào thì van điện từ cũng phải đóng, ngừng cấp lỏng cho bình bay hơi theo kiểu bảo vệ liên
động.
5.2.1.2. Bảo vệ bình bay hơi frêon không bị tràn lỏng
8
5.2.1.4. Bảo vệ nhiều dàn bay hơi amôniắc không bị tràn lỏng
5.2.1.5. Bảo vệ bình bay hơi không bị đóng băng chất tải lạnh
- Nhiệt độ sôi quá thấp so với nhiệt độ đóng băng chất tải lạnh. Thường nhiệt độ sôi tomin
= tb + 5K, tb là nhiệt độ đóng băng chất tải lạnh.
- Chế độ làm việc dao động, nhiệt độ và áp suất bay hơi xuống quá thấp
- Bơm chất tải lạnh bị hỏng, lưu lượng qua bình bay hơi quá ít
- Ống trao đổi nhiệt bị tắc do cáu bẩn hoặc bất kỳ lý do gì.
Phương pháp bảo bệ tốt nhất là khống chế nhiệt độ sôi của môi chất lạnh. Hoặc khống
chế áp suất sôi của môi chất. Trong cả 2 sơ đồ trên, khi rơ le tác động, tín hiệu được đưa
về chuỗi an toàn của hệ thống điều khiển để dừng máy nén hoặc phát tín hiệu báo hiệu
nguy hiểm trước.
Khi bơm chất tải lạnh dừng hoạt động do hỏng hóc cũng có thể dẫn đến nguy cơ đóng
băng. Do đó có thể bổ sung thêm bảo vệ liên động giữa bơm và máy nén, theo đó máy nén
chỉ làm việc khi bơm đã làm việc.