You are on page 1of 17

So sánh chế định giao kết hợp động theo pháp

luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ

Nguyễn Thị Mai Hương

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật kinh tế; Mã số: 60 38 50
Người hướng dẫn: TS. Ngô Huy Cương
Năm bảo vệ: 2010

Abstract: Nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến giao kết hợp đồng, các quy định
của hai nước về các điều kiện và trình tự giao kết hợp đồng và các nội dung khác có
liên quan chặt chẽ đến quá trình giao kết hợp đồng như hình thức và nội dung của hợp
đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Trên cơ sở đánh giá những điểm khác và
tương đồng giữa pháp luật hai nước về chế định này, nhận xét và đưa ra quan điểm
bình luận về tính tiến bộ và khả thi của mỗi quy định khác nhau, kiến nghị hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng.

Keywords: Luật kinh tế; Pháp luật Việt Nam; Pháp luật Hoa Kỳ; Hợp đồng; Hợp tác
quốc tế

Content
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Tác giả nhận thấy các quy định về giao kết hợp đồng là cơ sở quan trọng cho việc hình
thành và phát triển các quan hệ hợp đồng. Trong phạm vi nghiên cứu của chương trình đào
tạo cao học, tác giả chọn đề tài “So sánh chế định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và pháp luật Hoa Kỳ” vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, khi bắt đầu được tìm hiểu các quy định về giao kết hợp đồng trong Bộ luật
dân sự Việt Nam năm 2005, tác giả đã thực sự cảm thấy hứng thú và nghĩ đến việc nghiên cứu
đi sâu tìm hiểu các quy định về giao kết hợp đồng ở Việt Nam.
Thứ hai, sự hiểu biết và kinh nghiệm của tác giả về giao kết hợp đồng ở Việt Nam chưa
vững vàng nhưng trong thực tiễn tác giả thấy hàng ngày, hàng giờ biết bao giao dịch được diễn ra
mà cũng chưa thể hình dung hết được tính phức tạp chúng khi được điều chỉnh theo các quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Thứ ba, việc chọn đề tài “So sánh chế định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và pháp luật Hoa Kỳ” sẽ là cơ hội tốt nhất giúp tác giả nghiên cứu sâu hơn về chế định giao
kết hơp đồng của Việt Nam trên cơ sở đối chiếu, so sánh với pháp luật Hoa Kỳ về các quy
định tương ứng và các quy định khác biệt. Việc tìm hiểu pháp luật Hoa Kỳ sẽ giúp tác giả
hiểu biết sâu sắc hơn về đặc trưng của hệ thống pháp luật của nước này cũng như pháp luật
thông lệ về hợp đồng.
2. Tình hình nghiên cứu về so sánh chế định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam và pháp luật Hoa Kỳ.
Hiện nay, có một số công trình nghiên cứu so sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật
Hoa Kỳ, trong đó có lĩnh vực hợp đồng và có giá trị khoa học trong nghiên cứu và phát triển
luật học, đầu tiên phải kể đến sách tham khảo “Tìm hiểu pháp luật Hoa Kỳ trong điều kiện
Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” do TS Phạm Duy Nghĩa (2001) cùng một số
nhà khoa học khác viết (NXB Chính trị Quốc gia). Ngoài ra, một số luận án, bài viết, một số
sách và giáo trình khi viết về giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam có so sánh với pháp
luật các nước trong đó có Hoa Kỳ, như luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Vũ Hoàng (2008)
với đề tài “Pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân
nước ngoài” hoặc sách “Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” của TS Nguyễn
Ngọc Khánh (2007), NXB Tư pháp, Hà Nội…v.v. Tuy nhiên, với phạm vi so sánh rộng hoặc
chỉ dừng lại ở một số quy định tiêu biểu nên hiện tại chưa có công trình nghiên cứu nào
chuyên sâu về so sánh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về giao kết hợp đồng. Như vậy, để có cái
nhìn tổng quan và chuyên sâu hơn về chế định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam với
pháp luật Hoa Kỳ, tác giả hy vọng rằng bằng công sức đóng góp của mình sẽ giải quyết được
những vấn đề còn bỏ ngỏ trên.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Để có cái nhìn tổng quan và cụ thể hơn về chế định giao kết hợp đồng của pháp luật
Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu so sánh pháp luật của Hoa Kỳ, nhận diện những mặt tiến bộ
và phù hợp của pháp luật Việt Nam để tiếp tục duy trì và phát huy, đồng thời kiến nghị, đề
xuất các điểm mới tiến bộ theo pháp luật Hoa Kỳ và vận dụng một cách phù hợp trong điều
kiện pháp luật Việt Nam hiện nay, tác giả tập trung nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến
giao kết hợp đồng, các quy định của hai nước về các điều kiện và trình tự giao kết hợp đồng
và các nội dung khác có liên quan chặt chẽ đến quá trình giao kết hợp đồng như hình thức và
nội dung của hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, vì lần đầu tiên tác giả
tiếp cận nghiên cứu theo một hướng mới còn khó khăn, trong khi điều kiện về thời gian và
trình độ còn hạn chế, nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập và hạn chế.
Chính vì vậy, tác giả rất mong nhận được mọi ý kiến phê bình và đóng góp của các chuyên
gia.
Trân trọng cảm ơn!

CHƢƠNG 1: NHữNG VấN Đề CHUNG Về GIAO KếT


HợP ĐồNG THEO PHáP LUậT VIệT NAM
Và PHáP LUậT HOA Kỳ

2
1.1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
Pháp luật hợp đồng Việt Nam trải qua các thời kỳ hình thành và phát triển với các
quan điểm và khái niệm khác nhau về hợp đồng. Khái niệm hợp đồng theo Bộ luật dân sự
năm 1995, được quy định tại Điều 395 theo đó: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sư”. Khái niệm này vẫn
được giữ nguyên theo Bộ luật dân sự năm 2005, nhưng mang một ý nghĩa bao quát cho tất cả
các loại hợp đồng trong lĩnh vực đời sống sinh hoạt, kinh doanh, thương mại và lao động,
theo đó khái niệm “hợp đồng kinh tế” không còn tồn tại nữa. Khái niệm hợp đồng theo pháp
luật hiện hành đã thể hiện đầy đủ hơn bản chất của hợp đồng, đó là sự thoả thuận giữa các bên
mà sự thoả thuận đó làm phát sinh quan hệ giữa các bên trong hợp đồng.
1.1.2. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ.
Thuật ngữ hợp đồng (contract) được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau theo pháp luật
Hoa Kỳ thể hiện nguồn gốc thông luật (commom law) được du nhập từ nước Anh. Nhìn
chung, hợp đồng là một hoặt nhiều lời hứa mà việc thực hiện những lời hứa đó luật pháp quy
định thừa nhận như là những nghĩa vụ, nếu vi phạm thì pháp luật sẽ có những chế tài nhất
định. Bản chất của hợp đồng là sự thoả thuận hay lời hứa có hiệu lực bắt buộc. Sự thoả thuận
hay lời hứa có thể làm hoặc không làm một hoặc một số hành vi nhất định. Tuy nhiên, không
phải tất cả các lời hứa và sự thoả thuận đều là hợp đồng. Lời hứa hay sự thoả thuận là hợp
đồng chỉ khi pháp luật chấp nhận có hiệu lực.
Như vậy, về bản chất, khái niệm hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ về cơ bản không
khác so với khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam khi thừa nhận sự thoả thuận của các
bên trong hợp đồng và quy định chỉ khi những thoả thuận đó có hiệu lực bắt buộc thì mới coi
là hợp đồng. Nhưng về thuật ngữ thì pháp luật Việt Nam có dùng cụm từ “hợp đồng dân sự”,
còn pháp luật Hoa Kỳ cũng như nhiều nước khác trên thế giới dùng thuật ngữ “hợp đồng”
(contract). Thêm vào đó, hợp đồng của Hoa Kỳ mang đặc điểm chung của hệ thống luật
thông lệ, trong khi quan điểm hợp đồng của luật Việt Nam mang đặc điểm của hệ thống
dân luật, nên trong một số trường hợp, theo pháp luật nước này là hợp đồng mà pháp
luật nước kia không được coi là hợp đồng.
1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ.
Giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và giao kết hợp đồng theo pháp luật Hoa
Kỳ bao gồm tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh quá trình thiết lập quan hệ hợp đồng
giữa các bên chủ thể, là quá trình các bên thoả thuận với nhau để xác lập quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên.

3
1.3. Pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa
Kỳ.

1.3.1. So sánh chung về pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam và theo pháp luật Hoa Kỳ.
Sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về luật hợp đồng mang tính hệ thống và
thể hiện mối liên hệ giữa luật chung - Bộ luật dân sự và luật chuyên ngành – các luật và
nghị định có liên quan. Với pháp luật Hoa Kỳ, sự điều chỉnh của nó thể hiện mối quan
hệ giữa pháp luật liên bang và bang. Tuy nhiên, không giống như pháp luật Việt Nam là
hệ thống pháp luật thực định thì nguồn của pháp luật Hoa Kỳ chủ yếu là án lệ. Nhìn
chung, pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật
Hoa Kỳ mang tính linh hoạt và phong phú đa dạng nhưng thể hiện đặc trưng riêng theo
pháp luật mỗi nước. Để thấy được sự so sánh tổng quát như trên, dưới đây là phần trình
bày các quy định của pháp luật Hai nước về giao kết hợp đồng.

1.3.2. Pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam.
1.3.1.1. Bộ luật dân sự năm 2005.
Bộ luật dân sự năm 2005 được thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 mang tính điều chỉnh
chung cho các quan hệ hợp đồng trong giai đoạn giao kết.
1.3.1.2. Các luật chuyên ngành.
Các luật chuyên ngành quy định việc giao kết hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể dựa
trên cơ sở luật gốc là Bộ luật dân sự. Mỗi lĩnh vực tương ứng với luật điều chỉnh riêng, có thể
kể đến như Luật thương mại, Luật đầu tư năm 2005; Luật đất đai năm 2003; Luật doanh
nghiệp năm 2005; Luật giao dịch điện tử năm 2005; Luật kinh doanh bảo hiểm 2000; Luật
xây dựng; Luật nhà ở; Luật giao dịch bảo đảm; Luật chứng khoán; Luật đấu thầu…v.v. và
toàn bộ hệ thống các văn bản dưới luật trong lĩnh vực có liên quan.
1.3.1.3. Mối quan hệ giữa Bộ luật dân sự và các luật chuyên ngành.
Giữa Bộ luật dân sự và các luật chuyên ngành có mối liên hệ gắn bó nhau thể hiện ở
chỗ bổ sung cho nhau. Bộ luật dân sự có vai trò là bộ luật gốc, còn luật chuyên ngành có quy
định điều chỉnh về các trường hợp cụ thể. Nếu luật chuyên ngành không có quy định thì áp
dụng Bộ luật dân sự.
1.3.3. Pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ.
1.3.2.1. Tuyển tập về luật hợp đồng (Restatements of contracts).
Tuyển tập luật hợp đồng là một trong những công trình của Viện nghiên cứu luật Hoa
Kỳ quan tâm nhiều đến các nguyên tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng cũng như vấn đề hiệu
lực của hợp đồng. Những nội dung chính liên quan đến giao kết hợp đồng được thể hiện trong
tuyển tập như chế định về lời hứa, đề nghị và chấp nhận đề nghị, hiệu lực của hợp đồng... tuy
không mang giá trị như các quy định của pháp luật thành văn tại các nước theo hệ thống dân

4
luật nhưng lại có thể được trích dẫn trong các quy định của toà án, là cơ sở để tìm ra những
quyết định quan trọng trong những vụ việc tương tự.
1.3.2.2. Bộ luật thƣơng mại chuẩn thống nhất Hoa Kỳ.
Bộ luật thương mại chuẩn thống nhất Hoa Kỳ là tuyển tập các án lệ điều chỉnh những
vấn đề liên quan đến hoạt động thương mại, mua bán và cho thuê hàng hoá. Bộ luật chia
thành 11 điều, trong đó tập trung về điều chỉnh giao kết hợp đồng tại Điều 1 (những quy định
chung) và Điều 2 (mua bán hàng hoá).
CHƢƠNG 2 : THOả THUậN Và CáC THàNH Tố CủA THOả THUậN THEO PHáP
LUậT VIệT NAM
Và PHáP LUậT HOA Kỳ

2.1. Khái niệm về sự thoả thuận theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ.
Pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ đều thừa nhận thoả thuận là yếu tố cơ bản
của hợp đồng, thể hiện bản chất của hợp đồng, qua đó thể hiện sự thống nhất ý chí của các
bên. Về cơ bản, những yêu cầu của thoả thuận làm phát sinh hiệu lực hợp đồng theo pháp
luật hai nước cũng có nhiều quan điểm tương đồng nhau. Quan điểm về sự thoả thuận chính
vì vậy mà có thể phân biệt được với hợp đồng. Thoả thuận không đồng nghĩa với hợp đồng,
nhưng hợp đồng thì đương nhiên là thoả thuận, vì hợp đồng bao hàm sự thoả thuận. Sự thoả
thuận chỉ được coi là hợp đồng nếu nó có đầy đủ những yếu tố cơ bản của hợp đồng.
2.2. Các thành tố của sự thoả thuận.
2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng.
2.2.1.1. khái niệm, bản chất đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và pháp luật Hoa Kỳ.
Bản chất của khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp luật hai nước Việt Nam
và Hoa Kỳ đều khẳng định là hành vi pháp lý đơn phương thể hiện ý định giao kết hợp đồng
của bên đề nghị với bên được đề nghị.
2.2.1.2. Điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng.
Pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam có điểm chung về điều kiện để coi một
trường hợp là đề nghị giao kết hợp như ý định giao kết hợp đồng rõ ràng, đề nghị có tính xác
định và được truyền đạt tới bên được đề nghị một cách cụ thể. Tuy nhiên, mỗi điều kiện có
một số nội dung không hoàn toàn giống nhau. Với các điều kiện đó theo pháp luật hai nước
đều có thể dễ dàng thấy sự phân biệt giữa đề nghị giao kết hợp đồng với các hành vi mang
tính chất là lời mời giao kết như bày bán hàng hoá để bán, bán đấu giá, mời thầu, quảng cáo,
trưng bày, thông báo phát hành trái phiếu, cổ phiếu…v.v.
2.2.1.3. Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng.
Thời điểm bắt đầu hiệu lực của đề nghị.

5
Tương tự quy định về thời điểm bắt đầu có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng
theo pháp luật Việt Nam, pháp luật Hoa Kỳ cũng quy định thời điểm hiệu lực của đề nghị
giao kết hợp đồng được xác định từ thời điểm đề nghị được gửi tới người nhận. Đề nghị
không thể có hiệu lực trước khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Ngoài ra, hiệu lực
của đề nghị có thể theo sự thoả thuận của các bên.
Thời điểm hết hiệu lực của đề nghị.
Vấn đề hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ liên quan đến
quyền được tự do rút lại hoặc huỷ bỏ đề nghị giao kết đồng trước khi đề nghị được chấp
nhận. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam lại hạn chế quyền này của bên đề nghị. Những
trường hợp khác dẫn tới mất hiệu lực của đề nghị theo pháp luật Hoa Kỳ như đối tượng
chính liên quan đến đề nghị giao kết hợp đồng không còn, nội dung đề nghị phạm pháp, bên
đề nghị chết hoặc mất năng lực hành vi trước khi đề nghị được chấp nhận trừ trường hợp
đồng với hợp đồng tuỳ chọn (option contract).
2.2.2 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
2.2.2.1 khái niệm, bản chất của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Khái niệm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp
luật Hoa Kỳ đều có cùng bản chất, phản ánh ý chí chủ quan của bên được đề nghị nhất trí
với toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng. Cũng giống như đề nghị giao kết hợp
đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi pháp lý đơn phương nhưng nó là sự
đáp lại của bên được đề nghị với bên đề nghị về chấp nhận giao kết hợp đồng.
2.2.2.2. Điều kiện của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Pháp luật Việt nam và pháp luật Hoa Kỳ về cơ bản có điểm chung về yêu cầu đối
với chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đó là chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị và thông
báo trả lời chấp nhận được gửi đi đúng thời hạn trả lời nhưng xuất phát từ điều kiện khác
nhau của mỗi nước mà có sự quy định cụ thể khác nhau. Pháp luật Hoa Kỳ có khái
niệm“counter offer” có ý nghĩa không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mà
là một cách huỷ bỏ đề nghị. pháp luật Hoa Kỳ không có ngoại lệ nào cho việc thông báo đến
muộn để được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng như pháp luật Việt Nam đã quy
định. Pháp luật Hoa Kỳ quy định khác nhau giữa hợp đồng song vụ và đơn vụ về hình thức
thể hiện chấp nhận đề nghị. Theo pháp luật Việt Nam, ở một vài khía cạnh cũng gián tiếp có
một số quy định tương tự. Pháp luật hai nước đều không thừa nhận sự im lặng là chấp nhận
giao kết hợp đồng trừ khi hai bên có thoả thuận sự im lặng là chấp nhận giao kết hợp đồng.
2.2.2.3. Hiệu lực của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Thời điểm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng hiệu lực.

6
Pháp luật Việt Nam quy định chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ
thời điểm bên đề nghị nhận được thông báo chấp nhận đề nghị trong khi đó pháp luật Hoa Kỳ
lại có quy định thời điểm có hiệu lực của trả lời chấp nhận đề nghị theo đó thông báo trả lời
chấp nhận đề nghị được coi là có hiệu lực kể từ thời điểm thông báo đó được gửi đi (mail box
rule).Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc này theo pháp luật Hoa Kỳ cũng có một số hạn chế

Trường hợp các bên trao đổi trực tiếp với nhau bằng lời nói thì hiệu lực của chấp
nhận đề nghị theo pháp luật Hoa Kỳ được xác định từ thời điểm bên đề nghị nghe được
thông báo chấp nhận đề nghị, trong khi đó, pháp luật Việt Nam xác định từ thời điểm bên đã
thoả thuận về nội dung của hợp đồng.

Rút thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Pháp luật Việt Nam cho phép bên được đề nghị được quyền rút thông báo trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng trước khi nó có hiệu lực, còn pháp luật Hoa Kỳ chưa bao giờ
đặt ra vấn đề rút thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng một khi nó đã được gửi đi.

CHƢƠNG 3: HìNH THứC Và NộI DUNG CủA HợP ĐồNG THEO PHáP LUậT VIệT
NAM
Và PHáP LUậT HOA Kỳ.
3.1. Hình thức hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ.
3.1.1. Những vẫn đề chung về hình thức hợp đồng.
Hình thức hợp đồng là sự thể hiện ra bên ngoài sự thoả thuận của các bên trong việc
làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Hình thức được thể hiện dưới dạng lời
nói (hay còn gọi là hợp đồng miệng), hình thức bằng văn bản và hình thức được thể hiện bằng
hành vi cụ thể.
3.1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ về hình thức
hợp đồng.
Nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ là khi pháp luật không
quy định hợp đồng phải giao kết bằng một hình thức nhất định thì hợp đồng có thể được giao
kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ quy định hình thức văn bản được áp dụng với
hợp đồng liên quan đến bất động sản, hoặc do tính chất đặc thù của một số loại hợp đồng trong
dân sự, thương mại.
Luật hợp đồng Hoa Kỳ chấp nhận hợp đồng chỉ cần có chữ ký của một bên có nghĩa
vụ thì hợp đồng đó vẫn có giá trị pháp lý. Còn pháp luật Việt Nam quy định rõ hợp đồng bằng
văn bản phải có chữ ký của hai bên mới được coi là đã giao kết.

7
Đối với hợp đồng điện tử, pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ đều thừa nhận
hình thức pháp lý của hợp đồng này có giá trị như hợp đồng bằng văn bản, do vậy, ngoài
những quy định riêng biệt do tính đặc thù của loại hợp đồng điện tử thì các quy định khác đối
với hợp đồng văn bản truyền thống cũng được áp dụng đối với hợp đồng điện tử.
Về giá trị pháp lý của hình thức hợp đồng. Pháp luật Việt Nam quy định trong các
trường hợp hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nên nếu các bên không
tuân thủ hình thức về hợp đồng thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu. Pháp luật Hoa Kỳ cũng thừa nhận
hình thức văn bản của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong một số trường
hợp nhưng cách xử lý hợp đồng vô hiệu khác với pháp luật Việt Nam.
3.2. Nội dung của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ.
Tương tự như pháp luật Việt Nam, pháp luật Hoa Kỳ cũng không quy định cụ thể nội
dung bắt buộc phải có trong hợp đồng, do đó các bên được tự do thoả thuận những cũng phải
đảm bảo tính hợp pháp. Nhưng hệ thống luật thông lệ cũng như pháp luật Hoa Kỳ vì ít những
điều khoản tuỳ nghi, nên nội dung của hợp đồng phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên khi
giao kết hợp đồng. Trong khi đó, theo pháp luật Việt Nam, nếu các bên không thoả thuận
hoặc thoả thuận không rõ ràng thì những điều khoản tương ứng được quy định trong luật thực
định được áp dụng.
Quy định về hợp đồng mẫu, pháp luật hai nước có một số điểm quy định tương đối
giống nhau nhằm hạn chế quyền củan bên chủ động đưa ra điều khoản giao kết bất lợi cho
bên kia do vị thế bất bình đẳng giữa các bên. Trong việc giải thích, xác định nội dung các điều
khoản của hợp đồng, về nguyên tắc chung, pháp luật hai nước dựa vào ý chí chung của hai
bên để giải thích hợp đồng.

CHƢƠNG 4: ĐIềU KIệN Có HIệU LựC CủA HợP ĐồNG.

4.1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
4.1.1. Điều kiện về chủ thể.
Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự. Trường hợp
người tham gia giao dịch là cá nhân, thì bản thân người đó phải có năng lực hành vi dân sự
tức là người có khả năng bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người từ đủ mười tám tuổi trở lên, tức là người
thành niên theo quy định của pháp luật Việt Nam. Năng lực hành vi dân sự của người chưa
thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Chủ thể này tuy được coi là có năng lực
hành vi dân sự nhưng không đầy đủ mà chỉ một phần. Trường hợp người tham gia hợp đồng
là pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình khi thực hiện quan hệ giao kết hợp đồng phải t hông qua
một cá nhân cụ thể với tư cách đại diện cho tổ chức đó. Việc đại diện có thể đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo uỷ quyền.

8
4.1.2. Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng.
Để bảo vệ trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác cũng như
đảm bảo sự an toàn pháp lý trong giao dịch dân sự, pháp luật Việt Nam quy định điều kiện
trên xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng là tự do giao kết hợp đồng nhưng
không được trái đạo đức, pháp luật.
Pháp luật Việt Nam quy định mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều
cấm của pháp luật tức là không vi phạm những quy định của pháp luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các chủ thể được
làm những điều mà pháp luật không cấm.
4.1.3. Điều kiện về sự tự nguyện của người tham gia hợp đồng.
Điều kiện này xuất phát từ nguyên tắc “tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung
thực và ngay thẳng’’ trong pháp luật về giao kết hợp đồng của Việt Nam. Các trường hợp hợp
đồng được xác lập do giả tạo, nhầm lẫn, do bị lừa dối, đe doạ hoặc trong tình trạng chủ thể bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự đều bị vô hiệu.
4.1.4. Điều kiện về hình thức.
Hình thức của hợp đồng chỉ được coi là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong
trường hợp pháp luật có quy định. Nhưng với các quy định hiện hành về hình thức của hợp
đồng còn có nhiều cách hiểu khác nhau về điều kiện hình thức của hợp đồng.
Theo một số quan điểm về quy định tại đoạn cuối khoản 2, Điều 401, Bộ luật dân sự
hợp đồng vi phạm về hình thức mà hình thức đó là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng sẽ
chưa có giá trị pháp lý nhưng không thể bị coi vô hiệu ngay, việc hợp đồng chưa có giá trị
pháp lý không có nghĩa là hợp đồng vô hiệu. . Hợp đồng vi phạm về hình thức chỉ vô hiệu nếu
sau đó khi một hoặc các bên không thực hiện đúng quy định về hình thức của hợp đồng trong
một thời hạn theo quyết định của toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền. Như vậy, các bên có thể
khắc phục lỗi hình thức của hợp đồng để làm cho hợp đồng có giá trị pháp lý nếu yêu cầu toà
án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp.
Tuy nhiên, theo một quan điểm khác khi lý giải về khoản 2, Điều 410 đó là việc một hợp
đồng khi vi phạm quy định về hình thức mà pháp luật quy định, hợp đồng này không bị vô hiệu, nó
vẫn có giá trị đối với các bên trong hợp đồng, trừ trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng này vô
hiệu. Nhưng, vấn đề để ngỏ là chưa xác định những trường hợp pháp luật có quy định khác là
những trường hợp nào.
4.2. Điều kiện có hiệu lực theo pháp luật Hoa Kỳ.
4.2.1. Thoả thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng (Đề nghị và chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng).
Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là một yếu tố
không thể thiếu của hợp đồng và được coi là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp
luật Hoa Kỳ. Như vậy, cần sự tồn tại của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng với những điều kiện của nó mới đảm bảo có sự tồn tại của hợp đồng.

9
4.2.2. Năng lực chủ thể giao kết hợp đồng.
4.2.2.1. Tuổi chịu trách nhiệm pháp lý và vấn đề năng lực hợp đồng của ngƣời
chƣa thành niên.
Để phù hợp với Hiến Pháp liên bang Hoa Kỳ, các bang đều ban hành các luật mới quy
định độ tuổi của người thành niên là dưới mười tám tuổi. Tuy nhiên, vẫn tồn tại sự khác nhau
giữa các bang về yêu cầu độ tuổi của người thành niên để tham gia các giao dịch thuộc một số
lĩnh vực như liên quan tới việc sử dụng đồ uống có cồn và hoạt động điều khiển phương tiện
mô tô.
4.2.2.2. Hợp đồng giao kết với ngƣời bị mất hoặc hạn chế nhận thức.
Hợp đồng do người bị mất khả năng nhận thức tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ mất
khả năng nhận thức hoặc có bị tuyên bố là mất trí hay không mà toà án tuyên là vô hiệu.
Trong trường hợp có căn cứ cho rằng một bên đã lợi dụng tình trạng say xỉn hoặc tình trạng
hạn chế khả năng nhận thức của người khác thì sẽ bị từ chối trả lại lợi ích đối ứng. Đối với
người bị tuyên bố là mất hoàn toàn khả năng nhận thức thì họ không có năng lực giao kết hợp
đồng. Do đó, bất kỳ một hợp đồng nào do họ giao kết đều vô hiệu.
4.2.3. Thống nhất ý chí giữa các bên.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, những trường hợp hợp đồng được giao kết thể hiện sự vi
phạm nguyên tắc thống nhất ý chí như hợp đồng giao kết do có sự lừa dối, gian lận; do nhầm
lẫn, hiểu lầm, do có sự ép buộc hoặc lạm dụng ảnh hưởng. Những hợp đồng này có thể bị coi
là hợp đồng vô hiệu.
4.2.4. Nghĩa vụ đối ứng (consideration).
Nghĩa vụ đối ứng hay còn gọi là nghĩa vụ đền bù hoặc cân nhắc lợi ích (consideration)
là một khái niệm đóng vai trò quan trọng trong luật hợp đồng thể hiện đặc trưng của truyền
thống luật thông lệ để nói tới một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, là sự trả giá của bên
được hứa để đổi lấy lời hứa của bên đưa ra lời hứa mà sự trả giá đó có thể là sự có lợi cho bên
đưa ra lời hứa hoặc bất lợi cho bên được hứa. Quan điểm này gắn liền với thuyết mặc cả
(bargain theory). Yêu cầu của nghĩa vụ đối ứng là phải được đưa ra trong quá trình mặc cả,
phụ thuộc vào lời hứa được nhận; liên quan đến một cái gì đó có giá trị nhưng không đòi hỏi
phải tương đương với giá trị có được từ lời hứa; nghĩa vụ đối ứng phải hợp pháp.
Sự tồn tại của nghĩa vụ đối ứng đã phủ nhận quan hệ tặng cho tài sản không phải là
quan hệ hợp đồng theo hệ thống thông luật trong khi ở các nước theo hệ thống dân luật đây lại
là quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, nguyên tắc nghĩa vụ đối ứng không có giá trị áp dụng một
cách tuyệt đối trong mọi trường hợp. Pháp luật Hoa Kỳ cũng có những ngoại lệ cho những
thoả thuận không có nghĩa vụ đối ứng nhưng thoả thuận vẫn có hiệu lực.
4.2.5. Tính hợp pháp của hợp đồng.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, tính hợp pháp của hợp đồng được xác định dựa trên nội dung,
mục đích của hợp đồng và được coi là điều kiện cơ bản để hợp đồng có hiệu lực. Những hợp
đồng được xác lập với mục đích và nội dung bất hợp pháp sẽ không đảm bảo hiệu lực của hợp
đồng. Những hợp đồng bất hợp pháp được xác định bao gồm:

10
- Hợp đồng tham gia các hoạt động bất hợp pháp như hoạt động tội phạm hoặc gây
thiệt hại cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
- Hợp đồng bất hợp pháp khác theo quy định của pháp luật: Hợp đồng trả giá cao, hợp
đồng cá cược, hợp đồng liên quan đến hoạt động không có giấy phép, hợp đồng trái đạo đức
và hợp đồng ngày chủ nhật (thực hiện vào ngày chủ nhật).
Tính trái đạo đức xã hội trong hợp đồng thể hiện một quan hệ hợp đồng giữa hai hoặc
nhiều bên không cân bằng hoặc có một bên yếu thế trong quá trình đàm phán hoặc mặc cả nên
đã cam kết hợp đồng hoặc một số điều khoản không thoả đáng, thiếu lương tâm.
- Những thoả thuận trái với chính sách công cộng bao gồm thoả thuận gây cản trở sự
công bằng (Obstruct justice); thoả thuận cản trở dịch vụ công cộng; thoả thuận lừa dối trong
hoạt động tín dụng; thoả thuận trốn tránh nghĩa vụ pháp lý; thoả thuận kiềm chế thương
mại;…v.v.
4.2.6. Điều kiện về hình thức.
Đặc điểm nổi bật của việc đòi hỏi hình thức hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ được thể
hiện ở chỗ nhằm hướng tới vấn đề chứng cứ hơn là hiệu lực hợp đồng. Theo đó, sự vi phạm
về hình thức là cơ sở để toà án từ chối giải quyết khi một hoặc các bên yêu cầu. Hình thức thể
hiện bằng văn bản có giá trị là chứng cứ để chứng minh cho sự giao kết và tồn tại hợp đồng
giữa các bên. Như vậy, trong trường hợp các bên không có hợp đồng bằng văn bản thì sẽ
không có cơ sở để chứng minh quan hệ hợp đồng và do đó sẽ không thể yêu cầu toà án giải
quyết. Các bên sẽ tự giải quyết với nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, toà án một số
bang sẽ xem xét hiệu lực của hợp đồng để bắt buộc thi hành.
4.3. Nhận xét điều kiện hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp
luật Hoa Kỳ.
4.3.1. Quy định về điều kiện chủ thể.
Pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ đều có quy định độ tuổi từ 18 tuổi trở lên đối với một
cá nhân để có năng lực chủ thể giao kết hợp đồng. Ngoài ra, theo pháp luật Hoa Kỳ trong một
số trường hợp thuộc một số lĩnh vực nhất định độ tuổi có quy định khác như sử dụng đồ rượu
hay chất kích thích có cồn hoặc điều khiển phương tiện mô phải từ hai mươi mốt tuổi là một
điểm khác biệt so với pháp luật Việt Nam.
Pháp luật Việt Nam và Hoa Kỳ đều cho phép người dưới mười tám tuổi được giao kết
những hợp đồng mà nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cần thiết hàng ngày phù hợp với lứa
tuổi. Nhưng điểm khác biệt là trong một số trường hợp hợp đồng người chưa thành niên theo
pháp luật Hoa Kỳ giao kết vẫn có hiệu lực trong khi pháp luật Việt Nam không có quy định
này, ví dụ như giao kết hợp đồng vì lợi ích công cộng.
Với người mất năng lực hành vi dân sự theo pháp luật Việt Nam và theo pháp luật Hoa
Kỳ thì mọi giao dịch do họ tham gia đều không có hiệu lực pháp lý.

11
4.3.2. Điều kiện về nội dung và mục đích của hợp đồng
Pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ đều yêu cầu mục đích và nội dung của hợp
đồng phải hợp pháp, không trái với đạo đức xã hội mặc dù quan niệm cụ thể về tính hợp pháp
và đạo đức mỗi nước không giống nhau. Bên cạnh đó, pháp luật Hoa Kỳ lại xác định cụ thể
nhiều loại hợp đồng vô hiệu do xâm phạm lợi ích công cộng hoặc do yêu cầu thực hiện vào
ngày chủ nhật trong khi pháp luật Việt Nam không có quy định này.
4.3.3. Điều kiện về sự tự nguyện theo pháp luật Việt Nam và sự thống nhất ý chí
theo pháp luật Hoa Kỳ.
Pháp luật hai quốc gia đều coi sự lừa dối, gian lận, sự nhầm lẫn, hiểu lầm, sự ép buộc,
đe doạ là sự vi phạm thống nhất ý chí giữa các bên trong hợp đồng. Hậu quả pháp lý do vi
phạm điều kiện trên giữa hai nước quy định về cơ bản là không thừa nhận giá trị pháp lý của
hợp đồng. Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có quy định khác nhau, như trường hợp
hai bên giao kết mà trong đó có ít nhất một bên nhầm lẫn thì theo pháp luật Việt Nam hợp
đồng đó sẽ vô hiệu. Với pháp luật Hoa Kỳ không phải lúc nào có sự nhầm lẫn đều dẫn đến
hợp đồng vô hiệu. Do có sự phân biệt giữa sự nhầm lần của một bên và nhầm lẫn hai bên, nên
theo pháp luật Hoa Kỳ, hợp đồng có sự nhầm lẫn của một bên ít khi bị tuyên vô hiệu, còn hợp
đồng hai bên nhầm lẫn thường bị tuyên vô hiệu do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp
đồng. Pháp luật Hoa Kỳ còn quy định trong trường hợp lạm dụng ảnh hưởng là sự vi phạm
điều kiện thống nhất ý chí giữa các bên trong giao kết hợp đồng. Trong khi đó, pháp luật Việt
Nam chưa đề cập đến trường hợp này.
4.3.4. Điều kiện về hình thức.
Pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ đều quy định một số loại hợp đồng phải
được lập bằng một hình thức nhất định để đảm bảo hợp đồng có hiệu lực. Tuy nhiên, tư duy
pháp lý về hình thức hợp đồng giữa hai nước có điểm khác nhau như quy định về yêu cầu chữ
ký của các bên trong hợp đồng, pháp luật Hoa Kỳ không yêu cầu bắt buộc phải có chữ ký của
hai bên mới coi là hợp đồng được giao kết trong khi pháp luật Việt Nam lại quy định rõ hợp
đồng bằng văn bản phải có chữ ký của bên mới được coi là đã giao kết. Về hậu quả pháp lý
của hợp đồng do vi phạm về hình thức theo pháp luật Việt Nam, sự vi phạm hình thức dẫn
đến hợp đồng vô hiệu và do vậy coi như hợp đồng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập, nhưng theo pháp luật Hoa Kỳ,
ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, hợp đồng bằng văn bản mang ý nghĩa là chứng cứ hơn
là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
4.3.5. Điều kiện về nghĩa vụ đối ứng, đề nghị và chấp nhận đề nghị theo pháp luật
Hoa Kỳ.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, nghĩa vụ đối ứng là điều kiện đặc trưng để có hiệu lực của
hợp đồng trong khi pháp luật Việt Nam cũng như các nước theo hệ thống dân luật không tồn
tại khái niệm này. Điều này xuất phát từ quan điểm, tư tưởng rất khác nhau giữa hai hệ thống
pháp luật. Cũng chính vì vậy mà trong nhiều trường hợp theo pháp luật Việt Nam được ghi
nhận là hợp đồng nhưng theo pháp luật Hoa Kỳ thì không coi là hợp đồng, ví dụ như hợp
đồng tặng cho.

12
Bên cạnh đó, quy định về điều kiện nghĩa vụ đối ứng cũng tạo ra một số hợp đồng mà
ở Việt Nam không thừa nhận là hợp đồng, ví dụ như hợp đồng tiền hôn nhân. Đó là thoả
thuận trước khi hai bên nam nữ kết hôn về những nghĩa vụ đền bù trong thời kỳ hôn nhân mà
luật về hôn nhân không quy định.
Trong khoa học pháp lý về hợp đồng của Việt Nam không đặt ra vấn đề điều kiện về
đề nghị và chấp nhận đề nghị để hợp đồng có hiệu lực mà vấn đề này được nhìn nhận dưới
góc độ của quá trình giao kết hợp đồng hình thành sự thoả thuận giữa các bên. Còn đối với
pháp luật Hoa Kỳ, đề nghị và chấp nhận đề nghị vừa là yếu tố của hợp đồng vừa là điều kiện
của hợp đồng.
CHƢƠNG 5: NHữNG KIếN NGHị RúT RA Từ NGHIÊN CứU SO SáNH CHế ĐịNH
GIAO KếT HợP ĐồNG THEO PHáP LUậT VIệT NAM Và PHáP LUậT HOA Kỳ.

5.1. Kiến nghị về khái niệm “hợp đồng dân sự” trong Bộ luật dân sự năm 2005.
Tác giả đồng ý với quan điểm đề xuất của một số chuyên gia khác về việc sửa đổi
thuật ngữ “hợp đồng dân sự” thành “hợp đồng” trong lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự đợt
tới vì bản chất pháp lý của thuật ngữ “hợp đồng dân sự” theo Điều 388, Bộ luật dân sự năm
2005 là hợp đồng bao quát các loại hợp đồng mang tính chất “dân sự”. Hơn nữa, thực tế do
quan niệm truyền thống về sự phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế, nên trong tư
duy nhận thức của nhiều người vẫn chưa thể hình dung hết được ý nghĩa thực sự của một khái
niệm “hợp đồng” nói chung trong dân sự nếu nó được diễn đạt bằng thuật ngữ “hợp đồng dân
sự”. Kham thảo luật hợp đồng các nước trên thế giới, trong đó có pháp luật Hoa Kỳ cho thấy
thuật ngữ “hợp đồng” được dùng để ám chỉ hợp đồng trong các lĩnh vực dân sự. Chính vì vậy,
việc dùng cụm từ “dân sự” đi kèm theo hợp đồng để nói tới hợp đồng nói chung là không cần
thiết, thậm chí tạo ra nhận thức sai cho nhiều người tham gia vào quan hệ hợp đồng.
5.2. Kiến nghị về hình thức của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự Việt
Nam và hiệu lực của hợp đồng dân sự do có vi phạm về hình thức.
Tác giả kiến nghị hoàn thiện quy định về hình thức hợp đồng theo hướng: một mặt
thừa nhận quyền tự do hình thức của các bên trong giao dịch, mặt khác nhằm siết chặt trật tự
pháp lý, đảm bảo an toàn trong giao dịch giữa các bên cũng như đảm bảo lợi ích của nhà
nước, lợi ích công cộng trong mối hài hoà với lợi ích của cá nhân, tổ chức. Theo đó, cần quy
định rõ trong luật thực định những quy định về hình thức của hợp đồng liên quan đến bất
động sản cần phải là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
5.3. Kiến nghị về quy định thời điểm giao kết hợp đồng dân sự và hiệu lực của hợp
đồng dân sự.
Kiến nghị quy định về thời điểm giao kết hợp đồng dân sự theo quy định của Bộ luật
dân sự Việt Nam theo hướng loại bỏ quy định tại khoản 4, Điều 404, Bộ luật dân sự để cho
phù hợp và tránh xảy ra những bất cập trong thực tiễn về việc xác định thời điểm giao kết của
hợp đồng. Theo hướng đó, chỉ cần áp dụng quy định chung về thời điểm giao kết hợp đồng
theo quy định tại khoản 1, Điều 404, Bộ luật dân sự.

13
5.4. Kiến nghị về rút, huỷ bỏ đề nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị.
Kiến nghị xem xét lại quy định này trên cơ sở tham khảo quy định của Hoa Kỳ để đảm
bảo quyền tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng, tránh gây những thiệt hại mà bên đề nghị
có thể dự phòng được. Có lẽ quy định của pháp luật Hoa Kỳ về quyền tự do rút đề nghị sẽ là
quy định phù hợp hơn với thực tiễn, có tính khả thi cao và có thể vận dụng vào pháp luật hợp
đồng ở Việt Nam cho lần sửa đổi tới của Bộ luật dân sự về giao kết hợp đồng.
5.5. Kiến nghị về các trường hợp chấm dứt hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng.
Để tăng thêm tính khả thi và phù hợp của quy định về chấm dứt hiệu lực của đề nghị
giao kết hợp đồng, cần thiết có sự điều chỉnh và bổ sung một trường hợp tại Điều 394 là
“những trường hợp khác theo quy định của pháp luật”.
5.6. Kiến nghị quy định về sửa đổi đề nghị do bên được đề nghị đề xuất.
Để đảm bảo về ý nghĩa điều kiện chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, theo tác giả,
Điều 395 sẽ rõ ràng và rứt khoát hơn nếu như được quy định là “trong trường hợp bên được
đề nghị giao kết hợp đồng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì coi như người này đã đưa
ra đề nghị mới”.
5.7. Kiến nghị về độ tuổi tham gia giao kết hợp đồng trong một số lĩnh vực nhằm
duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích công cộng.
Nghiên cứu pháp luật giao kết hợp đồng Hoa Kỳ cho thấy nhiều trường hợp vì bảo vệ
lợi ích công cộng mặc dù điều kiện giao kết không đảm bảo hiệu lực của hợp đồng nhưng vẫn
được thừa nhận. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam thiếu vắng các quy định này mà thường
chỉ mang tính nguyên tắc chung. Chính vì vậy, tác giả kiến nghị các quy định về giao kết hợp
đồng đối với hợp đồng vì lợi ích công cộng, thừa nhận hợp đồng mặc dù vi phạm một số điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng nhưng xem xét vì lợi ích xã hội nhiều hơn thì vẫn có thể thừa
nhận cho thi hành. Ngoài ra, cần xem xét một số lĩnh vực giao dịch có tính chất đặc biệt thì có
thể quy định độ tuổi cao hơn mức quy định chung của pháp luật để được coi là đủ tư cách chủ
thể để tham gia giao kết hợp đồng.

KếT LUậN

Cùng đối tượng điều chỉnh là quan hệ giao kết hợp đồng, pháp luật Việt Nam và pháp
luât Hoa Kỳ đều có cách tiếp cận và điều chỉnh có điểm chung với nhau cũng tương tự nhưng
pháp luật các nước khác. Nhưng điều đáng nói ở đây là điểm chung của hai nền pháp luật xuất
phát từ hai luồng tư tưởng pháp luật khác nhau, thuộc hai hệ thống pháp luật khác nhau tồn tại
độc lập cùng các hệ thống pháp luật khác trên thế giới. Nếu như pháp luật Hoa Kỳ thuộc hệ
thống luật thông lệ thì pháp luật Việt Nam thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa nhưng
riêng lĩnh vực dân sự nói chung, hợp đồng nói riêng chịu sự ảnh hưởng của hệ thống dân luật.
Chỉ nhìn nhận riêng dân luật và thông luật đã cho thấy nhiều mâu thuẫn và xung đột khác biệt
giữa hai hệ thống này. Mặc dù luật hợp đồng của Việt Nam đã lựa chọn con đường là dân luật
của châu âu lục địa thì điều đó không có nghĩa là con đường đó là luôn luôn đúng và chỉ biết

14
hướng tới con đường đó mà không tham khảo các hệ thống pháp luật khác. Biết đâu đó việc
nghiên cứu các ưu điểm của luật án lệ lại có thể rút ra được những kinh nghiệm quý báu cho
việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam về luật hợp đồng. Đó cũng
chính là mục đích của tác giả trong đề tài nghiên cứu so sánh chế định giao kết hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ. Qua toàn bộ nội dung tác giả đã trình bày về đặc
điểm cũng như những nhận định và so sánh pháp luật hai nước Việt nam và Hoa Kỳ về giao
kết hợp đồng, có thể rút ra những kết luận sau đây:
1.Từ việc nêu bật những quy định cơ bản về giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam và pháp luật Hoa Kỳ, cho thấy pháp luật hai nước có nhiều điểm tương đồng ở một vài
tiêu chí chung khi quy định về các điều kiện của hợp đồng, của các thành tố thoả thuận, chỉ có
một số khác biệt về một số nội dung cụ thể của điều kiện hợp đồng cũng như các thành tố của
thoả thuận. Những điểm quy định khác phản ánh đặc trưng nền pháp luật mỗi nước gắn liền
với hoàn cảnh lịch sử và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội rất riêng của từng quốc gia.
2.Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề cơ bản về giao kết hợp đồng theo pháp luật hai
nước, tác giả nhận xét những điểm khác biệt của pháp luật Hoa Kỳ so với pháp luật Việt Nam
về giao kết hợp đồng và từ đó kiến nghị vận dụng vào pháp luật về giao kết hợp đồng ở Việt
Nam. Tuy nhiên, không phải pháp luật Hoa Kỳ có quy định nào khác pháp luật Việt Nam là
tác giả kiến nghị áp dụng xây dựng pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam theo những điểm khác
đó mà phải dựa trên kết quả sự đánh giá những ưu điểm của chế định giao kết hợp đồng theo
pháp luật Hoa Kỳ và sự phù hợp khi vận dụng vào điều kiện pháp luật Việt Nam. Chính vì
vậy, tác giả đã kiến nghị các vấn đề từ khái niệm hợp đồng đến vấn đề quyền tự do rút đề nghị
của bên giao kết hợp đồng, kiến nghị về hình thức hợp đồng, kiến nghị về việc bảo vệ lợi ích
cộng đồng và xã hội và các trường hợp khác đảm bảo về mặt kỹ thuật lập pháp và thống nhất
về nội dung pháp luật của chế định giao kết hợp đồng.
3.Việc nghiên cứu pháp luật Hoa Kỳ về giao kết hợp đồng một lần nữa khẳng định vai
trò của án lệ trong thực tiễn xét xử và có thể xem xét thêm một nguồn luật đặc biệt này được
vận dụng ở Việt Nam. Nếu sự áp dụng án lệ như là một nguồn luật cơ bản ở Hoa Kỳ thì ở
Việt Nam chưa bao giờ được thừa nhận một cách chính thức. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét
xử ở Việt Nam thì việc sử dụng án lệ không phải là ngoại lệ, chính vì vậy, còn nhiều vấn đề
tranh cãi về việc coi sử dụng án lệ như một nguồn luật trong pháp luật Việt Nam nói chung,
luật hợp đồng nói riêng. Bất luận có thừa nhận là nguồn luật hay không và bất luận có nhiều
chuyên gia đề xuất coi án lệ như một nguồn luật bổ sung cho luật thực định thì rõ ràng trong
thực tiễn xét xử không thể phủ nhận vai trò của án lệ.

References
Tiếng Việt
1. Bộ luật dân sự năm Việt Nam năm 2005.
2. Bộ luật lao động Việt Nam.
3. Ts Ngô Huy Cương (2008), “Tự do ý chí và sự tiếp cận tự do ý chí trong pháp luật Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp (115).

15
4. TS. Đỗ Văn Đại (2009), Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Phạm Hoàng Giang (2007), “Ảnh hưởng của điều kiện hình thức hợp đồng đến hiệu lực
hợp đồng”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (03), tr. 47.
6. Học viện Tư pháp (2007), Giáo trình luật dân sự, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội.
7. TS. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
8. PGS.TS. Hoàng Thế Liên (2009), Bình luật khoa học Bộ luật dân sự năm 2005, tập II,
phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Luật thương mại Việt Nam năm 2005.
10. Luật giao dịch điện tử năm 2005.
11. TS. Lê Đình Nghị (2009), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, NXB. Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
12. TS. Phạm Duy Nghĩa (2001), Tìm hiểu pháp luật Hoa Kỳ trong điều kiện Việt Nam hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà nội.
13. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2006), Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử,
NXB, Lao động – xã hội, Hà Nội.
14. PGS.TS. Phạm Như Phát (2008), Giáo trình luật kinh tế, NXB. Thống kê, Hà Nội.
15. ThS. Đinh Thị Mai Phương (2005), Thống nhất Luật Hợp đồng ở Việt Nam, NXB Hà
Nội.
16. Phạm Thái Việt (1993), Những quy định chung của luật hợp đồng ở Pháp, Đức, Anh,
Mỹ (bản dịch), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Rene David (2003), Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại. NXB.
Thành phố Hồ Chí Minh.

Tiếng Anh
18. Bryan. A. Gorner (1990), Black’s law Dictionary, West publishing Co. 7 th
Edition,
DeLuxe.
19. E.Allan Farnsworth (1991), United States Contract law, Transnational Juris
Publications, Inc, New York.
20. Gordon W.Brown, Paul A.Sukys (2001), Business law with UCC applications, 10th
edition, Glencoe Mcgraw-Hill, New York.
21. G.H. Treitel (1975), The law of contract, London Steven & Sons, fourth edition,
London.

16
22. Samuel Willistion (1957), A treaties on the law of contracts, Vol. 8. 3d ed, Welter H.E
Jeager.
23. The American Law Institute - UCC 2007 Edition (Official Text with Comments).
24. The American Law Institute (1981), the statement (second) of contracts.

Các trang web:


25. http://en.wikipedia.org/wiki/Offer_and_acceptance
26. www.lexinter.net
27. http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/

17

You might also like