You are on page 1of 57

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.s
Nguyễn Thị Thanh, đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết Báo cáo
tốt nghiệp.
Em chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa Luật, Trường Đại Học
Công Đoàn đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm em học tập. Với
vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá
trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để em bước vào đời
một cách vững chắc và tự tin.
Em chân thành cảm ơn các cô,chú,anh chị trong sở Tư Pháp thành phố
Hà Nội đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để em thực tập tại cơ quan.
Cuối cùng em kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và thành công
trong sự nghiệp cao quý. Đồng kính chúc các cô, chú, anh, chị trong Sở Tư
Pháp thành phố Hà Nội luôn dồi dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt
đẹp trong công việc.

1
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT 5
XHCN: Xã hội chủ nghĩaLỜI MỞ ĐẦU 5
LỜI MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài 6
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Mục đích và nhiệm vụ của báo cáo 8
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 9
6. Những đóng góp mới của lbáo cáo 9
7. Kết cấu của báo cáo 9
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN,GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 11
1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật 11
1.2. Mục đích, nhiệm vụ, vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật 13
1.3. Chủ thể, đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật 16
1.3.1. Chủ thể phổ biến,giáo dục pháp luật 16
1.3.2. Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật 18
1.4. Nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật 19
1.4.2. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật 24
1.5. hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt
động PBGDPL 26
Tiểu kết chương I : 28
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN,GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHố HÀ NộI QUA THỰC
TIỄN Ở SỞ TƯ PHÁP THÀNH PHỐ 30

2
2.1. KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ- XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ VỊ
TRÍ,CHỨC NĂNG CỦA SỞ TƯ PHÁP THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG
CÔNG TÁC PHỔ BIẾN,GIÁO DỤC PHÁP LUẬT 30
2.1.1 Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội 30
2.1.2 Vị trí,chức năng của sở tư pháp thành phố Hà Nội 31
2.2 Thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại sở Tư Pháp
thành phố Hà Nội 32
2.2.1 Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật của sở Tư Pháp thành phố
Hà Nội 32
2.2.2 Các Hình thức, phương tiện và phương pháp phổ biến giáo dục
pháp luật của sở Tư Pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội 33
2.2.3 Về tổ chức và mô hình hoạt động đội ngũ cán bộ làm công tác
PBGDPL 38
2.2.4. Những thành tựu, kết quả đạt được trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội 41
2.2.5. Những hạn chế, khiếm khuyết và nguyên nhân của công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội 45
Tiểu kết chương II: 47
CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI HIỆN NAY 49
3.1.Nâng cao nhận thức và sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp, các ngành đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn thành phố Hà Nội 51
3.2. Sở Tư Pháp cần hoàn thiện nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật và
củng cố các điều kiện đảm bảo thực hiện hiệu quả công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội 51
3.1.2 Sở Tư Pháp cần đổi mới hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trên
địa bàn thành phố Hà Nội 52

3
3.1.3 Sở Tư Pháp cần thực hiện tốt sự phối hợp giữa các ngành, các cấp,
các cơ quan, đoàn thể,tăng cường công tác kiểm tra giám sát 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 56

4
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

PBGDPL: Phổ biến, giáo dục pháp luật


PHCTPBGDPL: Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
HĐND: Hội đồng nhân dân
LHPN: Liên hiệp phụ nữ
MTTQVN: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
QPPL: Quy phạm pháp luật
DTNCSHCM: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
UBND: Ủy ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

5
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động phổ biến,giáo dục pháp luật trên địa bàn Thành phố Hà Nội
qua thực tập tại sở tư pháp thành phố - thực tiễn và giải pháp
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có vị trí, vai trò vô cùng quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Nhiều năm qua
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đã được các cấp uỷ Đảng,
chính quyền, các ngành, đoàn thể quan tâm tổ chức thực hiện, đem lại nhiều
kết quả đáng khích lệ. Trong đời sống xã hội, công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật có ý nghĩa, vai trò quan trọng là nhằm trang bị, nâng cao trình độ
hiểu biết pháp luật, giáo dục ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật cho các
tầng lớp nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, công tác này càng trở nên cần
thiết khi Đảng, Nhà nước ta chủ trương "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân", "tăng cường quản lý xã hội bằng pháp
luật". Điều 3, Luật PBGDPL 2012 quy định về chính sách của Nhà nước về
phổ biến , giáo dục pháp luật có quy định rõ : Phổ biến, giáo dục pháp luật là
trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò
nòng cốt; Nhà nước bảo đảm nguồn lực cần thiết cho công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật ; Thực hiện xã hội hóa công tác phổ biến , giáo dục pháp luật;
khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hôm nay, công tác phổ biến giáo dục pháp luật càng có ý nghĩa quan trọng,
cần thiết. Đặc biệt, nó càng trở nên quan trọng, bức thiết khi hiện nay Đảng,
Nhà nước ta đề ra đường lối, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cải cách tư
pháp, đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, thực
hiện Quy chế dân chủ, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở...
Hà Nội - nơi sinh sống của hơn 7 triệu dân,”trái tim của cả nước”, là “
trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung

6
ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện
ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học
và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước” Hà Nội cũng là nơi
nảy sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc như khiếu kiện, tụ tập đông người,
cưỡng chế giải phóng mặt bằng, các xung đột pháp lý, tội phạm... Trước
những đòi hỏi, thách thức của đất nước trong điều kiện mới thì song hành
cùng việc nâng cao chất lượng làm luật, xây dựng luật, ý thức pháp luật của
người dân càng cần được nâng lên, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người dân Thủ đô cũng cần được chú trọng hơn nữa. Nhận thức rõ vị trí của
Thủ đô Hà Nội, Đảng bộ, chính quyền thành phố một mặt tập trung đẩy mạnh
phát triển kinh tế xã hội Thủ đô, mở rộng dân chủ xã hội, mặt khác, đặc biệt
quan tâm đến giáo dục truyền thống văn hoá, ý thức công dân, ý thức tôn
trọng, chấp hành pháp luật cho các tầng lớp cán bộ, nhân dân. Để xây dựng
được môi trường xã hội Thủ đô lành mạnh, đồng thuận, dân chủ và kỷ cương,
kỷ luật, hơn bao giờ hết, lúc này công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có ý
nghĩa, vai trò rất quan trọng, nhất là giáo dục pháp luật tại các xã, phường, thị
trấn – đơn vị hành chính cơ sở, tại địa bàn khu dân cư, tổ dân phố, thôn,
xóm… Trong bối cảnh đó, hoạt động của công tác “ phổ biến,giáo dục pháp
luật của sở tư pháp thành phố Hà Nội” là rất cấp thiết
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay luôn nhận được
sự quan tâm của mọi cấp, mọi ngành trong cả nước. Vấn đề phổ biến, giáo
dục pháp luật qua các giai đoạn đã được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả tìm
hiểu, nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau, ở nhiều địa bàn khác nhau với
các hình thức như: Sách chuyên khảo, đề tài khoa học, luận án, luận văn, khóa
luận tốt nghiệp...
Có thể liệt kê một số nghiên cứu gần đây nhất như cuốn “Pháp luật
dành cho học sinh”, “Pháp luật dành cho phụ nữ” của Hội đồng phối hợp
công tác phổ biến giáo dục pháp luật thành phố Hà Nội (Hội đồng phối hợp

7
công tác PBGDPL), “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp
luật” của Bộ Tư pháp...
Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cũng đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu với nhiều công trình khoa học được công bố như:
Sách chuyên khảo “Ý thức pháp luật” của PGS. TS. Nguyễn Minh
Đoan;
Đề tài khoa học cấp Bộ của tác giả Nguyễn Đình Lộc: “Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới”;
Luận án tiến sĩ của tác giả Dương Thị Thanh Mai: “Giáo dục pháp luật
qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam”;
"Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính" của
TS. Lê Đình Khiên;
"Bàn về ý thức pháp luật" của Hoàng Thị Kim Quế;
" Nâng cao hiệu quả pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" -
Luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Minh Đoan;
Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Ngọc Đường: “Giáo dục ý thức pháp
luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”...
Ngoài ra, vấn đề này còn được nghiên cứu, bình luận, trao đổi thông
qua các bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên ngành như: Nghiên cứu lập
pháp, Luật học, Dân chủ và pháp luật, Nhà nước và pháp luật...
Trong các công trình trên các tác giả chủ yếu nói về vấn đề nâng cao ý
thức pháp luật nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu về vấn đề phổ biến, giáo
dục pháp luật ở cơ sở nhất là ở Thành phố Hà Nội nhằm góp phần giáo dục
sự “tự giác”, giảm bớt tội phạm, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, giảm
khiếu kiện tại một trong những trung tâm lớn nhất của Việt Nam. Do vậy, vấn
đề nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói
chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng trong giai đoạn hiện nay cần được tiếp
tục nghiên cứu làm rõ. Nghiên cứu thành công đề tài này sẽ góp phần làm
phong phú, sinh động vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng, hiệu quả hoạt

8
động hành chính cấp cơ sở, góp phần cải cách hành chính, thực hiện mục tiêu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Báo cáo tập trung đi sâu nghiên cứu lý luận về phổ biến, giáo dục pháp
luật ở địa bàn thành phố Hà Nội, các khái niệm có liên quan; vấn đề tổ chức
và hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa bàn thành phố Hà Nội ; các
giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
ở địa bàn thành phố Hà Nội .
Về mặt thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu công tác PB,GDPL
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến nay (2018). Đây là thời điểm
sau khi thực hiện Nghị quyết 15/NQ của Bộ Chính trị về hợp nhất địa giới
hành chính của Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu:Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề về phổ
biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố và thực trạng, giải pháp đối
với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa bàn thành phố Hà Nội
4. Mục đích và nhiệm vụ của báo cáo
Báo cáo nghiên cứu công tác PB,GDPL ở cấp cơ sở nói chung; Đánh
giá thực trạng về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn
thành phố Hà Nội thực tiễn tại sở tư pháp thành phố; Đề xuất những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này. Để phù hợp với mục đích
này, luận văn giải quyết nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích cơ sở lý luận về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
ở sở Tư pháp thành phố;
Hai là, phân tích thực trạng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở
trên địa bàn Hà Nội những năm gần đây. Tìm hiểu những nguyên nhân, hạn
chế và bài học kinh nghiệm trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở Tư
pháp thành phố
Ba là,đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.

9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Báo cáo dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về đổi mới Nhà nước và pháp luật, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc, về nâng cao chất lượng hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật ở cơ sở.
Báo cáo sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng
mácxit, trực tiếp là các phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương
pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, báo cáo còn sử dụng các
phương pháp luật học so sánh,thống kê,phân tích số liệu,đánh giá,nhận
xét,bình luận
6. Những đóng góp mới của báo cáo
Báo cáo góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của công tác PBGDPL tại thành phố Hà Nội, là cơ sở lý luận và thực
tiễn giúp Thành phố Hà Nội nâng cao chất lượng công tác PBGDPL. Các giải
pháp đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong thực hiện công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố trong thời gian tới.
7. Kết cấu của báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày thành 3 chương
- Chương 1: Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn
thành phố Hà Nội
- Chương 2: Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn thành
phố Hà Nội qua thực tiễn ở sở tư pháp thành phố.
- Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng phổ biến,
giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội

10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN,GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm phổ biến pháp luật
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động
thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Phổ biến
giáo dục pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho
mọi công dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực pháp luật trong đời sống xã
hội. Do vậy công tác phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân có vị trí, vai
trò rất quan trọng. Đặc biệt khi Nhà nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong khoa học pháp lý, phổ biến, giáo dục pháp luật là những khái
niệm bao hàm nhau. Trong đó, khái niệm giáo dục pháp luật là khái niệm
rộng nhất, vì trong hoạt động giáo dục pháp luật, có cả hoạt động phổ biến
pháp luật. Phổ biến pháp luật tức là sự truyền tải thông tin pháp luật có định
hướng, có đối tượng xác định. Tiêu chuẩn để đánh giá sự xác định của các đối
tƣợng thể hiện ở chỗ đối tượng đó cần phải nắm vững về nội dung thông tin
vì nó là thiết thực, là đòi hỏi bức xúc, sự cần thiết trước mắt. Nếu như tuyên
truyền pháp luật là sự truyền tải thông tin về pháp luật hiện hành một cách
rộng rãi không hạn chế về phạm vi, giới hạn các chủ thể của quan hệ xã hội,
tức là tới mọi công dân. Đó là sự thông tin toàn diện, chung nhất về hệ thống
pháp luật hiện hành. Thông tin về sự công bố, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật, nhất là các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành
chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi
trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông… chính là
sự tuyên truyền pháp luật. Sự thông tin này không nhằm vào những đối tƣợng
nhất định mà là toàn xã hội. Do vậy việc phổ biến pháp luật bao giờ cũng phải
được thực hiện đối với những đối tượng nhất định, với những nội dung có chủ
định trước, nhằm đạt được những mục đích nhất định. Xét một cách bao quát

11
nhất, có thể thấy nội dung của phổ biến pháp luật không chỉ dừng lại ở việc
thông tin về những văn bản pháp luật, mà còn bao hàm cả việc truyền bá các
chính sách pháp luật, các chủ trương của nhà nước về một vấn đề gì đó.
1.1.2. Khái niệm giáo dục pháp luật
Giáo dục pháp luật là quá trình hoàn thiện nhân tố xã hội- pháp lý của
con người, nâng cao khả năng sáng tạo của con người trước đời sống thực tiễn.
Đây là một quá trình không những phụ thuộc vào năng lực các loại chủ thể, nội
dung, hình thức giáo dục, mà còn chịu chi phối đa chiều của nhiều yếu tố như:
mặt bằng kinh tế, xã hội, dân trí và dân trí pháp lý, phong tục, tập quán... Giáo
dục pháp luật là quá trình tác động một cách có hệ thống, mục đích và thường
xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người trình độ pháp
lí nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự
theo yêu cầu của pháp luật.
Khái niệm giáo dục pháp luật cũng thường được hiểu ở hai cấp độ khác
nhau (nghĩa rộng và nghĩa hẹp).
Theo nghĩa rộng thì giáo dục pháp luật là quá trình hình thành ý thức
pháp luật của các thành viên xã hội chịu sự tác động tích cực cũng như tiêu cực,
có chủ đích cũng như tự phát của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
như các điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ chính trị hệ thống pháp luật và thực
tiễn pháp lý, môi truờng sống cũng như giáo dục xã hội.
Quan điểm này xuất phát từ khái niệm giáo dục pháp luật theo nghĩa
rộng khoa học giáo dục quan niệm giáo dục là quá trình tác động của những
điều kiện khách quan như chế độ chính trị, hệ tư tưởng, nền văn hóa trình độ
phát triển kinh tế, hệ thống pháp luật, môi trường sống, phong tục, tập
quán….và của cả những nhân tố chủ quan như sự tác động tự giác, có chủ định
và định hướng của nhân tố con người nhằm hình thành ý thức pháp luật, văn
hóa pháp luật của đối tượng giáo dục pháp luật. Ý thức pháp luật của những giai
cấp khác nhau thì khác nhau, do đó ý thức pháp luật là sản phẩm của quá trình
tác động của các nhân tố khách quan và chủ quan, tích cực và tiêu cực.

12
Xuất phát từ khái niệm giáo dục pháp luật trên cho thấy giáo dục pháp
luật là hình thức giáo dục cụ thể, là “cái riêng, cái đặc thù” trong mối quan hệ
với giáo dục nói chung. Trong quá trình nghiên cứu, quản lý và trực tiếp thực
hiện các hoạt động PBGDPL, em rất tâm đắc với quan niệm: "Phổ biến, giáo
dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có dự định của sự nghiệp
giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên
để cung cấp tri thức pháp luật bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối
tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật phù hợp với các quy
định của pháp luật và đòi hỏi của nền pháp chế hiện hành"
1.2. Mục đích, nhiệm vụ, vai trò của phổ biến, giáo dục pháp luật
Mục đích của phổ biến, giáo dục là một trong những yếu tố tạo nên cấu
trúc bên trong của giáo dục pháp luật,là đặc trưng quan trọng để phân biệt phổ
biến, giáo dục pháp luật với các hình thức giáo dục khác như giáo dục chính trị
tư tưởng, giáo dục đạo đức… Mục đích của PBGDPL là những gì mà chủ thể
đặt ra khi thực hiện công tác PBGDPL. Mục đích của PBGDPL vừa phải đáp
ứng những định hướng mang tính chiến lược, vừa phải đáp ứng các nhu cầu cụ
thể của xã hội đối với giáo dục pháp luật ở từng giai đoạn trong các điều kiện
lịch sử cụ thể.
Việc xác định mục đích của PBGDPL có ý nghĩa hết sức quan trọng cả
trong lý luận lẫn thực tiễn thực hiện công tác PBGDPL. Việc xác định đúng
mục đích của PBGDPL sẽ là cơ sở khoa học cho việc lựa chọn nội dung, hình
thức, phương pháp phù hợp, ưu việt, mang lại chất lượng, hiệu quả thiết thực
trong công tác PBGDPL.
Xét về phương diện khoa học, phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm mục
đích tổng quát và mục đích cụ thể:
Mục đích tổng quát của PBGDPL chính là góp phần hình thành và nâng
cao văn hóa pháp lý cho từng cá nhân và toàn xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền.

13
Theo nhiều nhà nghiên cứu, văn hóa pháp lý của một đất nước ở mỗi thời
kỳ lịch sử nhất định được phản ánh cụ thể qua ba yếu tố:
Thứ nhất là, mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật.
Thứ hai là, thực trạng ý thức pháp luật của công dân và xã hội.
Thứ ba là, kỹ năng, trình độ của nhà nước và nhân dân trong việc sử
dụng pháp luật được thể hiện qua tình trạng trật tự pháp luật trong xã hội.
Các yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều chịu sự tác
động của nhiều nhân tố, trong đó không thể không kể đến vai trò vô cùng quan
trọng của PBGDPL.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề củng cố, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa ở nước ta đang là một vấn đề cấp thiết. Muốn vậy, đòi hỏi phải áp
dụng nhiều biện pháp đồng bộ trong đó có việc nâng cao trình độ văn hoá pháp
lý, xây dựng ý thức pháp luật ở mỗi người dân. Chỉ khi nào trong xã hội mọi
công dân đều có ý thức pháp luật, luôn tuân thủ pháp luật và có hành vi phù hợp
với yêu cầu, đòi hỏi của hệ thống pháp luật, mới có thể thực hiện quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội bằng pháp luật và điều này chỉ có thể hình thành và thực
hiện được trên cơ sở tiến hành phổ biến, giáo dục pháp luật.
Mục đích cuối cùng của phổ biến, giáo dục pháp luật là nhằm hình thành
ở mỗi thành viên xã hội ý thức pháp luật bền vững.
Việc xác định đúng mục đích PBGDPL có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc khẳng định vai trò, nhiệm vụ của PBGDPL. Cụ thể như:
PBGDPL có tác dụng làm cho mỗi công dân thuộc thuộc đối tượng
PBGDPL có đầy đủ thông tin cần thiết về hệ thống pháp luật hiện hành; phân
tích, đánh giá đúng về mặt pháp lý các hiện tượng xã hội, tạo nên sự thống nhất
về nhận thức và thực tiễn pháp lý, làm cơ sở cho việc hình thành các tình cảm
pháp luật tích cực ở mỗi đối tượng PBGDPL.
Tuyên truyền các hành vi tích cực trong chấp hành pháp luật, tham gia
tích cực vào phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật; phê
phán các vi phạm pháp luật, các hành vi tiêu cực xã hội. Chỉ có thực hiện được

14
nhiệm vụ này mới góp phần khuyến khích sự tham gia tích cực của công dân
vào đời sống pháp luật. Không chỉ tự mình tuân thủ, không vi phạm pháp luật
mà còn tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động chống và phòng ngừa tội
phạm cũng như vi phạm pháp luật khác
PBGDPL nâng cao nhận thức và tác động trực tiếp đến ý thức của đối
tượng. Pháp luật chính là phương tiện hàng đầu để nhà nước quản lý xã hội và
cũng là phương tiện cho mỗi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Công tác PBGDPL giúp cho đối tượng nhận thức những giá trị cao đẹp ấy của
pháp luật và biết sử dụng phương tiện hữu hiệu đó trong cuộc sống. Một vai trò
hết sức quan trọng của PBGDPL là tạo niềm tin vào pháp luật, khi đã có niềm
tin đối tượng sẽ biết tự điều chỉnh hành vi của mình theo đúng các quy định của
pháp luật.
PBGDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Ý
thức pháp luật là một bộ phận của ý thức chính trị. Khi thực hiện giáo dục pháp
luật sẽ hình thành ở đối tượng giáo dục những hiểu biết nhất định về chính trị.
Ngược lại, giáo dục chính trị có những sự đan xen nhất định trong nội dung của
mình những tư tưởng pháp lý.
Giáo dục ý thức pháp luật và đạo đức: Giáo dục đạo đức tạo nên nhữn
tiền đề cần thiết để hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối với pháp
luật, tác động vào lòng tin của con người đối với sự cần thiết tuân theo những
nguyên tắc cơ bản của đạo đức mới, lòng tin đối với giá trị của xã hội, của pháp
luật, lòng tin đối với những quy phạm đạo đức và pháp luật trong đời sống thực
tế hàng ngày, hướng đến hoàn thiện những mối quan hệ lẫn nhau giữa con
người với con người.
PBGDPL là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật:
Vai trò của giáo dục pháp luật là hình thành ý thức pháp luật; góp phần giúp
mỗi người nhận ra tính công bằng của pháp luật, chấp hành pháp luật trên cơ sở
tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu của bản thân mà không phải do sự sợ hãi trước
sự trừng phạt, trình độ văn hóa pháp lý không chỉ phản ánh sự hiểu biết các quy

15
định của pháp luật một cách tổng thể, cần thiết cho mỗi con người, gắn liền với
các nghĩa vụ của họ mà còn là sự hiểu biết một cách sâu sắc ý nghĩa của pháp
luật trong cuộc sống xã hội, sự tôn trọng pháp luật và biết vận dung pháp luật
một cách đúng đắn.
Từ đó chúng ta thấy, PBGDPL góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và văn
hóa pháp lý của công dân.
1.3. Quy định pháp luật phổ biến,giáo dục pháp luật
1.3.1. Nguyên tắc và quản lý nhà nước về phổ biến,giáo dục pháp luật

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, song song với việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới công tác
PBGDPL, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống
chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vị trí, vai trò của công tác PBGDPL
luôn được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, Nghị quyết của
Quốc hội
Đặc biệt là ngày 20/6/2012 tại kỳ họp thứ 3 khóa XIII của Quốc hội đã
ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật số 14/2012/QH 13, đây là văn bản
có giá trị pháp lý cao nhất về công tác PBGDPL, đưa công tác PBGDPL lên
một vị trí mới.Sự ra đời của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật đã giải quyết
được nhiều vướng mắc trong cơ chế thực hiện PBGDPL; đặc biệt là cơ chế phối
hợp, chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị; việc huy động nguồn nhân lực,
cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật.

Điều 5, Luật Phổ biến giáo dục pháp luật năm 2012 quy định về chính sách
của Nhà nước về phổ biến , giáo dục pháp luật có quy định rõ : Các nguyên
tắc phổ biến, giáo dục pháp luật:

1. Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực.

16
2. Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm.

3. Đa dạng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, phù hợp với nhu cầu,
lứa tuổi, trình độ của đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật và truyền
thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc.

4. Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống
hằng ngày của người dân.

5. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội

Hoạt động quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm
các công tác sau đây:

-Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về
phổ biến, giáo dục pháp luật;

- Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật;

- Bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật;

- Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật;

- Thống kê, tổng kết về phổ biến, giáo dục pháp luật;

- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong phổ
biến, giáo dục pháp luật;

- Hợp tác quốc tế về phổ biến, giáo dục pháp luật.

Cơ quan quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm:

- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật;

- Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước
về phổ biến, giáo dục pháp luật; chủ trì xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ

17
ban hành chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn về phổ biến, giáo dục
pháp luật; chủ trì xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật;

-Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về phổ biến, giáo
dục pháp luật;

- Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về phổ
biến, giáo dục pháp luật tại địa phương
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII,thể chế hóa đầy đủ chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đổi mới, tăng cường công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật, gắn với xây dựng, thi hành, bảo vệ pháp luật
và giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống,thủ tướng chính phủ tiếp tục
ban hành Quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021 góp
phần Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức tuân thủ , chấp
hành, tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo
pháp luật trong toàn xã hội; đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phát triển
ổn định, bền vững, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, góp phần bảo đảm
thực hiện đầy đủ quyền được thông tin về pháp luật của công dân.

1.3.2. Chủ thể và đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật
Chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật là người thực hiện việc giáo dục
pháp luật cho các đối tượng. Theo quan điểm chung hiện nay, phổ biến, giáo
dục pháp luật là nhiệm vụ chung của các cơ quan, tổ chức và các cá nhân được
phân công mà theo cách hiểu truyền thống thường bao gồm: Những người công
tác tại các cơ quan pháp luật; cán bộ tuyên huấn của các cơ quan, đơn vị; báo
cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; giáo viên giảng dạy môn pháp luật trong
các trường học… Đây là những người trực tiếp truyền tải những thông tin pháp
luật, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật đến các đối tượng.

18
Tùy theo nhiệm vụ và nội dung công việc, chủ thể phổ biến, giáo dục
pháp luật có thể phân chia thành các nhóm:
- Nhóm chủ thể chịu trách nhiệm lãnh đạo (Chủ thể tổ chức, quản lý
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật): Các tổ chức Đảng, các cơ quan tư tưởng
văn hóa, hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại các cơ
quan, đơn vị.
- Nhóm các chủ thể gián tiếp thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật:
Những người làm các chương trình truyền hình, chương trình phát thanh,
chương trình giáo dục pháp luật trong các nhà trường…
- Nhóm các chủ thể trực tiếp thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật: Các
báo cáo viên pháp luật, giảng viên pháp luật, giáo viên pháp luật, các nhà tư vấn
pháp luật, những người áp dụng pháp luật…
Ngoài ra, thông qua hoạt động thực tiễn liên quan đến pháp luật thì mỗi
công dân đều là chủ thể của công tác phổ biến,giáo dục pháp luật. Bằng sự tự
giáo dục, bằng ý thức trách nhiệm công dân của mình và bằng sự gương mẫu
thực hiện pháp luật của nhà nước, đường lối chính sách của Đảng mà mỗi công
dân đã có tác dụng ảnh hưởng giáo dục tích cực đến các công dân khác.
Đối tượng PBGDPL là các cá nhân công dân, những nhóm cộng đồng xã
hội cụ thể tiếp nhận trực tiếp hay gián tiếp những tác động của các hoạt động
PBGDPL do các chủ thể PBGDPL tiến hành nhằm đạt được những mục đích đề
ra.
Đối tượng của PBGDPL rất đa dạng, phong phú về thành phần xã hội, về
trình độ, khả năng nhận thức, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp... Trên cơ sở các
yếu tố như điều kiện, hoàn cảnh tiếp nhận, yếu tố dân tộc, địa lý, đặc điểm tâm
lý, yếu tố học vấn, địa vị xã hội… của mỗi công dân mà đối tượng PBGDPL
được xác định bao gồm các nhóm sau:
- Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước: Trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước tham gia vào
các quan hệ pháp luật với tư cách là đại diện cho nhà nước để thực hiện các

19
quyền và nghĩa vụ cụ thể. Thái độ và hành vi xử sự đúng pháp luật hay không
của họ là tấm gương phản chiếu tính pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước.
Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong mối quan hệ với pháp luật
vừa là đối tượng của giáo dục pháp luật vừa là chủ thể giá dục, vì vậy một mặt
họ phải được tiếp cận giáo dục pháp luật gắn liền với giáo dục đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ trong các nhà trường đến bồi dưỡng nâng cao thường xuyên
trong quá trình làm việc, mặt khác phải được trang bị các kiến thức và kỹ năng
trong việc giáo dục pháp luật. Thực tiễn hiện nay giáo dục pháp luật cho đối
tượng này vừa là vấn đề cấp bách vừa là vấn đề lâu dài, phải thường xuyên, liên
tục mới có thể đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật.
- Học sinh, sinh viên: Thế hệ công dân trẻ tuổi hôm nay là những người
chủ đất nước trong tương lai, giáo dục pháp luật phải được tiến hành ngay trong
trường học từ phổ thông đến đại học.
- Chủ doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp: Giáo dục
pháp luật là đòi hỏi từ nhu cầu thiết thực của các nhà kinh doanh và yêu cầu
quản lý kinh tế của nhà nước. Vì vậy, phải giúp họ có đuợc những kiến thức cơ
bản về pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, tạo thói quen kinh doanh
trong khuôn khổ pháp luật, tránh tình trạng vi phạm pháp luật. Với người lao
động trong các doanh nghiệp, sự hiểu biết pháp luật là hết sức cần thiết để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chấp hành nghĩa vụ đối với Nhà nước, cũng như
yếu tố để góp phần đảm bảo doanh nghiệp tuân thủ pháp luật.
- Các tầng lớp nhân dân (phụ nữ, nông dân, thanh niên, trẻ em, đồng bào
dân tộc thiểu số…): Đây là các lực lượng chiếm đa số trong xã hỗi, họ ít có điều
kiện được học tập, nghiên cứu tìm hiểu pháp luật. Vì vậy, cần phải giáo dục
pháp luật để họ nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ, quyền lợi của công
dân đối với nhà nước và xã hội.
Việc xác định chủ thể, đối tượng của hoạt động giáo dục pháp luật có ý
nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn; trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động

20
qua lại lẫn nhau giữa chủ thể và đối tượng trong quá trình giáo dục pháp luật.
Trong đó, chủ yếu là sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của người
giáo dục pháp luật lên người được giáo dục pháp luật. Điều đó tạo cho chủ thể
xác định các nội dung, hình thức, phương tiện, biện pháp phù hợp để tiếp cận
với đối tượng giáo dục pháp luật một cách có hiệu quả nhất.
1.3.3. Nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
1. 3.3.1. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
Những nội dung chủ yếu của công tác phổ biến,giáo dục pháp luật trên cơ
sở lý luận và thực tiễn được xác định căn cứ theo Điều 10 Luật phổ biến,giáo
dục pháp luật năm 2012.Theo những cấp độ khác nhau tùy thuộc từng loại đối
tượng phù hợp với những nhu cầu, đặc điểm của đối tượng mà hoạt động giáo
dục pháp luật hướng tới, bao gồm:
Một là, yêu cầu tối thiểu về nội dung phổ biế giáo dục pháp luật cho mọi
công dân.Sống trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì mỗi công dân
phải có những hiểu biết tối thiểu về pháp luật và có những kỹ năng tối thiểu để
sử dụng pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và
thực hiện nghĩa vụ của mình.
Hai là, yêu cầu riêng về PBGDPL theo nhu cầu ngành nghề của các công
dân hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội. Họ cần
những hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức độ cao hơn, mang tính
định hướng nghề nghiệp rõ hơn thì ngoài những khái niệm pháp lý cơ bản
thường gặp trong thực tiễn, nội dung giáo dục pháp luât theo ngành nghề còn
bao gồm một số luật thực định, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của
đối tượng. Các quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực hoạt động và các
trình tự giải quyết các tranh chấp phổ biến liên quan trong lĩnh vực nghề
nghiệp.
Ba là,yêu cầu về PBGDPL chuyên luật, tức là PBGDPL chuyên ngành
cho những người hành nghề pháp luật.Đây là mức độ cao nhất của nội dung
giáo dục pháp luật, nhằm mục đích đào tạo các luật gia cho bộ máy nhà nước và

21
các tổ chức mang tính nghề nghiệp về pháp luật. Sự hiểu biết của đối tượng này
bao gồm cả những quan điểm, những học thuyết về nhà nước và pháp luật trong
lịch sử và hiện tại. Những hiểu biết tương đối toàn diện về hệ thống pháp luật
trong nước và quốc tế trong lĩnh vực chuyên sâu cuả từng người (về hình sự, về
dân sự, về kinh tế, về hôn nhân gia đình, về luật quốc tế….). Kỹ năng của họ
không chỉ dừng lại ở việc tuân thủ pháp luật mà chủ yếu là vận dụng chính xác,
linh hoạt các quan hệ pháp luật vào việc xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan
đến pháp luật (hoặc tư vấn cho việc giải quyết các vấn đề về pháp luật, như các
tranh chấp, các vi phạm pháp luật….). Kỹ năng quan trọng và đặc thù của đối
tượng là sáng tạo pháp luật, là khả năng tham gia vào việc hoàn thiện pháp luật.
1.3.3.2 Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
- Hình thức của hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật được coi là các
dạng cụ thể, có tổ chức phối hợp giữa chủ thể và đối tượng để thể hiện nội
dung và đạt được mục đích của hoạt động phổ biến,giáo dục pháp luật.
Căn cứ điều 11 Luật phổ biến,giáo dục pháp luật năm 2012 hình thức của
hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật bao gồm hai nhóm chính sau:
Thứ nhất, nhóm hình thức giáo dục có tính phổ biến và truyền thống
được sử dụng trong nhiều loại hình giáo dục.
Hình thức tổ chức hoạt động giáo dục pháp luật do các chủ thể chuyên và
không chuyên nghiệp tiến hành trong hoạt động giáo dục pháp luật truyền
thống, phổ cập đối với các đối tượng khác nhau trong phạm vi không gian, thời
gian xác định như: Nói chuyện, mở hội nghị phổ biến, sinh hoạt câu lạc bộ, tọa
đàm, kết hợp phổ biến pháp luật trong các buổi sinh hoạt cộng đồng dân cư…
(giao tiếp trực tiếp); hoặc không xác định cụ thể (giao tiếp qua các phương tiện
thông tin đại chúng, thông tin cổ động, các loại hình văn hóa nghệ thuật…).
Thứ hai, nhóm các hình thức PBGDPL đặc thù, chính là việc định hướng
PBGDPL trong các hoạt động lập pháp, hành pháp, và tư pháp của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân). Hình thức giáo dục này chủ yếu do công chức nhà nước thực hiện

22
với vai trò chủ đạo của các luật gia đang công tác tại các cơ quan pháp luật của
Nhà nước. Nó thường gắn liền với việc áp dụng các điều luật cụ thể hay thực
hiện một quyền, nghĩa vụ pháp lý cụ thể của người được giáo dục; vì vậy, có tác
động trực tiếp, sâu sắc lên ý thức, tình cảm, hành vi của người được giáo dục.
PBGDPL qua các hoạt động mang tính đặc trưng của các tổ chức xã hội,
tổ chức nghề nghiệp (văn phòng luật sư, công ty luật…), tổ chức quần chúng (tổ
hòa giải, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý…).
Việc thừa nhận các hình thức PBGDPL đặc thù là một vấn đề lý luận
quan trọng, góp phần tạo nên sự đổi mới.
Trên cơ sở các nhóm hình thức PBGDPL trên, có một xác định một số
hình thức PBGDPL cụ thể, đang được áp dụng khá phổ biến trong thực tế gồm:
- Họp báo, thông cáo báo chí;
- Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật;
cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật;
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh,
internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông
tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ
quan, tổ chức, khu dân cư;
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luâṭ ;
- Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải
ở cơ sở;
- Lồng ghép trong hoạt động văn hóa , văn nghệ , sinh hoạt của tổ chức
chính trị và các đoàn thể , câu lac ̣ bô ̣, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa
khác ở cơ sở;
- Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục
của hệ thống giáo dục quốc dân;
1.3.4. Các điều kiện đảm bảo hiệu quả công tác phổ biến,giáo dục pháp luật

23
Nội dung phổ biến,giáo dục pháp luật có ý nghĩa quyết định cho việc đạt
tới mục đích phổ biến giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, để nội dung đó đi vào
nhận thức, tình cảm của đối tượng PBGDPL thì phải thông qua các kênh truyền
tải thông tin, qua cách thức và biện pháp tác động nhất định phù hợp với khả
năng tiếp cận của từng loại đối tượng. Do đó, hiệu quả pháp luật của quá trình
PBGDPL còn phụ thuộc vào sự hoàn thiện của hình thức, phương pháp
PBGDPL.
Trong một hình thức PBGDPL có thể sử dụng nhiều phương tiện,
phương pháp khác nhau với từng đối tượng, những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể,
chủ thể PBGDPL cần vận dụng sáng tạo việc sử dụng các phương tiện, phương
pháp khác nhau nhằm tác động sâu sắc và mạnh mẽ tới ý thức pháp luật của
công dân.
Hiệu quả PBGDPL cần được nhận thức, đánh giá trên cả hai phương diện
sau đây:
Phương diện kết quả đạt được so với yêu cầu, mục đích của văn bản
pháp luật, các quy định pháp luật tương ứng.
- Phương diện hiệu quả xã hội đạt được từ kết quả thực hiện các quy
định pháp luật. Hiệu quả của phổ biến, giáo dục là kết quả đạt đƣợc theo đúng
yêu cầu, mục đích của các quy định pháp luật tƣơng ứng và các lợi ích xã hội
đƣợc đem lại với chi phí về vật chất, tinh thần thấp nhất.
Hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật được đánh giá thông qua
các tiêu chí cơ bản sau đây:
- Tiêu chí thứ nhất, về trạng thái tri thức ban đầu của đối tượng PBGDPL khi
chưa được phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Tiêu chí thứ hai, về trạng thái thái độ, tình cảm pháp luật ở đối tƣợng phổ
biến, giáo dục pháp luật trước khi được phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm xây
dựng, củng cố niềm tin vào pháp luật.
- Tiêu chí thứ ba, về trạng thái của động cơ và hành vi tích cực pháp luật ở đối
tượng phổ biến, giáo dục pháp luật.

24
Tiểu kết chương 1 : Giáo dục pháp luật là một hoạt động cơ bản, có tầm
quan trọng đặc biệt đối với quá trình nâng cao ý thức pháp luật. Nếu học tập,
hiểu biết pháp luật được xác định là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi
công dân thì giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật là những nhiệm vụ
không thể thiếu của mọi nhà nước. Trên thực tế, xử sự hợp pháp của mọi chủ
thể, sự hiểu biết pháp luật và ý thức sống theo pháp luật của mọi công dân
chính là thước đo chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật.
Giáo dục pháp luật bao hàm cả phổ biến pháp luật được hiểu theo các nội
dung sau:
Thứ nhất, hoạt động giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ
quan mà trước hết là hoạt động giáo dục định hướng, có tổ chức, có chủ định
thành một hệ thống của nhiều chủ thể (các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ
chức xã hội...)
Thứ hai, giáo dục pháp luật là hình thức giáo dục cụ thể. Giáo dục pháp
luật có những nét đặc thù khác một cách tương đối với các dạng giáo dục khác
ở các điểm sau:
+ Một là, giáo dục pháp luật có mục đích riêng của mình. Đó là hoạt
động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy
định của pháp luật, làm cho công dân tự giác tuân thủ pháp luật, có ý thức pháp
luật cao, góp phần tăng cường hiệu quả của pháp luật.
+ Hai là, giáo dục pháp luật có nội dung riêng là truyền tải tri thức của
nhân loại nói chung, của Nhà nước nói riêng về Nhà nước và pháp luật mà
trong đó pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận cơ bản quan
trọng nhất.
+ Ba là, xét trên các yếu tố đối tượng, hình thức và phương pháp của
giáo dục pháp luật cũng có nét riêng. Chẳng hạn như so với các dạng giáo dục
khác thì giáo dục pháp luật là quá trình tác động thường xuyên, liên tục, lâu dài
hơn chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục.
Vì thế, giáo dục pháp luật trở thành sợi chỉ đỏ xuyên qua gia đình, trường học,
các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước và Đoàn thể xã hội. Nhân tố

25
con người với hành vi và hoạt động hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá
trình tác động qua lại giữa những người giáo dục (chủ thể) với người được giáo
dục (đối tượng). Người được giáo dục là ngƣời chịu sự tác động có tổ chức,
định hướng của các thông tin pháp luật. Vì thế, một vấn đề đặt ra là người giáo
dục phải hiểu được trình độ, đặc biệt là đặc điểm nhân thân của người được
giáo dục pháp luật. Đồng thời, người giáo dục cần phải nắm vững tri thức pháp
luật, biết cách truyền tải nó và là tấm gương, là hình mẫu trong việc tuân theo
pháp luật.
Từ những phân tích trên có thể kết luận : " Phổ biến, giáo dục pháp luật
là những hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể làm công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật tác động lên đối tượng được phổ biến, giáo dục
pháp luật một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở
họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống
pháp luật hiện hành".
Đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở sở tư pháp thành phố Hà
Nội có thể khái quát:
" Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của sở Tư pháp thành phố Hà
Nội nhằm phổ biến pháp luật của nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật
của địa phương, chú trọng những văn bản liên quan trực tiếp đến đời sống
người dân, phản ánh thực tiễn thi hành pháp luật, giải đáp những kiến nghị của
người dân địa phương, qua đó giáo dục quyền con người, quyền được tôn trọng
và bảo vệ đến người dân trên địa bàn thành phố".

26
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN,GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHố HÀ NộI QUA THỰC TIỄN Ở SỞ
TƯ PHÁP THÀNH PHỐ
2.1. Khái quát về kinh tế- xã hội thành phố hà nội và vị trí,chức
năng của sở tư pháp thành phố hà nội trong công tác phổ biến,giáo dục
pháp luật
2.1.1 Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội
- Hà Nội là thủ đô của đất nước,là trung tâm văn hóa,chính trị,xã hội
của cả nước với bề dày lịch sử hơn một ngàn năm văn hiến.Hiện nay cùng với
sự phát triển của đất nước. Thủ đô hà nội đã và đang có những bước phát triển
đột phá về kinh tế-xã hội.Hiện nay thành phố Hà Nội có 29 đơn vị hành chính
trực thuộc gồm 12 quận, 17 huyện, 1 thị xã và 577 đơn vị hành chính cấp xã
gồm: 401 xã, 154 phường, 22 thị trấn, diện tích 3.328,9 km2 với dân số
khoảng hơn 7,5 triệu người,hằng năm có khoảng hơn 500 ngàn người lao
động ngoại tỉnh về Hà Nội làm ăn sinh sống không đăng ký tạm trú .Thành
phần dân cư đa dạng, mật độ dân cư đông đúc, không đều sau khi hợp nhất,
chủ yếu tập trung tại các quận nội thành của Hà Nội. Cơ sở hạ tầng của thành
phố những năm qua ngày càng được xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cải thiện điều kiện sinh
hoạt, lao động của nhân dân.
-Các đặc điểm nêu trên có ảnh hưởng đến công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội theo cả hai hướng:
Thứ nhất, ảnh hưởng tích cực: Dân số đông, với tính cách đặc trưng,
truyền thống là cần cù, thông minh, sáng tạo, giàu lòng yêu nước,Hà Nội là
một trong những trung tâm có mặt bằng dân trí cao nhất của cả nước cùng với
sự tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị - xã hội thời gian qua tại thành phố là
điều kiện thuận lợi để nâng cao dân trí, ý thức và nhu cầu tìm hiểu pháp luật
của người dân. Đồng thời, sự phát triển về mặt kinh tế cũng là tiền đề để có sự
quan tâm, đầu tư thích đáng cho công tác PBGDPL.

27
Thứ hai, ảnh hưởng tiêu cực: Với địa bàn quá rộng; địa hình phức tạp,
thành phần dân cư đa dạng, mật độ dân cư đông đúc, không đều sau khi hợp
nhất, chủ yếu tập trung tại các quận nội thành của Hà Nội, nhà ở, đường xá,
đặc biệt là giao thông công cộng, trật tự vệ sinh và văn minh đô thị nhiều nơi
còn khó khăn, yếu kém. Tốc độ đô thị hóa nhanh cũng kéo theo nhiều bất cập
trong việc giải tỏa, thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng và tranh chấp
khiếu kiện của nhân dân.
2.1.2 Vị trí,chức năng của sở tư pháp thành phố Hà Nội
Sở Tư pháp thành phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn thuộc UBND
Thành phố, thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND Thành phố quản lý
nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp
luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; pháp chế; phổ biến, giáo dục
pháp luật; hòa giải ở cơ sở; hộ tịch; quốc tịch; chứng thực; nuôi con nuôi; lý
lịch tư pháp; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; luật sư; tư vấn pháp luật;
công chứng; giám định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại;
quản tài viên; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Sở Tư pháp có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản theo quy
định của pháp luật; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác
của Ủy ban nhân dân Thành phố; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm
tra, thanh tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tư pháp.
Hàng năm, Sở Tư pháp đã tích cực tham mưu cho UBND thành phố Hà
Nội trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn
tỉnh. Giúp UBND thành phố Hà Nội ban hành Chỉ thị và Kế hoạch tuyên
truyền các văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân
như: Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân Sự, Luật Đất đai, Luật Xây dựng,
Luật Phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Luật
Cư trú, Luật quản lý thuế…

28
2.2 Quy định pháp luật về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại
sở Tư Pháp thành phố Hà Nội
2.2.1 Về tổ chức và quản lý hoạt động công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật tại địa bàn thành phố Hà Nội
Ngay sau khi sát nhập (hợp nhất thành phố Hà Nội và tỉnh Hà Tây cũ),
UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 1292/QĐ-UBND ngày
16/10/2008 về việc thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục
pháp luật của thành phố. Hàng năm, thành phố kiện toàn lại các thành viên
của Hội đồng. Hiện nay, theo Quyết định số 3537/QĐ- UBND ngày 1/8/2011
và Quyết định số 747/QĐ-UBND ngày 4/2/2013 về việc kiện toàn, thay đổi
thành viên thì Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL thành phố gồm 18 người,
trong đó Chủ tịch Hội đồng là đồng chí Phó Chủ tịch UBND thành phố, đồng
chí Phó Giám đốc Sở Tư pháp – Cơ quan thường trực Hội đồng là Phó Chủ
tịch Hội đồng. Hội đồng có nhiệm vụ xây dựng chương trình, kế hoạch phổ
biến dài hạn và hàng năm, chỉ đạo, kiểm tra, tổ chức triển khai các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho các đối tượng.
Công tác phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố đã bám sát
mục tiêu, yêu cầu đặt ra là nhằm phổ cập kiến thức pháp luật cho các tầng lớp
nhân dân, nâng cao hơn nữa trình độ dân trí pháp lý, giáo dục ý thức tuân thủ
pháp luật của nhân dân Thủ đô phục vụ các nhiệm vụ trọng tâm của thành
phố, không ngừng phát huy sáng tạo, đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả
phổ biến giáo dục pháp luật từ cơ sở.
Về cơ cấu tổ chức của Hội đồng phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp
* Cấp Thành phố:
- Bám sát yêu cầu công tác PBGDPL,Hiện nay thành phố Hà Nội đã
thành lập Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL của Thành phố gồm 8 ban
( Ban phối hợp hoạt động trong các cơ quan Nhà nước; Ban phối hợp hoạt
động trong các cơ quan Đảng; Ban phối hợp hoạt động trong các các đoàn
thể, các tầng lớp nhân dân; Ban phối hợp hoạt động trong các doanh nghiệp;

29
Ban phối hợp hoạt động trong các trường học; Ban phối hợp hoạt động trong
các lực lượng vũ trang; Ban phối hợp hoạt động trên các phương tiện thông
tin đại chúng và Ban thư ký Hội đồng). Hàng năm, UBND Thành phố Hà Nội
luôn quan tâm đến việc kiện toàn Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL
Thành phố. Hiện nay, Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL Thành phố có 18
thành viên do đồng chí Phó Chủ tịch UBND Thành phố làm Chủ tịch Hội
đồng. Sở Tư pháp là Thường trực Hội đồng, cộác thành viên Hội đồng phối
hợp công tác PBGDPL Thành phố đồng thời là Lãnh đạo các Sở, ban, ngành,
đoàn thể nên việc triển khai các công tác của Hội đồng tại các Sở, ban, ngành
là tương đối thuận lợi. Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL Thành phố duy
trì họp định kỳ hàng quý, tháng,năm để báo cáo kiểm điểm công tác và bàn
phương hướng trong thời gian tới; tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả hoạt
động từng năm; đề xuất khen thưởng và các biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng hiệu quả công tác PBGDPL trên địa bàn thành phố.
* Cấp quận, huyện, phường, xã, thị trấn:
- 29/29 quận, huyện,thị xã của Hà Nội đều thành lập Hội đồng phối
hợp công tác PBGDPL với 277 thành viên cấp quận, huyện và 2.265 thành
viên cấp xã, phường do Chủ tịch hoặc phó Chủ tịch UBND làm Chủ tịch Hội
đồng, cơ quan tư pháp làm thường trực Hội đồng. Hàng năm các quận, huyện
đều kiện toàn Hội đồng phối hợp công PBGDPL và ban hành kế hoạch
PBGDPL của địa phương.
Về đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL
Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tuyên truyền PBGDPL hiện
nay trên địa bàn Thành phố có khoảng 4500 người bao gồm:
- Thành viên của Hội đồng Phối hợp chỉ đạo PBGDPL từ thành phố
đến quận, huyện, phường, xã có 2664 người;
- Cán bộ tư pháp từ thành phố đến quận, huyện, phường, xã; cán bộ
pháp chế ngành. Hiện nay, công tác tư pháp cơ sở được phân cấp quá nhiều
việc. Do cán bộ thiếu ( 80 % các xã, phường của Hà Nội chỉ có 01 cán bộ tư

30
pháp) nên không có cán bộ chuyên trách làm công tác PBGDPL do đó phần
nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng công tác PBGDPL ở cơ sở.
- Đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên đã tăng cả về số lượng và
chất lượng so với trước khi triển khai Chương trình PBGDPL của Chính phủ.
+ Hiện nay, Thành phố Hà Nội có 65 báo cáo viên pháp luật cấp Thành
phố và 663 báo cáo viên cấp huyện. 5 năm qua, Hội đồng phối hợp công tác
PBGDPL cấp Thành phố và quận, huyện tổ chức được trên 400 lớp tập huấn
nghiệp vụ, kỹ năng PBGDPL và các văn bản pháp luật mới ban hành cho các
báo cáo viên để giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ PBGDPL cho cán bộ và
nhân dân Thủ đô.
+ Việc xây dựng và củng cố đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật tại cơ
sở thường xuyên được các quận, huyện , phường, xã quan tâm. Hiện nay
thành phố có 1.574 tuyên truyền viên pháp luật. Đây là đội ngũ gồm những
cán bộ ở cơ sở, nhiệt tình công tác, am hiểu pháp luật, có khả năng tiếp cận
với mọi đối tượng, truyền đạt kiến thức pháp luật thông qua nhiều kênh, nhiều
hình thức, góp phần tích cực trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống. Thời
gian qua, đội ngũ tuyên truyền viên ở cơ sở hoạt động có hiệu quả, tích cực
tuyên truyền các chủ trương, chính sách, Nghị quyết và văn bản pháp luật của
Đảng và Nhà nước tới các hội viên và nhân dân ở cơ sở thông qua hệ thống
loa truyền thanh, qua các bài viết, hoà giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý, câu lạc
bộ pháp luật v.v..
Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức trong PBGDPL:
Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức của Thành phố đã
tích tích cực tham gia PBGDPL cho các tầng lớp nhân dân. Cụ thể là:
- Các báo cáo viên, tuyên truyền viên tích cực tuyên truyền, phổ biến
pháp luật thông qua các hội nghị, cuộc họp, hoà giải v.v… - Cán bộ, công
chức thông qua hoạt động công vụ của mình đã giải quyết công việc cho công
dân và tuyên truyền, giải thích cho nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh các quy
định của pháp luật ( như cán bộ tiếp dân giải quyết khiếu nại, tố cáo; các cán

31
bộ thuộc bộ phận “ một cửa” thuộc các cơ quan hành chính thực hiện tiếp
nhận và trả kết quả hồ sơ hành chính, công an giao thông, đội quản lý trật tự
xây dựng, thanh tra, cán bộ thu thuế v.v..)
2.2.2 Nguyên tắc và Nội dung công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
của sở Tư Pháp thành phố Hà Nội
Xác định đúng nguyên tắc,nội dung phổ biến,giáo dục pháp luật là yêu
cầu cơ bản để phổ biến,giáo dục pháp luật có hiệu quả thiết thực. Với vị trí là
Thủ đô, trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ
quan trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ
quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về văn hóa, giáo
dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước, Hà Nội
cũng là một trong những trung tâm có mặt bằng dân trí cao nhất của cả nước.
Đảng, Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản quan trọng về Thủ đô Hà Nội.
Những văn bản này đã và đang có những tác động to lớn thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô trong đó văn bản pháp lý mang ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với thành phố Hà Nội là Luật Thủ đô, có hiệu lực từ ngày
1/7/2013.
Nội dung,nguyên tắc phổ biến giáo dục pháp luật của sở Tư Pháp thành
phố Hà Nội cũng nằm chung trong những nội dung PBGDPL chung của cả
nước. Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm chung thì hoạt động PBGDPL của sở
tư pháp Hà Nội có những đặc điểm riêng do điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
của thành phố với vị thế là Thủ đô quy định.
Thực hiện chủ trương Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc
dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách.. trong những năm qua thành phố Hà
Nội đã tập trung PB, GDPL các văn bản pháp luật về kinh tế trên các lĩnh vực
sau:
- Phổ biến, giáo dục pháp luật về tổ chức, điều hành và quản lý doanh
nghiệp của Hà Nội. Thành phố tập trung phổ biến Luật doanh nghiệp năm

32
2014, Luật đầu tư nước ngoài, các văn bản pháp luật về sắp xếp, cổ phần hóa
doanh nghiệp…
- Phổ biến, giáo dục pháp luật về địa vị pháp lý, quyền và các nghĩa vụ
của các tổ chức, cá nhân trong quan hệ kinh doanh. Văn bản pháp luật quan
trọng, hàng đầu trong lĩnh vực này là Bộ luật Dân sự 2015. Ngoài ra, thành
phố cũng chủ trương tập trung phổ biến Luật Đầu tư, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật
cạnh tranh...
- Phổ biến, giáo dục pháp luật về thương mại, cạnh tranh, pháp luật về
chứng khóan và thị trường chứng khóan. Với đặc điểm là một trong hai trung
tâm giao dịch chứng khóan, Hà Nội đã trở thành trung tâm lớn về tài chính,
chứng khóan, ngân hàng không những của cả nước mà còn của cả khu vực.
Thành phố tập trung phổ biến các văn bản pháp luật về các lĩnh vực này như
Luật Chứng khoán, Luật thương mại năm 2005, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh.
- Phổ biến, giáo dục pháp luật về các văn bản pháp luật về đất đai, giải
phóng mặt bằng. Các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này mà thành phố
thường xuyên phổ biến là Luật Đất đai năm 2013; các Nghị định quy định về
khung giá đất, các quyết định hàng năm của thành phố quy định về khung giá
đất, đối tượng nộp thuế, quy trình, thủ tục hành chính về cấp sổ đỏ, Nghị định,
quy định về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư…
- Phổ biến giáo dục pháp luật về các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh quyền và nghĩa vụ của người lao động, của người sử
dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao
động. Cụ thể thành phố luôn tập trung tuyên truyền Bộ luật lao động; Luật
Bảo hiểm xã hội; Luật Công đoàn, các văn bản pháp luật về bảo hiểm thất
nghiệp, đình công…
2.2.3 Các chủ thể, hình thức và phương pháp phổ biến giáo dục
pháp luật của sở Tư Pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội

33
Với mật độ dân cư đông, khối lượng các văn bản pháp luật cần phổ biến
lớn, ngoài việc "chọn luật" để phổ biến, sở Tư Pháp thành phố còn lựa chọn
các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở sao cho phù hợp với Hà
Nội. Cụ thể, hiện nay thành phố đang áp dụng các hình thức phổ biến hiệu quả
nhất:
PBGDPL thông qua hình thức tuyên truyền miệng :Trong năm 2017,
Sở Tư Pháp thành phố đã tổ chức 12 Hội nghị quán triệt các văn bản của
Trung ương và thành phố về công tác tuyên truyền PBGDPL và các Chỉ thị,
Kế hoạch triển khai tuyên truyền, thực hiện các Văn bản pháp luật quan trọng
như: Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Dân sự, Luật
phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí v.v....
Theo thống kê chưa đầy đủ trong 5 năm qua, Hội đồng phối hợp công
tác PBGDPL các cấp trên địa bàn Thành phố đã tổ chức 11.327 hội nghị, tập
huấn giới thiệu pháp luật hoặc lồng ghép giới thiệu pháp luật cho gần 2 triệu
lượt người nghe. Riêng các quận, huyện, phường, xã, thị trấn tổ chức hơn
9.000 hội nghị bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho hơn 1.100.000 lượt cán bộ,
nhân dân tham dự.
PBGDPL trên các phương tiện thông tin đại chúng : Thủ đô Hà Nội là
địa phương có các cơ quan thông tin đại chúng trên địa bàn nhiều nhất trong
cả nước với hàng trăm cơ quan báo đài, bản tin của Trung ương và Hà nội, đài
truyền thanh của quận, huyện, phường, xã. Hội đồng phối hợp công tác
PBGDPL Thành phố phối hợp với Ban tuyên giáo Thành uỷ, Sở Văn hoá
Thông tin, Báo Hà Nội mới, Đài Phát thanh truyền hình Hà Nội, Báo Kinh tế
Đô thị , Báo pháp luật và Xã hội và các báo khác… tiến hành nhiều hoạt động
nhằm đẩy mạnh côngg tác tuyên truyền PBGDPL. Ban tuyên giáo Thành uỷ
duy trì giao ban báo trí hàng tuần, chỉ đạo các báo, đài xây dựng chuyên mục
tăng cường tuyên truyền PBGDPL cho các tầng lớp cán bộ và nhân dân, đồng
thời định hướng kịp thời công tác truyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị,
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Trong 5 năm qua, các cơ quan

34
thôngg tin đại chúng của Thủ đô đã tích cực tuyên truyền phục vụ bầu cử
HHĐND các cấp, bầu cử đại biểu Quốc hội, tuyên truyền các chủ trương,
chính sách về giải phóng mặt bằng, an tòan giao thông, phòng chống ma tuý,
mại dâm, HIV/AIDS, an toàn vệ sinh thực phẩm..v.v…
PBGDPL thông qua các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật :
Trong 5 năm qua, Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL Thành phố và
các ngành, đoàn thể thành phố ( Công an, Liên đoàn lao động Thành phố, Sở
giáo dục v.v…) đã tổ chức được nhiều cuộc thi, hội thi (thi viết, thi sân khấu
hoá) như : Thi tìm hiểu về Bộ Luật Lao động, Luật giao thông đường bộ,
Pháp lệnh điều tra hình sự, Pháp luật phòng chống ma tuý, mại dâm, HIV/
AIDS ; Giáo viên dạy giỏi môn giáo dục công dân; học sinh Thủ đô thực hiện
nếp sống văn minh đô thị , hoà giải viên giỏi v.v…thu hút đông đảo cán bộ
công chức và các tần lớp nhân dân tham gia. Các quận, huyện đã tổ chức hơn
300 cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật hoặc gắn với chủ đề pháp luật.
-Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua biên soạn và phát hành tài liệu
PBGDPL:
Đây là một hình thức tuyên truyền có hiệu quả, thông qua hình thức
này, các quy định của pháp luật được tuyên truyền rộng rãi đến nhiều đối
tượng. 5 năm qua, Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL các cấp, các ngành
luôn quan tâm coi trọng biên soạn, in, phát hành tờ gấp, tài liệu tuyên truyền
pháp luật. Sở Tư pháp- Thường trực Hội đồng tiến hành phối hợp biên soạn
và phát hành gần 40.000 cuốn sách hỏi - đáp pháp luật về bầu cử, Bộ luật Dân
sự, phòng chống tội phạm, hỏi- đáp pháp luật dành cho cán bộ công chức, phụ
nữ, nông dân và nhân dân ở cơ sở v.v… ; 18.000 cuốn tài liệu hướng dẫn
nghiệp vụ hoà giải ở cơ sở để phát hành đến các tổ hoà giải ở cơ; biên soạn,
in, phát hành trên 1.000.000 tờ gấp tuyên truyền pháp luật bầu cử HĐND các
cấp, Luật đất đai, Pháp luật về an toàn giao thông, Luật Cư trú v.v...; các
quận, huyện phát hành gần 50.000 bản tin và trên 100.000 pa nô, áp phích có
nội dung tuyên truyên pháp luật. Một số đơn vị quận, huyện quan tâm biên

35
soạn tài liệu tuyên truyền pháp luật như : Ba Đình, Tây Hồ, Hoàng Mai, Hoàn
Kiếm, Thanh Xuân, Long Biên, Từ liêm…
-Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xây dựng, quản lý và
khai thác Tủ sách pháp luật :
Thực hiện Kế hoạch của UBND Thành phố, ngành Giáo dục, ngành
Công an, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc ngành Công nghiệp và khối
Liên đoàn lao động Thành phố đã triển khai xây dựng tủ sách pháp luật ở các
đơn vị, các trường học và các đơn vị sản xuất kinh doanh, công an phường
trên địa bàn Hà Nội. Việc khai thác tủ sách pháp luật ở các đơn vị này đã có
hiệu quả rất thiết thực.
Đến nay, 100% quận, huyện, phường, xã, thị trấn trên địa bàn Hà Nội
đều có tủ sách pháp luật đặt tại trụ sở UBND, cá biệt có nhiều phường, xã đã
xây dựng thêm một số tủ sách pháp luật đặt tại thư viện, nhà văn hoá, cụm
dân cư, tổ dân phố v.v...chưa kể tủ sách đặt tại các điểm bưu điện văn hoá xã.
Hình thức đưa tủ sách pháp luật đến với người dân cũng rất phong phú như :
Luân phiên túi sách pháp luật giữa các cụm dân cư, các khu phố v.v...). Hàng
năm, các phường, xã, thị trấn đều quan tâm đầu tư kinh phí (từ 1.200.000đ
đến 2.000.000đ) để mua bổ sung đầu sách mới (theo hướng dẫn của Sở Tư
pháp và phòng Tư pháp quận, huyện) cho tủ sách pháp luật và đặt ở những
nơi thuận tiện phục vụ việc tra cứu của cán bộ cũng như nhân dân trên địa bàn
có nhu cầu. Những đơn vị làm tốt công tác xây dựng, quản lý, khai thác, sử
dụng tủ sách pháp luật như: Hoàn Kiếm, Cầu Giấy, Đống Đa, Thanh Xuân,
Thanh Trì…
- Phổ biến giáo dục pháp luật trong trường học:
Trong những năm qua đã được UBND thành phố quan tâm đưa vào Kế
hoạch PBGDPL hàng năm của thành phố. Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp
với Sở Tư pháp chỉ đạo 100% các trường học xây dựng, củng cố tủ sách, ngăn
sách pháp luật; vào dịp hè hàng năm tổ chức các lớp tập huấn bồi dƣỡng kiến
thức pháp luật cho giáo viên các trƣờng 75 phổ thông trung học và phổ thông

36
cơ sở trên địa bàn thành phố về Luật Giao thông đường bộ, Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật phòng, chống ma tuý, Luật Giáo dục, Luật
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật phòng, chống mua bán người v.v...;
Tổ chức các cuộc thi: Giáo viên dạy giỏi môn giáo dục công dân; học sinh
Thủ đô thực hiện nếp sống văn minh đô thị (với nội dung chủ yếu là thi tìm
hiểu Luật Giao thông đƣờng bộ, Luật phòng chống ma tuý, thi hát các ca
khúc pháp luật….), tổ chức cho học sinh ký cam kết không sử dụng ma tuý,
không vi phạm pháp luật v.v... duy trì và từng bước nâng cao chất lượng dạy
và học pháp luật trong nhà trường, triển khai phổ biến giáo dục pháp luật
trong toàn ngành.
-Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua công tác hoà giải ở cơ sở:
Sở Tư pháp và Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố đã
triển khai, hướng dẫn liên tịch số 01/ HD - LT về tiếp tục củng cố, kiện toàn,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hoà giải ở cơ sở trên địa bàn Thành
phố đến 29/29 quận, huyện,thị xã; Chỉ đạo Tư pháp các quận, huyện tiếp tục
tuyên truyền, phổ biến Pháp lệnh và Nghị định của Chính phủ về công tác hoà
giải ở cơ sở, các văn bản chỉ đạo của Thành uỷ, UBND Thành phố về công
tác hoà giải trên địa bàn Hà Nội. Các cấp uỷ đảng, chính quyền ở quận, huyện
quan tâm chỉ đạo tăng cường công tác PBGDPL thông qua các hoạt động hoà
giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ở cơ sở. Ngành Tư pháp - Thường
trực Hội đồng phối hợp chỉ đạo PBGDPL phường, xã, thị trấn đã phối hợp với
UBMTTQ, Hội phụ nữ, Hội Cựu Chiến binh, Hội Nông dân… tham mưu
giúp UBND cùng cấp củng cố, kiện toàn được 2.923 tổ hoà giải với 13.967
hoà giải viên. 5 năm qua, các tổ hoà giải ở cơ sở đã hoà giải thành trên
25.117/29.692 vụ mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân ở cơ sở
( 84 %). Thông qua công tác hoà giải, các hoà giải viên đã tiến hành tuyên
truyền, phổ biến các văn bản pháp luật có liên quan đến các bên tranh chấp,
giúp họ nắm được các quy định của pháp luật, vì tình làng, nghĩa xóm tự
nguyện giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, góp phần giữ gìn ổn định trật tự an

37
toàn xã hội ngay từ cơ sở. Hoà giải viên ở cơ sở đồng thời còn là tuyên truyền
viên PBGDPL cho hàng ngàn lượt người dân, hộ gia đình chấp hành chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Một số quận, huyện đạt tỷ lệ hoà giải
thành cao như : Ba Đình, Từ Liêm, Đông Anh, Sóc Sơn, Hai Bà Trưng....
Ngoài các hình thức PBGDPL chủ yếu nêu trên, Thành phố Hà Nội
còn triển khai một số hình thức tuyên truyền, PBGDPL có hiệu quả thông qua
mô hình các Câu lạc bộ ( Câu lạc bộ phòng chống tội phạm, Câu lạc bộ Phụ
nữ với pháp luật, Câu lạc bộ sau cai nghiện (B93), Câu lạc bộ phòng chống tệ
nạn xã hội), thông qua các phiên toà lưu động xét xử các bị cáo phạm tội buôn
bán, tàng trữ sử dụng các chất ma tuý, đánh bạc, môi giới mại dâm, trộm cắp,
chống người thi hành công vụ, đua xe, mất trật tự công cộng v.v... có tác dụng
tuyên truyền pháp luật và giáo dục phòng ngừa chung.
Mô hình “ Nhóm nòng cốt” tại một số phường, xã chỉ đạo điểm theo
Chương trình hành động quốc gia PBGDPL của Thành phố đã thực hiện
tuyên truyền PBGDPL có hiệu quả trong cộng đồng dân cư ở cư ở cơ sở. Mô
hình tổ Hoà giải “5 tốt” với tiêu chí hoà giải thành trên 80% các vụ tranh
chấp, mâu thuẫn đã góp phần tích cực trong công tác tuyên truyền PBGDPL
cho nhân dân ở cơ sở.
2.3 Một số nhận xét trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn thành phố Hà Nội
2.3.1 Những thành tựu, kết quả đạt được xét trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội
Được sự quan tận tình chỉ bảo hướng dẫn của các cán bộ sở Tư
Pháp,em đã được tiếp xúc,tìm hiểu và nghiên cứu các thông tin,văn bản chỉ
đạo,báo cáo công tác.Trong phần này, em chủ yếu trình bày những kết quả
thực tiễn đạt được của một số quận, huyện trong quá trình thực hiện đường lối
chỉ đạo của Sở tư pháp về thực hiện chương trình PBGDPL.
Kết qủa hoạt động của các cơ quan ban, ngành, đoàn thể thành phố.

38
- Ban tuyên giáo thành uỷ: Thường xuyên cung cấp thông tin, bồi
dưỡng kiến thức pháp luật cho 200 báo cáo viên cấp thành phố và 800 báo
cáo viên của 29 quận huyện, tích cực phối hợp với Sở tư pháp thành phố mở
chuyên mục"Tình hình phổ biến giáo dục pháp luật", định kỳ trên bản tin
thông tin nội bộ; chỉ đạo các báo, đài của Hà Nội tổ chức thông tin tuyên
truyền PBGDPL với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, thông qua các
chuyên trang, chuyên mục, các tin, bài phóng sự phản ánh tình hình PBGDPL
trên địa bàn thành phố.
- Sở Tư pháp - Thường trực hội đồng phối hợp công tác PBGDPL:
+ Xây dựng kế hoạch công tác PBGDPL năm 2018.Tổ chức hội nghị
tập huấn cho trên 200 lượt báo cáo viên pháp luật của thành phố và quận
huyện về kỹ năng tuyên truyền PBGDPL, luật cán bộ công chức, luật thi hành
án dân sự.
+ Tham mưu cho lãnh đạo Sở giúp UBND thành phố ban hành Kế
hoạch tổ chức hội thi "hoà giải viên giỏi" của thành phố năm 2009; giúp
UBND thành phố tổ chức hội thi "hoà giải viên giỏi" cấp thành phố năm
2017.
+ Tổng kết 5 năm thực hiện chỉ thị 32/CT - TW ngày 09/12/2003 của
ban bí thư TW Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, trình
UBND thành phố, thành uỷ tổ chức tổng kết.
- Công an thành phố : Tổ chức tuyên truyền Luật bảo hiểm y tế, Luật
cán bộ công chức, Luật công nghệ cao, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thi
hành án dân sự... Triển khai tập huấn các văn bản pháp luật mới ban hành và
các văn bản có liên quan đến lĩnh vực của ngành cho cán bộ chiến sĩ trong lực
lượng công an thành phố như: Luật giao thông đường bộ cho cán bộ chiến sĩ
cảnh sát giao thông và lực lượng cảnh sát tuần tra, Luật giao thông đường
thủy, pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự sửa đổi; ban hành kế hoạch kiểm tra,
khảo sát thực tế việc PBGDPL và triển khai tổ chức pháp chế quận, huyện

39
trên cơ sở đó chỉ đạo các đơn vị trong công an thành phố tổ chức tổng kết 5
năm thực hiện chỉ thị số 32- CT/TW của Ban bí thư; Chỉ đạo các đơn vị xây
dựng tủ sách pháp luật để cán bộ cơ sở nghiên cứu, tra cứu phục vụ nhiệm vụ
chuyên môn...
- Liên đoàn lao động thành phố: Xây dựng và triển khai kế hoạch công
tác tuyên truyền PBGDPL năm 2018. Tổ chức tuyên truyền Luật phòng chống
HIV/AIDS, Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm thất nghiệp.
- Hội nông dân thành phố: triển khai kế hoạch thực hiện công tác
PBGDPL tới các huyện, quận hội và cơ sở. Tổ chức hội nghị quán triệt Chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng, nhà nước tới cán bộ hội viên nông dân. Duy trì và
nhân rộng các điểm chỉ đạo thực hiện chỉ thị số 26/CP, các câu lạc bộ "nông
dân với pháp luật". Tổ chức tuyên truyền các văn bản như: Luật giải quyết
khiếu nại tố cáo, Luật phòng chống tham nhũng, Luật bảo hiểm y tế, Luật
giao thông đường bộ, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật các văn bản
pháp luật về giải phóng mặt bằng, pháp lệnh tổ chức và hoạt động ở cơ sở ...
- Hội liên hiệp phụ nữ thành phố Hà Nội: xây dựng và triển khai kế
hoạch tuyên truyền PBGDPL năm 2018. Tổ chức nhiều lớp tập huấn và nói
chuyện chuyên đề cho cán bộ Hội về Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật
hôn nhân gia đình, Luật khiếu nại tố cáo...
- Hội luật gia thành phố: đã xây dựng củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ
phụ trách tuyên truyền pháp luật, báo cáo viên, tuyên truyền viên của các cấp
hội. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho báo cáo viên của Thành hội
và các huyện, quận hội những văn bản pháp luật mới ban hành. Chủ động
phối hợp tham gia thực hiện "Ngày pháp luật".
- Các sở, ban, ngành đoàn thể: Sở Văn hoá, thể thao và du lịch; Sở
Giáo dục và đào tạo; Sở Giao thông vận tải; Mặt trận tổ quốc thành phố, Hội
cựu chiến binh thành phố... đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai công
tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực

40
liên quan đến đơn vị mình. Một số đơn vị thành lập Hội đồng phối hợp công
tác PBGDPL, ban hành quy chế hoạt động của Hội.
Kết quả cụ thể ở các quận huyện:
*Công tác tuyên truyền PBGDPL:
- Nội dung tuyên truyền, PBGDPL: Các quận huyện đã tập trung tuyên
truyền các văn bản pháp luật đó được Quốc hội thông qua; các văn bản qui
phạm pháp luật có liên quan đến đời sống nhân dân ở cơ sở và phục vụ nhiệm
vụ chính trị ở địa phương như: Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực
gia đình, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật giao thông đường bộ, Luật phòng
chống ma tuý, Luật cư trú, Luật nhà ở, Luật cán bộ công chức, Luật thi hành
án dân sự, Luật phòng chống HIV/AIDS, phòng chống buôn bán phụ nữ trẻ
em. Các văn bản qui phạm pháp luật của trung ương và thành phố thuộc lĩnh
vực đất đai, bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất, bảo vệ môi trường,
xây dựng, trật tự đô thị, an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Hình thức tuyên truyền được áp dụng phổ biến:
+ Tuyên truyền miệng: Hội nghị, tập huấn, hội thảo, toạ đàm, nói
chuyện chuyên đề, lồng ghép với các hội nghị khác...
+ Tuyên truyền phổ biến các văn bản pháp luật mới ban hành, các chủ
trương, chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật của trung ương và thành
phố đến người dân thông qua đài truyền thanh của quận, huyện và hệ thống
loa truyền thanh ở cơ sở.
- Phát hành các tài liệu hỏi - đáp pháp luật, tờ gấp của thành phố và của
quận huyện: các quận, huyện đã tích cực tham gia phát hành tài liệu tuyên
truyền pháp luật của hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
thành phố đến cán bộ và nhân dân ở cơ sở. Một số đơn vị như Ba Đình,
Hoàng Mai, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Thanh Trì, Gia lâm, Thường Tín, Sơn
Tây, Hoài Đức... đã tích cực, chủ động biên soạn tài liệu phục vụ công tác
tuyên truyền trên địa bàn.

41
- Thực hiện "Ngày pháp luật": trên cơ sở kế hoạch và hướng dẫn của
thành phố, các quận, huyện đã ban hành kế hoạch và công văn hướng dẫn
thực hiện "ngày pháp luật" trên địa bàn, theo đó một số quận huyện chọn một
ngày trong tháng để cán bộ công chức học tập, nghiên cứu các văn bản qui
phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn để phục vụ nhiệm vụ
hàng ngày; triển khai tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật mới ban
hành có liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân thông qua các hội nghị, họp
tổ dân phố, thôn, xóm, sinh hoạt chi bộ...
*Công tác hoà giải.
- Tổ chức thi hoà giải viên giỏi: Hội thi "hòa giải viên giỏi" của các
quận, huyện, thị xã đã được sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo, tạo điều kiện của
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, huy động sự tham gia của các ban ngành đoàn
thể mà nòng cốt là ngành tư pháp và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc. Các quận,
huyện, thị xã đã lựa chọn được 29 hoà giải viên giỏi đại diện cho 34 nghìn
hoà giải viên thành phố Hà Nội tham dự cuộc thi. Nhiều quận huyện tổ chức
tốt cuộc thi từ cơ sở như: Mỹ Đức, Thường Tín, Đan Phượng, Quốc Oai, Ba
Vì, Long Biên, Tây Hồ, Cầu giấy, Hoàn Kiếm, Thanh Trì, Hoàng Mai...
- Củng cố kiện toàn tập huấn nghiệp vụ cho các hoà giải viên:
Các quận huyện đã quan tâm củng cố, kiện toàn, phát giấy chứng nhận
"Hoà giải viên" cho thành viên tổ hoà giải ở cơ sở. Đến nay thành phố Hà Nội
có 34.079 hoà giải viên giỏi; mô hình tổ hoà giải "5 tốt" đang được các đơn vị
triển khai, nhân rộng. Hiện nay một số đơn vị có tổ hoà giải "5 tốt" chiếm tỷ
lệ khá cao như: Từ Liêm (86,7%), Hoàn Kiếm (82,5%), Gia lâm (52%), Ba
Đình (50%)...; tổ chức tập huấn kỹ năng, nghiệp vụ, công tác hoà giải cho các
hoà giải viên. Một số đơn vị quận huyện đã tổ chức tập huấn cho 100% hoà
giải viên ở cơ sở như: Hoàn Kiếm, Long Biên, Từ Liêm, Gia Lâm, Phúc Thọ,
Thường Tín...
2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc của công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội

42
- Trước hết, ý thức pháp luật của nhân dân chưa đồng đều, chưa đáp
ứng được nhu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới, của thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế. Sự hiểu biết pháp luật, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như:
Trình độ dân trí, điều kiện và vị trí xã hội, đặc điểm về giới tính, lứa tuổi,
kinh nghiệm cá nhân. Thực tế là dân cư tại những quận nội thành thuộc Hà
Nội cũ, quận Hà Đông có tỷ lệ dân trí cao, đều hơn so với các huyện ngoại
thành của Hà Tây trước đây. Tuy nhiên, có nghịch lý rằng, dân trí càng cao thì
khiếu kiện phức tạp càng nhiều, người dân ở cơ sở - phường, thị trấn thường
có tâm lý coi thường trình độ của cán bộ cơ sở, thường khiếu kiện vượt cấp,
kéo dài.
- Thứ hai, nội dung phổ biến giáo dục pháp luật còn nghèo nàn, khô
cứng, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật chưa thực sự đổi mới nên chưa
hấp dẫn người dân.
- Thứ ba, việc xây dựng, ban hành các văn bản nhằm triển khai công tác
tuyên truyền chưa kịp thời
Hiện nay, khối lượng luật được ban hành, sửa đổi nhiều, hệ thống các
văn bản pháp luật dưới luật như Nghị định, Thông tư lại rất nhiều, có thể nói
rằng hầu hết các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội được điều chỉnh bởi
luật. Tuy nhiên, khi triển khai tuyên truyền, từ việc “chọn luật”, ban hành các
kế hoạch triển khai, xây dựng các tài liệu tuyên truyền như tờ rơi, sách hỏi –
đáp lại rất chậm, chưa kịp thời nên đã làm hạn chế việc phổ biến tới người
dân, hay nói cách khác, đến khi văn bản tài liệu được chuyển đến thì đã hết
tính thời sự, người dân đã tìm hiểu nội dung văn bản thông qua các phương
tiện khác rồi.
- Thứ tư, việc thực thi công tác tuyên truyền còn hình thức, một số cấp
uỷ Đảng còn chưa quan tâm. Một số cán bộ lãnh đạo Cấp ủy Đảng, chính
quyền chưa quan tâm đúng mức đến công tác PB,GDPL (công tác chỉ đạo,
kinh phí..) đã dẫn đến tình trạng ở một số địa phương, đơn vị còn thụ động
hoặc triển khai công tác tuyên truyền tại các xã, phường, thị trấn một cách

43
hình thức, không có chất lượng. Các phường trong nội thành của Hà Nội trước
đây, do nguồn kinh phí ổn định, nên việc đầu tư ngân sách cho công tác này
khá lớn. Nhiều huyện, xã, vùng sâu, vùng xa khó khăn, thì việc đầu tư kinh
phí hạn chế, do vậy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đạt được hiệu
quả như mong muốn.
- Thứ năm, Công tác kiểm tra, đánh giá định kỳ chưa thường xuyên.
Hầu hết các đơn vị chưa thực hiện nghiêm chế độ báo cáo, thông tin định kỳ
về công tác PBGDPL với UBND thành phố và cơ quan thƣờng trực Hội đồng
phối hợp công tác phổ biến giáo dục thành phố đã ảnh hưởng đến tiến độ báo
cáo với cấp trên, thông tin không kịp thời, triển khai tiến độ công việc chậm.
- Thứ sáu, việc không ổn định của đội ngũ những người làm công tác
tuyên truyền. Hội đồng hoạt động chủ yếu phụ thuộc vào sự tham mưu của cơ
quan Thường trực (cấp Thành phố, cấp quận, huyện), và cán bộ Tư pháp (cấp
phường, xã). Phụ cấp trách nhiệm hàng tháng của thành viên Hội đồng còn
thấp, hiện chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
- Thứ bảy, sự hạn chế về kinh phí và phương tiện, ở các quận, huyện,
phường, xã, tùy theo nhận thức của Lãnh đạo UBND mà việc bố trí kinh phí
dành cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật từng nơi có khác nhau. Không
ít nơi, việc bố trí kinh phí cho hoạt động của Hội đồng PHCT PBGDPL được
gộp chung vào nguồn kinh phí của văn phòng HĐND - UBND. Kinh phí dành
cho công tác tuyên truyền PBGDPL còn hạn hẹp đặc biệt ở phường, xã, thị
trấn.
2.3.3. Những nguyên nhân hạn chế của công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội
Từ thực tế thực hiện công tác PBGDPL ở thành phố Hà Nội nhận thấy
có nhiều nguyên nhân, cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến những hạn chế,
khiếm khuyết. Trong đó, có những nguyên nhân cơ bản sau:

44
Sau khi mở rộng, thành phố Hà Nội có diện tích tương đối rộng,thành
phần dân cư đa dạng ,trình độ nhận thức chưa đồng đều, chưa đáp ứng được
nhu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới, của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Lãnh đạo một số ban, ngành, đoàn thể, địa phương ở huyện,xã chưa
nhận thức và ý thức đầy đủ về trách nhiệm của ngành, địa phương mình đối
với công tác PBGDPL cũng như về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công
tác này dẫn đến thiếu chủ động, không có tinh thần trách nhiệm trong việc tổ
chức và phối hợp tổ chức thực hiện công tác PBGDPL
Cơ sở pháp lý của công tác PBGDPL thiếu sự hướng dẫn đồng bộ, cụ
thể nên việc triển khai công tác gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là chưa quy định
cụ thể để xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp, huy động nguồn lực có
hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các tổ
chức chính trị- xã hội
Nội dung PBGDPL là hệ thống các quy định pháp luật còn thiếu đồng
bộ, việc hướng dẫn thực hiện không thống nhất, chồng chéo hay bỏ ngõ đã
gây khó khăn rất lớn cho báo cáo viên, tuyên truyền viên khi tuyên truyền,
phổ biến cũng như làm người dân lúng túng khi tìm hiểu. Nội dung tuyên
truyền, phổ biến cũng mới chỉ dừng lại ở những văn bản luật, pháp lệnh; còn
các văn bản hướng dẫn thi hành ít được quan tâm phổ biến. Hơn nữa, trong
quá trình thực hiện chủ yếu mới dừng lại ở việc tuyên truyền, phổ biến còn
nội dung được triển khai như thế nào, đối tượng nắm bắt đến đâu thì chưa có
sự kiểm tra, đánh giá cụ thể. Vì vậy, ý thức tiếp cận, nắm bắt nội dung
PBGDPL của các đối tượng chưa cao.
Hình thức PBGDPL còn đơn điệu, không hấp dẫn cũng là nguyên nhân
ảnh hưởng đến chất lượng PBGDPL địa bàn thành phố. Hiện nay, hình thức
chủ yếu vẫn là tuyên truyền miệng, qua phương tiện thông tin đại chúng, phát
tờ gấp, tờ rơi, qua Tủ sách pháp luật. Những hình thức đó khi được sử dụng
cũng chưa phát huy hiệu quả như mong muốn, chưa tạo được sức hút, thói
quen đối với người dân. Chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân ở các

45
trường học còn thấp. Những hình thức PBGDPL khác như hòa giải ở cơ sở,
câu lạc bộ, hội thi thu hút được đông đảo người tham gia, nhưng ít có điều
kiện tổ chức.
Tiểu kết chương 2: Được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND,
UBND tỉnh công tác PBGDPL trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những
năm qua đã có những chuyển biến tích cực, các hoạt động PBGDPL đã được
triển khai một cách tương đối đồng bộ, thống nhất có trọng tâm, trọng điểm
trên phạm vi toàn tỉnh. Lãnh đạo các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các tổ chức
đoàn thể đã có những chuyển biến tích cực.Việc chỉ đạo hướng dẫn kiểm tra
thực hiện công tác PB,GDPL đã được các cấp,các ngành quan tâm.Đội ngũ
cán bộ làm công tác PBGDPL ở các ngành các cấp đang từng bước được xây
dựng,củng cố,bên cạnh đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác
PBGDPL đã xây dựng được lực lượng đông đảo có tâm huyết,nhiệt tình trong
công việc.Các hoạt động PBGDPL đã dần đi vào nề nếp theo chương trình,kế
hoạch cụ thể thường xuyên,có trọng tâm,trọng điểm hơn trước.
Nội dung PBGDPL thiết thực gắn liền với từng đối tượng và phù hợp
với nhiệm vụ kinh tế - chính trị của địa phương,yêu cầu nhiệm vụ của các
ngành,các tổ chức đoàn thể.Nhiều nội dung pháp luật đã đi vào cuộc sống
được với mọi tầng lớp nhân dân.
Các hình thức PBGDPL được thực hiện một cách đa dạng phong phú phù
hợp với từng đối tượng cụ thể và đem lại hiệu quả thiết thực.Các ngành các
cấp đã có sự chủ động phối hợp với nhau trong công tác PBGDPL,kết hợp
giữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng,cuộc vận động toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa tại khu dân cư và các hoạt động tuyên truyền
khác.
Hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân dân ngày càng được nâng lên
thông qua việc vận dụng các quy định của pháp luật vào giải quyết công
việc,đông đảo nhân dân đã từng bước chủ động tìm hiểu pháp luật,tích cực
đóng góp ý kiến phản ánh tâm tư nguyện vọng của mình vào quá trình xây

46
dựng và thực hiện pháp luật,trong công tác quản lý nhà nước,xây dựng các
chủ trương chính sách lớn của Đảng,tham gia giám sát hoạt động của các cơ
quan công quyền Nhà nước,đấu tranh phòng chống,tố giác tội phạm,các hành
vi vi phạm pháp luật,góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự,an toàn xã
hội tại thành phố nói chung cũng như các quận,huyện,thị xã nói riêng,đưa Thủ
Đô phát triển trên tất cả các mặt an ninh-chính tri,kinh tế-xã hôi.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn tồn tại một số khó khăn,hạn chế do thành phố có
thành phần dân cư đa dạng, mật độ dân cư đông đúc, trình độ dân trí không
đồng đều do vậy công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đạt được hiệu
quả như mong muốn.Chính vì vậy cần phải có những giải pháp nâng cao chất
lượng,hiệu quả PB,GDPL trên địa bàn thành phố.

47
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI HIỆN NAY
Vấn đề nâng cao chất lượng, hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ
sở xã, phường hiện nay bắt nguồn từ những đòi hỏi khách quan của đất nước
hiện nay. Cụ thể là:
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật bắt nguồn từ việc đề cao
vai trò của pháp luật mà trước hết là giáo dục quyền con người, lấy con người
là trung tâm của giáo dục pháp luật, vai trò của pháp luật trong lĩnh vực kinh
tế, dân sự. Các đơn vị cơ sở mà đặc biệt là cơ sở xã, phường làm địa bàn sinh
sống, lao động sản xuất của mọi người dân cho dù họ làm nghề gì. Địa bàn cơ
sở là nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh, dịch vụ, trao đổi hàng hoá, giao
lưu dân sự, vì thế, rất cần sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Pháp luật dưới chủ nghĩa xã hội: là yếu tố điều tiết (quyết định) việc phân
phối sản phẩm và phân phối lao động giữa các thành viên của xã hội. Trước
đây chúng ta đã chưa nhận thức và đánh giá đầy đủ vai trò, giá trị xã hội của
pháp luật, do vậy, đã không coi trọng vai trò của pháp luật nên ảnh hưởng đến
việc xây dựng pháp luật, giáo dục, phổ biến pháp luật và thi hành pháp luật.
- Đóng vai trò là phương tiện hàng đầu của quản lý Nhà nước đối với
nền kinh tế trong cơ chế thị trường, pháp luật xác định địa vị pháp lý bình
đẳng của các cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo lập các hành lang, các
“khung” pháp lý để cho các cá nhân, tổ chức đó hoạt động phù hợp với giá trị
mà “xã hội có”, “xã hội cần”, “xã hội ủng hộ” . Đồng thời, với tư cách là chủ
thể quản lý, Nhà nước dựa vào các chuẩn mực đó mà điều khiển hoạt động
sản xuất kinh doanh. Thông qua pháp luật, Nhà nước tạo ra “luật chơi” cho
các chủ thể sản xuất kinh doanh và hướng dẫn, điều khiển “cách chơi” cho
các nhà quản lý làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành có hiệu quả.
Pháp luật củng cố và bảo vệ những nguyên tắc vốn có của nền kinh tế
thị trường như: tính quy định của lợi ích, nhu cầu của ngƣời tiêu dùng đối với

48
sản xuất, đảm bảo tôn trọng sự cạnh tranh, trách nhiệm cao của người sản
xuất, kinh doanh. Nhà nước tác động tới nền kinh tế thị trường bằng kế hoạch,
chính sách giá cả, tài chính, thuế, tín dụng... Sự tác động điều tiết vĩ mô đó
cũng được thể hiện dưới hình thức pháp luật. Bằng pháp luật, Nhà nước giải
quyết những vấn đề quan trọng nảy sinh trong nền kinh tế thị trường như: bảo
vệ lợi ích của người tiêu dùng, bảo vệ mô trường sinh thái, quy định các chính
sách bảo hiểm xã hội đối với người về hưu, người thất nghiệp, người già neo
đơn...
Nhận thức được vai trò của pháp luật kinh tế, dân sự trong cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mấy năm gần đây, Nhà nước ta đã
ban hành mới nhiều văn bản pháp luật trong lĩnh vực kinh tế, dân sự làm cho
hệ thống pháp luật của nƣớc ta không ngừng được đổi mới và hoàn thiện. Đặc
biệt trong gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, trong điều kiện
mở rộng, phát triển các lĩnh vực kinh tế, dân sự, phát triển các quan hệ xã hội
với nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, xu hướng cạnh
tranh, phân hoá giàu nghèo phát triển.... chỉ có thể tăng cường sự quản lý của
Nhà nước bằng cơ chế, chính sách, pháp luật, tao ra “khuôn khổ pháp lý” cho
các quan hệ cơ bản trong các lĩnh vực kinh tế, dân sự, xã hội mới có thể đảm
bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển đúng định hướng chính trị, đạt đƣợc
các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng...
Như vậy, cùng với sự đổi mới đất nước mà trước hết là đổi mới kinh
tế, với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
hệ thống pháp luật của Nhà nước ta đang đổi mới và hoàn thiện. Để pháp luật
đi vào cuộc sống và mọi ngƣời dân thực sự “sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật”, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật. Đó là đòi hỏi khách quan, cấp bách đối với mọi đối tượng, trong đó
có nhân dân ở cơ sở xã, phường - những người làm chủ đất nước. Nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở còn do nhu

49
cầu, đòi hỏi của chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững
của đất nước ta, mà Thủ đô Hà Nội phải là địa phương đi đầu trong việc này.
3.1.Nâng cao nhận thức và sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp, các ngành đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Giải pháp hàng đầu là nâng cao nhận thức, năng lực, hiệu quả lãnh
đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng và cấp uỷ, chính quyền các cấp, các ngành đối
với công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Chủ động xây dựng chương trình,
kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tập trung hƣớng mạnh
về cơ sở, nắm chắc tình hình cơ sở để đổi mới cách thức, phƣơng pháp phổ
biến, giáo dục pháp luật cho phù hợp với đối tƣợng, địa bàn, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần củng cố trận địa tư tưởng, tạo thế
đứng chính trị vững chắc trên từng địa bàn. Do vậy:
- Nâng cao chất lượng công tác PB, GDPL ở cơ sở phải dựa trên quan
điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò công tác tuyên truyền:
- Sở Tư Pháp cần trọng công tác chỉ đạo, sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút
kinh nghiệm, nhân rộng các mô hình tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
tốt, có hiệu quả.
- Sở Tư Pháp cần kết hợp giữa việc quán triệt các quan điểm đúng đắn
của Đảng và Nhà nước với việc kiên quyết đấu tranh với các quan điểm lệch
lạc trong công tác PB, GDPL
3.2. Sở Tư Pháp cần hoàn thiện nội dung phổ biến, giáo dục pháp
luật và củng cố các điều kiện đảm bảo thực hiện hiệu quả công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về tăng cường phổ biến,
giáo dục pháp luật, triển khai phổ biến Luật phổ biến giáo dục pháp luật 2012,
Luật Hòa giải ở cơ sở 2013,Luật Thủ Đô 2012 cũng như Quyết định số
705/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương

50
trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021 góp phần Tạo chuyển
biến mạnh mẽ trong nhận thức và ý thức tuân thủ , chấp hành, tự giác học
tập, tìm hiểu pháp luật, xây dựng lối sống và làm việc theo pháp luật trong
toàn xã hội; đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phát triển ổn định, bền
vững, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, góp phần bảo đảm thực hiện đầy
đủ quyền được thông tin về pháp luật của công dân.
- Nâng cấp cơ sở vật chất, kinh phí, điều kiện cho công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật ở các cơ sở
- Tiếp tục đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền
cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+ Thường xuyên mở các lớp tập huấn vào các ngày nghỉ chuyên đề về
những công việc chuyên ngành như: hòa giải, hộ tịch, kỹ năng tiếp dân...
+ Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao mặt bằng trình độ học vấn cho đội ngũ
cán bộ tư pháp cơ sở.
+ Tăng cường, mở rộng và đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Tập trung
chủ yếu vào loại hình đào tạo cơ bản là đào tạo tập trung và tại chức. Nâng cao
trình độ của đội ngũ cán bộ tư pháp cơ sở bằng cách cử đi đào tạo hệ sau đại
học, tránh tâm lý " làm ở cấp phường thì không cần học thạc sỹ".
3.1.2 Sở Tư Pháp cần đổi mới hình thức phổ biến, giáo dục pháp
luật trên địa bàn thành phố Hà Nội
Tăng cường tiềm lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, phát triển
hệ thống thông tin pháp luật quốc gia và mạng lưới thông tin pháp luật; nghiên
cứu khả năng xây dựng kênh truyền hình riêng về phổ biến, giáo dục pháp luật;
đổi mới, kiện toàn về tổ chức, bộ máy chuyên trách theo hướng đảm bảo về số
lượng, nâng cao chất lượng nguồn lực cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; xác định rõ khoản ngân sách hàng năm
cho hoạt động này theo hướng tăng thêm để đáp ứng kịp thời, đầy đủ về kinh
phí, cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động cho công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật. Nâng cao hiệu quả công tác giáo dục - đào tạo luật pháp cho

51
học sinh, sinh viên trong các trường phổ thông, trung học, trung học chuyên
nghiệp, đại học, cao đẳng, trong các trường trọng điểm về đào tạo cán bộ pháp
luật và truyền thông đại chúng; tiếp tục đổi mới chương trình, giáo trình, nội
dung, phương pháp giảng dạy môn giáo dục công dân và pháp luật ví phương
châm học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tiễn, đảm bảo chất lượng, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội nhập quốc tế hiện nay. Đề xuất đổi mới
hình thức tuyên truyền thông qua xã hội hóa các loại hình tuyên truyền như ký
hợp đồng với các hãng truyền thông, các công ty tổ chức sự kiện để tuyên
truyền theo từng chuyên đề, kỳ cuộc, tuyên truyền sâu, có sức lan tỏa và thu hút
người nghe.
3.1.3 Sở Tư Pháp cần thực hiện tốt sự phối hợp giữa các ngành,
các cấp, các cơ quan, đoàn thể,tăng cường công tác kiểm tra giám sát
- Nâng cao hơn nữa công tác phối hợp giữa các Sở, Ban ngành đoàn thể
của thành phố Hà Nội thực hiện chương trình hành động quốc gia của thành
phố Hà Nội về phổ biến giáo dục pháp luật; có sự gắn kết với nội dung cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Chú trọng
tuyên truyền gương điển hình “người tốt, việc tốt”, lấy việc tốt để loại bỏ việc
xấu, lấy người tốt để cảm hoá người chưa tốt. Phát huy sức mạnh tổng hợp
trong hệ thống chính trị làm chuyển biến rõ nét về nhận thức và hành động
của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong chấp hành pháp luật và trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội.
- Đề nghị kết hợp công tác kiểm tra kết hợp với việc phát hiện, tổng kết,
đánh giá mô hình hoạt động, phương pháp, cách làm hiệu quả trong từng Đề
án, từng địa bàn phường, xã, quận, huyện để rút kinh nghiệm, nhân diện rộng.

52
KẾT LUẬN
Quá trình đổi mới đất nước,xây dựng “nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ,
phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, xây dựng một xã hội trong
đó mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc
theo pháp luật. Và phổ biến, giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ
quan, được định hướng trong toàn bộ hoạt động của các tổ chức Đảng, cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội bằng nhiều hình thức khác
nhau nhằm từng bước đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần nâng cao dân trí
và văn hóa cho cán bộ và nhân dân.
Trong thời gian qua, công tác PBGDPL đã được Đảng và Nhà nước ta
hết sức quan tâm, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, góp phần nâng cao hiểu
biết, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Luận văn nghiên cứu
những vấn đề lý luận về PBGDPL, gắn công tác PBGDPL với thực tiễn tại Sở
Tư Pháp nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của công tác
PBGDPL trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Được sự quan tận tình chỉ bảo hướng dẫn của các cán bộ sở Tư
Pháp,em đã được tiếp xúc,tìm hiểu và nghiên cứu các thông tin,văn bản chỉ
đạo,báo cáo công tác. Kết quả báo cáo là cơ sở em đưa ra những kết luận sau
đây:
1. PBGDPL là sự tác động một cách có hệ thống, có mục đích và
thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một
trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật,
tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Trong thời gian qua,
công tác PBGDPL đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu
lực của pháp luật, hiệu quả quản lý của Nhà nước.
2. PBGDPL là một quá trình lâu dài, liên tục; đòi hỏi phải tiến hành
từng bước, không chủ quan nóng vội và hình thức. Phải nghiên cứu tìm tòi,

53
tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện. Kết hợp hài hòa giữa mục
tiêu ổn định lâu dài với các nhiệm vụ cụ thể trước mắt, trong đó không loại
trừ việc thử nghiệm thông qua các “điểm chỉ đạo”
3. Phổ biến, giáo dục kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên
quan đến cuộc sống của các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện để công dân sử
dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, của nhà nước và xã hội. Nâng cao ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu
và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
4. Tạo bước phát triển mới trong công tác PBGDPL để hỗ trợ tích cực
hơn nữa nhu cầu hiểu biết pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý trong cán bộ,
nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển toàn diện con người Việt
Nam, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy nhà nước và trong xã hội, bảo
vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.

54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quốc hội (2013), Hiến pháp 2013


2. Quốc hội (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật
3. Quốc hội (2003), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
4. Quốc hội (2013), Luật Thủ đô, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Dân vận Trung ương , "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và
vấn đề xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
6. Hỏi đáp về quy chế dân chủ ở cơ sở, Lê Đức Tiết (2001), Nxb Lao động,
Hà Nội
7. Bộ Tư pháp , “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật”,
Kỷ yếu dự án VIE/98/001: Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam -
Giai đoạn II, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (2010), Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề Xây dựng
luật phổ biến, giáo dục pháp luât.
9. Hoàng Thị Kim Quế "Nhận diện nhà nước pháp quyền" (2004), Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp , Hà Nội
10. Hoàng Thị Kim Quế, “Bàn về hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở
nước ta hiện nay” (2011), Tạp chí Khoa học pháp lý , Hà Nội.
11. Hòa giải trong Tố tụng Dân sự, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Phạm
Hữu Nghị (2002), số 12
12. Hội đồng PHCT PBGDPL thành phố Hà Nội (2006), Hỏi - Đáp pháp luật
trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội và phòng chống tội phạm
13. Hội đồng PHCT PBGDPL thành phố Hà Nội (2007), Hỏi – Đáp một số
quy định về phòng chống tội phạm, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
14. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1994), Xã hội và pháp luật, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận cơ
bản về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

55
16. Nguyễn Phú Trọng, PGS. TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2003),
Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng, đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Minh Đoan (2011), Ý thức pháp luật, NXB Chính trị Quốc Gia.
18. Đào Trí Úc (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
19. Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ hoà giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà
Nội (tháng 8/2006)
20. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật thành phố Hà Nội
(2006), Hỏi Đáp pháp luật về Thủ đô Hà Nội, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
21. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật thành phố Hà Nội
(2012), Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb Hà Nội, Hà Nội
22. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật thành phố Hà Nội
(2010), Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật ở cơ sở, Kỷ yếu Hội thảo,Hà Nội
23. UBND thành phố Hà Nội (2013), Báo việc tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật và triển khai thực hiện các Luật, Nghị quyết của Quốc hội,
Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội và các văn bản
hướng dẫn thi hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn
thành phố Hà Nội từ 1/8/2008 đến 31/12/2012,Hà Nội
24. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban chỉ đạo sơ kết Chỉ thị 32 của Ban
Bí thư (khóa IX) (2003), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 32 - CT/
TW, ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Hà Nội.

56
25. Kế hoạch số 204/ KH-UBND của UBND thành phố ban hành kế hoạch
thực hiện Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021
trên địa bàn thành phố Hà Nội
26. Kế hoạch số 256/ KH-UBND của UBND thành phố ban hành kế hoạch
Phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật,
xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước trên địa bàn Thành phố Hà
Nội năm 2018
27. UBND thành phố Hà Nội (2011), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện
chương trình hành động phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm
2005 đến năm 2010 trên địa bàn thành phố Hà Nội,Hà Nội.
28. Kết luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011 về kết quả thực hiện chỉ thị số 32-
CT/TW, ngày 09/12/2003 của ban bí thư trung ương Đảng (khoá IX) về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bô, nhân dân
29. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2006), Báo cáo sơ kết 3 năm thực
hiện Chỉ thị 32-CT/TW của Ban Bí thư, Chỉ thị 27-CT/TU của Thành ủy
Hà Nội về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân
trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội

57

You might also like