You are on page 1of 5

Đánh bắt thủy hải sản

 Tương tác giữa môi trường và con người trong việc đánh bắt thủy hải
sản :
_Đại dương đã cung cấp cho chúng ta nguồn cá biển và nhiều loại hải sản dồi dào
trong suốt hàng triệu năm qua.
_ Góp phần vào nguồn lương thực, chế biến, nghiên cứu cho sự sống của con
người.
 Tương tác giữa con người và môi trường trong việc đánh bắt thủy hải
sản :
_ Con người đã bắt đầu khai thác thủy hải sản từ thời cổ đại. Ngày nay, có gần 300
triệu người trên thế giới gián tiếp hoặc trực tiếp sống phụ thuộc vào ngành khai
thác hải sản. Ngày nay, nhờ công nghệ và kĩ thuật hiện đại, việc đánh bắt hải sản
phục vụ nhu cầu của con người đã dễ dàng hơn rất nhiều so với trước đây. Ngày
càng nhiều cá bị đánh bắt, khiến cho lượng cá trên các đại dương giảm đi và cạn
kiệt.
_ Nhu cầu tiêu thụ tăng cao của con người Hải sản từ lâu đã là nguồn thức ăn
phong phú và ưa thích của con người. Ngoài các sản phẩm tươi sống, hải sản còn
được phơi khô, đóng hộp cho việc sử dụng lâu dài. Những năm 50 của thế kỉ 20 đã
chứng kiến cuộc bùng nổ dân số lớn chưa từng có. Việc này dẫn tới sự tăng lên
đáng kể trong nhu cầu về các loại thủy hải sản nói chung và cá biển nói riêng. Hiện
nay, cá là nguồn cung cấp protein chủ yếu cho gần một nửa số dân trên toàn thế
giới. Theo FAO, nhu cầu tiêu thụ hải sản theo đầu người (bao gồm cả hải sản đánh
bắt và nuôi trồng) có xu hướng tăng dần: từ trung bình 9.9 kg/người trong những
năm 1960 lên 14.4 kg trong những năm 1990 và 19.7 kg năm 2013. Đến năm 2016,
con số này đã là trên 20kg/người.
 Ảnh hưởng đến sinh cảnh đại dương :
_ Môi trường biển có thể bị hủy hoại bởi một số kĩ thuật đánh bắt cá nguy hiểm.
Việc đánh bắt quá mức cũng đã được báo cáo ở nhiều nơi trên thế giới do việc khối
lượng thủy sản bị đánh bắt gia tăng chóng mặt qua hàng năm nhằm cung cấp cho
số lượng người tiêu dùng tăng mạnh. Điều này đã dẫn đến sự phá vỡ một số hệ
sinh thái biển và một số ngành đánh bắt cá mà sản lượng khai thác của họ đã bị
giảm đi đáng kể. Sự tuyệt chủng của nhiều loài cũng đã được báo cáo. Việc đánh
bắt cá dưới lưới thức ăn là điều xảy ra khi đánh bắt quá mức. Sau khi bắt được tất
cả những con cá lớn hơn, người câu sẽ bắt đầu đánh bắt những con nhỏ hơn, điều
này dẫn đến việc đánh bắt nhiều cá hơn để theo kịp nhu cầu. Điều này làm giảm số
lượng cá, cũng như sự đa dạng di truyền của các loài, khiến chúng dễ bị bệnh hơn
và ít có khả năng thích nghi với các tác nhân gây căng thẳng của chúng và môi
trường. Ngoài ra, việc đánh bắt những con cá nhỏ hơn dẫn đến việc sinh sản những
con nhỏ hơn, điều này có thể gây khó khăn cho cá. Ở nhiều loài, cá cái càng nhỏ
thì khả năng sinh sản càng ít, ảnh hưởng đến quần thể cá.
 Gián đoạn sinh thái :
_ Đánh bắt quá mức có thể dẫn đến việc khai thác quá mức các dịch vụ hệ sinh thái
biển. Đánh bắt cá có thể gây ra một số tác động tiêu cực về tâm sinh lý đối với
quần thể cá bao gồm: tăng mức độ căng thẳng và tổn thương cơ thể do mắc phải
lưỡi câu. Thông thường, khi vượt qua ngưỡng này, hiện tượng trễ có thể xảy ra
trong môi trường. Cụ thể hơn, một số xáo trộn sinh thái được quan sát thấy trong
hệ sinh thái biển Biển Đen là do sự kết hợp của việc đánh bắt quá mức và các hoạt
động khác có liên quan của con người gây ảnh hưởng xấu đến môi trường biển và
hệ sinh thái. Sự gián đoạn sinh thái cũng có thể xảy ra do việc đánh bắt quá mức
các loài cá quan trọng như cá ngói và cá mú, những loài động vật được coi là kỹ sư
hệ sinh thái.
_ Việc đánh bắt cá có thể phá vỡ mạng lưới thức ăn bằng cách nhắm vào các loài
cụ thể, có nhu cầu tiêu thụ lớn. Việc đánh bắt quá nhiều các loài như cá mòi và cá
cơm làm giảm nguồn cung cấp thức ăn cho các loài săn mồi. Sự gián đoạn của các
loài ong bắp cày này có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hệ sinh thái. Nó cũng có thể
gây ra sự gia tăng các loài săn mồi khi cá mục tiêu là các loài săn mồi, chẳng hạn
như cá hồi và cá ngừ.

_ Đánh bắt quá mức và ô nhiễm môi trường biển cũng ảnh hưởng đến khả năng lưu
trữ carbon của chúng và góp phần không nhỏ vào cuộc khủng hoảng khí hậu.
 Rác thải trên biển :
_ Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, tính theo khối lượng, các dụng cụ đánh
bắt cá, chẳng hạn như phao, dây và lưới đánh bắt, chiếm hơn hai phần ba các rác
thải nhựa lớn được tìm thấy trong các đại dương.
_ Cuộc sống của sinh vật biển bị ảnh hưởng bởi các loại rác theo hai hướng: đi
qua sự vướng víu (nơi các rác thải này quấn vào nhau hoặc động vật bị cuốn vào),
hoặc chúng sẽ nuốt phải các mảnh rác (cố ý hoặc vô tình). Cả hai đều gây hại cho
động vật. Các rác thải trên biển bao gồm lưới đánh cá hoặc lưới kéo cũ thường có
thể liên quan đến các hiện tượng như đánh cá ma, trong đó các mảnh lưới, hay
được gọi là lưới ma, tiếp tục di chuyển và bắt cá.
Nguyên nhân
 Công cụ khai thác vượt quá khả năng khai thác của tự nhiên :
_ Nhiều ngư trường trên thế giới đã trang bị các loại tàu đánh cá có công suất khai
thác lớn và trang thiết bị hiện đại. Một chuyến ra khơi của những chiếc tàu này có
thể kéo dài nhiều tuần, thậm chí hàng tháng, có thể đánh bắt cá ở sâu dưới đáy đại
dương và nhiều con tàu còn có khả năng chế biến cá tươi trên đường quay trở lại
đất liền. Một số tính toán cho thấy: tổng khối lượng công cụ khai thác trên toàn
cầu hiện nay đủ để khai thác cá đại dương trên 4 hành tinh có hệ sinh thái giống
như Trái đất.
 Các phương pháp khai thác hải sản không bền vững :
_ Ngày nay, nhiều tàu cá sử dụng các phương pháp đánh bắt có tính hủy diệt như
lưới rà đáy (giã cào bay), sử dụng hóa chất và các chất gây nổ. Các phương pháp
này gây ra những vấn đề nghiêm trọng như hủy diệt cuộc sống hoang dã dưới đáy
đại dương: phá hủy các rạn san hô, các móc câu vô tình làm hại, thậm chí giết chết
chim biển hay găm vào thân các động vật có vú sống trong đại dương.
_ Bên cạnh các loại cá cần đánh bắt, những lưới đánh cá loại lớn còn bắt phải
những loại hải sản không có giá trị kinh tế và thậm chí có nguy cơ tuyệt chủng,
như sao biển, nhím biển, sâu biển, rắn biển, hải cẩu…và cả những đàn cá con.
Những sinh vật biển dính lưới này hầu hết sẽ bị chết và ném trở lại biển. 
_ Ngoài ra, việc tập trung quá nhiều tàu đánh cá trong một khu vực, đặc biệt là khu
vực gần bờ, cũng có những tác động không nhỏ đến nguồn cá. Ở Việt Nam, mỗi
năm lượng tàu thuyền trên cả nước tăng bình quân 6,2% nhưng chủ yếu là các tàu
có công suất nhỏ (dưới 90 mã lực) tập trung khai thác hải sản ở vùng nước ven bờ,
trong khi vùng này chỉ chiếm khoảng 11% diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế.
Việc khai thác thiếu cân bằng, không bền vững có thể dẫn tới suy giảm nguồn lợi
hải sản nhanh chóng trên các vùng biển Việt Nam.
Biện pháp khắc phục :
 Quản lý ngành thủy sản và nuôi cá :
_ Đặt ra các hạn chế đối với loại thiết bị được sử dụng và phân bổ các góc câu
được cho phép. Quản lý ngành thủy sản cũng giúp gắn kết các cộng đồng trong
việc nỗ lực bảo tồn biển, trong đó dễ dàng nhận biết nhất là các công văn quản lí
chặt chẽ do các cộng đồng lớn dẫn đầu.
_ Quản lý thủy sản dựa trên hệ sinh thái là một phương pháp khác được sử dụng để
bảo tồn cá và khắc phục tác động. Thay vì chỉ tập trung vào các nỗ lực bảo tồn vào
một loài sinh vật biển duy nhất, quản lý dựa trên hệ sinh thái được sử dụng trên
nhiều loài cá khác nhau trong một môi trường. Để cải thiện việc áp dụng các hình
thức quản lý nghề cá này, điều quan trọng là phải giảm bớt các rào cản gia nhập
đối với các kịch bản quản lý để làm cho các phương pháp này dễ tiếp cận hơn với
nghề cá trên toàn cầu.
 Khu bảo tồn sinh vật biển :
_ Các khu bảo tồn biển phục vụ cho việc bảo vệ môi trường và an toàn động vật
hoang dã biển. Bản thân các khu bảo tồn được thiết lập thông qua các kế hoạch
hoặc chính sách bảo vệ môi trường chỉ định một môi trường biển cụ thể được bảo
vệ. Các rạn san hô là một trong nhiều ví dụ liên quan đến việc áp dụng các khu bảo
_ Để giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường của việc đánh bắt cá trong
môi trường biển, các khu bảo tồn biển được thiết kế nhằm tạo ra, nâng cao và tái
hiện đa dạng sinh học trong khu vực. Kết quả là, những lợi ích chính phát sinh từ
việc thực hiện loại nỗ lực quản lý này bao gồm các tác động tích cực đối với việc
bảo vệ môi trường sống và bảo tồn loài.

You might also like