Professional Documents
Culture Documents
Không Tử xưa có nói “Thi (Kinh thi, thơ ca – TĐS) khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán”. Khả dĩ hưng, là
gây niềm hưng khởi, cổ vũ. Khả dĩ quan, nghĩa là giúp nhận thức, biết nhiều chuyện. Khả dĩ quần, nghĩa là tập hợp, gọi
đàn. Khả dĩ oán, là nói lên niềm oán hận, đau đớn. Khổng Tử đã rất tinh ý khi để chữ oán ở vị trí cuối cùng, không coi là
quan trọng hàng đầu, mặc dầu đã không bỏ quên nó. Vào những năm thời Mao Trạch Đông, trong một dịp đi sang giao
lưu với giới văn chương Nhật Bản, nhà văn Trung Quốc Tiền Chung Thư có bài nói chuyện Thi khả dĩ oán (in trong Tiền
Chung Thư văn tập, 2004, tr. 635 – 647). Ông bảo người ta bỏ quên lời dạy này của Khổng Tử đã quá lâu, cho nên trong
văn học tuyền chỉ nghe một thứ tiếng ngợi ca, ngọt ngào, hào sảng, mà không nghe thấy tiếng thương đau. Mà cuộc sống
thì đâu phải chỉ có tiếng reo vui, tiêng hào hùng, tiếng phấn khởi. Tiền Chung Thư sau khi dẫn lời của Khổng, liền kiểm
kê lại văn học Trung Quốc mấy nghìn năm, xem các thứ thơ hưng, quan, quần, oán trong lịch sử thế nào. Ông dẫn rất
nhiều rồi đi đến kết luận, tiếng vui, tiếng lạc chỉ có ít trong thơ, trong sử, phần nhiều không thật, còn tiếng đau, tiếng bi
thì rất nhiều và thật. “Oán hận nhi ca” mới là tiếng thật. Nhạc phủ có “Bi ca hành”, mà không có lạc nhi hành. Tư Mã
Thiên có câu “bất bình tắc minh” nghĩa là bất bình thì kêu lên. Ông lại có câu “phát phẫn trước thư”, nghĩa là có uất đau
thì mới viết sách. Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long cũng nói “Trai đau mà thành ngọc.” Thi phẩm của Chung Vinh tuy
có chỗ phân tán, song khi bình thơ “thượng phẩm”, phân biệt với trung phẩm và hạ phẩm đều nêu các bài thơ oán, thơ
hận, thơ đau. Nhà viết kịch Lí Ngư cho biết cả đời ông toàn là ủ ê đau đớn, không khi nào dược nở mày nở mặt, chỉ khi
sáng tác hướng tới nơi ảo cảnh mới thật sự có được niềm vui. Cái cười của ông trong kịch là tương phản với nỗi đau của
đời ông, chứ không phải phản ánh cuộc đời ấy. Hàn Dũ đời Đường đã nói “Đại phàm vật khi bất bình thì phải kêu
(minh)”, rồi dẫn Khuất Nguyên, Tư Mã Thiên, Trang Chu, Tương Như, coi là những tiếng kêu đau mới hay, sau đó mới
nói đến Mạnh Giao, rồi nói đến mình, đều cùng một loại. Văn học Trung Quốc cổ có rất nhiều bài bi thu, thương xuân,
khóc tình, khóc đời kiệt tác. Tiền Chung Thư nói quan niệm thơ văn đau là tư tưởng chung có tính nhân loại. Điều thú vị
là các nhà văn nhà thơ suy nghĩ rất giống nhau. Nietsche cho rằng người làm thơ như con gà mái đau khi đẻ, nó có đau
thì mới đẻ. Có đau thì mới sáng tác, chứ sướng vui thì chỉ có thi ca tầm thường. Kêu đau là tiếng tự nhiên, rất tự nhiên,
không vì mục đích nào khác. Nhà thơ Áo Franz Grillparzer bảo, con trai đau không biết kêu thì nó cho ngọc. Flaubert cho
rằng phong cách nhà văn toát ra từ nỗi đau của con trai, cũng cùng ý ấy. Heiner hỏi: “Thơ ca của con người phải chăng là
hòn ngọc do đau đớn như con trai mà có?” Nhà thơ Anh A. E. Housman nói thi ca là một sự trút xả, như cây thông chảy
nhựa nơi lở loét, hay như con trai cho ngọc ở nơi đau. Một nhà thơ Ý nói: Vui sướng khiến người ta khoa trương, ồn ào,
còn đau thương khiến người ta nén lại. Người Trung Quốc hay nói khi vui thì hoa lòng nở tung, trái tim mở ra (khai tâm),
vui đến mức miệng không khép lại được. Như thế, tiếng vui bay hơi, hở hương, chẳng bao lâu mà nhạt. Trái lại khi buồn
thì lòng nặng như đá đeo, lòng quặn thắt lại, lòng bị cắt đứt (đoạn trường). Goethe nói khi vui lòng như mang cái gì hình
tròn, êm ái, khi đau lòng mang một vật hình nhiều cạnh. Cái hình tròn chỉ một loáng nó đi qua, cái hình có góc cạnh còn
vướng mắc mãi. Các nhà thơ lãng mạn phương Tây cũng nói rất nhiều nỗi đau. “Thơ ca đẹp nhất là những thơ ca nói lên
niềm đau đớn”. Có người nói: “Thơ ca đích thực là thơ ca xuất phát từ trái tim đau nỗi đau của nhân loại, đồng loại”. Lại
nói “Bài thơ đẹp nhất là bài thơ tuyệt vọng, chỉ thuần tuý là nước mắt”. “U uất là điệu tình cảm phù hợp nhất của thi ca”.
Nhà mĩ học Ý là Croce nói “Thi ca là sản phẩm của sự bất như ý”. Một nhà lí luận Thuỵ Sĩ viết cuốn văn học sử bi kịch,
cho rằng “thơ ca, văn học thường bắt nguồn tư nỗi đau ẩn giấu”. Tóm lại ông Tiền Chung Thư là nhà bác học, ông dẫn đủ
cô kim, đông tây chỉ để khẳng định một điều, thơ ca, văn học nhân loại xưa nay có nhiều thứ, những chỉ những ai động
đến nỗi đau con người thì văn chương mới hay.
Văn học Việt Nam cổ điển có nhiều tác phẩm tuyệt đỉnh cũng đều là văn thơ đau. Đó là thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Đặng Trân Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Đình Chiểu. Thơ cười như Nguyễn Khuyễn, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
cũng đều do đau đớn với đời mà sinh ra. Không có ai vui, phấn khởi mà làm nên thơ văn vĩ đại, bất hủ. Bảo Ninh là
người lính chiến trường, chứng kiến biết bao đồng đội đã hi sinh, dồn nén nỗi đau mà thốt ra tự nhiên thành Nỗi buồn
chiến tranh. Nguyễn Huy Thiệp phải đau đớn với đời mới có tiếng cười cay nghiệt. Văn chương đau ở ta vốn không
nhiều, mà còn chưa được đánh giá đúng mức, nếu không muốn nói là còn định kiến và kì thị. Phải chăng nói đau thì thiếu
lạc quan, thiếu tin tưởng, một tiêu chí của văn chương cách mạng? Niềm tin con người gắn với sự thật. Chính do nói
nhiều điều không thật mà văn học một thời đã mất đi niềm yêu mến. Văn chương nói thật thì mới có niềm tin yêu lâu
bền. Mà có tin thật thì mới có động lực trong cuộc sống. Không thể xây dựng niềm tin bằng ảo ảnh hoặc bằng che giấu.
Đã đến lúc chúng ta nên nhìn lại quan niệm văn học ta. Cuộc sống đâu phải chỉ có tiếng reo vui, tiêng hào hùng, tiếng
phấn khởi. Tôi nhớ nhà văn Ngô Thảo có lần lấy câu tục ngữ Nga, “Một nửa cái bánh mì là bánh mì, nhưng một nửa sự
thật không phải là sự thật”. Cũng vậy văn chương mà chỉ có tiếng khen, tiếng vui, không có tiếng oán thán, đớn đau thì
cũng không phải là sự thật. Hàng ngày xem báo chí trong nước, báo giấy và báo mạng, xem tin vui nhiều hay tin buồn,
tin đau đớn nhiều? Tin thành công nhiều hay tin thất bại nhiều? Tin lãng phí, thất thoát, nợ xấu nhiều hay tin chống được
tham nhũng nhiều? Tin bị lấn chiếm nhiều hay tin giành lại lãnh thổ nhiều? Vậy mà văn chương ít có tiếng oán thì mới
lạ. Phải nói rằng báo chí chúng ta thật giỏi. Họ nhiều khi phanh phui được sự thật, hé lộ những sai sót chết người. Nhân
dân sẽ mang ơn họ. Nhưng còn văn học thì sao? Đã có bao nhiêu tác phẩm nói được nối đau của người dân, của dân tộc?
Đã có bao nhiêu tác phẩm nêu lời ai oán? Có bao nhiêu tác phẩm khóc cho các số phận bất công? Có tác phẩm nào kêu
cho những mảnh đời tan vỡ? Tôi không có điều kiện đọc nhiều, không tự trả lời được. Nhưng theo quan niệm chung, văn
học thiên về nêu gương, nêu người tốt việc tốt, nêu gương người tử tế khó mà xuất phát từ nỗi đau. Ta đã có tác phẩm
nào như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn? Có tác phẩm nào như Cung oán ngâm khúc? Có tác phẩm nào như Ai tư
vãn? Chẳng nhẽ nhà văn Việt Nam hiện thời không biết đau, không hiểu oán là thế nào? Tôi hoàn toàn không tin điều đó.
Vậy có gì vướng mắc phải gỡ cho ra. Tính từ thời đổi mới đã ba mươi năm qua rồi mà tác phẩm lớn được coi là chưa có,
các tác phẩm cứ bằng bằng như đồi thấp, không có đỉnh. Lại có ý kiến cho rằng nhà văn ta thiếu tài. Tôi chưa bao giờ cho
là như thế. Hãy nhìn lại xem, nhà văn ta đã sống sâu, sống thật với nỗi đau của nhân dân ta trong suốt mấy thế kỉ qua hay
chưa? Đã thấy nỗi đau đứt ruột về nỗi tthống khổ của con người hay chưa? Làm gì có con trai có tài và con trai bất tài.
Mọi con trai đau đớn đều cho ngọc. Cái tài tự nó chưa là gì cả, nó chỉ có nghĩa khi đem dùng vào việc gì. Rất có thể ta đã
phí tài vào việc miêu tả những cái không quan trọng, dùng vào nơi không đúng chỗ. Hãy bớt đi lời ngợi ca, bớt đi lời
khen ngợi, hãy sống thật sự với nỗi đau của lòng mình, và để nó toát ra tự nhiên dưới đầu ngọn bút. Khi ấy ta sẽ thấy
thiên tài xuất hiện. Hãy làm người bình thường, khi đau thì kêu. Xưa ta chê nhà thơ lãng mạn không đau mà rên, hàm ý là
giả đối. Nhưng nếu đau thật mà không kêu thì có giả dối hay không? Nay mỗi người hãy tự hỏi mình có đau hay không?
Nếu anh chị có đau thật, đau sâu, đau lớn, đau không thể chịu nỗi nữa, không thể ngồi yên, đau như chưa bao giờ đau như
thế, tôi tin cậy hoàn toàn ở anh chị, tin hoàn toàn vào Văn học Việt Nam.
Lý luận
Chân - thiện - mỹ mãi là đích hướng của văn chương
07:31 26/12/2005
Từ xưa đến nay, hướng tới chân - thiện - mỹ luôn là mục đích của văn chương. Bởi văn chương là một sản phẩm
do con người tạo ra, mà con người thì khác muôn loài ở bản chất muốn vươn tới những điều tốt đẹp, nên văn
chương luôn là một hoạt động vì con người, với khát vọng làm cho cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn. Điều ấy không
có gì phải bàn nếu nhìn lại nền văn chương nước nhà suốt chiều dài lịch sử, kể cả văn chương dân gian và văn
chương bác học.
Cho đến nay, về mặt lý thuyết, các nhà văn và bạn đọc cũng không ai phủ nhận điều này; nhưng về thực tiễn sáng tác và
thưởng thức thì những năm gần đây đã có một bộ phận mon men vượt ra ngoài quỹ đạo đó. Vì thế, trở lại vấn đề này vẫn
có tác dụng đối với đời sống văn chương.
1. Khái niệm chân - thiện - mỹ có nhiều tầng ý nghĩa. Nhưng cách hiểu chung nhất: chân là cái thật, cái đúng, là lẽ
phải, đối lập với cái giả, cái sai trái.Nói đến cái chân của văn chương là nói tác phẩm văn chương phải chân thực,
phản ánh được bản chất, chân lý của cuộc sống. Những truyện thần thoại dẫu hoang đường đến mấy cũng để mọi
người hiểu bản chất của cuộc sống. Ví như, truyện Thánh Gióng để mọi người thấy sức vươn dậy kỳ diệu của cộng đồng
dân tộc trước nạn ngoại xâm; truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung nói về khát vọng tình yêu của con người Việt Nam vượt
qua tất cả sự “môn đăng hộ đối” để xây dựng hạnh phúc; tác phẩm Chinh phụ ngâm thể hiện những bất hạnh của con
người trong các cuộc chiến tranh...
Cái chân là nền tảng, là tiên đề để thực hiện cái thiện và cái mỹ. Một tác phẩm không có được cái chân thì cái thiện
và cái mỹ cũng dễ bị chuệch choạc, khó lòng có được. Tự cái chân cũng đã bao hàm một phần cái thiện và cái mỹ. Vì
vậy, mấy chục năm nay, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn chương phản ánh chân thực cuộc sống xây dựng và
chiến đấu vì Tổ quốc. Cái chân là tiêu chuẩn chi phối sự thành công của một tác phẩm. Đối với mỗi nhà văn, sự trung
thực cũng chính là điểm tựa để có thể từ đó bộc lộ tài năng, kết tụ thành những tác phẩm có giá trị. Những tác phẩm tô
hồng và bôi đen cuộc sống đều là những tác phẩm không có được cái chân nên dễ bị cuộc sống đào thải. Những năm gần
đây, văn chương của chúng ta không có tác phẩm nào nằm trong hai thái cực này, nhưng từng phần trong tác phẩm phạm
phải với mức độ khác nhau thì vẫn có.
Thiện là điều lành, điều tốt, đối lập với điều ác. Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử đấu tranh không ngừng
giữa cái thiện với cái ác và không phải bao giờ cái thiện cũng chiến thắng. Nhưng một tác phẩm văn chương thì phải là
một tác phẩm hướng thiện. Dẫu một tác phẩm lấy cái ác làm đề tài thể hiện thì tư tưởng thoát ra vẫn phải là cái
thiện, như tiểu thuyết “Tội ác và trừng phạt” của Đốtxtôiépxki miêu tả kỹ lưỡng tâm lý và hành động của một kẻ
giết người, cũng là để con người ăn năn và hướng tới điều thiện Rax con nhi cốp). Nhà văn Aimatốp miêu tả một kẻ
đào ngũ trong chiến tranh vệ quốc của Liên Xô cũng là để khẳng định những kẻ hèn nhát không có đất sống, là người
phải sống xứng đáng và dũng cảm...
Tiếc rằng, một vài tác phẩm của chúng ta những năm qua không có được điều rạch ròi này. Có nhà văn nữ miêu tả truyện
ngoại tình lại thi vị hóa nó là “một nửa cuộc đời”, hay có nhà văn miêu tả người anh hùng dân tộc với lời nói thô tục và
hành vi đê tiện...
Mỹ là cái đẹp. Tác phẩm văn chương phải đẹp thì mọi người đều thống nhất. Nhưng thế nào là đẹp thì lại có nhiều ý
kiến khác nhau. Cái đẹp ở đây không phải chỉ là cái đẹp của hình thức nghệ thuật. Nhưng nội dung và hình thức biểu
hiện hay đi liền với nhau. Một hình thức rối rắm, xộc xệch, lủng củng thường không thể chứa đựng được điều gì tốt đẹp.
Những sáng tác tự phong là “thơ hiện đại” của một số người trong những năm qua, cầu kỳ và rối rắm thái quá, hoặc với
“những bài tình nhớt đêm”, những cuộc loạn luân với hình bóng tiền nhân qua “Bóng đè”... thì thật xa vời với tiêu chí
mỹ.
2. Những tác phẩm văn chương nổi tiếng của dân tộc ta cũng như của các dân tộc trên thế giới còn lưu lại đến ngày nay
đều là những tác phẩm có giá trị chân - thiện - mỹ cao. Dẫu không phải các dân tộc đều đúc kết thành lý luận, nhưng sự
thưởng thức tự nhiên của mọi người, của mọi thế hệ như đều lấy chân - thiện - mỹ là tiêu chuẩn để đáng giá, là tấm
gương soi giá trị tác phẩm văn chương. Các thế hệ nhà văn mọi dân tộc đều có khát vọng hướng tới giá trị chân - thiện -
mỹ dẫu mỗi dân tộc có những biểu hiện độc đáo riêng. Đi sâu vào nền văn chương nước nhà, từ thơ ca và truyện cổ dân
gian, đến thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, rồi Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của
Nguyễn Đình Chiểu, thơ mới 1930-1945 và nền văn chương hiện đại... tất cả đều thấm đẫm giá trị chân - thiện - mỹ.--
PageBreak--
Tuy vậy, trong dòng chảy êm đềm của văn chương dân tộc, cũng không khỏi có những lạch rẽ, những đá gợn. Tôi muốn
nói đến cái kết thúc không thiện và không mỹ trong một dị bản của truyện Tấm Cám. Ấy là Tấm giội chết Cám bằng
nước sôi rồi lấy thịt làm mắm gửi cho người dì ghẻ. Ấy là những dị bản tục được thêm thắt và lan truyền gắn vào thơ Hồ
Xuân Hương... Thì đấy là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa cái cao cả và cái thấp hèn, giữa cái đẹp và cái xấu.
Tôi cho rằng: những dị bản ấy không phải là mạch chính của truyện Tấm Cám và thơ Hồ Xuân Hương. Trong lịch sử, cái
ác không phải bao giờ cũng bị đánh bại hoàn toàn, nó vẫn lúc ẩn lúc hiện, trong hai hiện tượng trên nó đã nhấp nhô in
bóng vào văn chương. Trong nền văn chương của các dân tộc trên thế giới với những mức độ đậm nhạt khác nhau, cũng
có những hiện tượng tương tự.
Nhưng không vì thế mà lấy lý do bênh vực những hiện tượng kỳ quặc, chệch hướng chân - thiện - mỹ cho một vài tác
phẩm đã bị dư luận phê phán những năm qua. Điều đáng nói là lại có những ý kiến bênh vực cho những hiện tượng lệch
lạc ấy. Lẫn lộn giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái đẹp và cái xấu là một vấn đề nguy hiểm. Bởi vì,
đằng sau một quan niệm sẽ kéo theo một thực tiễn sáng tác và một bộ phận công chúng thưởng thức.
3. Vươn tới chân - thiện - mỹ là mục đích của văn chương. Đồng thời chân - thiện - mỹ cũng là nên tảng lý luận cơ
bản nhất của văn chương mà mọi người cầm bút phải thấm nhuần và mọi người thưởng thức văn chương cần am hiểu.
Các cơ quan quản lý văn hóa văn nghệ, các nhà xuất bản, cơ quan báo chí hơn ai hết phải hiểu thật sâu sắc vấn đề này.
Bởi một tác phẩm có giá trị chân - thiện - mỹ sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho đông đảo công chúng; ngược lại, một tác
phẩm thiếu giá trị chân - thiện - mỹ sẽ có sức hủy hoại rất lớn. Thuốc bổ thường lâu thấm, mà ma túy thì nhanh ngấm và
khó chữa. Nhưng điều đáng mừng là, dân tộc ta có một truyền thống tôn thờ những giá trị chân - thiện - mỹ, nên đối với
những điều ngược lại nhân dân ta có sức đề kháng cao. Minh chứng là, phản ứng của nhân dân trước những truyện kinh
dị nhập cho trẻ em, hay mỗi khi xuất hiện những tác phẩm có giá trị độc hại, lệch lạc thường được quần chúng lên tiếng
phê phán. Và có nhà văn nữ cũng khá nổi nang mà viết tác phẩm chỉ toát lên toàn điều ác, không có một chút nhân hậu
nào nên Nhà xuất bản Phụ nữ đã từ chối không in. Đó là điều đáng mừng đối với một nền văn chương trong khi mở cửa
hội nhập với thế giới đầy phức tạp...
4. Phải khẳng định rằng, lịch sử phát triển văn chương của dân tộc ta luôn gắn liền với các giá trị chân - thiện - mỹ.
Những tác phẩm dù mang âm hưởng anh hùng ca hay thấm đẫm bi thương thì cũng đều có mục đích chung là làm
cho con người và cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo hay Chinh phụ
ngâm, Truyện Kiều; từ thơ thiền, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay văn chương yêu nước và cách mạng thế kỷ XX; từ
văn chương dân gian đến thơ mới, thơ hiện đại... những tinh hoa của nó bao giờ cũng mang đầy đủ những tiêu chí
giá trị ấy. Sự thực thì dòng chảy của văn chương dân tộc, tuy không liền mạch, thẳng dòng, nhưng bao giờ cũng
ào ạt, vạm vỡ. Chỉ lấy thí dụ văn chương của thế kỷ XX mà trước đây chúng ta chia làm nhiều dòng văn học,
nhưng nó cũng đều nằm trong một dòng chung là đổ vào biển cả, hội nhập cùng nhân loại. Văn chương thế kỷ XX
của dân tộc ta là một thời kỳ rất đáng tự hào. Tuy chưa có được những tác giả thực sự tầm cỡ làm thế giới phải
kinh ngạc, nhưng cũng đã có nhiều tác giả được thế giới trân trọng. Dù các tác giả ấy có đứng ở vị trí nào trong
dòng chảy của dân tộc, thì họ cũng để lại một giá trị nhân văn tỏa ra từ chỗ đứng của họ, có tác dụng xây dựng và
cải tạo con người và cuộc sống với những mức độ khác nhau, trừ những tác giả và những tác phẩm giả, ác và xấu.
Bây giờ, từ những phức tạp trong dòng chảy của văn chương hiện đại, liệu tiêu chí chân - thiện - mỹ có còn là đích hướng
tới của văn chương? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy nhìn lại văn chương của nhân loại thì sẽ rõ. Mỗi dân tộc trong
lịch sử phát triển văn chương của mình, tuy cao thấp, lớn nhỏ không đồng đều, và mỗi dân tộc có một bản sắc riêng, có
thể nói là rất khác nhau; nhưng tất cả đều giống nhau ở một điểm: những tác phẩm còn lại đều là những tác phẩm phản
ánh chân thật con người và cuộc sống của dân tộc ấy ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Những tác phẩm ấy đều hướng
con người đến một giá trị đạo đức tốt đẹp như tình thương yêu, sự chung thủy, lòng nhân ái, đức hy sinh...; còn mọi tư
tưởng ngược lại đều bị chôn vùi, có thể nó có xuất hiện nhưng không bao giờ được truyền bá.
Vì vậy, chân - thiện - mỹ là tiêu chuẩn để đánh giá, là tấm gương soi giá trị văn chương. Từ xưa đến nay và mãi mãi về
sau, chân - thiện - mỹ là lý luận cơ bản nhất, là thực tiễn sáng tác, là đích hướng tới của mọi nền văn chương nghệ thuật.
Đã là nghệ sĩ, đã lấy văn chương nghệ thuật để phụng thờ thì đây là điều đầu tiên, cũng là điều cơ bản nhất phải luôn
luôn tâm niệm
Đinh Quang Tốn
Vai trò ca nhân (Suối nguồn)
"Hàng ngàn năm trước đây, có một người lần đầu tiên tìm ra cách tạo ra lửa. Người đó có lẽ đã bị thiêu sống bằng
chính ngọn lửa mà anh ta dạy những người anh em của mình cách thắp lên. Anh ta bị coi là một kẻ xấu vì đã có quan hệ
với ma quỷ, thứ mà loài người luôn khiếp sợ. Nhưng từ đó trở đi, loài người có lửa để giữ ấm, để nấu nướng, để thắp
sáng trong hang động. Anh ta đã để lại cho họ một món quà mà họ từng không hiểu và anh ta đã xua bóng tối ra khỏi trái
đất này. Nhiều thế kỷ sau, có một người lần đầu tiên tạo ra cái bánh xe. Người đó có lẽ đã tan xác dưới những bánh xe
mà anh ta dạy những người anh em của mình cách làm. Anh ta bị coi là một kẻ phạm tội vì đã mạo hiểm vào vùng đất
cấm. Nhưng từ đó trở đi, loài người có thể đi tới mọi chân trời. Anh ta đã để lại cho họ một món quà mà họ đã không
hiểu và anh ta đã mở những con đường trên mặt đất.
"Những người đó - những người không chịu phục tùng và luôn đi đầu - đứng ở chương mở đầu của tất cả những truyền
thuyết mà loài người ghi lại về thủa sơ khai. Promete đã bị xích vào một tảng đá và bị những con kền kền xé xác - bởi vì
anh đã ăn cắp ngọn lửa của những vị chúa trời. Adam bị buộc phải chịu đau khổ - bởi vì anh ta đã ăn quả cấm trên cây
thiện-ác. Dù truyền thuyết gì đi chăng nữa, ở sâu trong trí nhớ, loài người biết rằng vinh quanh của chúng ta đã bắt đầu từ
một cá nhân và cá nhân đó đã phải trả giá cho lòng dũng cảm của mình.
"Trong những thế kỷ qua, đã có những người đặt bước chân đầu tiên của họ trên những con đường mới; họ không được
trang bị vũ khí gì ngoài tầm nhìn của riêng họ. Họ có mục đích khác nhau, nhưng tất cả đều có một số điều chung: bước
chân của họ là bước chân đầu tiên, con đường của họ là con đường hoàn toàn mới, nhãn quan của họ không hề do vay
mượn, và phản ứng mà họ nhận được luôn là sự căm ghét. Những nhà phát minh vĩ đại - những nhà tư tưởng, những nghệ
sĩ, những nhà khoa học, những nhà sáng chế - đều phải đơn độc chống lại những người cùng thời với họ. Tất cả những ý
tưởng mới và vĩ đại đều bị chống đối kịch liệt. Tất cả những phát minh mới và vĩ đại đều bị lên án. Đông cơ máy đầu tiên
bị coi là ngu xuẩn. Chiếc máy bay đầu tiên bị coi là không tưởng. Chiếc máy dệt đầu tiên đã bị coi là ác quỷ. Việc gây mê
bị coi là tội lỗi. Nhưng những người đó, với tầm nhìn không vay mượn, vẫn tiếp tục tiến lên. Họ đã chiến đấu, họ đã đau
khổ và họ đã phải trả giá. Nhưng họ đã chiến thắng.
"Một người sáng tạo không bao giờ bị thôi thúc bởi khát vọng phục vụ đồng loại của anh ta, bởi vì chính đồng loại của
anh ta luôn chối bỏ món anh ta đem tặng họ; đồng thời món quà đó phá hủy cuộc sống bình thường của anh. Anh sáng
tạo vì động cơ duy nhất: chân lý. Chân lý của riêng anh, và lao động của riêng anh để đạt tới chân lý theo cách riêng của
anh. Mục đích và cuộc đời anh ta nằm ở một bản giao hưởng, một quyển sách, một cỗ máy, một trường phái triết học,
một cái máy bay hay một tòa nhà. Nó không nằm ở người nghe nhạc, người đọc sách, người vận hành máy, người đi theo
trường phái triết học, người đi máy bay hay người sống trong ngôi nhà mà anh ta tạo ra. Sự sáng tạo, chứ không phải
những lợi ích mà người khác được hưởng từ sự sáng tạo ấy. Sáng tạo là cách anh ta thể hiện chân lý của mình. Anh ta đặt
chân lý này lên bên trên mọi thứ, bất chấp tất cả loài người.
"Tầm nhìn, sức mạnh, và lòng dũng cảm của anh ta đến từ linh hồn của anh ta. Tuy nhiên, linh hồn của một người lại
chính là cái tôi của anh ta. Cái tôi là thực thể làm công việc nhận thức. Cái tôi có chức năng tư duy, cảm giác, đánh giá và
hành động.
"Những người sáng tạo luôn là những người có cái tôi. Cái tôi chính là toàn bộ bí mật về sức mạnh của họ - cái tôi ấy đầy
đủ trong bản thân nó, tự vận động trong bản thân nó, và tự tái tạo trong bản thân nó. Cái tôi là nguyên nhân đầu tiên, là
nguồn năng lượng, là động lực sống, là cội rễ của tất cả. Người sáng tạo không phục vụ cái gì và không phục vụ bất cứ ai
khác. Anh ta sống vì chính bản thân mình.
"Và chỉ có bằng cách sống vì bản thân, anh ta mới có thể đạt được những thành tựu vinh quang của loài người. Đó chính
là bản chất của sự thành công...
"Loài người có thể tồn tại nhờ trí tụê của mình. Loài người đến trái đất mà không được trang bị vũ khí nào. Bộ óc là thứ
vũ khí duy nhất của họ. Động vật kiếm thức ăn bằng sức mạnh cơ bắp. Loài người không có móng vuốt, không có răng
nanh, không có sừng; họ cũng không có sức mạnh cơ bắp vượt trội. Loài người phải tự trồng trọt hoặc săn bắn để có thức
ăn. Để trồng trọt, họ phải có một quá trình tư duy. Để săn, họ cần có vũ khí, và để làm ra vũ khí - họ cũng cần một quá
trình tư duy. Từ nhu cầu đơn giản nhất này cho đến nhưng khái niệm tôn giáo trừu tượng nhất, từ cái bánh xe cho đến tòa
nhà chọc trời, tất cả những gì con người đại diện và tất cả những gì con người có đều đến từ một thuộc tính đơn nhất của
con người - đó là chức năng tư duy của bộ óc.
"Nhưng bộ óc lại thuộc về cá nhân. Không có cái gọi là bộ óc tập thể. Không có cái gọi là một ý nghĩ tập thể. Một thỏa
thuận do một nhóm người đạt được thực ra chỉ là một thỏa hiệp hoặc là giá trị trung bình rút ra từ những ý nghĩ cá nhân.
Đó chỉ là một hệ quả có tính phát sinh. Hành động chủ yếu, tức là quá trình tư duy - phải do mỗi cá nhân thực hiện độc
lập. Chúng ta có thể chia một bữa ăn cho nhiều người. Nhưng chúng ta không thể tiêu hóa nó trong một cái dạ dày tập
thể. Không ai có thể sử dụng phổi của mình để thở cho người khác. Không ai có thể sử dụng bộ não của mình để nghĩ hộ
kẻ khác. Tất cả mọi chức năng của thể xác và linh hồn đều có tính cá nhân. Chúng không thể bị chia sẻ hoặc chuyển giao
cho người khác.
"Chúng ta thừa kế những sản phẩm tư duy của người khác. Chúng ta kế thừa cái bánh xe. Chúng ta tạo ra một chiếc xe
ngựa. Xe ngựa thô sơ trở thành xe ô-tô. Ô-tô trở thành máy bay. Nhưng trong suốt quá trình đó, những gì chúng ta nhận
được từ người khác chỉ là sản phẩm cuối cùng trong quá trình tư duy của họ. Cái động cơ thúc đẩy quá rình này chính là
khả năng sáng tạo, nhờ nó mà chúng ta lấy những sản phẩm cuối cùng kia làm nguyên liệu để sử dụng và sáng tạo ra sản
phẩm mới. Khả năng sáng tạo này không thể đem cho hoặc nhận, không thể chia sẻ hoặc vay mượn. Nó thuộc về các cá
thể người đơn lẻ. Khả năng sáng tạo là tài sản của người sáng tạo. Loài người có thể học lẫn nhau. Nhưng học luôn chỉ là
sự trao đổi nguyên vật liệu. Không ai có thể cho ai khả năng tư duy. Và khả năng tư duy ấy lại là phương tiện duy nhất
giúp chúng ta tồn tại.
"Loài người không được cho sẵn bất cứ cái gì trên mặt đất này. Tất cả những gì anh ta cần - anh ta phải làm ra chúng. Và
ở đây loài người đối mặt với sự lựa chọn cơ bản nhất của mình: anh ta chỉ có thể tồn tại được theo một trong hai cách -
bằng cách làm việc độc lập với bộ óc của riêng anh ta, hay là trở thành một kẻ ăn bám sống nhờ bộ óc của những người
khác. Người sáng tạo chọn cách thứ nhất. Kẻ ăn bám thì chọn cách thứ hai. Người sáng tạo một mình đối mặt với tự
nhiên. Kẻ ăn bám đối mặt với tự nhiên thông qua những trung gian.
"Mối quan tâm của người sáng tạo là chinh phục tự nhiên. Còn mối quan tâm của kẻ ăn bám là chinh phục con người.
"Người sáng tạo sống với lao động của mình. Anh ta không cần ai khác. Mục đích cơ bản của anh ta là chính bản thân
anh. Kẻ ăn bám sống cuộc đời thứ cấp. Anh ta cần những người khác. Những người khác trở thành động lực chính của
anh ta.
"Nhu cầu cơ bản của người sáng tạo là sự độc lập. Một bộ óc biết tư duy không thể hoạt động dưới sự cưỡng bức theo bất
cứ hình thức nào. Nó không thể bị đóng yên cương, không thể hy sinh hay khuất phục trước bất cứ điều gì. Nó đòi hỏi sự
độc lập tuyệt đối trong cả chức năng và động cơ. Đối với một người sáng tạo, tất cả những mối quan hệ với con người
đều là thứ yếu.
"Nhu cầu cơ bản của một kẻ thứ sinh là củng cố quan hệ của anh ta với mọi người để được họ nuôi sống. Anh ta đặt quan
hệ lên trên hết. Anh ta tuyên bố rằng loài người tồn tại là để phục vụ người khác. Anh ta rao giảng về chủ nghĩa vị nhân
sinh."
"Vị nhân sinh là học thuyết đòi hỏi con người phải sống vì người khác và đặt những người khác lên trên bản thân mình.
"Không ai có thể sống vì người khác. Một người không thể chia sẻ linh hồn anh ta, cũng giống như anh ta không thể chia
sẻ thể xác của anh ta. Nhưng những kẻ sống thứ sinh đã lợi dụng chủ nghĩa vị nhân sinh như một thứ vũ khí để lợi dụng
và đảo ngược lại những nguyên tắc đạo đức cơ bản của loài người. Loài người đã được dạy dỗ tất cả những giới luật để
phá hủy người sáng tạo. Loài người đã được dạy dỗ rằng phụ thuộc lẫn nhau chính là một đức hạnh.
"Một người cố gắng sống vì người khác là một người luôn lệ thuộc. Anh ta là một kẻ ăn bám trong động cơ của mình, và
anh ta cũng biến những người mà anh ta phục vụ thành những kẻ ăn bám. Mối quan hệ này chẳng tạo ra cái gì khác ngoài
sự suy đồi cho cả hai bên. Cái gần nhất với quan hệ này trong thực tế chính là chế độ nô lệ. Chế độ nô lệ về mặt thể xác
là đáng ghê tởm, thì nô lệ về tinh thần còn ghê tởm đến mức nào? Kẻ bị buộc làm nô lệ vẫn còn có chút danh dự. Vì anh
ta còn dám chống lại chế độ nô lê và coi nó là xấu xa. Còn những người tự biến bản thân thành nô lệ nhân danh tình yêu
thương - họ là những sinh vật thấp hèn. Họ đã hạ thấp phẩm giá con người và hạ thấp khái niệm tình yêu thương. Thế mà
dây chính là cốt lõi của chủ nghĩa vị nhân sinh.
"Loài người đã được dạy dỗ rằng đức tính tốt đẹp nhất không phải là đạt được một cái gì đó mà là cho đi một cái gì đó.
Nhưng một người không thể cho đi những gì mà anh ta không tạo ra. Đầu tiên phải có sáng tạo, sau đó mới là phân phối,
nếu không thì chẳng có gì để phân phối cả. Phải có người sáng tạo trướck hi có những người hưởng lợi từ sự sáng tạo.
Thế mà chúng ta lại được dạy dỗ để ngưỡng mộ những kẻ sống thứ sinh - những kẻ phân phát những món quà mà họ
không tạo ra; chúng ta được dạy để xếp họ lên trên những người đã sản sinh ra những món quà đó. Chúng ta ca ngợi công
việc từ thiện. Nhưng chúng ta lại nhún vai coi khinh những nỗ lực để thành công.
"Loài người đã được dạy dỗ rằng mối quan tâm đầu tiên của họ là giúp cho người khác bớt khổ đau. Nhưng khổ đau là
một căn bệnh. Chỉ khi có người bị bệnh thì mới cần có người đến để giúp giảm bớt sự đau đớn. Còn nếu chúng ta biến
việc giảm khổ đau thành phép thử lớn nhất của đức hạnh thì chúng ta đã biến khổ đau thành một thứ quan trọng nhất
trong cuộc sống. Do vậy người ta sẽ mong muốn được nhìn thấy những người khác đau khổ - để người ta có thể trở thành
người đức hạnh. Đó chính là bản chất của chủ nghĩa vị nhân sinh. Trong khi đó, người sáng tạo không quan tâm đến bệnh
tật, họ quan tâm đến cuộc sống. Nhưng công việc của người sáng tạo lại giúp loại bỏ hết bệnh này đến bệnh khác, cả
bệnh tật của thể xác lẫn bệnh tật của tâm hồn. Thành quả của họ giúp giảm nhẹ khổ đau nhiều hơn bất cứ một người theo
chủ nghĩa vị nhân sinh nào có thể làm.
"Loài người đã được dạy dỗ rằng đồng tình với người khác là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo lại luôn bất đồng.
Loài người đã được dạy dỗ rằng bơi theo dòng nước là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo luôn bơi ngược dòng. Loài
người đã được dạy dỗ rằng đứng tụ tập bên nhau là một đức hạnh. Nhưng người sáng tạo lại luôn là người đứng một
mình.
"Loài người đã được dạy dỗ rằng cái tôi đồng nghĩa với sự xấu xa, và việc không-có-cái-tôi là đức hạnh lý tưởng. Nhưng
người sáng tạo là người vị kỷ theo nghĩa tuyệt đối, còn người không có cái tôi là kẻ không tư duy, không cảm nhận,
không đánh giá và khbn ông hành động. Bởi vì tư duy, cảm nhận, đánh giá và hành động là những chức năng của cái tôi.
"Đây là chỗ mà sự đánh tráo khái niệm này có tác hại khủng khiếp nhất. Sự đánh tráo này đưa con người đến chỗ không
có lựa chọn - và không có tự do. Thay vì hai thái cực tốt và xấu, chúng ta chỉ còn hai khái niệm: vị kỷ hay vị nhân sinh.
Sự vị kỷ bị coi là hy sinh những người khác cho bản thân mình. Còn vị nhân sinh trở thành hy sinh thân mình vì những
người khác. Điều này đã vĩnh viễn trói một người vào những người khác và khiến cho anh ta không còn lựa chọn nào
khác ngoài sự đau khổ: sự đau khổ mà anh ta phải mang vác để thỏa mãn người khác và sự đau khổ mà anh ta gây ra cho
người khác để thỏa mãn bản thân anh ta. Đến khi người ta thêm vào một điều khoản - rằng con người phải tìm kiếm niềm
vui trong việc hy sinh bản thân thì cái bẫy đã hoàn toàn sập xuống. Con người bị ép phải coi khổ dâm là lý tưởng - vì nếu
không, họ chỉ còn một lựa chọn là bạo dâm. Đây là vụ lừa đảo lớn nhất mà loài người đã thực hiện.
"Đây chính là công cụ mà theo đó sự phụ thuộc và khổ đau được duy trì như nền tảng của cuộc sống.
"Sự lựa chọn mà chúng ta phải có không phải là giữa hy sinh bản thân và hy sinh người khác. Sự lựa chọn phải là giữa
sống độc lập và sống lệ thuộc. Giữa nguyên tắc sống của người sáng tạo với nguyên tắc sống của những kẻ thứ sinh. Đây
chính là vấn đề cơ bản. Nó là lựa chọn giữa sống và chết. Nguyên tắc sống của người sáng tạo được xây dựng trên những
nhu cầu của một bộ óc biết tư duy và do đó giúp con người tồn tại được. Nguyên tắc sống của nhưng kẻ thứ sinh được
xây dựng trên nhu cầu của một bộ óc không có khả năng tồn tại. Tất cả những gì bắt nguồn từ cái tôi độc lập của con
người đều lành mạnh. Tất cả những gì bắt nguồn từ sự lệ thuộc của con người vào người khác đều là xấu xa.
"Người vị kỷ theo nghĩa tuyệt đối không bao giờ bắt người khác hy sinh ình. Anh ta sống vượt ra ngoài nhu cầu sử dụng
những người khác, dù dưới bất cứ hình thức nào. Anh ta không hoạt động thông qua họ. Trong những lĩnh vực cốt lõi
nhât - tức là trong mục đích, động cơ, tư duy, khát vọng, năng lực - anh ta không quan tâm tới người khác. Anh ta không
sống vì bất cứ ai - và anh ta không yêu cầu ai phải sống vì anh ta. Đây là hình thức duy nhất để tình bằng hữu và sự tôn
trọng lẫn nhau giữa người với người có thể tồn tại.
"Năng lực của mỗi người có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên: mức độ độc lập, chủ động, và tình
yêu công việc của mỗi người là yếu tố quyết định tài năng của anh ta với tư cách là một người lao động và quyết định giá
trị của anh ta với tư cách một con người. Sự độc lập là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá phẩm chất và giá trị của loài
người. Anh ta là ai và anh ta tự tạo ra cái gì; chứ không phải anh ta đã làm được hoặc không làm được gì cho người khác.
Không có gì có thể thay thế được phẩm giá cá nhân. Và không có tiêu chuẩn nào khác cho phẩm giá cá nhân ngoài tính
độc lập.
"Tất cả những quan hệ hợp lý đều không có chuyện người này phải hy sinh vì người khác. Một kiến trúc sư cần có khách
hàng, nhưng anh ta không đặt lao động của anh ta xuống dưới nhu cầu của khách hàng. Khách hàng cần kiến trúc sư,
nhưng họ cũng không ký hợp đồng xây nhà chỉ vì họ muốn cho anh ta tiền công xây dựng. Loài người trao đổi sản phẩm
lao động với nhau thông qua sự đồng thuận tự nguyện vì lợi ích của cả hai bên, khi lợi ích cá nhân của cả hai bên cùng
được thỏa mãn và họ cùng mong muốn có trao đổi đó. Nếu họ không muốn có trao đổi đó, họ không bắt buộc phải làm
việc với nhau. Họ có thể tìm kiếm người khác. Đây là mối quan hệ bình đẳng duy nhất có thể có ở loài người. Bất cứ
những dạng quan hệ nào khác đều chỉ là quan hệ giữa chủ và tớ, hoặc giữa nạn nhân và đao phủ.
"Chưa từng có công trình nào được hoàn thành nhờ tập thể, nhờ quyết định của đa số. Tất cả những thành tựu trong công
việc sáng tạo đều được thực hiện dưới sự chỉ đạo của một suy nghĩ cá nhân đơn nhất. Một kiến trúc sư cần rất nhiều
người để xây nên một tòa nhà. Nhưng anh ta không yêu cầu họ biểu quyết về bản thân thiết kế của mình. Họ làm việc
cùng nhau thông qua thỏa thuận tự do và mỗi người trong họ đều tự do hoạt động trong bổn phận hợp lý của mình. Một
kiến trúc sư sử dụng thép, kính, bê tông, do những người khác sản xuất ra. Nhưng nguyên liệu vẫn chỉ là thép, kính và bê
tông cho đến khi người kiến trúc sư chạm vào chúng. Những gì anh ta làm với chúng là sản phẩm và tài sản của riêng
anh. Đây là hình thức hợp tác hợp lý duy nhất giữa người và người.
"Quyền đầu tiên của con người trên trái đất này là quyền có cái tôi. Bổn phận đầu tiên của một con người là bổn phận với
chính mình. Nguyên tắc đạo đức của anh ta là không bao giờ để người khác quyết định mục đích sống của anh ta. Bổn
phận đạo đức của anh ta là phải làm những gì anh ta khao khát, miễn là khao khát đó không do người khác quyết định.
Bổn phận đạo đức này phải chi phối sự sáng tạo, tư duy và lao động của anh ta. Những kẻ ăn cướp, những kẻ theo chủ
nghĩa vị nhân sinh, hay những kẻ độc tài dĩ nhiên không sống theo bổn phận này.
"Một con người luôn nghĩ và làm việc một mình. Một con người không thể ăn cắp, lợi dụng hay cai trị một mình. Ăn cắp,
lợi dụng hay cai trị luôn đòi hỏi phải có nạn nhân. Chúng bao hàm sự lệ thuộc. Chúng là lãnh địa của những kẻ sống thứ
sinh.
"Những người cai trị người khác không phải là những người vị kỷ. Họ chẳng tạo ra cái gì cả. Họ tồn tại hoàn toàn thông
qua những người khác. Mục đích của họ nằm trong đối tượng mà họ cai trị, trong hành vi nô dịch hóa người khác. Họ
cũng lệ thuộc chẳng kém gì những người ăn xin, những người làm công tác xã hội và lũ kẻ cướp. Ở đây, hình thức lệ
thuộc không quan trọng.
"Nhưng loài người đã được dạy dỗ để coi những người sống thứ sinh - những tên bạo chúa, những ông hoàng, những kẻ
độc tài - như những ví dụ tiêu biểu của lòng vị kỷ. Qua sự đánh tráo khái niệm này, loài người bị lừa vào chỗ hủy diệt cái
tôi của bản thân họ và của những người khác. Mục đích của sự lừa đảo này là để hủy hoại những người sáng tạo. Hoặc để
kìm kẹp họ. Hai điều này thực sự là một.
"Từ lúc bắt đầu của lịch sử loài người, hai đối thủ đã luôn đứng đối mặt nhau: người sáng tạo và người sống thứ sinh. Khi
người sáng tạo đầu tiên tạo ra cái bánh xe, kẻ sống thứ sinh lập tức đáp lại. Anh ta tạo ra chủ nghĩa vị nhân sinh.
"Người sáng tạo - mặc dù bị chối bỏ, thù nghịch, ngược đãi và bóc lột - vẫn đi tiếp về phía trước và kéo cả loài người đi
theo bằng sức của mình. Những kẻ sống thứ sinh không đóng góp gì vào quá trình này ngoài việc gây ra những trở ngại.
Trận đấu bây giờ được khoác một cái tên mới: cá nhân chống lại tập thể.
"'Lợi ích chung' của tập thể đã được chọn làm quyền và lý do để bào chữa cho tất cả chế độ chuyên chế bạo ngược đã
từng có trong lịch sử loài người. Cái tập thể đó có thể là một sắc tộc, một giai cấp, hay một quốc gia. Tất cả những cơn ác
mộng trong lịch sử đều được thực hiện với động cơ trá hình là chủ nghĩa vị nhân sinh. Đã từng có hành vi ích kỷ nào có
sức phá hoại ngang với những thảm họa chết chóc do những người đi theo chủ nghĩa vị nhân sinh gây ra? Lỗi nằm ở chỗ
loài người không có đạo đức hay ở chỗ nguyên tắc đạo đức của loài người đã sai từ trong bản chất? Những tên đạo phủ
khủng khiếp nhất lại thường là những người nhiệt tình nhất. Họ nhiệt tình tin rằng có thể đạt được một xã hội hoàn hảo
nhờ máy chém và đội hành quyết. Không ai nghi ngờ quyền giết người của họ bởi vì họ giết người với động cơ vị nhân
sinh. Người ta chấp nhận việc ai đó phải bị hy sinh vì những người khác. Diễn viên có thể thay đổi, nhưng nội dung vở bi
kịch thì vẫn giữ nguyên. Một người đấu tranh cho nhân quyền luôn khởi đầu bằng những tuyên bố về tình yêu nhân loại
và luôn kết thúc bằng một biển máu. Điều đó đang diễn ra và sẽ tiếp tục diễn ra chừng nào loài người vẫn còn tin rằng
một hành vi được coi là đức hạnh nếu nó không xuất phát từ cái tôi. Niềm tin này cho phép những kẻ theo chủ nghĩa vị
nhân sinh hành động và ép buộc nạn nhân của họ phải chấp nhận điều đó. Những người lãnh đạo của những phong trào
tập thể luôn tuyên bố không cần gì cho bản thân họ. Nhưng hãy quan sát những gì họ đã gây ra.
"Điều đức hạnh duy nhất mà con người có thể làm cho nhau và cái thỏa thuận duy nhất ối quan hệ hợp lý giữa người với
người là - Buông nhau ra!
"Bây giờ hãy quan sát những thành quả của một xã hội xây dựng trên nguyên tắc của chủ nghĩa cá nhân. Đó, đất nước
của chúng ta. Đất nước hùng mạnh nhất trong lịch sử loài người. Đất nước của những thành tựu, của sự thịnh vượng và
của nền tự do vĩ đại nhất trong lịch sử. Đất nước này không dựa trên sự phục vụ quên mình, sự hy sinh, hay bất cứ lời
giáo huấn nào khác về chủ nghĩa vị nhân sinh. Nó được xây dựng dựa trên quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người.
Hạnh phúc của mỗi cá thể chứ không phải của ai khác. Một động cơ riêng tư, cá nhân và vị kỷ. Hãy nhìn vào những kết
quả chúng ta có được. Hãy nhìn vào lương tâm của chính mình.
"Đây là một xung đột rất cổ xưa. Loài người đã đến rất gần với sự thật, nhưng mỗi lần họ tiến được đến gần thì sự thật lại
bị phá hủy và các nền văn minh cứ nối tiếp nhau sụp đổ. Văn minh là một quá trình tiến đén một xã hội tôn trọng sự riêng
tư. Người nguyên thủy tồn tại hoàn toàn trong cộng đồng chung, bị cai trị bởi luật lệ của bộ tộc anh ta. Văn minh hóa là
một quá trình giải phóng mỗi người khỏi mọi người.
"Giờ đây, trong thời đại của chúng ta, chủ nghĩa tập thể - nguyên tắc của những kẻ sống thứ sinh và những kẻ ăn bám,
con quái vật thời cổ đại, đã sổng chuồng và trở nên điên cuồng hơn bao giờ hết. Nó đã đẩy loài người đến một mức độ
tăm tối về nhận thức chưa từng có trên trái đất. Nó đã đạt tới sức mạnh kinh khủng mà nó chưa bao giờ đạt được. Nó đã
đầu độc bộ óc của tất cả mọi người. Nó đã nuốt chửng hầu hết châu Âu. Và nó đang nhấn chìm đất nước của chúng ta
xuống vực thẳm.
"Tôi là một kiến trúc sư. Tôi có thể đoán công trình kiểu gì sẽ mọc lên nếu tôi biết nguyên tắc đặt móng của công trình
đó. Chúng ta đang tiến gần tới một thế giới mà tôi không cho phép mình được sống ở đó.
"Bây giờ các vị đã biết tại sao tôi phá huỷ Cortlandt.
"Tôi đã thiết kế Cortlandt. Tôi đã đưa nó cho các vị. Và tôi đã phá hủy nó.
"Tôi phá hủy nó bởi vì tôi không muốn nó tồn tại. Nó là một con quái vật kép. Nó là con quái vật trong hình dạng thực và
là con quái vật trong ý nghĩa biểu tượng. Tôi phải phá hủy cả hai điều đó. Hình dáng thực của nó đã bị bóp méo bởi hai
kẻ sống thứ sinh dám tự ình cái quyền được điều chỉnh những gì họ không làm ra và không có khả năng làm. Người ta
cho phép họ làm việc đó bởi vì người ta nghiễm nhiên cho rằng mục đích nhân đạo của tòa nhà có thể thay thế tất cả
những quyền khác. Họ nghiễm nhiên cho rằng tôi không có quyền chống lại điều đó.
"Tôi đã đồng ý thiết kế Cortlandt với mục đích được nhìn thấy nó mọc lên giống hệt những gì tôi đã thiết kế và không với
một lý do nào khác. Đó là cái giá mà tôi đặt ra cho lao động của tôi. Tôi đã không được thù lao.
"Tôi không đổ lỗi cho Peter Keating. Chuyện đó nằm ngoài khả năng của anh ta. Anh ta đã ký hợp đồng với những người
chủ của anh ta. Nhưng bản hợp đồng đã bị bỏ qua. Người ta đã hứa với anh ta rằng tòa nhà sẽ được xây đúng như bản
thiết kế. Nhưng lời hứa đó đã bị lãng quên. Ngày nay, người ta coi tình yêu của một người với tính toàn vẹn trong công
việc và quyền bảo vệ nó là những thứ có giá trị mơ hồ và không cần thiết. Các vị đã nghe công tố viên nói điều đó. Tại
sao tòa nhà này bị biến dạng? Chẳng vì lý do gì cả. Những hành vi như thế không bao giờ có lý do nào cả. Lý do duy
nhất của nó là sự phù phiếm cảu một vài kẻ thứ sinh muốn có quyền với tài sản của người khác, cả tài sản vật chất lẫn tài
sản tinh thần. Ai đã cho phép họ làm điều đó? Không cụ thể một ai trong số những người có thẩm quyền. Không ai thèm
để ý đến việc cho phép hay ngăn cấm hành vi đó. Không ai chịu trách nhiệm. Không ai đứng ra chịu lỗi. Đó chính là bản
chất của tất cả các hoạt động tập thể.
"Tôi không được trả cái mà tôi đòi hỏi. Nhưng những ông chủ dự án Cortlandt lại có cái mà họ muốn. Họ muốn một bản
thiết kế để xây một tòa nhà càng rẻ càng tốt. Họ không tìm được ai có khả năng đáp ứng yêu cầu này. Tôi có khả năng đó
và tôi đã làm việc cho họ. Họ đã lợi dụng công trình của tôi và bắt tôi phải đem hiến nó như một món quà. Nhưng tôi
không phải là người theo chủ nghĩa vị nhân sinh. Tôi không tặng quà kiểu này.
"Người ta nói rằng tôi đã phá hủy chỗ ở cho những người nghèo. Người ta quên rằng nếu không có tôi, thì không thể có
khu nhà này cho người nghèo ở. Tôi không quan tâm tới việc giúp người nghèo. Nhưng những người quan tâm đến người
nghèo cần có tôi để có thể giúp được người nghèo. Người ta tin rằng sự nghèo khổ của những cư dân tương lai trong tòa
nhà này cho họ quyền làm bất cứ điều gì đối với công trình của tôi. Rằng nhu cầu của họ cho phép họ có quyền quyết
định cuộc đời của tôi. Rằng bổn phận của tôi là phải đóng góp bất cứ những gì người ta cần ở tôi. Đây chính là tín điều
của kẻ thứ sinh. Tín điều này đang nuốt chửng cả thế giới này.
"Tôi tới đây để nói rằng tôi không công nhận quyền của bất cứ ai với bất cứ giây phút nào trong cuộc sống của tôi. Tôi
không công nhận quyền của bất cứ ai với bất cứ phần sức lực nào của tôi. Bất cứ thành quả nào của tôi. Bất kể đó là ai,
họ đông tới đâu hay nhu cầu của họ lớn đến mức nào.
"Tôi muốn tới đây để nói rằng tôi không tồn tại vì người khác.
"Cần phải nói rõ điều này. Thế giới này đang bị diệt vong vì đã quá lạm dụng khái niệm hy sinh bản thân.
"Tôi muốn tới đay để nói rằng sự chính trực trong công việc sáng tạo của một người quan trọng hơn bất cứ nỗ lực từ
thiện nào. Những người không hiểu được điều này chính là những kẻ đang hủy diệt thế giới.
"Tôi muốn tới đây để tuyên bố những nguyên tắc của tôi. Tôi không tồn tại theo bất cứ nguyên tắc nào khác.
"Tôi không thừa nhận bất cứ nghĩa vụ nào đối với loài người ngoại trừ một nghĩa vụ: tôn trọng sự tự do của họ và không
tham gia vào một xã hội nô dịch. Đối với tổ quốc của tôi, nếu nó không còn tồn tại (như nó phải tồn tại[171]), thì tôi sẽ
xin được vào tù 10 năm. Tôi sẽ sống mười năm đó để tưởng nhớ và biết ơn vì những gì tổ quốc này đã từng có trong quá
khứ. Đó sẽ là hành vi thể hiện lòng trung thành của tôi, thể hiện rằng tôi từ chối sống và làm việc cho cái xã hội đã thế
chỗ vào tổ quốc cũ của tôi.
"Đó cũng chính là hành vi thể hiện lòng trung thành của tôi với tất cả những người sáng tạo đã từng sống và phải chịu
khổ đau bởi những thế lực chịu trách nhiệm về vụ Cortlandt mà tôi phá nổ. Cho tất cả những giờ đồng hồ mà họ bị buộc
phải sống trong cô đơn, trong ruồng bỏ, trong tuyệt vọng và ngược đãi - và cho cả những trận chiến mà họ đã chiến
thắng. Cho tất cả những người sáng tạo có tên tuổi - và cho cả những người sáng tạo đã sống, đấu tranh và chết một cách
âm thầm trước khi họ đi tới đích. Cho tất cả những người sáng tạo đã bị phá hủy cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cho Henry
Cameron. Cho Steven Mallory. Cho một người không muốn được nêu tên nhưng đang ngồi trong căn phòng này và biết
rằng tôi đang nói về ông ấy."
Roark đứng, hai chân anh dang rộng, cánh tay duỗi thẳng dọc theo người, đầu ngẩng cao - như thể là anh đang đứng
trước một tòa nhà chưa xây xong. Sau đó, khi anh ngồi xuống bàn dành cho bị cáo, rất nhiều người trong phòng cảm thấy
họ vẫn nhìn thấy anh đang đứng. Họ nhìn thấy bức tranh về một khoảnh khắc không bao giờ thay thế được.
Bức tranh đó vẫn nằm trong đầu họ trong suốt những cuộc tranh cãi pháp lý diễn ra sau đó. Họ nghe quan tòa nói với
công tố viên rằng bị cáo đã thay đổi lời bào chữa: anh ta đã thừa nhận hành vi phá hủy của mình, nhưng đã không thừa
nhận mình có tội; do đó nảy sinh vấn đề liệu bị cáo có bị mất trí tạm thời không. Bồi thẩm đoàn có quyền quyết định liệu
bị cáo có nhận thức được bản chất và tầm quan trọng của hành vi đó hay không; và nếu có thì liệu bị cáo có nhận thức
được hành vi đó là sai trái không. Công tố viên không phản đối. Bầu không khí trong phòng có một vẻ im ắng khác lạ.
Công tố viên tin chắc rằng ông đã thắng. Ông phát biểu kết thúc. Không ai nhớ là ông đã nói gì. Quan tòa hướng dẫn bồi
thẩm đoàn đứng dậy và rời phòng xét xử.
Mọi người bắt đầu đứng lên, nhẩn nha chuẩn bị ra về. Họ nghĩ họ sẽ phải chờ thêm nhiều giờ nữa. Wynand ở cuối phòng,
và Dominique ở đầu phòng, đều ngồi bất động.
Một viên cảnh sát tòa án đi đến hộ tống Roark rời phòng xử án. Anh đứng lên cạnh bàn bị cáo. Anh nhìn Dominique, rồi
Wynand. Sau đó anh quay người và đi theo viên cảnh sát.
Khi anh đi tới cửa phòng thì có những tiếng gõ sắc nét vang lên. Mọi người im lặng trong chốc lát; rồi họ nhận ra đó là
tiếng gõ ở cửa phòng của bồi thẩm đoàn. Bồi thẩm đoàn đã có phán quyết về vụ án.
Những người đang đứng thì vẫn đứng yên, như bị đóng băng, cho đến khi quan tòa quay trở lại ghế ngồi. Bồi thẩm đoàn
đi thành hàng vào phòng xét xử.
"Bị cáo hãy đứng lên và quay mặt về phía bồi thẩm đoàn," thư ký phiên tòa nói.
Howard Roark bước lên và đứng quay mặt về phía bồi thẩm đoàn. Ở cuối phòng, Gail Wynand cũng nhỏm dậy và đứng
nghiêm.
"Thưa ông Foreman, bồi thẩm đoàn đã có phán quyết cuối cùng chưa?"
"Chúng tôi đã có."
"Phán quyết của bồi thẩm đoàn là gì?"
"Vô tội."
Cử động đầu tiên của Roark không phải là nhìn thành phố bên ngoài cửa sổ. Anh cũng không nhìn quan tòa hay
Dominique. Anh nhìn Wynand.
Wynand quay ngoắt người và bước khỏi phòng. Ông là người đầu tiên rời phòng xét xử.
(Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)
4,0
1.2. Bình luận
- Trong cuộc sống, ánh sáng và bóng tối, niềm vui và nỗi buồn, cái tốt và cái xấu… luôn là những cặp
phạm trù song song tồn tại. Thế nhưng, sứ mệnh của con người là luôn hướng về ánh sáng để đẩy lùi
bóng tối, hướng tới những niềm vui, những điều tốt đẹp để vượt lên nỗi buồn, chiến thắng cái xấu, cái
ác… Những điều đó cần bắt nguồn từ nhận thức của mỗi cá nhân, từ đó lan tỏa giá trị sống tốt đẹp đến
cả cộng đồng.
- Sống với mặt trời ẩn trong tim là sống với những trái tim chứa đầy tình yêu thương, lòng nhiệt thành,
sự đam mê, nghị lực, niềm tin, niềm lạc quan…, có những việc làm, hành động tốt đẹp nhưng thầm lặng,
khiêm nhường, không mưu cầu được người khác ngợi ca, tôn vinh.
- Lẽ sống với mặt trời ẩn trong tim ấy có nhiều ý nghĩa tích cực:
+ giúp bản thân mỗi người có đủ sức mạnh và nghị lực chiến thắng những khó khăn, vượt qua chông gai
bão tố, gặt hái được thành công, tạo nên những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Đó là lẽ sống đẹp tự thân
lung linh tỏa sáng.
+ góp phần vào sự phát triển tốt đẹp của cộng đồng, làm cho cuộc sống của bản thân mỗi người trở nên
có ý nghĩa.
+ góp phần lan tỏa giá trị sống, truyền cảm hứng sống tốt đẹp tới cộng đồng, thắp lửa dẫn đường cho
những hành động đáng quý.
(Học sinh cần lấy dẫn chứng để làm rõ luận điểm; ví dụ: bé Hải An, hoa hậu H'hen Niê...)
2,0
1.3. Liên hệ, rút ra bài học
- Mỗi người hãy sống tích cực, có ý nghĩa với mặt trời ẩn trong tim để giúp cho xã hội ngày càng tốt đẹp
hơn.
- Tôn vinh những hành động đẹp, những con người, việc làm truyền cảm hứng tích cực trong xã hội.
- Cảnh tỉnh, phê phán những người sống ích kỉ, chỉ nghĩ đến bản thân hoặc không dám xông pha, dâng
hiến, tỏa sáng...
2 Bàn về văn học, nhà thơ Thanh Thảo cho rằng: 12,0
Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc. Nó
giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn.
(Theo Nhà văn nói về môn Văn – Văn học và tuổi trẻ – NXB GD, 2015)
Bằng trải nghiệm văn học, anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
TRƯỜNG THPT LÊ QUÝ ĐÔN QUẢNG TRỊ
* Yêu cầu về kĩ năng
Biết làm bài nghị luận văn học; vận dụng tốt các thao tác giải thích, phân tích, chứng minh văn học; biết
kết hợp kiến thức lí luận với kiến thức về tác phẩm để bàn luận, đánh giá; văn viết có hình ảnh và giàu
cảm xúc, có giọng điệu riêng; diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
* Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các yêu cầu sau:
2.1. Giải thích 2,0
- Văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng mức và những chiều sâu đáng kinh ngạc: Nhờ
văn chương mà con người được trải nghiệm cuộc sống, sống thêm nhiều cuộc đời, biết thêm nhiều thời
đại, khám phá những điều mới mẻ về cuộc sống và chính mình. Từ đó, trí tuệ, tâm hồn con người được
mở rộng ra, lớn thêm lên, sâu sắc hơn.
- Nó giúp con người sống “ra người” hơn, sống tốt hơn: văn học tác động sâu sắc đến con người, khơi
dậy chất người trong con người, làm nảy nở những xúc cảm cao đẹp, giúp con người hướng thiện, sống
tốt đẹp hơn, hướng đến những giá trị nhân đạo cao cả.
🡪 Ý kiến trên khẳng định, đề cao các chức năng của văn học: Văn chương có sứ mệnh cao cả là làm
giàu thêm nhận thức của con người về thế giới xung quanh, về chính bản thân mình; bồi đắp, giáo dục,
nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người.
2.2. Bình luận 2,0
- Xuất phát từ đặc trưng của văn học: Văn học phản ánh cuộc sống một cách tổng hợp, toàn vẹn trong
mọi quan hệ đa dạng, phức tạp. Tác phẩm văn học là kết quả nhận thức, khám phá mới mẻ, sâu rộng của
nhà văn về cuộc sống, con người. Nhờ đó, văn học đem đến cho người đọc một thế giới tri thức mênh
mông về đời sống vật chất và tinh thần của nhân loại từ xưa đến nay.
- Văn học giúp người đọc được trải nghiệm, hình dung, liên tưởng, tưởng tượng, thấu hiểu…, mở rộng,
nâng cao nhận thức, đem đến những hiểu biết, khám phá lớn rộng, sâu sắc, mới mẻ.
- “Văn học là nhân học” (Gorki). Đến với tác phẩm văn học, con người được thanh lọc tâm hồn. Một
tác phẩm văn học chân chính phải lấy con người làm gốc, làm cho tâm hồn con người trở nên trong
sạch, nhân ái, lạc quan yêu đời, biết lên tiếng đấu tranh chống lại cái xấu cái ác, ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp, hướng con người tới Chân, Thiện, Mĩ, góp phần nhân đạo hóa con người.
2.3. Chứng minh 6,0
Học sinh có thể chọn những dẫn chứng khác nhau để làm rõ ý kiến trên, quá trình chọn và phân tích dẫn
chứng cần đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Chọn được dẫn chứng tiêu biểu, toàn diện
+ Phân tích dẫn chứng cần chỉ ra được những trải nghiệm về cuộc sống, thấu hiểu về số phận, nhân cách
hay chiều sâu tâm hồn con người trong tác phẩm (ở “những tầng mức” và “những chiều sâu đáng kinh
ngạc” như thế nào); nhận ra giá trị nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người của tác phẩm.
HỘI CÁC TRƯỜNG CHUYÊN ĐỀ THI CHỌN HỌC SINH GIỎI LẦN THỨ XII
VÙNG DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ MÔN NGỮ VĂN - KHỐI 11
TRƯỜNG THPT CHUYÊN TRẦN PHÚ Thời gian làm bài: 180 phút
ĐỀ ĐỀ XUẤT (Đề này có 02 câu; gồm 01 trang)
Câu 1 (8 điểm)
Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau:
Một người không biết nói cho người khác nghe, và không biết lắng nghe người khác, càng học nhiều càng biết
rộng thì càng trở nên vô dụng.
2. Bình luận
- Học và biết là sự tích lũy tri thức, hiểu biết của con người. Nói cho người khác nghe, nghe người khác
nói là sự giao tiếp, tương tác của con người trong cuộc sống. Đây là hai nhân tố quan trọng quyết định
sự thành công của con người.
- Học rộng biết nhiều mà không biết nói cho người khác nghe thì vốn tri thức hiểu biết cũng trở nên vô
dụng, vì:
+ Kĩ năng giao tiếp kém, khả năng nói và thuyết phục người khác hạn chế, sẽ không thể hiện, khẳng
định được mình trước cuộc đời, kiến thức hiểu biết mãi chỉ là mớ lí thuyết suông, vô giá trị.
+ Ngược lại, người biết nói cho người khác nghe, sẽ vận dụng được kiến thức tài năng của mình vào
cuộc sống, tự khẳng định được vị thế của mình và có tác động tích cực đến người khác, tập thể. Đó là
5.0
con đường dẫn tới thành công.
+ Trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay, nói cho người khác nghe càng là một kĩ năng sống cần thiết
của con người thời hiện đại.
- Không biết lắng nghe người khác cũng là một điều rất tai hại khi con người học rộng biết nhiều:
+ Rơi vào tình trạng bảo thủ cố chấp, kiêu căng ngạo mạn hoặc vô cảm vô tâm.
+ Tự tách mình ra khỏi nhân loại, tự cô lập mình.
+ Kiến thức dù rộng đến mấy cũng thụt lùi lạc hậu và dễ mắc sai lầm.
+ Lắng nghe người khác còn là phương pháp học hỏi trau dồi kiến thức hữu hiệu, tạo nên mối quan hệ
tương tác hữu ích trong cuộc sống.
- Phê phán những kẻ mọt sách, kĩ năng sống kém; những kẻ kiêu căng ngạo mạn ếch ngồi đáy giếng...
3. Bài học 1.0
- Luôn trau dồi kiến thức sách vở và đời sống.
- Chú trọng rèn luyện các kĩ năng sống, đặc biệt là kĩ năng nói và nghe...
Tổng điểm 8.0
I. Yêu cầu chung: Hiểu đúng đắn vấn đề, nắm được cách làm bài văn nghị luận văn học. Biết phân tích
Câu dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Bài viết nêu được ý kiến riêng, có sức thuyết phục. Bố cục rõ ràng,
2 lập luận chặt chẽ. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc các lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ
pháp, chính tả.
II. Yêu cầu cụ thể: Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các yêu
cầu sau:
1. Giải thích ý kiến
- Nghệ thuật có hai ý hiểu: để chỉ một hình thái ý thức khác với khoa học, triết học; để chỉ tính chất
nghệ thuật của một tác phẩm văn học.
- Chất liệu, vật liệu là các chi tiết của hiện thực cuộc sống mà nhà văn quan sát được, là vốn sống mà
nhà văn tích lũy được, là những tính cách xã hội, đề tài, phạm vi hiện thực... mà nhà văn muốn khám
phá và thể hiện.
- Phương thức, phương tiện là các phương tiện ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, cú pháp, các biện pháp tu
từ...); là các phương thức tổ chức lời văn, kết cấu tác phẩm, bút pháp nghệ thuật... đặc biệt, độc đáo
1.0
phù hợp với đối tượng phản ánh, với phong cách tác giả, phù hợp với phương pháp sáng tác và đặc
trưng thể loại... Từ đó đem đến cho người đọc một cách nhìn một cách cảm nhận mới mẻ, giầu phát
hiện đối với hiện thực.
🡪 Ý kiến Phan Huy Dũng đã đi sâu vào một phương diện của lao động sáng tạo văn học, khẳng định sự
độc đáo của các tác phẩm có thể cùng đề tài, cùng chất liệu, nhưng vẫn để lại những dư âm khác nhau
trong tác phẩm và người đọc chính là nhờ vào sự chế ngự - làm chủ, sáng tạo trong cách lựa chọn vật
liệu chất liệu của đời sống và ngôn từ, là tài năng phát hiện hiện thực và sử dụng các phương thức nghệ
thuật để diễn tả phát hiện đó.
2. Bình luận
- Ý kiến trên là một nhận thức đúng đắn và sâu sắc về đặc trưng của văn học và bản chất của quá trình
sáng tạo nghệ thuật.
- Từ thực tế đời sống muôn màu, mỗi một người nghệ sĩ có tài năng phải là người tự tạo nên cho mình
một cái nhìn, sự khám phá riêng biệt để sàng lọc từ bể đời rộng lớn những số phận con người, những
hiện tượng đời sống, những vấn đề nhân sinh,... những nguồn vật liệu chất liệu riêng không trùng lặp
với người khác. 3,0
- Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo đòi hỏi người nghệ sĩ không chỉ có được những chất liệu vật
liệu của riêng mình, mà còn có năng lực biết chế ngự chất liệu, vật liệu thông qua những phương thức,
phương tiện biểu đạt mang tính đặc thù, là cách xử lí chi tiết đời sống riêng, là những vân chữ không
thể trộn lẫn, khiến tác phẩm văn học, hình tượng nghệ thuật do người nghệ sĩ đó sáng tạo ra là duy nhất
và không thể lặp lại, thậm chí ngay cả với chính tác giả của nó. Từ đó, tạo nên sức lôi cuốn hấp dẫn, tác
động đến bạn đọc từ thế giới nghệ thuật do chính người nghệ sĩ sáng tạo nên.
🡺 Đây chính là vấn đề phong cách, cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
🡺 Đây cũng là đòi hỏi nghiêm ngặt dành cho công phu của người nghệ sĩ trên con đường sáng tạo nghệ
thuật.
3. Chứng minh: qua Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chí Phèo của Nam Cao 6,0
- Chất liệu, vật liệu trong văn của Thạch Lam và Nam Cao chính là đề tài về kiếp sống của những con
người nhỏ bé, cùng khổ trong xã hội cũ; là những chi tiết về cuộc đời ,số phận nhân vật văn xuôi, mảng
hiện thực đời sống thôn quê, huyện lị. Cùng chất liệu, vật liệu này đã có rất nhiều nhà văn có tên tuổi
khai thác như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Trần Tiêu, Tô Hoài...
- Tuy nhiên, Thạch Lam và Nam Cao đã chế ngự chất liệu vật liệu ấy bằng những phương tiện, phương
thức diễn tả đặc thù, in đậm cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn.
+ Cùng hướng tới những kiếp người cùng khổ trong xã hội cũ,Thạch Lam đặc biệt nhạy cảm với nỗi
đau khổ của con người nhỏ bé bị chôn vùi trong một cuộc sống vô danh vô nghĩa, trong bóng đêm của
nghèo khổ, vô vọng; bộc lộ khát vọng được sống trong ánh sáng của một sự sống đích thực. Truyện của
Thạch Lam không có mâu thuẫn, xung đột, không có những bi kịch có thể gọi thành tên, chỉ có những
cảm nhận da diết đầy xót thương về kiếp người. Nam Cao quan tâm tới những thân phận bị tha hóa tới
mức lưu manh hóa với sự sống bế tắc cùng đường; sáng tác của ông là tiếng kêu thức tỉnh nhân tính, đòi
quyền sống cho con người đã bị xã hội vùi dập cả nhân hình, nhân tính. Truyện của Nam Cao phản ánh
mối xung đột giai cấp gay gắt, khốc liệt, số phận người nông dân lâm phải những bi kịch đau thương( bi
kịch tha hóa,bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người) bởi sự áp chế của giai cấp thống trị và những thế lực
tinh thần.
+ Về phương thức phương tiện diễn tả đặc thù: Thạch Lam chọn loại truyện ngắn tâm tình, truyện phi
cốt với cách kể chuyện chậm rãi, tiết điệu thả, điểm nhìn trần thuật luôn được trao cho nhân vật; với chi
tiết sự kiện rất ít nhưng gợi nhiều vấn vương,câu văn giầu nhạc tính, cách tổ chức lời văn giàu hình ảnh
đối lập, giầu ý nghĩa biểu trưng; bút pháp miêu tả nội tâm với những rung động mơ hồ mong manh tinh
tế... thấm đượm chất thơ chất trữ tình. Truyện ngắn Nam Cao có cốt truyện đầy đặn, giầu xung đột kịch
tính, nhiều sự kiện biến cố; điểm nhìn trần thuật biến chuyển linh hoạt, giọng văn đa thanh phức điệu
với sự kết hợp của nhiều yếu tố ngôn ngữ; bút pháp miêu tả tâm lí tài tình với một thế giới nội tâm đầy
phức tạp; kết cấu song trùng đầu cuối tương ứng nội hàm nhiều ý nghĩa.
4. Đánh giá:
- Trong thế giới văn chương, chính tài năng nghệ thuật ,cá tính sáng tạo sẽ giúp cho người nghệ sĩ có
được một vị trí xứng đáng trên văn đàn và làm cho diện mạo văn học thời kì ấy trở nên phong phú, đa
dạng (Thạch Lam và Nam Cao chính là gương mặt tiêu biểu chứng minh cho qui luật sáng tạo này).
- Dấn thân vào con đường văn chương, người nghệ sĩ phải thực sự nghiêm túc, có ý thức cao trong việc
chế ngự vật liệu chất liệu thông qua những phương thức phương tiện đặc thù để tạo dựng cho mình một
thế giới nghệ thuật riêng, một phong cách nghệ thuật độc đáo. 2.0
--------------------- HẾT---------------------
(Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)
2 Một nhà văn đích thực như một bức tranh treo trên tường mà khi tháo nó ra thì vĩnh
viễn để lại khoảng trống.
Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy chứng minh bằng một tác giả trong chương
trình Ngữ văn lớp 11.
(TRƯỜNG THPT CHUYÊN BẮC GIANG)
* Yêu cầu về kĩ năng
- Có kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học, biết huy động các kiến thức lí luận, kiến thức về tác
giả, tác phẩm để làm bài.
- Vận dụng các thao tác lập luận phù hợp, lí lẽ xác đáng, trình bày khoa học, diễn đạt lưu loát,
không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
* Yêu cầu về kiến thức: Học sinh có nhiều cách trình bày khác nhau, song cần đạt được những
nội dung cơ bản sau:
2.1. Giải thích 2,0
- Nhà văn đích thực: là nhà văn chân chính, sáng tạo nên được những tác phẩm có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật cao, tác động tích cực đến con người và cuộc sống của con người.
- Một nhà văn đích thực như một bức tranh treo trên tường mà khi tháo nó ra thì vĩnh viễn để lại
khoảng trống: Cách nói hình ảnh “bức tranh treo trên tường... khi tháo nó ra... để lại khoảng
trống„ về vị trí của những nhà văn lớn, nhà văn để lại ấn tượng sâu sắc và chiếm được tình cảm
yêu quý ở người đọc.
🡪 Một nhà văn đích thực phải là nhà văn tạo nên được dấu ấn riêng đậm nét trong sự nghiệp sáng
tác để từ đó hình thành nên phong cách nghệ thuật nổi bật, có một vị trí vững chắc trong lòng độc
giả.
2.2. Bình luận: Khẳng định ý kiến đúng đắn, sâu sắc. 3,0
* Tư chất của người nghệ sĩ:
- Nghệ thuật yêu cầu người nghệ sĩ phải có cá tính sáng tạo, phải có khuôn mặt sáng tạo, có
tiếng nói, giọng nói riêng. Đó là bản sắc sáng tác của nghệ sĩ.
- Cá tính sáng tạo là tư chất vô cùng quan trọng, quan trọng tới mức nó là tiêu chuẩn về sự sống
còn của nghệ sĩ. Vì vậy, người nghệ sĩ phải tìm cho được cái bản sắc của mình.
* Phong cách nghệ thuật:
- Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức
là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Chính sự độc đáo đó tạo nên
phong cách nghệ thuật. Một khi tác giả sáng tác văn học tạo được dấu ấn riêng biệt, độc đáo
trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, biểu hiện rõ cái độc đáo qua các phương diện
nội dung và hình thức của từng tác phẩm, nhà văn đó được gọi là nhà văn có phong cách nghệ
thuật.
- Căn cứ vào PCNT, người đọc có thể xác định tác phẩm của nhà văn này mà không thể của nhà
văn kia. Đồng thời cũng căn cứ vào đó, người đọc hiểu thêm về con người với toàn bộ năng lực,
mối quan tâm, sở trường,.. của người nghệ sĩ. Điều đó tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm và hứng
thú cho người đọc.
PCNT là sự trưởng thành của một nhà văn: nhà văn nào cũng có nét riêng, chỉ ở những nhà văn
thực sự tài năng mới có phong cách. Sự nở rộ của PCNT vì thế cũng là dấu hiệu về sự trưởng
thành của một nền văn học.
Như vậy, một nhà văn đích thực là phải có phong cách như một bức tranh treo trên tường mà khi
tháo nó ra thì vĩnh viễn để lại khoảng trống.
------HẾT------
KỲ THI HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019
(Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)
2 Trong bài Truyện ngắn đầu tiên, K. Pauxtopxki cho rằng: 12,0
Chỉ có người nào nói được với mọi người những điều mới mẻ, có ý nghĩa và thú vị, nhìn thấy
những gì mà người khác không nhận ra, người đó mới có thể là nhà văn.
(Bông hồng vàng và Bình minh mưa, NXB Văn học, 1999, tr.56)
Anh/chị hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
(TRƯỜNG THPT CHUYÊN BIÊN HÒA – HÀ NAM
TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN CHÍ THANH – ĐĂK NÔNG)
* Yêu cầu về kĩ năng
- Có kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học, biết huy động các kiến thức lí luận, kiến thức về tác
giả, tác phẩm để làm bài.
- Vận dụng tốt các thao tác lập luận, lí lẽ xác đáng, trình bày khoa học, văn viết có cảm xúc,
giọng điệu riêng; diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
* Yêu cầu về kiến thức
Học sinh có nhiều cách trình bày khác nhau, song cần đạt được những nội dung cơ bản sau:
2.1. Giải thích 2,0
- nói được những điều mới mẻ, có ý nghĩa và thú vị: nhà văn phải có những khám phá mới mẻ về
cuộc sống, con người, bộc lộ những tư tưởng, tình cảm có ý nghĩa sâu sắc, lớn lao, được thể hiện
qua những hình thức nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn.
- nhìn thấy những gì mà người khác không nhận ra: nhà văn phải có cái nhìn mang tính khám
phá và phát hiện về cuộc sống, con người (phát hiện những điều mới mẻ hoặc có khám phá mới
trước những điều đã quen, đã cũ).
🡪 Ý kiến của Pauxtopxki là một định nghĩa về nhà văn, đòi hỏi để trở thành nhà văn phải có cá
tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật độc đáo.
2.2. Bình luận: Khẳng định ý kiến đúng đắn, sâu sắc. 3,0
- Nghệ thuật là lĩnh vực đòi hỏi sự sáng tạo, độc đáo, mới mẻ.
Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi
và sáng tạo những gì chưa có (Nam Cao).
- Văn học lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống, con người. Hiện thực cuộc sống luôn vận động,
biến đổi không ngừng, là mảnh đất màu mỡ khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho các nhà văn.
Cũng có khi viết về một đề tài cũ nhưng nhà văn phải có cái nhìn khám phá, phát hiện những
điều mới mẻ, thú vị, nhờ đó tác phẩm mới có giá trị và khơi gợi được hứng thú ở người đọc.
- Phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn được biểu hiện qua tác phẩm với những sáng tạo cả
về nội dung lẫn hình thức: điểm nhìn độc đáo, mang đến những đề tài mới, chủ đề mới, những
quan niệm, triết lí mới mẻ, sâu sắc, giàu ý nghĩa; được thể hiện bằng những phương thức,
phương tiện nghệ thuật độc đáo, thú vị…
- Phong cách nghệ thuật độc đáo khẳng định phẩm chất, tầm vóc của nhà văn, tạo nên những
sáng tác giàu giá trị, góp phần làm nên diện mạo phong phú và sự phát triển cho văn học.
------HẾT------
KỲ THI HỌC SINH GIỎI CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN
KHU VỰC DUYÊN HẢI VÀ ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
LẦN THỨ XII, NĂM 2019
ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN 10
(Đề thi gồm 01
Thời gian: 180 phút (không kể thời gian giao đề)
trang)
Ngày thi: 20/4/2019
(Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Cán bộ coi thi không giải thích gì thêm)
---HẾT---
Cuộc sống thay đổi khi chúng ta thay đổi là nhan đề cuốn sách của Andrew Matthews). Suy nghĩ của anh chị về ý kiến
trên.
2.1. Giải thích:
- Thay đổi: làm cho trở nên khác trước.
- Cuộc sống thay đổi: cuộc sống khác với trước đó. Hàm ý tựa đề: cuộc sống biến đổi, phát triển theo hướng ngày càng
tốt đẹp hơn, văn minh, tiến bộ hơn.
- bản thân thay đổi: bản thân khác với trước đó tức là từ bỏ những thói quen, suy nghĩ, tính cách đã định hình để hoàn
thiện bản thân.
–> Vấn đề được đặt ra: chúng ta là một phần của cuộc sống. Cuộc sống sẽ tốt đẹp nếu bản thân mỗi con người tốt đẹp.
Bởi vậy sự thay đổi cuộc sống bắt đầu từ những thay đổi trong bản thân ta.
2.2. Bàn luận
- Tại sao chúng ta phải thay đổi?
+ Cuộc sống luôn vận động, biến đổi không ngừng. Thay đổi để thích nghi với môi trường sống là quy luật tất yếu
của sự sinh tồn.
+ Những diện mạo, thói quen suy nghĩ, hành động cũ nếu duy trì lâu sẽ trở thành lạc hậu, bảo thủ, lực cản của sự
phát triển. Vì vậy, nó cần phải bị loại trừ, phủ định.
+ Chỉ có thay đổi, con người mới hình thành những đặc điểm, phẩm chất mới tối ưu hơn, giúp bản thân thêm hoàn
thiện. Sự thay đổi cũng sẽ mang lại niềm cảm hứng mới, giúp mỗi người thêm yêu đời, yêu bản thân và hứng thú hơn với
công việc…
- Tại sao nói khi chúng ta thay đổi thì cuộc sống sẽ thay đổi?
+ Cuộc sống là tất cả những gì tồn tại trên thế gian này. Đó là chính ngôi nhà ta ở, ngôi trường ta học, vùng đất ta sinh ra,
lớn lên,làm việc, là môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, là truyền thống, phong tục, tập quán...tóm lại là những gì
tạo nên thế giới này.
+ Bản thân mỗi chúng ta là một phần của cuộc sống. Mọi sự thay đổi dù rất nhỏ, thầm lặng, tích cực của mỗi người
đã, đang và sẽ làm cho cuộc sống dần có những thay đổi tốt đẹp hơn; nỗ lực không ngừng tự hoàn thiện mình bởi hiểu
rằng, đó là cách thiết thực và ý nghĩa nhất góp phần quyết định một thể giới hòa bình, dân chủ, tiến bộ, văn minh.
- Thay đổi bản thân là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, phá vỡ giới hạn, khai phóng năng lực tiềm ẩn, tự vượt để
hoàn thiện bản thân. Đó là một quá trình lột xác đau đớn, cần có thời gian và sự bền tâm vững chí.
- Thay đổi nhưng không được đánh mất mình; thay đổi phải mang đến hạnh phúc, giá trị tích cực cho bản thân và cộng
đồng.
- Chứng minh
+ Chắc hẳn chúng ta vẫn chưa quên Renato Soru – người con thân yêu của đất nước Italia, đồng thời là ông
chủ tập đoàn Tiscali nổi tiếng đã thất bại ra sao khi thâm nhập vào thị trường nước Đức rộng lớn với biết bao đối thủ
cạnh tranh. Không hề lùi bước, Renato Sorn đã thay đổi chiến lược kinh doanh của mình, để biến Tiscali thành tên tuổi
hàng đầu thế giới và đưa tên ông vào danh sách những con người thành công nhất thế giới. Mỗi chúng ta cũng cần điều
chỉnh để phù hợp với môi trường như thế.
+ Stephen Hawking
Đề bài : Suy nghĩ của anh/chị về bài học được rút ra từ câu chuyện sau:
Ngày xưa, bên sườn của một núi lớn có một tổ chim đại bàng. Một trận động đất xảy ra làm rung chuyển ngọn núi,
một quả trứng đại bàng lăn xuống và rơi vào trại gà dưới chân núi. Một con gà mái tình nguyện ấp quả trứng ấy. Đến
ngày kia trứng nở ra một chú đại bàng con xinh đẹp, nhưng buồn thay chú chim nhỏ được nuôi lớn như một con gà. Cũng
chẳng lâu sau con đại bàng đó cũng tin tưởng nó chỉ là một con gà không hơn không kém. Đại bàng yêu gia đình và ngôi
nhà đang sống, nhưng tâm hồn nó vẫn khao khát một điều gì đó cao xa hơn. Một ngày, trong khi đang chơi đùa trong sân,
đại bàng nhìn lên trời và thấy những chú chim đại bàng đang sải cánh bay cao giữa bầu trời. “ Ồ đại bàng kêu lên – Ước
gì tôi có thể bay lên giống những chú chim đó” Bầy gà cười ầm lên “anh không thể bay với những con chim đó được.
Anh là một con gà và gà không biết bay cao”. Đại bàng tiếp tục ngước nhìn gia đình thực sự của nó, mơ ước có thể bay
cao cùng họ. Mỗi lần đại bàng nói ra mơ ước của mình, bầy gà lại bảo nó điều không thể xảy ra. Đó là điều đại bàng cuối
cùng đã tin là thật. Rồi đại bàng không mơ nữa và tiếp tục sống như một con gà. Cuối cùng sau một thời gian dài sống
làm gà, đại bàng chết.
Hướng dẫn chi tiết:
Nội dung
2. Về nội dung
Bài làm cần đạt được những ý cơ bản sau:
- Khái quát được ý nghĩa triết lí cuả câu chuyện về chiếc vòng tròn:
Chiếc vòng tròn là biểu tượng của sự hoàn hảo. Bài học về cái vòng tròn cho chúng ta thấy một điều tưởng như nghịch lí
đó là: đôi khi sự khiếm khuyết thiếu hụt chính là biểu hiện chứng tỏ con người là con người với ý nghĩa đúng đắn, nhân
bản nhất. Đây chính là triết lí về con người bất toàn. Chính sự bất toàn là động cơ để con người hoà nhập cùng cộng đồng
và vươn tới những giá trị tốt đẹp và ngày một hoàn thiện.
- Bàn luận về triết lí trên: đây là một triết lí khá sâu sắc.
+ Triết lí này đã nhìn nhận con người và đời sống ở góc độ nhân bản, con người bao giờ cũng có phần Con và
phần Người, phần ưu điểm và hạn chế, tích cực và tiêu cực. Xét từ góc độ triết học, sự tồn tại của hai mặt đối lập và
thống nhất trong cùng một cá thể là một tất yếu.
+ Quá trình sống, học tập, lao động, hoà nhập với cộng đồng của con người là một quá trình học hỏi, đấu tranh,
vươn đến sự hoàn thiện. Đó chính là ý nghĩa cuộc sống, ý nghĩa tồn tại của mỗi con người. .
- Mở rộng, nâng cao vấn đề, liên hệ thức tiễn:
+ Trong cuộc sống, mỗi con người cần biết rõ những hạn chế, khiếm khuyết của mình để khắc phục vươn lên, học
hỏi mọi người, hoàn thiện bản thân; mặt khác, trong hành trình đó, con người không nên cầu toàn, không nên đòi hỏi bản
thân sự hoàn hảo tuyệt đối, vì đó là điều không thể. Nên biết chấp nhận mình để hoà nhập với cộng đồng.
+ Cần có cách nhìn nhận đánh giá con người và ứng xử theo quan điểm nhân bản: đó là biết đề cao những mặt
tích cực, độ lượng, chấp nhận và chia sẻ những mặt hạn chế; giúp đỡ nhau cùng hoàn thiện
Câu chuyện về cái vòng tròn là một thông điệp triết lí về sự tồn tại của con người. Đặt trong thời kì hội nhập và
phát triển của xã hội hiện nay, triết lí nhân sinh của câu chuyện là bài học sống và ứng xử sâu sắc với tất cả mọi người.
Đối với các bạn trẻ đang ở độ tuổi phát triển và hoàn thiện nhân cách thì triết lí trên càng có giá trị thực tiễn trong hành
trang vào đời
(Học sinh có thể lấy những dẫn chứng, cứ liệu khác nhau để minh họa, liên hệ thực tiễn phù hợp với nội dung
nghị luận. Giám khảo cần trân trọng những bài viết có cách trình bày tự nhiên, chân thực; không rơi vào lan man, công
thức, khẩu hiệu, sáo rỗng).
Bài thơ Xuất dương lưu biệt được sáng tác năm 1905, khi Phan Bội Châu từ biệt các bạn đồng chí lên đường tìm đường
cứu nước.Tác phẩm là tiếng nói hăm hở của một trang nam nhi quyết tâm hoàn thành sự nghiệp phục quốc.
Làm trai phải lạ ở trên đời – Há để càn khôn tự chuyển dời – Trong khoảng trăm năm cần có tớ - Sau này muôn thuở há
không ai (Tôn Quang Phiệt dịch).
Làm trai “tam thập nhi lập”, hẳn một người đã từng đậu Giải nguyên năm Canh Tý (1900) như Phan Bội Châu không
phải vướng bận băn khoăn về ý nghĩa làm trai như Giải nguyên Nguyễn Công Trứ thuở xưa, mặc dù cách nói cũng cùng
một kiểu: “Thông minh nhất nam tử - Yếu vi thiên hạ kỳ” (Chí nam nhi). Ông Giải San lúc ấy thừa điều kiện để đi theo
con đường tiền nhân, nhưng cuối Phan Bội Châu lại theo một ngã rẽ khác hẳn. Chữ “kỳ” của Nguyễn Công Trứ bó hẹp
trong “bút trận” – thi cử đỗ đạt làm quan, phụng sự vô điều kiện cho triều đình phong kiến, còn Phan Bội Châu khẳng
định một cách đầy tự hào về ý thức cá nhân mạnh mẽ của mình.
Điều cốt tủy trong suy nghĩ, tình cảm của nhà thơ gửi cả vào phần hậu giải, là bức thông điệp mà Phan Bội Châu gửi gắm
lại bạn bè trước giờ lưu biệt:
Non sông đã chết, sống thêm nhục - Hiền thánh còn đâu học cũng hoài - Muốn vượt biển Đông theo cánh gió – Muôn
trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
. Đúng ra, với đề tài “lưu biệt”, trong thơ xưa vốn dĩ hay nói về cảm xúc bịn rịn lưu luyến hay nỗi hận sầu của người trai
“chí chưa thành, danh chưa đạt”. Vậy mà Phan Bội Châu đã dành hai câu luận để nói về thời thế một cách sâu sắc: ông
đạt sự sống chết, vinh - nhục của một đời trai trong mối liên hệ với vận nước, bằng tất cả nỗi đớn đau của người dân mất
nước. Phan Bội Châu không hề có một chút e dè khi ông phê phán gay gắt cả một nền học cũ đã lỗi thời bằng thái độ
đoạn tuyệt dứt khoát. Nước mất – dân ngu, đó chính là lời kết tội của ông với cả chế độ phong kiến và giáo lý Khổng -
Mạnh đã mục ruỗng. Chính sự bảo thủ ấy đã tiếp tay cho kẻ thù đặt ách thống trị lên đất nước. Phan Bội Châu đã xác
định con đường khác với một Nguyễn Công Trứ bi quan yếm thế khi nếm trải “Vào trường danh lợi vinh liền nhục” để
rồi ao ước “làm cây thông đứng giữa trời mà reo”; khác với một Tú Xương từng nguyền rủa chế độ thi cử và “Sĩ khí rụt
rè gà phải cáo – Văn trường liều lĩnh đấm ăn xôi” mà vẫn lận đận lều chõng mong được chen chân vào rồi cay cú “Tám
khoa không khỏi phạm trường qui”. Hai câu kết hào hùng hiện rõ tư thế bậc đại trượng phu dám phá bung cả khuôn khổ
lề thói cũ, đem đến một quan niệm làm trai mới mẻ:
Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi
Con người nhà thơ hiện ra giữa không gian vũ trụ mới hào hùng, phóng khoáng làm sao! Cái hào sảng của trường phong
- trận gió dài, cơn gió mạnh, cái mênh mông của đông hải - gắn với chí lớn con người muốn tát cạn biển đông đã dồn nén
vào một chữ “khứ” - gắn với hành trình ra đi ngùn ngụt hùng tâm tráng chí. Vang vọng trong câu thơ hào khí của bậc nữ
lưu Triệu Trinh Nương thuở nào: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, chém cá kình ở biển Đông, chứ không cúi đầu làm thê
thiếp kẻ khác”. Phan Sào Nam đã bộc lộ ý chí cứu nước qua hình tượng thật đẹp kết lại bài thơ: Ngàn con sóng bạc nhất
tề cùng bay lên, cả đất trời như đã hoà theo quyết tâm cứu nước của người anh hùng. Con đường của Phan Bội Châu là
con đường hành động, thái độ của Phan Bội Châu là thái độ không cam chịu chờ thời. Không một chút do dự băn khoăn,
bài thơ là dự báo về những việc kinh thiên động địa trong tương lai của người anh hùng khiến cho thực dân Pháp và bọn
bán nước phải run sợ kinh hoàng. Bài thơ thổi một luồng sinh khí vào văn chương thời đại, mở ra những trang đầy hào
khí của văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, tiếp nối tinh thần bất khuất của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập của thế
kỷ trước, có giá trị động viên bao thế hệ yêu nước nối tiếp người chiến sĩ Phan Bội Châu.
Bước ngoặt cuộc đời nhân vật Mị*
Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) là tác phẩm xuất sắc của văn xuôi kháng chiến chống Pháp, tạo xúc động cho người đọc
người xem về số phận của Mị - cô con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Truyện ngắn này tiềm ẩn những yếu tố điện ảnh,
giàu giá trị tạo hình và tinh tế trong sử dụng ngôn ngữ tạo dựng không gian truyện. Nét đặc sắc của truyện không chỉ tập
trung trong không gian mùa xuân Hồng Ngài, nhà văn đã tập trung vào tiếng sáo như phản chiếu sức sống tiềm tàng của
nhân vật Mị, mà còn thể hiện đặc sắc trong đêm cắt dây trói cứu A Phủ . Bảy đoạn văn đặc tả không gian tương phản
sáng – tối thể hiện sâu sắc bước ngoặt cuộc đời Mị.
Mở ra là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Bóng đêm dày đặc ấy là ám ảnh cuộc đời đầy bóng tối
của Mị. Nỗi buồn thân phận còn hiện hình khi A Phủ đang bị trói đứng chờ chết ở cái cọc oan khiên anh đã tự đóng
xuống để ràng buộc cuộc đời con ở gạt nợ. Dẫu cho hàng đêm Mị ra ngồi sưởi lửa thì cũng không thể xua tan đi giá rét đã
đóng băng trong tâm hồn cô.
Ngọn lửa sưởi bùng lên cũng là lúc A Phủ lại mở mắt thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Ngôn ngữ lột tả tột cùng hình ảnh
một người vô cảm, hành động theo thói quen. Trong nỗi đau của mình, Mị không để ý đến nghịch cảnh của người khác,
vả lại những cảnh này đã quá quen thuộc ở nhà thống lý. Lửa sáng mà lòng tối! Cho đến cái đêm quyết định ...
Ngọn lửa bập bùng sáng lên cũng là lúc Mị nhận ra dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A
Phủ – nỗi uất ức của một người sắp chết trong tuyệt vọng. Đó là lúc Mị nhớ lại cảnh mình từng bị trói, đến người đàn bà
bị trói đến chết ở cái nhà này. Cùng ký ức là nhận thức chúng nó thật độc ác. Nhưng suy nghĩ ấy mới chỉ là dấu hiệu của
lòng thương cảm mà chưa hất bỏ được cái bóng ám ảnh con ma nhà thống lý – định mệnh sẽ trói buộc Mị đến chết. Lửa
bập bùng soi những ý nghĩ phảng phất của Mị.
Rồi đám than đã vạc hẳn lửa, cũng là thời khắc Mị nhớ lại đời mình. Ngọn lửa sức sống tiềm tàng như than hồng trong
tro đã giúp cô vượt lên nỗi sợ hãi, hình thành ý định giải cứu A Phủ – dẫu phải trói thay, chết trên cái cọc ấy, làm sao Mị
cũng không thấy sợ. Theo lôgic tư duy ấy, tất yếu sẽ phải là trong nhà đã tối bưng, cùng lúc Mị cắt dây trói cứu A Phủ.
Hành động ấy như hệ quả tất yếu của tình thương, sự bừng sáng của nhận thức, đồng cảm. Nhưng kết thúc hành động ấy,
Mị chưa cắt sợi dây trói vô hình buộc chặt đời mình với nhà thống lý (như nhiều bài viết tham khảo kết luận vội vàng!).
Nhà văn hạ xuống đoạn một câu diễn tả khoảnh khắc sau phút hốt hoảng của Mị: Mị đứng lặng trong bóng tối.
Tiếp liền đó, ông đảo trật tự câu tả ở đoạn sau: Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Đây mới là
thời điểm Mị thật sự cắt sợi-dây-trói-vô-hình, tự giải thoát khỏi cảnh nô lệ. Hành động ấy là ánh sáng vượt qua bóng tối
dày đặc của không gian, khẳng định khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt của nhân vật. Một trường đoạn dụng công
nghệ thuật của Tô Hoài đã làm rõ sự thức tỉnh và gặp gỡ của những con người đau khổ, vượt lên bóng tối đời mình.
------------------------------------------------------------ TRẦN HÀ NAM
* VỢ CHỒNG A PHỦ – trích đoạn phần 1 – giảng dạy trong chương trình Văn học lớp 12.
TUYÊN NGÔN CỦA NAM CAO TRONG ĐỜI THỪA *
Đời Thừa là tác phẩm gắn với những trăn trở của Nam Cao - cây bút hiện thực luôn đấu tranh vượt lên chính mình. Cốt
truyện xoay quanh những xung đột nội tâm của nhà văn Hộ – một người luôn ý thức tình trạng “sống thừa” trong sự
nghiệp văn chương và trong đời sống gia đình.
Đề tài người trí thức nghèo trong xã hội cũ ở các tác phẩm của Nam Cao luôn đặt trong cái nhìn đầy suy tư về thiên chức
nghệ sĩ, về xung đột giữa cái đẹp với đời thường cơm áo gạo tiền. Suy cho cùng, những vấn đề của tác phẩm đã vượt qua
ý nghĩa phê phán xã hội thông thường mà đã hướng tới một ám ảnh dường như trở thành định mệnh với người nghệ sĩ:
cái nghèo và sáng tạo nghệ thuật. Nhân vật Hộ đã chia sẻ cảm xúc ấy với Từ – vợ anh: “… tôi mê văn quá nên mới khổ.
Ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã
đổi” Cái khổ – hiểu theo cách của người nghệ sĩ sáng tạo, không nằm ở những giá trị vật chất (“hắn khinh những lo lắng
tủn mủn về vật chất” và “ Đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng”). Điều Nam Cao muốn nhấn
mạnh trong Đời Thừa chính là chỗ đứng của người nghệ sĩ giữa cuộc đời. Nghệ sĩ cũng là con người, với những nhu cầu
vật chất thiết thân và những mối quan hệ ràng buộc : gia đình, xã hội. Khi Hộ phải điên người lên xoay tiền nuôi vợ con,
Nam Cao đã để cho nhân vật nghĩ đến một giải pháp thoả hiệp : “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có
một số vốn con để làm ăn” Nhưng trong sáng tạo, thoả hiệp đồng nghĩa với đánh mất mình, và Hộ đã phải trả giá khi đón
nhận những đứa-con-tinh-thần èo uột. Lời sỉ mắng Hộ dành cho chính mình thật thấm thía: “Sự cẩu thả trong bất cứ
nghề gì cũng là một sự bất lương rồ. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện!”. Suy nghĩ ấy đặt vào hoàn
cảnh hiện nay hẳn làm không ít người phải giật mình.
Xung đột gay gắt âm thầm của nhân vật đã bùng nổ thành đoạn cao trào khi Hộ gặp hai người bạn văn giữa lúc đang nghĩ
đến nghĩa vụ của một ông chủ gia đình tốt. Tột cùng của khát vọng chưa thành đã làm nên phát ngôn đầy hứng khởi khi
Hộ vì chuyện văn chương, quên hẳn vợ con,… đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia xuống mặt bàn khẳng định: “Một tác
phẩm thật giá trị phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn (…) làm cho người gần người hơn” và cụ thể hoá
một cách bốc đồng : “Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi
thứ tiếng trên hoàn cầu!”. Đó là nhu cầu tự khẳng định chính đáng. Nhưng trớ trêu thay, nhân vật lại tự phủ định chính
mình ngay sau đó bằng hành động đánh đuổi vợ con ra khỏi nhà, chà đạp lên chính nguyên tắc tình thương của mình.
Nam Cao đã gửi vào Đời Thừa rất nhiều suy tư của người nghệ sĩ chân chính trước cuộc sống. Khi kết thúc tác phẩm
bằng giọt nước mắt ân hận của Hộ và vòng tay ôm chồng dịu dàng của Từ – khoảnh khắc “người gần người hơn”, phải
chăng nhà văn muốn đưa ra một cảnh tỉnh của cuộc sống với tâm hồn nghệ sĩ; đồng thời nhà văn cũng hướng về người
đọc, mong tìm thái độ bao dung cho những con người luôn phải đối mặt với bi kịch của khát vọng… Ý nghĩa Tuyên ngôn
nghệ thuật là thế chăng?
TRẦN HÀ NAM
*. Giảng dạy trong chương trình lớp 11
TẤM LÒNG LÃO HẠC (+)
“Lão Hạc” của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong
bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Đặc biệt, tác giả đã
diễn tả tập trung vào tâm trạng nhân vật chính – lão Hạc – xoay quanh việc bán chó đã giúp ta hiểu thêm tấm lòng của
một người cha đáng thương, một con người có nhân cách đáng quý và một sự thực phũ phàng phủ chụp lên những cuộc
đời lương thiện.
Con chó – cậu Vàng như cách gọi của lão là hình ảnh kỷ niệm duy nhất của đứa con. Hơn thế, cậu Vàng còn là nguồn an
ủi của một ông lão cô đơn. Lão cho cậu ăn trong bát, chia xẻ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện với cậu như với một con
người. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão bao lần chần chừ không thực hiện được. Nhưng rồi, cuối
cùng cậu Vàng cũng đã được bán đi với giá năm đồng bạc.
Cậu Vàng bị bán đi! Có lẽ đó là quyết định khó khăn nhất đời của lão. Năm đồng bạc Đông Dương kể ra là một món tiền
to, nhất là giữa buổi đói deo đói dắt. Nhưng lão bán cậu không phải vì tiền, bởi “gạo thì cứ kém mãi đi” mà một ngày lo
“ba hào gạo” thì lão không đủ sức. Cậu Vàng trở thành gánh nặng, nhưng bán cậu rồi lão lại đau khổ dày vò chính mình
trong tâm trạng nặng trĩu.
Khoảnh khắc “lão cố làm ra vui vẻ” cũng không giấu được khuôn mặt “cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậng nước”. Nỗi
đau đớn cố kìm nén của lão Hạc như cắt nghĩa cho việc làm bất đắc dĩ, khiến ông giáo là người được báo tin cũng không
tránh khỏi cảm giác ái ngại cho lão. O ng giáo hiểu được tâm trạng của một con người phải bán đi con vật bầu bạn trung
thành của mình. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại.
Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão
mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc
phải chảy nước mắt theo: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Bản chất của một con người
lương thiện, tính cách của một người nông dân nghèo khổ mà nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha được
bộc lộ đầy đủ trong đoạn văn đầy nước mắt này. Nhưng không chỉ có vậy, lão Hạc còn trải qua những cảm giác chua chát
tủi cực của một kiếp người, ý thức về thân phận của một ông lão nghèo khổ, cô đơn cũng từ liên tưởng giữa kiếp người –
kiếp chó: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút…
kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn”. Suy cho cùng, việc bán chó cũng xuất phát từ tấm lòng của một người cha thương
con và luôn lo lắng cho hạnh phúc, tương lai của con. Tấm lòng ấy đáng được trân trọng! Hiện thực thật nghiệt ngã đã
dứt đứa con ra khỏi vòng tay của lão, cái đói cái nghèo lại tiếp tục cướp đi của lão người bạn cậu Vàng. Bản thân lão như
bị dứt đi từng mảng sự sống sau những biến cố, dù cho cố “cười gượng” một cách khó khăn nhưng lão dường như đã
nhìn thấy trước cái chết của chính mình. Những lời gửi gắm và món tiền trao cho ông giáo giữ hộ sau lúc bán chó có ngờ
đâu cũng là những lời trăng trối. Kết cục số phận của lão Hạc là cái chết được báo trước nhưng vẫn khiến mọi người bất
ngờ, thương cảm. Quyết định dữ dội tìm đến cái chết bằng bả chó là giải pháp duy nhất đối với lão Hạc, để lão đứng
vững trên bờ lương thiện trước vực sâu tha hoá. Kết thúc bi kịch cũng là thật sự chấm dứt những dằn vặt riêng tư của lão
Hạc, nhưng để lại bao suy ngẫm về số phận những con người nghèo khổ lương thiện trong xã hội cũ.
TRẦN HÀ NAM
+ SGK NGỮ VĂN 8 – CHƯƠNG TRÌNH CCGD
Lòng nhân ái của Thạch Lam qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
(Trần Hà Nam – GV Văn Lê Quý Đôn- Bình Định)
1. Thạch Lam (1910 – 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực Văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu
ấn của một tấm lòng nhân ái , như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh,
những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông bóng hình kỷ niệm của những ngày
tháng đã hằn sâu trong ký ức tuổi thơ Thạch Lam. Hai đứa trẻ, tác phẩm thấm đượm tình người, như minh chứng tiêu
biểu cho một tấm lòng nhân ái.
2. Có người đã nhận xét, mỗi truyện ngắn Thạch Lam như một bài thơ trữ tình. Thế Lữ, một người bạn của ông đã nhận
xét: “Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ
cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương”. Tình thương với con người
trong Hai đứa trẻ hình thành trên nền không gian phố huyện nghèo đầy bóng tối, với những cuộc đời lầm lụi, vất vả mưu
sinh: mẹ con chị Tý, bác phở Siêu, gia đình bác Xẩm. Nhưng những nhân vật được ông dành cho “chút lệ thầm kín”, yêu
thương chân thành nhất có lẽ là hai chị em Liên và An. Bởi hai đứa trẻ chính là một mảng đời nghèo túng của hai chị em
Thạch Lam tại phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Thế giới phố huyện hiện ra qua góc nhìn trẻ thơ chứa đựng những bí
mật mơ hồ. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không có tuổi thơ khắc khỏai, đau đớn thế nào,
bởi đó chính là những gì nhà văn đã từng trải nghiệm. Tất thảy những gì nhà văn đem đến trong câu chuyện không có cốt
truyện này: không gian đìu hiu phố huyện, thời gian đi dần vào đêm khuya, đến những khỏanh khắc sống của Liên và An
chờ đợi chuyến tàu cuối cùng băng qua phố huyện… mang ý nghĩa thông điệp của một tấm lòng chân thành : đừng bao
giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tối! Và chính ông là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kỳ để mỗi người
đọc chúng ta thấm thía vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.
3. Thạch Lam là người ý thức rõ hơn hết về thiên chức của người cầm bút chân chính trong lời tựa Gió đầu mùa : “Văn
chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên. Mà trái lại văn chương là một thứ khí giới
đắc lực và thanh cao mà chúng ta có để tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác; vừa làm cho lòng người
được thêm trong sạch và phong phú hơn lên". Quan niệm ấy đã thể hiện trên từng trang văn, từng dòng cảm xúc ở Hai
đứa trẻ, làm nên phẩm chất hàng đầu ở văn Thạch Lam, làm người đọc được sống cùng thế giới của lòng nhân ái. Tấm
lòng ấy giúp ông tạo dựng được không khí thắm đượm tình người, đi sâu khai phá những vẻ đẹp rất người và nói lên
những tâm tình khát vọng con người. Người đọc có dịp thẩm thấu những nét đời thường một cách tinh tế mà nếu vô tình
chúng ta rất dễ bỏ qua, trong một câu chuyện đan xen những yếu tố hiện thực – thi vị trữ tình, với những ấn tượng và cảm
giác không thể phai mờ về cuộc sống và con người phố huyện.
4. Đó là cuộc sống đã được nhà văn tái hiện bằng tất cả những ấn tượng đậm nét nhất của một thời dĩ vãng. Không gian
được dựng lên bằng hồi tưởng giúp ta suy tưởng sâu sắc hơn về cuộc sống của con người trong những hòan cảnh đầy ám
ảnh bóng tối phủ chụp lên cuộc đời. Mỗi một chi tiết của phố huyện như khơi dậy bao nỗi niềm con người. Từ một nhịp
sống chậm chạp, nặng nề, rời rạc mở đầu với “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng một vang ra
để gọi buổi chiều”, một cảm giác lắng buồn cứ tăng dần cùng âm thanh “ếch nhái” đến “tiếng muỗi vo ve”. Sự yên tĩnh
không đem lại cảm giác êm ả cho lòng người mà tiếp liền đó là những hình ảnh hiện lên qua ánh nhìn của cô bé Liên,
một đôi mắt đầy bóng tối. “Cái giờ khắc của ngày tàn” cũng mở ra những cuộc đời tàn héo.
5. Những cuộc đời ấy thấp thoáng trong quang cảnh chợ vãn: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào
cũng mất”, “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa,
thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Những nét phác hoạ đơn sơ ấy làm tăng nét
hiện thực điển hình của phố huyện. Những chi tiết ấy không chỉ chứng tỏ năng lực quan sát tinh tường của nhà văn mà
còn cắt nghĩa cụ thể cho độ nhạy cảm của một tâm hồn không bỏ qua bất cứ một biểu hiện nhỏ nhặt bình thường của
cuộc sống để từ đó khơi ln những liên tưởng về thân phận con người. Để rồi, ông hướng sự quan tâm của người đọc về
những số phận cụ thể: mẹ con chị Tý ngày đi mò cua bắt tép, tối dọn hàng nước, chiều nào cũng thế, theo một chu kỳ đều
đặn “từ chập tối cho đến đêm”, một bà cụ Thy nửa điên nửa tỉnh thoáng hiện nhưng khó quên, một gánh phở bác Siêu với
chấm lửa nhỏ và vàng hiện lên từ đêm tối, một gia đình bác Xẩm… những con nguời ấy đã tô đậm cuộc sống phố huyện
về đêm, hoà cùng gian hàng tạp hoá của chị em Liên và An.
6. Cuộc sống ấy chìm trong bóng tối, ảm đạm và buồn tẻ. Ánh sáng cứ bị lấn át dần. Thạch Lam đã xây dựng bức tranh
phố huyện bằng thủ pháp đối lập ánh sáng và bóng tối rất quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Nhưng ngôn ngữ giàu sức
gợi của nhà văn đã đem đến ý nghĩa hiện thực đậm nét cho tác phẩm. Ánh sáng và Bóng tối không phải là những ý niệm
tượng trưng trong văn Thạch Lam mà hiện hình cụ thể trong từng khung cảnh , từng mảnh đời, ẩn chứa những xung đột
ngấm ngầm của cuộc sống tưởng như bình lặng. Viết về bóng tối, nhưng thực chất nhà văn muốn hướng người đọc về
ánh sáng. Ông dùng ánh sáng để soi tỏ từng bí ẩn của tâm hồn con người. Ấn tượng về bóng tối, ánh sáng gắn với cảm
nhận của một cô bé Liên – bóng dáng người chị thân yêu của chính tác giả, dẫn dắt người đọc khám phá những góc khuất
của tâm hồn con người phong phú và sâu sắc. Thông qua đó, nhà văn cũng nói lên đầy đủ sự thông cảm thương yêu đối
với con người bé nhỏ.
BỨC TỨ BÌNH TRONG VIỆT BẮC
Việt Bắc của Tố Hữu (10.1954) là trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ đã đi
vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thủy, khắc hoạ sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ đô kháng
chiến”, hoà quyện tình cảm dân tộc và cách mạng.
Ta về mình có nhớ ta...
Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo của toàn bài thơ, gắn với « ta – mình » là miền ký ức của người đi : Ta về ta nhớ những hoa
cùng người. Sự nối tiếp, đan xen hoa – người là mạch cảm xúc của đạon thơ đặc sắc này.
Tố Hữu gói trọn bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông trong những sắc màu hài hoà nhất. Tácgiả chọn những thời điểm nên
thơ, tao ấn tượng không phai :
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Nét son của bức tranh này là màu đỏ tươi của hoa chuối, điểm vào không gian xanh bao la. Người đọc có thể nhớ đến thơ
Nguyễn Trãi :
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ...
Mùa đông trong câu thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè, không lạnh lẽo, bởi sắc đỏ hoa chuối cũng như phun
trào từ giữa màu xanh của rừng.
Bên cạnh sắc hoa là nét đẹp của người thật khoẻ khoắn : « Nắng ánh dao gài thắt lưng » là hình ảnh người Việt Bắc. Con
người nơi « đèo cao », càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa mùa đông, mang nét kiêu hãnh của núi
rừng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Sức sống mùa xuân lan toả. Giữa nền trắng hoa mơ, nổi bật hình ảnh « người đan nón ». Người Việt Bắc hiện lên ở nét
đẹp cần mẫn, chịu thương chịu khó. Không một âm vang, nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của
con người. Sợi nhớ, sợi thương đan dày trong tâm tưởng, con người đẹp tự nhiên trong những công việc tỉ mẩn hàng
ngày.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Không gian nỗi nhớ đọng lại hình ảnh ngọt ngào thân thương nhất của « cô em gái hái măng ». Aán tượng màu vàng đẹp
như bức vẽ tả thực vừa làm xao xuyến lòng người rong tiếng ve dóng dả gọi hè, gọi cả màu vàng đất trời về phủ kín cánh
rừng. Câu thơ gợi nhớ vẻ đẹp của một « cô hái mơ » trong thơ Nguyễn Bính. Nhưng ở đây cô gái Việt Bắc mang vẻ đẹp
khoẻ khoắn mộc mạc hơn.
Rừng thu trăng dọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Không gian về đêm hoàn chỉnh vẻ tuyệt mỹ của núi rừng. Đêm thu và ánh trăng như lan toả vào màu xanh núi rừng. Nỗi
nhớ cũng mênh mang như ánh trăng, ngọt ngào « tiếng hát ân tình thủy chung ». Tình người bâng khuâng gợi cảm xúc
đồng điệu kẻ ở – người đi.
Mỗi mùa mang một nét riêng và bốn mùa hoà chung màu sắc đa dạng, đọng lại những khoảnh khắc đáng nhớ, khi trái tim
nhà thơ bắt nhịp cùng không gian – cảnh vật. Đó là tình yêu đích thực, rung động chân thành của nhà thơ. Cũng là tấm
lòng của những người con cách mạng với Việt Bắc.
TRƯƠNG YẾN THANH
.------------------------------------------------------------------------------------------
Địa chỉ : TRẦN HÀ NAM, trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Bình Định
NHỮNG CHÂN DUNG BIẾM HOẠ
(“HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA” của Vũ Trọng Phụng)
Nhà văn Thanh Thảo từng cho rằng tác phẩm “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng có thể làm cho ta giật mình vì có thể tồn tại
trong ta một “Xuân tóc xám, Xuân tóc trắng”. Bởi thế, tác phẩm ra đời đến nay đã gần bảy mươi năm nhưng xứng đáng
được xem “là cuốn tiểu thuyết có thể làm vinh dự cho văn học mọi thời đại” (Nguyễn Khải). Trong chương trình THPT,
trích chương XIV - Hạnh phúc của một tang gia, phần nào giúp ta cảm nhận rõ những chân dung khó quên của xã hội
thượng lưu tư sản.
Xoay quanh cái chết của cụ cố Tổ, bộ mặt đám con cháu đại bất hiếu được nhà văn dựng lên với tất cả sự sắc sảo
của “ông vua phóng sự đất Bắc”. Màn bi hài kịch bắt đầu ngay từ cách chữa bệnh cho chết với sự huy động hùng hậu của
lang băm đông lang băm tây và cả thuốc Thánh đền Bia “công hiệu đến nỗi làm cho người ta mất mạng”. Một cái chết
được báo trước vì đó là thời điểm của một đám con cháu đua nhau hưởng lợi. Nhìn từ một góc khác, đó là dịp công nghệ
lăng xê phát huy hết công suất khi tang lễ là nơi khoe mốt “áo tang tân thời” của ông Typhn, tài chụp ảnh của cậu Tú
Tân, huân huy chương và … râu của đám bạn cụ cố Hồng và ông Văn Minh – con trai và cháu nội cụ Tổ. Những khuôn
mặt cũng biểu cảm theo mốt: cụ cố Hồng “nhắm nghiền mắt mơ màng” , ông Văn Minh “đăm đăm chiêu chiêu”, cô
Tuyết vì vắng bạn giai mà “buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám”. Không khí đám tang là cao trào của sự bát
nháo “Tây, Tàu, Ta đủ cả”… mà với những câu văn tác giả nhắc nhở “Đám cứ đi” để người đọc khỏi nhầm mà người ta
cứ ngỡ đám ma là đám hội! Sự giả dối đến ghê tởm hiện hình ra từng câu văn đặc tả chân dung cận cảnh, trung cảnh và
toàn cảnh: sau vẻ sang trọng của quan khách, người ta thấy bóng đáng đàn dê cụ với cặp mắt hau háu nhìn làn da trắng
của cô Tuyết mà “cảm động hơn cả khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán não nùng”; sau những “giai thanh gái lịch” tranh
thủ “chim nhau” là âm thanh “vui vẻ ý nhị rất xứng đáng với tư cách của những người đưa đám”. Nhưng trâng tráo nhất
là ông phán mọc sừng – kẻ gây ra cái chết của cụ cố Tổ: hắn hãnh diện với nỗi nhục mọc sừng đã đem lại món lợi vài
nghìn bạc, đến lúc hạ huyệt lại đóng màn kịch với tiếng khóc bất hủ “Hứt! Hứt! Hứt” và dáng lả oặt cùng lúc tuồn “tờ
giấy bạc 5 đồng gấp tư” để thanh lý hợp đồng với thằng Xuân tóc đỏ thật sòng phẳng. Tác giả đã ném vào trong tiếng
cười toàn bộ sự khinh bỉ, ghê tởm của mình với toàn bộ “xã hội chó đểu” ấy.
Những chân dung ấy được phác lên để nhà văn lý giải cách thằng Xuân tóc đỏ ‘ma cà bông, hạ lưu, nhặt ban
quần” đuờng hoàng bước chân vào xã hội thượng lưu dâm và đểu ấy là hợp lý. Vì bản chất thật của nó phù hợp với bọn
người đạo đức giả kia. Đó cũng là lời cảnh tỉnh của nhà văn về bọn người chỉ biết theo đuổi dục vọng xấu xa, đồng tiền
nhơ bẩn.
TRẦN HÀ NAM
Ý thức cộng đồng và số phận cá nhân
(nhìn lại bi kịch của Chí Phèo) - Nguyễn thị Từ Huy
Sinh 1972, trong ban giảng huấn khoa ngữ văn của trường đại học sư phạm Hà Nội, cùng với Nguyễn Thanh Sơn,
Nguyễn Thị Từ Huy thuộc thế hệ phê bình trẻ của Việt Nam hôm nay. (L.T.S).Nguyễn Thị Từ Huy học chuyên Văn PBC
khoa 1987-1989.
Trước hết, cần xuất phát từ việc nhìn lại cấu trúc thời gian và kết cấu của truyện ngắn này.
Tác phẩm mở đầu bằng cái buổi chiều Chí Phèo uống say và lên cơn chửi. Buổi chiều đó kéo dài qua những đoạn hồi cố
nhằm dựng lại cuộc đời Chí, trượt xuống thành buổi tối khi cái bóng xệch xạc dưới trăng làm hắn quên ý định báo thù,
nảy sinh từ sự vô vọng của tiếng chửi, và rẽ vào nhà Tự Lãng. Sau cuộc rượu với kẻ tri kỷ cuồng, đêm đó hắn gặp kẻ tri
âm của đời mình: Thị Nở. Sáng hôm sau hắn tỉnh, không chỉ là tỉnh khỏi giấc ngủ đêm hôm trước, mà tỉnh khỏi cơn say
mênh mông suốt đời hắn, tỉnh khỏi kiếp sống sinh vật, kiếp quỷ dữ. Hắn buồn và hồi tưởng lại những mơ ước thuở xa
xưa. Hắn ốm, bát cháo hành của Thị Nở mang lại cho hắn sinh lực, hạnh phúc và hy vọng về tương lai. Hắn tìm thấy lại ý
nghĩa của cuộc đời, muốn làm hoà với mọi người. Thời điểm đó, vào cái buổi sáng hôm đó, hắn hoàn toàn không còn là
Chí Phèo trước đây nữa. Hắn đã là một ý thức đầy đủ về giá trị và thân phận của mình. Và năm ngày tiếp theo, quãng
thời gian sống trong tình yêu với Thị Nở, hắn đã làm một người lương thiện thực sự. Câu chuyện về Chí dừng lại ở cái
buổi trưa ngày thứ sáu, sau khi bị Thị Nở chối từ, Chí Phèo giết Bá Kiến và tự vẫn. Nhưng tác phẩm chỉ thực sự kết thúc
với những lời bàn tán xì xầm của làng Vũ Đại và thái độ của Thị Nở một ngày sau khi Chí chết.
Như vậy, Chí Phèo - con quỷ dữ và quá trình biến thành quỷ dữ đã thuộc về quá khứ, còn hiện tại của câu chuyện được
mở ra từ cái thời điểm khởi đầu cho sự hồi sinh của Chí, cũng là khởi đầu cho một kết thúc đau đớn sẽ đến kề ngay sau
đó.
Do vậy, quá trình lưu manh hoá người nông dân và trách nhiệm của cái nghèo trong việc huỷ hoại nhân cách họ sẽ dễ
dàng bị gạt sang một bên khi chúng ta bàn đến nhiệm vụ nghệ thuật cơ bản của tác phẩm. Còn lại, những vấn đề: bi kịch
của con người bị từ chối quyền làm người, bi kịch của con người với môi trường thiếu nhân tính, khát vọng đổi đời, khát
vọng hoàn lương, vấn đề quyền sống...tất cả có lẽ đều liên quan đến cái chết và câu hỏi của Chí: "Ai cho tao lương
thiện?"
Ai cho Chí Phèo làm người lương thiện? Câu hỏi này xưa nay vốn đã tưởng tìm thấy câu trả lời chính xác và dứt điểm ở
các thế lực là cơ chế xã hội, cường hào ác bá và định kiến xã hội. Thực ra câu trả lời không hoàn toàn đơn giản như vậy.
Tính chất phức tạp là ở chỗ câu hỏi đó đáng ra trước tiên Chí Phèo phải tự đặt ra cho mình chứ không phải cho Bá Kiến.
Chí Phèo không chỉ là bi kịch của con người bị từ chối quyền làm người, hơn thế còn là bi kịch của con người tự từ chối
quyền làm người. Anh ta phải chịu một phần trách nhiệm về cái chết của mình, một cái chết không hoàn toàn nâng cao
anh ta, mà ở một khía cạnh khác, còn cho thấy sự bất lực của anh ta.
Là một nghệ sĩ chân chính, Nam Cao đã nhìn thấy những nguy cơ ẩn giấu trong cái đặc tính vốn từng làm nên sức mạnh
của dân tộc: ý thức cộng đồng.
Thời đại Nam Cao, ý thức về con người cá nhân có điều kiện phát triển. Các nhà thơ mới công nhiên phô bày, khẳng định
cái tôi cá nhân. Văn học lãng mạn đòi giải phóng cá nhân bằng cách đưa ra những mẫu người có bản lĩnh, dám đối lập
với toàn bộ xã hội, dám bảo vệ cá tính riêng, chấp nhận đơn độc trong những lựa chọn của mình. Nam Cao lặng lẽ ủng hộ
cuộc đấu tranh đó bằng một cách khác, bằng cách chỉ ra rằng: nếu quá lệ thuộc vào cộng đồng, con người sẽ tự thủ tiêu
mình; và nếu cộng đồng cho phép mình can thiệp quá sâu vào đời sống của mỗi cá nhân, nó sẽ huỷ diệt cá nhân đó.
Chí Phèo thực chất là bi kịch về sự yếu đuối của cá nhân trước sức mạnh của ý thức cộng đồng. Ý thức này vừa là áp lực
bên ngoài vừa là một phần trong thẳm sâu con người Chí, nó khiến Chí bị khuất phục trước cuộc sống.
1. Từ nỗi sợ cô đơn....
Ngay đoạn mở đầu truyện, Nam Cao đã triệt để bóc trần cái đời bị loại trừ một cách tuyệt đối của Chí Phèo, thân phận bị
bỏ rơi, quan hệ giữa hắn với cộng đồng, nỗi khốn khổ, sự cô độc mà hắn phải gánh chịu. Tiếng chửi xác định thế đối lập
của hắn với toàn bộ xã hội, toàn bộ nhân thế và toàn bộ vũ trụ. Sự thu hẹp dần phạm vi đối tượng chửi (hắn chửi trời,
chửi đời, chửi tất cả làng Vũ Đại, chửi những đứa nào không chửi nhau với hắn, và cuối cùng chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra
thân hắn) bộc lộ tình thế bi đát của một cá nhân bị cô lập. Bị chính những người đẻ ra bỏ rơi, Chí Phèo chỉ còn mối liên
hệ duy nhất với cộng đồng làng Vũ Đại, chính cộng đồng đó đã cho hắn cơ hội trưởng thành, dù là với thân phận đi ở.
Nhưng sau khi ở tù về, mối liên hệ ấy đã hoàn toàn bị cắt đứt. Quan hệ của Chí với cộng đồng, từ đó được thiết lập trên
sự đe doạ, cướp giật, hắn dùng sức mạnh để áp chế, cưỡng bức cộng đồng phải chịu hắn. Và Chí Phèo, mặc dầu trong
cơn say triền miên vô tận, không ý thức được những việc mình làm ("hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập
nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc...Hắn đâu biết vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người
hắn say") (tr.38) vẫn không thể chấp nhận được tình trạng bị bỏ rơi, hắn vẫn muốn được là thành viên của cộng đồng, ý
thức ấy đã ăn sâu vào máu hắn.
Trong nỗi sợ cô đơn, hắn tìm cách xác lập lại mối liên hệ đã bị cắt đứt bằng những phương thức giao tiếp tuyệt vọng: la
làng, ăn vạ, chửi.
La làng là một phản ứng quen thuộc khi một người gặp nguy hiểm, cần sự trợ giúp của cộng đồng. Khi ăn vạ, người ta
cũng la làng để tìm sự ủng hộ ngầm và để làm mất mặt người bị ăn vạ (người ta chỉ mất mặt khi nhược điểm của mình bị
bóc trần trước mắt những người khác, từ quan niệm này nảy sinh thói sĩ diện hão, tin rằng những đánh giá của cộng đồng
làm nên nhân cách của mình) nhằm dễ dàng phạt vạ người đó. Chí Phèo kêu làng không phải để tìm sự trợ giúp mà tìm
sự đồng loã. Hắn cần được chứng kiến, cần được thể hiện sự tồn tại của mình trước mọi người. Đó là điều mà Thị Nở đã
không hiểu được khi hắn vừa dằn thị xuống vừa kêu làng. Trong vô thức hắn sợ cô đơn đến mức, ngay cả trong hành
động riêng tư nhất có thể hắn cũng muốn có sự chứng kiến của người khác. Chi tiết này của Nam Cao cho phép liên
tưởng đến Kafka. Ở phương Tây, những năm hai mươi, trong thế giới của Kafka, cô đơn là "giá trị quý báu nhất đang bị
nghiền nát bởi cái áp đảo hiện diện ở khắp nơi"1. Nguy cơ của con người là ở chỗ cái riêng tư không còn được bảo vệ khi
anh chàng K. lúc nào cũng bị hai phái viên của lâu đài cặp kè, cả trong lúc ngủ với vợ. "Sự cô đơn bị cưỡng hiếp" 2 làm
nên sức ám ảnh cho tác phẩm của Kafka. Sau đó hai thập kỷ, ở Việt Nam, trong thế giới Nam Cao, cô đơn là thứ đáng sợ
nhất đối với anh Chí làng Vũ Đại. Chí bám vào cộng đồng như bám vào một chiếc phao cứ lạnh lùng tuột khỏi tay Chí.
Dân làng thực ra đã tạo nên một sức mạnh hậu thuẫn cho hắn trong những lần đòi nợ Bá Kiến: "vả lại những người đứng
xem đã về cả rồi, hắn thấy hắn hình như trơ trọi. Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi thủa ngày xưa...(tr.27)ï.
Con quỷ dữ của làng Vũ Đại đã phải lấy sức mạnh từ bên ngoài và từ sự mê hoặc của rượu.
Chửi là một hình thức gây hấn với người khác hoặc là một phương thức trả thù của kẻ yếu. Với Chí Phèo, chửi là để
mong có được sự hồi đáp từ phía cái cộng đồng mà hắn đã không còn có thể trò chuyện được nữa. Hắn chửi vì hắn sợ
phải im lặng và sợ sự im lặng của người khác. Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi (tr.38). Hắn hẳn đã hy vọng
rằng bằng cách đó không cho phép người khác lảng tránh mình.
Tuy vậy những phương thức giao tiếp ấy đã bị lạm dụng đến mức chúng trở nên vô nghĩa đối với dân làng Vũ Đại.
Người ta không còn quan tâm đến những nỗ lực tuyệt vọng của Chí nữa. Bản thân hắn cũng không ý thức được tính chất
tuyệt vọng trong những hành động của mình, cho đến cái buổi chiều được Nam Cao chọn làm điểm khởi đầu cho câu
chuyện. Hắn đã thất bại hoàn toàn với "ângón" chửi. Quan trọng hơn, hắn cảm nhận được sự thất bại ấy. Với hắn đó là
một mối thù lớn. Mối thù bị loại bỏ. Và tất cả những ai không đếm xỉa đến hắn đều là kẻ thù của hắn, đều phải chịu trách
nhiệm về sự cô độc của hắn, nghĩa là tất cả mọi người. Do vậy mà hắn phải "âbáo thù vào bất cứ ai. Hắn phải vào nhà
nào mới được, bất cứ nhà nào. Hắn sẽ rẽ vào bất cứ ngõ nào hắn gặp để đập phá đốt nhà hay lăn ra kêu làng nước. Phải
đấy, hắn sẽ rẽ vào bất cứ cái ngõ nào hắn gặp...(tr.38)". Hắn không cần biết một nhà nào hay một người nào cụ thể.
Những hành động "âtrả thù" mà hắn toan tính thực ra đều nhằm mục đích gây chú ý cho mọi người. Thế nên khi nhìn
thấy cái bóng1 quần quật dưới chân mình, khi thấy mình không còn quá lẻ loi nữa, hắn đã lập tức quên ý định báo thù, bù
vào đó, hắn đã có một "cuộc nhậu đẹp" với kẻ "tri kỷ" Tự Lãng, một kẻ cũng đơn độc gần bằng hắn. Vì thế, khi Tự Lãng
đã say bò ra và hỏi: "người ta đứng lên bằng cái gì?" thì Chí Phèo vần ngửa lão ra, để mặc lão thế rồi lảo đảo ra về.
Những kẻ như lão chỉ có thể đứng lên với sự nâng đỡ của người khác. Mà Chí thì không thể nâng lão đứng dậy được vì
chính hắn còn thảm hại hơn lão, hắn cũng đang cần một người giúp đỡ. Người đó là Thị Nở. "Nhưng hắn đứng lên làm
sao được. Thị quàng tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ thị, hai người lảo
đảo đi về lều" (tr.45)". Chí Phèo đã đứng lên như vậy. Rồi tiếp theo đó, hắn tỉnh.
Nỗi sợ cô đơn được Chí nhận thức một cách đầy đủ sau khi tỉnh. "Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn
thay cho đời! (...) Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng
sợ hơn đói rét và ốm đau"ï(tr.46). Có thể hiểu buổi chiều và buổi tối hôm Chí gặp Thị Nở (một cái mốc quan trọng trong
đời Chí, điều này không cần phải bàn cãi nữa!) là sự kết thúc cho giai đoạn quỷ dữ. Và buổi sáng hôm sau chính là điểm
khởi đầu của một giai đoạn mới- giai đoạn làm người. Biểu hiện đầu tiên của tính người trong Chí, đấy là nỗi buồn và
cảm giác cô độc. Nỗi buồn giúp hắn cảm nhận cuộc sống trong sự mới mẻ, hấp dẫn và gợi lại mơ ước xa xưa về một mái
ấm bé nhỏ. Cảm giác cô độc cho hắn hình dung trước những bất trắc đang chờ đón khi hắn đã ở cái dốc bên kia của đời.
Và hắn sợ.
Người nông dân Việt Nam ít có mặc cảm cô đơn, vì họ gắn bó khăng khít với họ hàng, tông tộc, bà con, xóm giềng, đất
nước, những cộng đồng lớn nhỏ xung quanh họ. Người Việt rất chú trọng đến sức mạnh của tình đoàn kết, tinh thần đùm
bọc cưu mang lẫn nhau. Họ không thích sự nổi trội đặc biệt của một cá nhân nào đó, vượt hơn hẳn so với những người
còn lại ( trừ phi cá nhân đó có một tầm vóc lớn hơn hẳn hoặc đã được thánh hoá). "Xấu đều còn hơn tốt lõi"ï. Họ muốn
hoà lẫn vào người khác. Hạnh phúc của họ chính là một cuộc sống ổn định hoà hợp với mọi người xung quanh. Bát cháo
hành của Thị Nở đối với Chí vô cùng thơm ngon vì nó giúp hắn cảm nhận một cách sâu sắc hương vị của sự chia sẻ, giúp
hắn hiểu thế nào là được người khác cho, được quan tâm chăm sóc. "Bởi vì lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho"
(tr.47). Cho chính là biểu hiện cao nhất của sự san sẻ, đùm bọc, điều mà Chí rất cần và rất thiếu.
Bát cháo hành Thị Nở trong cảm nhận của Chí không chỉ được xem như bằng chứng của tình yêu mà còn là dấu hiệu của
tình làng nghĩa xóm. Chí không dừng lại ở mơ ước về một gia đình êm ấm với Thị Nở. Hắn còn mơ đến việc tìm được
bạn, tìm được một chỗ trong cộng đồng. "Vì thế mà bát cháo hành của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm
bạn được, sao lại gây kẻ thù? (tr.48). "Trời ơi, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở
sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao mọi người lại không thể được. Họ sẽ nhận lại hắn vào cái
xã hội bằng phẳng lương thiện của những người lương thiện... (tr.49)".
Chí không mong điều gì khác ngoài sự hoà hợp với mọi người. Hắn đã nghĩ một cách đơn giản rằng Thị Nở có thể giúp
hắn bước vào thế giới lương thiện. Chỉ khi được mọi người chấp nhận, Chí mới thực sự cảm thấy là một người lương
thiện đúng nghĩa........<Còn tiếp>2....đến cái chết như một cô đơn tuyệt đối.
Thực ra, cuộc đời Chí Phèo có thể kết thúc theo ba hướng: hoặc tiếp tục sống làm con quỷ làng Vũ Đại, hoặc bảo vệ con
người mới của mình bằng cách bỏ làng ra đi tìm đến một vùng đất mới, hoặc là chết để làm ma của làng, nhưng là một
con ma lương thiện. Nam Cao đã chọn cách thứ ba, vì tất yếu Chí phải hành động như thế.
Thị Nở và bát cháo hành đã biến bản năng muốn gia nhập cộng đồng của Chí (tiềm ẩn trong các hành động chửi, la làng,
ăn vạ) thành một ý thức đầy đủ và mãnh liệt. Sở dĩ Chí Phèo có thể tồn tại ở làng như vậy cho đến nửa đời người là vì lúc
nào hắn cũng say. "Chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ rằng có hắn ở đời". Và khi hắn tỉnh, khi hắn biết rằng có hắn ở đời thì
cũng liền ngay đó hắn hiểu rằng đời không thể có hắn được. Nhưng hắn cũng không còn có thể say lại để quên đi tất cả,
để không biết gì như trước đây nữa. Trong tất cả những thứ mà lần đầu tiên Chí được hưởng thụ vào năm ngày cuối cùng
của đời mình, chỉ duy nhất hơi cháo hành là thứ hắn cảm nhận được, là thứ ám ảnh hắn lúc tuyệt vọng, lúc mọi thứ tuột
khỏi tay hắn. Hơi cháo hành như mùi vị của hạnh phúc thoáng qua giờ đã trở nên không có thực, và vĩnh viễn không bao
giờ có thực nữa. Đó là một chút tình mong manh nhưng dai dẳng không thể dứt bỏ nổi. Hắn không thể sống, dù ở làng
Vũ Đại hay ở nơi khác, mà thiếu nó được. "Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức"
(tr.52). Vì hơi cháo hành mà lần đầu tiên trong đời hắn khóc, tiếng khóc của một con người nuối tiếc cái hạnh phúc
không phải để cho mình nhưng lẽ ra mình có thể được hưởng. Tiếng chửi cuối cùng của Chí không còn là một thứ
phương tiện giao tiếp nữa. Đó là tiếng lảm nhảm tuyệt vọng của kẻ đã nhìn thấy trước tương lai duy nhất dành cho mình:
Cái Chết.
Ai là kẻ phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chí? Bá Kiến, đại diện cho bọn cường hào ác bá, thế lực bức hại người lao
động? Bà cô Thị Nở, đại diện cho cái xã hội của những người lương thiện với định kiến hẹp hòi? Hay chính Chí Phèo với
sự yếu đuối của một nhân cách quá lệ thuộc vào cộng đồng?
Đương nhiên Bá Kiến là kẻ trực tiếp đẩy Chí sa ngã. Và Chí đáng lẽ phải thù oán Bá Kiến, lại khiến cho dân làng Vũ Đại
oán thù và tẩy chay đến không còn cơ hội để quay trở lại với họ nữa.
Trong thế giới của Nam Cao, Chí Phèo không phải là kẻ duy nhất sống ngoài lề xã hội. Chí có những người anh em cùng
chung cảnh ngộ bị cô lập, như Đức trong Nửa Đêm, Lang Rận trong truyện ngắn cùng tên, có thể kể thêm Cu Lộ trong
Tư Cách Mõ... ở một môi trường mà thái độ của những người khác góp phần tạo nên nhân cách phẩm giá của một người,
thậm chí có thể quyết định chuyện sống chết của người đó thì phản ứng của Chí Phèo cũng không khó giải thích. Trong
Nửa Đêm, sau khi cho độc giả chứng kiến cảnh một đứa bé vô tội bị tẩy chay vì những tội lỗi của bố nó, Nam Cao đã
viết: "Thì ra những người rất hiền lành cũng có thể là những người rất ác. Có điều họ không có cách để làm ác". (Tuyển
Tập Nam Cao, sđd, tập 1, tr.73). Thực ra họ cũng có cách để làm ác, khi họ không chấp nhận sự vô tội của một người vô
tội, không thừa nhận sự phục thiện của một người muốn phục thiện, không chấp nhận hạnh phúc của người khác. Nam
Cao có xây dựng một loại nhân vật không muốn cho người khác được sung sướng (ông có hẳn truyện Nhìn Người Ta
Sung Sướng kể về một bà già rất khó chịu mỗi khi vợ chồng con gái mình có những biểu hiện hạnh phúc, và bà nhất định
sẽ bắt cô cháu dâu tương lai hầu mình đủ mười bốn năm mới thôi, quyết không cho cô ấy sung sướng ngay với cháu trai
mình). Bà cô Thị Nở cũng thuộc loại này. Bà phản đối cuộc hôn nhân của cháu gái trước hết vì bà nhục cho ông cha bà,
sau đó là vì bà tủi cho thân bà, uất ức cho cái đời không chồng của bà. Bà đố kỵ ngay với đứa cháu bất hạnh. Bà không
có hạnh phúc, vậy thì cháu gái bà cũng đừng hòng mong điều đó.
Nam Cao không ngại phơi bày những hủ tục, những thói tật kìm hãm sự phát triển của con người, ngăn cản con người
sống hạnh phúc. Những day dứt của ông được phát biểu qua lời của nhân vật Thứ trong tiểu thuyết Sống Mòn: "Đó là tại
thói quen. Không phải cái thói quen của riêng mình, nhưng là cái thói quen lưu truyền đã mấy đời, đến nỗi nó nhập vào
máu chúng ta. Tư tưởng, tính tình, cảm giác, hành động của chúng ta đều khuôn theo những thói tục. Những lề lối sẵn
trong thời đại chúng ta. Thời thế thay đổi, lòng người đổi. Thế kỷ sau sẽ lọc máu cho chúng ta trong trẻo lại.
Y thở dài nghĩ bụng nhưng tại sao ta lại không thể nghĩ chuyện lọc máu ngay từ bây giờ"1.
Tham vọng của Nam Cao là muốn lọc máu cho cả dân tộc. Nam Cao đã khám phá ra những gì mà mỗi chúng ta không
muốn để lộ ra. Ông giúp con người tự nhìn vào tận sâu trong tâm hồn mình để hiểu mình một cách thấu đáo hơn và có đủ
can đảm để thay máu. Chỉ cần như thế, ông đã hoàn thành xuất sắc cái sứ mệnh nhà văn mà ông đã từng nêu ra đây đó
trong các tác phẩm của mình.
Dấu hiệu hiện đại của tác phẩm Nam Cao biểu hiện ở ranh giới thiện ác giờ đây không còn quá rành mạch nữa. Những
người lương thiện ở làng Vũ Đại sẽ tự đánh giá về mình ra sao khi chính họ là nguyên nhân dẫn đến cái chết của một con
người. Điều bi đát là bản thân họ không thể ý thức được, không thể hình dung nổi điều đó.
Không ai được chứng kiến cuộc đối thoại giữa Chí Phèo và Bá Kiến, lúc Chí Phèo bộc lộ sự kiêu hãnh của một con
người đã tự lấy lại phẩm giá. Cuộc đối thoại đó là cuộc đối thoại có giá trị nhất trong đời Chí, là điều mà ắt hẳn Chí muốn
được mọi người biết đến. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao đã để cho cả nhà Bá Kiến hôm đó đi vắng, chỉ mình cụ
Bá ở nhà. Cuộc đối thoại đòi quyền làm người, trong thực tế, đã chìm lỉm vào hư vô. Và hắn la làng, cách giao tiếp quen
thuộc của hắn, nhưng bi đát thay, cũng như xưa nay, khi hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Vì vậy, lúc dân
làng có mặt thì tất cả đã kết thúc. Họ chỉ thấy sự việc mà không bao giờ biết được nguyên nhân đích thực của nó. Chí
Phèo hiểu rằng dù hắn có tu tỉnh thì cái quá khứ của hắn cũng không cho phép hắn trở thành người lương thiện giữa mọi
người, hắn sẽ không được họ chấp nhận. Hắn muốn dùng cái chết của mình để chiêu tuyết cho đoạn đời tội lỗi trước kia
và rung một tiếng chuông cảnh tỉnh cho sự khắt khe của dư luận. Nhưng ước vọng của Chí đã theo hắn và Bá Kiến xuống
mồ. Đó là một bí mật trọn vẹn đối với người dân làng Vũ Đại. Tội nghiệp Chí Phèo, "mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói
nhưng không ra tiếng". Những điều mà Chí muốn nói với dân làng, với cái xã hội của những người lương thiện không
bao giờ còn được nói ra nữa. Họ không bao giờ biết đến cái mong ước làm người lương thiện của Chí. Họ cũng không
bao giờ biết được rằng chính họ có thể cho Chí một cơ hội, rằng chính họ đã có thể cứu vớt một linh hồn, rằng chính họ
đã phê duyệt vào cái án tử hình của Chí.
Bi kịch của Chí ở đây là bi kịch của một giá trị không được biết đến, không được thừa nhận, không được thấu hiểu. Chí
đã chết một cái chết vô ích. Cái chết đó thực sự vô nghĩa khi người ta xếp Chí cùng hàng với Bá Kiến "Thằng nào chứ
hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau"(tr.54). Câu chuyện không kết thúc bằng cái chết của
Chí mà kết thúc bằng sự đánh giá của cộng đồng về cái chết ấy. Chính với cách kết thúc như vậy, Nam Cao đã đẩy Chí
tới tận cùng nỗi bất hạnh. Trong những lời bàn tán của người dân làng Vũ Đại người ta nhắc đến Bá Kiến nhiều hơn là
Chí Phèo. Và sự đánh giá mà người đời dành cho Chí hoàn toàn ngược với cái mong muốn mà vì nó hắn đã phải trả giá
bằng cả tính mệnh (Chí Phèo hẳn cũng muốn để lại tiếng thơm!). Thay vì thấu hiểu và chia sẻ, người ta đã vui mừng,
thoả mãn. Những giông bão trong tâm hồn Chí thực sự chẳng để lại một dấu vết nào trên cái làng êm ả đó. Thậm chí cả
Thị Nở là người duy nhất có thể cảm thông và thấy được bản tính hiền lành của Chí "Sao có lúc nó hiền như đất" (tr.54),
cũng không hiểu được khát vọng làm người trong hắn. Chí Phèo không có Chúa làm kẻ chứng nhân vô hình cho sự thức
tỉnh linh hồn. Chí Phèo là một cô độc tuyệt đối, điều mà hắn sợ nhất trên đời. Vào thế kỷ XVI, lúc mà ở phương Tây, con
người cá nhân đang trên đường hình thành, Montaigne có nói: "Điều lớn nhất trên thế giới, đó là biết thuộc về chính mình
(...). Không nên trao mình cho người khác mà chỉ trao mình cho chính mình mà thôi". (Essais, 1580. Trích theo Lịch Sử
Cá Nhân Luận, Alain Laurent, NXB Thế giới, 2001, tr.39-40). Chí Phèo, bằng cái chết, đã trao mình cho người khác, mà
tiếc thay, đã không được đón nhận.
Trở lại với cuộc đối thoại giữa Chí và Bá Kiến, cần lưu ý rằng Chí Phèo chỉ có thể dõng dạc tuyên bố: "Tao muốn làm
người lương thiện!". Hắn không thể kiêu ngạo mà thông báo rằng: "Ta đã là người lương thiện", mặc dù trong thực tế
đúng là như vậy, hắn đã hoàn toàn thay đổi trong những ngày sống chung với Thị Nở. Hắn không đủ tự do để tự biến
mình thành người lương thiện và tự hào về hành động của mình, và cũng không đủ mạnh để dám trả giá cho việc làm
người lương thiện. Hắn chết vì thấy rằng không ai cho hắn lương thiện. "Ai cho tao lương thiện?". Vậy ra sự lương thiện
của hắn lại phụ thuộc vào người khác chứ không phải vào chính bản thân hắn!!!
Chí Phèo đã không thể hình dung rằng người ta vẫn có thể lương thiện mà không cần được cho phép, không cần được
dung nạp. Chí đã không thể cứ lặng lẽ làm một người lương thiện ngoài lề xã hội. Chí Phèo chưa thể hiểu được bản thân
giá trị của cá nhân Chí có thể đặt ngang cân với toàn bộ xã hội còn lại. Bị chi phối bởi ý thức cộng đồng, Chí tuyệt đối tin
là nhân cách của mình phụ thuộc vào sự đánh giá của cộng đồng về mình, tin rằng thái độ che chở đùm bọc của người
khác cấp cho hắn một thân phận và sự đánh giá của người khác cấp cho hắn một diện mạo1. Chí đã đồng nhất lương
thiện với việc làm hoà với mọi người.
Chí Phèo không có được cái bản lĩnh của một người mang trong nó sức mạnh cá nhân và sức mạnh của một trình độ học
vấn đủ để anh ta muốn khẳng định giá trị riêng của mình. Bản lĩnh của Chí Phèo là dám chết khi không còn có thể tiếp
tục phạm tội nhưng lại không thể làm một thành viên của xã hội lương thiện. Bản lĩnh đó là chỗ mạnh nhưng đồng thời
cũng là chỗ yếu đuối của Chí. Sự khinh bỉ của những người lương thiện đã giết chết Chí Phèo, đã giết chết Lang Rận, đã
làm cho Đức phát điên. Nhân vật của Nam Cao chọn cái chết để tránh nỗi nhục nhã trước sự khinh bỉ của người khác và
để tránh, điều này thật phi lý, việc mình trở thành nỗi nhục của người khác.
Hành động chết của Chí không phải là một hành động tự do theo cái nghĩa là Chí đã tự do quyết định số phận của mình.
Cái chết ấy có thể xem như một nỗ lực cuối cùng để tìm cách hoà nhập cộng đồng. Sự hoán cải thực sự có thể biến Chí
thành một người lương thiện nhưng chưa thể biến Chí thành một nhân cách tự chủ. Và, theo Nam Cao, không có một
nhân cách tự chủ thì không thể sống mà làm người lương thiện được.
Nam Cao đau xót trước một thực tế: áp lực của dư luận xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến nhân cách của con người. Trong
Tư Cách Mõ ông đã nói: "Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh trọng của chúng ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác
nhiều lắm; nhiều người không biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách rất diệu để
người sinh đê tiện..."(Tuyển Tập Nam Cao, sđd, tập 1, tr.203). Dư luận xã hội thường thiên kiến, tàn nhẫn, vô tình. Và
một khi ý thức cá nhân còn chưa phát triển ở mức độ cao, thì ý thức cộng đồng còn có thể phát huy cái sức mạnh vô giới
hạn của nó.
Chí Phèo cho ta thấy một cá nhân có thể bị nghiền nát dưới sức mạnh của ý thức cộng đồng như thế nào. Chí Phèo đã
tuyệt vọng hướng tới một giá trị không thể gọi tên. Nếu ta đi tìm định nghĩa về sự lương thiện thì đây, câu trả lời của Chí:
Lương thiện là được người khác chấp nhận. Đó không thể là chuẩn mực của một giá trị. Cái chết của Chí, do vậy, là một
thất bại hơn là một chiến thắng của tính thiện, của khát vọng hoàn lương. Bằng sự thất bại của Chí (và cùng với Chí là sự
thất bại của của Đức, Dì Hảo, của Nhu1, của Lang Rận2, cu Lộ...), Nam Cao muốn người nông dân Việt Nam có ý thức
sâu sắc về những vấn đề của mình, và đối mặt với chúng để vượt qua chúng. Song, hơn nửa thế kỷ qua, niềm mong mỏi
của ông đã được đáp ứng ở mức độ nào?
Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao nếu có một chiều sâu thì đó là khả năng chạm tới đáy thẳm của ý thức cộng đồng. Chạm
tới nó để cảnh báo về sự nguy hiểm, năng lực tàn phá, huỷ diệt, sự trì níu và làm tụt hậu của nó. Điều khiến người nghệ sĩ
day dứt là phải vượt qua cái đáy thẳm đó để, trước khi đến được chân trời xa xôi của văn minh, ít nhất cũng đến được
miệng vực, tức là mặt đất của sự công bằng, không thiên kiến, nơi cá nhân có vị trí độc lập với cộng đồng. Và nếu như
thời hiện đại lấy con người cá nhân với cái tôi biết suy nghĩ làm cơ sở cho tất cả thì phải chăng, Nam Cao còn một điều
day dứt nữa: Làm thế nào để xoá bỏ nỗi sợ cô đơn. Bởi vì con người cá nhân chỉ có thể phát triển khi người ta không còn
quá khiếp sợ nỗi cô đơn để có ý thức về tự do của mình.
Nguyễn Thị Từ Huy
1 Những trích đoạn của Chí Phèo được lấy trong cuốn Tuyển Tập Nam Cao, tập1, NXB Văn Học,1997
1, 2 Nghệ Thuật Tiểu Thuyết, Milan Kundera, NXB Đà Nẵng, tr.18 và tr.115
1 Trong văn học, cái bóng thường được dùng như biểu tượng của sự cô đơn, kẻ đơn độc chỉ còn có cái bóng của mình là
bạn, cho nên xem bóng như người tri kỷ để thổ lộ tâm tình: "Ngồi đây ta nói sự đời/ Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe"
(Tản Đà- Nói Chuyện Với Bóng). Chí Phèo đương nhiên không xem bóng là kẻ tri âm hoặc kẻ song trùng hay bản chất
thứ hai của mình (quá cao siêu đối với Chí). Chí nhìn thấy ở nó một nhân dạng, một hình bóng của con người, dù méo
mó, xệch xạc, thu gọn rồi lại dài loang ra. Một nhân ảnh tơi tả, kì dị cũng đủ xoa dịu nỗi hận bị bỏ rơi của Chí.
1 Tuyển Tập Nam Cao, sđd , tập 2, NXB Văn học, 1997, tr.231.
1 Điều băn khoăn được nói ra trong những lời cuối cùng của Chí: "Làm thế nào cho mất những mảnh chai trên mặt
này?". Đây không phải vấn đề hình thức bên ngoài quan trọng hơn đời sống nội tâm. Cũng không phải nỗi lo rằng cái bề
ngoài là thứ dễ nhận biết còn nội tâm thì khó hoặc không thể nắm bắt. Đây là sự đồng nhất hình thức bên ngoài với các
giá trị của nhân cách, là quan niệm cho rằng hình thức phản ánh bản chất bên trong của con người. Những vết mảnh chai
trên mặt Chí gắn với một quá khứ không thể nào thay đổi được nữa. Quá khứ đó huỷ hoại hiện tại và giết chết tương lai
của Chí, chỉ vì nó không bị xoá bỏ trong ý thức của cộng đồng bao quanh Chí.
1, 2 Nết hiền lành đến mức đần độn của Nhu (hay của dì Hảo) được Nam Cao trình bày như một giá trị đã hoàn toàn bị
phá sản trong cuộc sống hiện tại. Nam Cao lên án chính cái đức ở hiền thụ động ấy chứ không bảo vệ nó để chống lại sự
sắc sảo một cách hiệu quả của cô em, Nhượng. Nếu như trong Chí Phèo còn thể đổ lỗi cho Bá Kiến, bà cô Thị Nở, thì
trong ở hiền, Nhu phải chịu trách nhiệm về bất hạnh của chính mình. Và cũng khó mà nói được rằng qua vụ thắt cổ tự tử
của Lang Rận, Nam Cao muốn đề cao chữ "tiết" và đức trọng danh dự của người nông dân. Cùng lắm ta chỉ thấy ở đó
một nạn nhân, một cái chết vô lý mà nguyên nhân là sự độc ác của dư luận và sự hèn yếu của người đàn ông không đủ
bản lĩnh để chịu trách nhiệm về việc mình đã làm, một việc không phải là tội lỗi gì ghê gớm mà nhìn ở một góc độ khác,
đó còn là một trong những quyền cơ bản của con người: quyền được yêu (Lang Rận và Mụ Lợi đều là những người
không bị hôn nhân ràng buộc). Lang Rận chết không vì bảo vệ một danh dự hãõo huyền mà vì không thể đối mặt với sự
khinh bỉ của những kẻ không là mẫu mực của đạo đức mà lại tự cho mình cái quyền xâm phạm vào tự do của người khác.
Nam Cao nhận thấy bi kịch của con người không sống cho chính mình mà sống cho hình ảnh của mình trong mắt người
khác; người ta tự bóp nghẹt mình, tự gò mình theo một khuôn mẫu chung và dẫn tới hậu quả là tự thủ tiêu mình. Sự lặp đi
lặp lại của chủ đề này trong nhiều tác phẩm của Nam Cao chứng tỏ ông xem nó là một vấn đề lớn, có nghĩa là, theo ông,
dân tộc muốn phát triển không thể không giải quyết nó bằng một quá trình mà ông gọi là "lọc máu".
Nam Cao (1915 - 1951) tên thật là Trần Hữu Trí, quê ở làng Đại Hoàng, nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam
Hà. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, có lúc Nam Cao dạy học ở một trường tư thục, nhưng khi trường bị đóng cửa,
ông sống bằng nghề viết báo, viết văn, làm gia sư. Năm 1943, Nam Cao gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc ở Hà Nội. Bị
khủng bố, ông phải lánh về quê và tham gia Tổng khởi nghĩa tại đó. Năm 1946, Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam
tiến vào đến Nam Trung Bộ. Sau đó, ông lên chiến khu Việt Bắc, làm công tác tuyên truyền, báo chí, văn nghệ ở Trung
ương, tham dự chiến dịch biên giới năm 1950. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu, Nam Cao bị
giặc Pháp phục kích bắt và bắn chết tại bốt Hoàng Đan ở Ninh Bình.
Trong công tác, Nam Cao là một người chu đáo, có tránh nhiệm. Sau Cách mạng Tháng Tám, nhiều bạn bè đã nhìn thấy
ông làm việc rất hăng say. Khi làm báo, làm việc ở xưởng in bên cạnh anh em công nhân, ở chiến dịch biên giới, hay
trong đoàn cán bộ vào vùng địch hậu, người ta như bắt gặp một Nam Cao khác, không phải một Nam Cao rụt rè, nhút
nhát, mà một Nam Cao dũng cảm, xông xáo, xung phong đi đầu trong khó khăn.
Nam Cao bắt đầu viết từ năm 1936. Ngoài truyện, ông còn làm thơ, soạn kịch. Nhưng chỉ từ năm 1941, với truyện Chí
Phèo, ông mới thể hiện rõ tài năng độc đáo và xác định chắc chắn vị trí của mình trong nền văn học dân tộc.
Nói về sáng tác của mình trước Cách mạng Tháng Tám, trong một bản tự thuật, Nam Cao kể lại: "Ngoài những truyện
ngắn đăng trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy và một số sách nhi đồng (Truyền bá, Hoa mai)... đã viết một số tiểu thuyết dài,
nhưng vì bị kiểm duyệt bỏ hay vì dài quá không in được: Ngày lụt, Cái mấu, Chuyện người hàng xóm, Sống mòn v.v...
(trừ bản thảo Sống mòn vẫn còn giữ được, còn lại đều mất hết vì đã bán cho các nhà xuất bản cả rồi).
Do tình hình tác phẩm bị thất lạc rất đáng tiếc như vậy, cho nên ngoài vài vở kịch và dăm bài thơ không có gì đặc sắc và
do đó ít được nhắc đến, tác phẩm của Nam Cao đến được với người đọc hôm nay chỉ gồm hơn 60 truyện ngắn, một tiểu
thuyết và mấy tập bút ký.
Những truyện ngắn viết trước Cách mạng của Nam Cao đáng chú ý nhất là Chí Phèo, Dì Hảo, Nhỏ nhen, Cái mặt không
chơi được, Lão Hạc, Trẻ con không được ăn thịt chó, Một bữa no, Sao lại thế này, Điếu văn, Từ ngày mẹ chết, Mua
danh, ở hiền, Trăng sáng, Đôi móng giò, Lang Rận, Tư cách mõ, Đời thừa, Mua nhà, Những truyện không muốn viết,
Cười, Quên điều độ, Nước mắt, Đón khách... Tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao hoàn thành năm 1944, nhưng mãi đến
năm 1956, sau khi nhà văn mất, mới được xuất bản lần đầu. Truyện ngắn có giá trị nhất của Nam Cao viết sau Cách
mạng Tháng Tám là Đôi mắt. Ngoài ra, trong thời gian này, ông còn có nhật ký ở rừng thể hiện rõ những chuyển biến tư
tưởng của nhà văn trong những ngày tham gia kháng chiến.
Nam Cao quan tâm đến cả sinh hoạt nông thôn và thành thị, miêu tả nhiều loại người, đặc biệt là nông dân và trí thức
nghèo. Nhưng dù miêu tả thành phần xã hội nào, ông vẫn đi sâu vào các số phận, các kiếp người, như chính nhà văn
thường nói. Thái độ thương cảm, lòng trắc ẩn của ông dành nhiều cho những người cùng khổ, những người "dưới đáy"
của xã họi những người hiền lành chất phác, nhưng đời sống quá vất vả, cơ cực, số phận hết sức hẩm hiu. (Nghèo, Dì
Hảo, Lão Hạc, Một bữa no, Từ ngày mẹ chết, ở hiền).
Một loại nhân vật khác phần lớn cũng từ nông dân lao động nghèo mà ra, nhưng do những hoàn cảnh đặc biệt đưa đẩy,
đã trở thành những tay trộm cướp, lưu manh, những con người bị tha hóa, bị què quặt cả về thể xác và tinh thần. Những
con người ở bên lề xã hội hay phá phách này, cùng với những người điên, những người câm, những người dị dạng kỳ
quặc đủ loại, càng tô đậm thêm bộ mặt cùng quẫn, bế tắc, mất nhân tính của xã hội (Chí Phèo, Đôi móng giò, Lang Rận,
Tư cách mõ...).
Một loại nhân vật thứ ba khá đông đúc trong tác phẩm của Nam Cao, khác với hai loại người trên ở chỗ có trình độ học
vấn, có ý thức hơn về thân phận, có nhiều băn khoăn suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, về giá trị làm người. Đó là
những thầy giáo tiểu học, những viên chức nhỏ, những người làm báo, viết văn. Chính qua những người như Thứ, như
Điền, như Hộ, như Độ, nhà văn đã trực tiếp gửi gắm những suy nghĩ của mình về cuộc sống, về nghệ thuật (Trăng sáng,
Đời thừa, Sống mòn, Đôi mắt...).
Thông thường, ở một tài năng viết truyện, viết tiểu thuyết, thì sức mạnh tư duy sáng tạo tập trung ở nghệ thuật xây dựng
nhân vật. Nam Cao, với khuôn khổ hạn chế của truyện ngắn, đã xây dựng được cả một loạt nhân vật để lại những ấn
tượng khó phai mờ ở người đọc. Nhiều nhân vật của Nam Cao thật sự là những phát hiện mới mẻ, hết sức độc đáo, có
khả năng tái sinh trong văn học về sau. Đó là các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, Trạch Văn Đoành. Người
ta cũng rất khó quên những nhân vật như Bá Kiến, Lão Hạc, dì Hảo, Thứ, Hộ, văn sĩ Hoàng. Nhân vật của Nam Cao rất
sinh động. Người đọc tưởng như có thể nhìn thấy họ đang đi lại, ăn uống, nói năng, cười khóc trước mặt mình. Chất
sống ở những nhân vật của Nam Cao là do chất sống của cuộc đời thực mang lại. Nhà văn chọn lựa rất tinh những mẫu
người, những chi tiết đặc sắc nhất để đưa vào tác phẩm.
Trong miêu tả nhân vật không phải lúc nào Nam Cao cũng chú ý đến ngoại hình. Nhưng, khi cần, Nam Cao cũng chứng
tỏ biệt tài khắc họa ngoại hình nhân vật. Thí dụ như trường hợp Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, Trạch Văn Đoành. Những
con người với ngoại hình không bình thường, quái dị ta vẫn gặp ở ngoài đời, nhưng ngòi bút của Nam Cao khiến chúng
ta nhìn chăm chú hơn vào họ và giật mình sửng sốt: hóa ra một phần của cuộc sống đã biến dạng, đã xấu xí, đã thoái
hóa đến như vậy!
Nam Cao thể hiện sở trường ở miêu tả nội tâm, miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật. Nhà văn thường để cho nhân vật
tự bộc lộ suy nghĩ, tâm trạng của mình, một mình tự nói với mình, sử dụng rộng rãi biện pháp độc thoại nội tâm, độc
thoại bên trong. Điều này hết sức rõ rệt ở những nhân vật trí thức như Điền, như Hộ, như Thứ. Nhưng ngay cả những
người tăm tối mà sự sống tưởng như chỉ quy vào tồn tại sinh vật, như Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận, anh cu Lộc. Cũng có
đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm, sự suy nghĩ, trăn trở là dấu hiệu của tính người, của trình độ sống.
Nét đặc trưng có sức lôi cuốn mạnh nhất trong tài năng và phong cách của Nam Cao là chất trữ tình ấm áp, lây truyền,
thấm đậm hầu hết các trang viết của ông. Chất trữ tình này bắt nguồn từ nỗi buồn thương, đau đời của ông trước nỗi
khổ không cùng của con người, từ lòng khao khát của ông về một cuộc sống có tình người, có phẩm giá, có tư cách. Chất
trữ tình này cũng tăng thêm do chỗ nhà văn thường đi sâu vào tâm hồn, tâm trạng nhân vật, trực tiếp bày tỏ thái độ, tình
cảm, tư tưởng của mình về cuộc sống, do tính chất tự truyện trong nhiều tác phẩm của ông.
Tài năng của Nam Cao thể hiện rõ ở chỗ: hầu như chỉ viết về cái hằng ngày, cái đời thường, với một cách viết khá dung
dị và tự nhiên, ngòi bút của ông đã tái hiện những cảnh đời, nêu lên những chủ đề có tính chất xã hội và nhân văn sâu
sắc, phảng phất mùi vị triết lý, khiến người đọc không chỉ một thời mà nhiều thời đọc đi đọc lại tác phẩm của ông. Tác
phẩm của Nam Cao như những câu hỏi cứ xoáy sâu vào tâm trí người đọc, không phải câu hỏi "tồn tại hay không tồn
tại", "sống hay không sống", mà là sống như thế nào cho ra sống, sống thế nào cho có phẩm giá, có tư cách, và muốn
như vậy con người phải làm gì? Tư tưởng nhân văn chứa đựng trong các tác phẩm của Nam Cao không đơn thuần là
lòng thương người, sự cảm thông với những con người bất hạnh, mà thức tỉnh danh dự làm người, buộc con người phải
suy nghĩ về thực trạng mình đang sống, tìm cách để thoát ra khỏi kiếp sống thừa, sống mòn vô nghĩa. Đó là tư tưởng
nhân văn mang nội dung tích cực. Dễ hiểu vì sao sau Cách mạng Tháng Tám, nhà văn đau đời, thương người ấy lại thiết
tha như vậy với cuộc sống mới, say mê hoạt động như vậy, vừa với tư cách là nhà văn, vừa với tư cách công dân.
Nam Cao cũng là nhà văn có phần đóng góp quan trọng bậc nhất vào sự phát triển ngôn ngữ văn xuôi dân tộc.
Cũng như nhiều nhà văn hiện thực thời kỳ 1932 - 1945, Nam Cao rất chú ý khai thác tiếng nói hằng ngày của người dân,
sử dụng có chọn lọc tiếng địa phương, tiếng nghề nghiệp trong tác phẩm của mình. Ngôn ngữ của ông phong phú, biến
hóa, đầy sức sống, vừa có tính chuẩn mực của ngôn ngữ văn học dân tộc, vừa không rơi vào tình trạng "sách vở", trau
chuốt thái quá thành nghèo nàn, giả tạo mà ta có thể bắt gặp trong một số tác phẩm lãng mạn thời đó. So với các nhà
văn cùng thời, ngôn ngữ của Nam Cao đến bây giờ là ngôn ngữ ít cũ đi nhất. Chỉ cần đọc lại truyện Chí Phèo, thậm chí
chỉ đoạn mở đầu truyện này, viết cách đây đã hơn nửa thế kỷ, ta sẽ thấy ngay ngôn ngữ của Nam Cao giàu có và sinh
động như thế nào, hiện đại như thế nào.
Nam Cao là một nhà văn trong ý nghĩa đích thực và cao quý của khái niệm này. Ông là một nghệ sĩ, một nhà tư tưởng,
một bậc thầy về tiếng Việt. Người đọc hứng thú, tự nguyện đến với ông vì tính chất chân thực, nhân bản sâu xa trong
những tác phẩm của ông, vì ông sớm cảm nghe được một cách chính xác khuynh hướng hiện đại trong sáng tác văn học
và thể hiện nó một cách thành công qua việc lựa chọn và miêu tả những hiện tượng tiêu biểu của cuộc sống, qua cách kể
chuyện, cấu tạo tác phẩm và sử dụng ngôn ngữ thật mới mẻ và sáng tạo.
Văn Giá
Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng - hài kịch tha hoá:
Vũ Trọng Phụng gọi tác phẩm của mình là tiểu thuyết hoạt kê - lấy cái cười chĩa mũi dùi vào cái đáng cười của xã
hội thượng lưu tư sản, tấn hài kịch xã hội ấy cường điệu hoá nhưng lại chỉ rất đúng vào bản chất xã hội dâm và đểu, làm
nên sự thăng tiến của một thằng lưu manh một bước lên hàng danh giá: Xuân Tóc Đỏ. Bức chân dung độc nhất vô nhị
trong văn học hiện thực Việt Nam đã đưa Số Đỏ lên hàng một trong những tác phẩm có thể làm “vinh dự văn học của
mọi thời đại” (ý Nguyễn Khải). Bản thân nhà văn là người ý thức rất rõ về vai trò của tiểu thuyết trong tuyên ngôn của
mình : Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, còn tôi và những người cùng chí hứơng với tôi muốn tiểu thuyết là
sự thực ở đời. Bởi vậy Số Đỏ dù là một tiểu thuyết hoạt kê, nhưng về cốt lõi vẫn là một sự thực được cảm nhận qua lăng
kính của nhà văn, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc điển hình hoá.
Không gian trong tác phẩm có độ nén chặt và chỉ bằng vài ba nét miêu tả của nhà văn đã hiện ra một bối cảnh
điển hình gắn với loại người thượng lưu tư sản thành thị: sân quần – bót cảnh binh - nhà Phó Đoan - tiệm Âu hoá – nhà
cụ cố Hồng – sân quần. Trên nền không gian ấy là những nhân vật rối tự diễn vai trò của mình một cách xuất chúng: bà
Phó Đoan – me Tây thủ tiết với hai đời chồng có cậu Phước con cầu tự “em chã!”, ông bà Văn Minh với chủ trương Âu
hoá quái đản, cụ cố Hồng với câu nói bất hủ “Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!”, và hàng loạt những phán mọc sừng, cô Tuyết
tân thời, nhà chính trị bảo hoàng Joseph Thiết, đốc tờ Trực Ngôn, sư ông tân thời Tăng Phú, nhà thiết kế thời trang Typn,
những cảnh binh kiêm cua-rơ Min Đơ, Min Toa… tạo thành một phông nhân vật châu tuần quanh nhân vật trung tâm
Xuân Tóc Đỏ. Mặc dù, như có người nhận xét tư tưởng Vũ Trọng Phụng mang màu sắc bi quan định mệnh, nhưng nhãn
quan sắc bén của “ông vua phóng sự đất Bắc” đã giúp nhà văn chỉ ra những tính cách không thể khác hơn trong bối cảnh
không gian như vậy. Thời gian gắn với các sự kiện, biến cố liên tục trong đời thằng Xuân chỉ vỏn vẹn 6 tháng, đem lại
cho nó vinh quang tột đỉnh không phải do từ lá số của ông thầy bói mù, mà từ bản chất tinh ranh ma quái của nó. Xuân
Tóc đỏ đã tiến dần trên từng nấc thang danh vọng, từ thằng thành ông, từ vô học thành sinh viên trường thuốc, giáo sư
quần vợt và hài hước hơn cả là thành “cái hy vọng của Đông Dương”, “anh hùng cứu quốc”…
Không gian và thời gian trong Số Đỏ là một không gian dồn dập những sự kiện với tốc độ thay đổi nhanh chóng, với
hàng loạt những biến cố bất ngờ, tưởng chừng ngẫu nhiên nhưng có sự sắp đặt rất hợp lô-gic của tác giả nên tất cả những
yếu tố tình cờ kia lại được lý giải một cách hợp lý từ sự hội ngộ của những nhân vật tương đồng về bản chất theo kiểu
“ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Bắt đầu từ bước ngoặt đầu tiên, bà Phó Đoan me Tây dâm đãng bỏ tiền ra chuộc thằng
Xuân từ bót cảnh binh, thằng Xuân bắt đầu mon men ở ngưỡng cửa của những kẻ quyền quí, để rồi nhanh chóng sau đó,
nó đã long trọng tuyên bố vai trò của mình “kể từ hôm nay…tham dự vào một phần cải cách xã hội…”. Cải cách xã hội –
ngôn từ điêu trá ấy gắn với tiệm may Âu hoá, để biến con gái nhà lành thành hư hỏng, với những cải cách đến tận nội y
theo tinh thần của ông Typn, phải làm sao đến lúc…không còn mặc gì mới thật là “văn minh, tiến bộ” (!). Vũ Trọng
Phụng đã dựa trên cơ sở nguyên mẫu đời sống, với những cải cách tân thời bấy giờ, những phong trào bịp bợm của thực
dân Pháp tạo ra với những khẩu hiệu rất kêu : Vui khoẻ trẻ trung, để đưa ra những giai thanh gái lịch chỉ làm mỗi việc là
chim nhau, cười tình với nhau, đưa nhau đi khách sạn, có nhiệm vụ thiêng liêng là làm hư hỏng danh tiết con gái nhà
lành! Thế giới thượng lưu rởm đời ấy không phải không chứa đựng những mâu thuẫn, nhưng đó là loại mâu thuẫn tạo
nên tiếng cười chứ không phải là những xung đột mang tính chất bi kịch, đó cũng là nét đặc trưng của tác phẩm.
Vũ Trọng Phụng đã tỏ rõ thiên tài của mình khi tạo nên những bức tranh hiện thực có tính dự báo độc đáo, bằng ngòi bút
cường điệu hoá nhưng lại tô đậm bản chất xã hội rõ hơn bao giờ hết. Điều đó khiến tiếng cười của ông có giá trị cảnh báo
và thức tỉnh. Bản thân thằng Xuân là một nhân vật mặt nạ, không có quá trình mâu thuẫn bên trong. Tất cả các nhân vật
của Số Đỏ đều không có xung đột nội tâm, hay chính xác hơn là những biểu hiện nội tâm được ngoại hiện hoá, để tác giả
bóc trần bản chất nhân vật rõ ràng hơn. Cái giả trá, kệch cỡm, lố lăng cứ lồ lộ qua từng dòng văn của Vũ Trọng Phụng:
Bà Phó Đoan dù Nhật, ví da và chó bước xuống…Còn đây là chân dung ông Văn Minh: Ông phân vân, vò đầu rứt tóc,
lúc nào cũng đăm đăm chiêu chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng cái mặt một người lúc
gia đình đương là tang gia bối rối…,còn rất nhiều những câu văn tương tự như vậy hàm chứa thái độ giễu nhại của nhà
văn với những quái thai của xã hội đương thời.
Hành trạng của thằng Xuân được diễn giải từ chỗ vô tình đến chỗ ý thức rõ về vị trí của nó trong một xã hội luôn che đậy
sự bẩn thỉu bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài. Và cứ thế, nó bước dần lên đỉnh cao danh vọng. Một sự thăng tiến rất hợp qui
luật vì lẽ như chính nó từng tuyên bố trước cả gia đình của cụ cố: “Tôi mà xấu thì cũng chả ai đẹp!”. Để rồi từ chỗ là một
kẻ được tô trét đủ thứ hư danh, nó đã biết lợi dụng hư danh ấy để thực hiện những mưu mô xảo quyệt đưa mình lên: bỏ
truyền đơn hãm hại đối phương, diễn thuyết như một nhà hùng biện trước công chúng, để vênh váo và đắc thắng trong
vai trò một anh hùng cứu quốc! Vũ Trọng Phụng là một nhà văn biết cười, khi đặt tiếng cười đúng chỗ, điểm huyệt vào
bọn người trưởng giả, vào cả một chế độ thực dân phong kiến – nơi diễn ra đủ thứ trò ma mãnh, đủ kiểu rởm đời và là cội
nguồn số đỏ cho hạng người dâm và đểu. Vũ Trọng Phụng đã đề cập đến hầu hết những gì là thời thượng của xã hội lúc
bấy giờ bằng thái độ đối lập không khoan nhượng, bằng tiếng cười, ông xuyên thủng những thành trì kiên cố nhất. Trong
tác phẩm không tồn tại bi kịch, nhưng tính chất bi kịch của xã hội đã gắn chặt với từng màn, từng lớp hài kịch, khi nhà
văn gắn chặt từng tính cách với hoàn cảnh cụ thể, đả phá vào từng xu hướng chính trị, văn nghệ, triết học, thể thao, văn
hoá…đang là xu hướng thịnh hành trong thời kỳ cải cách cải lương phù hợp xu thế Mặt trận Bình dân ở chính quốc!
Nguyên tắc điển hình hoá đã tạo nên những chân dung đáng cười trong một xã hội đáng cười, mang đến giá trị sâu sắc
cho tác phẩm Số Đỏ. Có thể nói, Vũ Trọng Phụng đã kết hợp cái nhìn sắc sảo, óc phân tích tỉnh táo của một cây bút
phóng sự bậc thầy với niềm căm uất không nguôi của một con người nghèo gia truyền với một xã hội chó đểu. Tài năng
và nhiệt tình của nhà văn đã làm nên một kiệt tác hiện thực trào phúng đặc sắc.
Th.s TRẦN HÀ NAM
(Giáo viên trường THPT chuyên Lê Quí Đôn, Bình Định)
Đề luyện tập: Quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
BÀI VIẾT THAM KHẢO:
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) cả một đời văn đi tìm cái Đẹp. Nhưng khác với Thạch Lam, tâm hồn ông hướng về vớ i
những nét toàn thiện toàn mĩ , vượt lên khỏi giới hạn của cái bình thường, luôn nhìn nhận thế giới và con người ở phương
diện thẩm mĩ – văn hoá.
Vang bóng một thời như là một điểm xuất phát của quan điểm nghệ thuật mang dấu ấn cá tính con người tài hoa tài tử
Nguyễn Tuân. Mười một truyện ngắn dựng lên những chân dung đặc sắc khó quên của một thời quá vãng, tiêu biểu cho
khuynh hướng thoát li của Nguyễn Tuân trước cách mạng : những thú chơi tao nhã, những con người của quá khứ xa
xăm, thực ra là một cách cắt nghĩa cho tấm lòng của nhà văn vốn nặng tình cùng thời vàng son dĩ vãng. Nhưng ẩn chứa
trong tập truyện là một tâm hồn dân tộc yêu tha thiết những giá trị đã trở thành truyền thống. Bên cạnh đó, tác phẩm còn
là nơi gửi gắm tâm sự yêu nước, tâm trạng bất hoà của một người trí thức luôn cảm thấy bức bối trong khuôn đời chật
hẹp. Cảm hứng đặc biệt mãnh liệt của Nguyễn Tuân gắn với những nhân vật đối lập với trật tự khuôn phép phong kiến,
thể hiện tập trung trong truyện ngắn Chữ người tử tù, giúp ta hiểu sự chân thành sâu lắng của Nguyễn Tuân trong cái vỏ
khác người kiêu bạc.
Tác phẩm là câu chuyện xoay quanh nét chữ của Huấn Cao – người tử tù bất khuất. Xung quanh trục chính của câu
chuyện là những nhân vật thầy thơ lại, viên quản ngục và Huấn Cao. Họ vốn là kẻ thù với nhau trong cuộc sống, nhưng
lòng yêu cái Đẹp giúp họ tìm đến với nhau như những người bạn tâm giao.
Cho đến tận thế kỉ XXI, trên văn đàn vẫn còn những cuộc tranh luận sôi nổi xung quanh Chữ người tử tù về nhân vật
chính của tác phẩm: Chữ hay là người tử tù Huấn Cao mới là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm này của Nguyễn Tuân?
Điều đó cho thấy tính phức tạp, đa nghĩa của tác phẩm. Chính vì vậy, sức hấp dẫn của tác phẩm vẫn còn nguyên vẹn. Tuy
nhiên cần phải nhìn nhận tác phẩm này từ quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước cách mạng, đồng thời gắn với
đặc trưng “văn học là nhân học” để xácđịnh rõ tư tưởng của Chữ người tử tù. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân là đại diện
cho khuynh hướng thoát li trong văn học lãng mạn bằng việc đề cao những vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Lấy cái tôi làm
trung tâm để nhìn nhận cuộc sống, ít nhiều trong tác phẩm, người nghệ sĩ lãng mạn bao giờ cũng muốn bộc lộ chính
những suy ngẫm, tâm trạng của riêng mình. Không phải ngẫu nhiên tác phẩm lại chọn nguyên mẫu Cao Bá Quát để tạo
dựng hình tượng Huấn Cao, vì ít ra nhà văn cũng cảm nhận được mối quan hệ tương đồng giữa bản thân mình với nhân
vật. Mặt khác, trước cách mạng, Nguyễn Tuân luôn lấy tiêu chuẩn đánh giá con người ở ba khía cạnh: cái Tài – cái Đẹp –
cái Thiên Lương nên Huấn Cao là hình tượng độc đáo giúp nhà văn phát biểu quan niệm về con người của chính ông một
cách toàn diện. Chữ – thư pháp vốn là sở hữu của bậc văn nhân tài tử thời xưa, là phương tiện diễn tả thần thái, tinh hoa
của con người, là hiện hình cụ thể của chủ thể thẩm mĩ. Vì vậy, không thể xem chữ là nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Con người và những vẻ đẹp Người bao giờ cũng là trung tâm cảm hứng của văn học lãng mạn, chữ của Huấn Cao thực
chất là sự lí giải một góc tâm hồn Huấn Cao, là lời ca tụng cái đẹp Con Người trong hoàn cảnh tưởng chừng chỉ tồn tại
những điều xấu xa.
Xem Huấn Cao là nhân vật đại diện cho cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương theo quan niệm Nguyễn Tuân cũng cần phải
xét đến vai trò của viên quản ngục và thầy thơ lại. Bởi, cái đẹp chỉ thật sự có ý nghĩa khi có người biết thưởng thức. Đó
cũng là một khía cạnh chủ đề của tác phẩm mà nhà văn muốn thông qua những nhân vật của mình phát biểu. Sẽ không ai
biết đến Huấn Cao vào những thời khắc khốc liệt nhất của đời ông nếu như không có những người như quản ngục, thơ
lại. Hai nhân vật này cùng Huấn Cao làm nên “ba đốm sáng đặc biệt” trên nền hiện thực tăm tối.
Tác phẩm hấp dẫn người đọc trước hết ở lối dựng chuyện rất ấn tượng của Nguyễn Tuân. Bản thân ông ý thức rất rõ về
việc tạo không khí cho tác phẩm để từ đó diễn giải về số phận, tính cách nhân vật. Vốn là một người rất am hiểu văn hoá
phương Đông, tiếp thu ảnh hưởng của cha, Nguyễn Tuân có biệt tài tái hiện những hình ảnh xa xăm của mộtt thời “một
đi không trở lại”. Không khí cổ điển bao trùm toàn bộ tác phẩm ngay từ câu đầu tiên: “Nhận được phiến trát của quan
Sơn-Hưng-Tuyên đốc bộ đường…”, để từ đó những con người của một thế giới xa xưa hiện ra trước mắt ta nguyên hình
rõ nét. Nhân vật chính chưa xuất hiện mà tác phẩm lại bắt đầu từ tâm trạng nửa lo – nửa mừng của viên quan đứng đầu
nhà ngục khi nghe tin Huấn Cao sẽ bị áp giải đến nơi mình cai quản. Bổn phận của một bề tôi trung thành là phải làm
tròn chức trách nên trong cuộc trao đổi giữa ngục quan với thuộc cấp đã hiện lên một kẻ mẫn cán trong phận sự. Hoàn
cảnh đề lao đã tạo nên con người theo khuôn phép, cẩn trọng đúng mực như ngục quan. Nhưng để thấy con người thực
của ngục quan và nỗi băn khoăn của ông ta cần phải gắn cùng một hoàn cảnh khác, tâm trạng khác. Bởi qua những dòng
đầu tiên, người đọc biết đến niềm khao khát được thưởngthức tài hoa tuyệt đỉnh của thư pháp trong nét chữ tên tử tù
Huấn Cao của một người nắm quyền sinh quyền sát trong tay. Nhưng là người biết định giá cái Đẹp và đến với cái Đẹp
bằng tất cả tấm lòng, ngục quan cũng hiểu rõ tình thế khó xử của chính mình. Để nhân vật một mình lọt thỏm trong mênh
mông bóng tối của nhà ngục. Nguyễn Tuân đã thuật lại khá đầy đủ những xung đột bên trong của nhân vật. Ngôn ngữ
miêu tả tâm lý của Nguyễn Tuân đã đạt đến trình độ bậc thầy khi ông đi sâu mổ xẻ những uẩn khúc trong lòng nhân vật
một cách rất tự nhiên gắn kết với khung cảnh.
Để cắt nghĩa tâm trạng ngục quan, Nguyễn Tuân đã khắc họa khỏanh khắc ngục quan khơi lại ngọn đèn dầu sở soi sáng
khuôn mặt, đối diện chính bản thân. Đây cũng là thủ pháp thường gặp trong văn xuôi hiện đại. Nhà văn cũng đã không
ngần ngại bộc lộ cảm tình của mình với ngục quan, khi ông dùng những nét vẽ bằng ngôn ngữ phác họa chân dung nhân
vật một cách trân trọng. Phẩm chất nhân vật được khái quát đầy đủ ngay từ đầu với những nét tương hợp giữa ngôn ngữ,
ngọai hình và nội tâm của nhân vật. Đàng sau khuôn mặt bình thản như mặt nước hồ thu là cả một thế giới tâm hồn đáng
trọng: “trọng người ngay, biết giá người…” là cơ sở nhà văn khẳng định tâm hồn ngục quan như “bản đàn trong trẻo”
trong thế giới tạp âm, đối lập với “bọn cặn bã, lũ quay quắt”. Nhân vật đối lập với hoàn cảnh luôn là đặc điểm hàng đầu
trong sáng tác của Nguyễn Tuân, là chiếc chìa khóa mở tung những cửa ngách phức tạp của hồn Nguyễn Tuân, văn
Nguyễn Tuân. Đoạn đặc tả chân dung nhằm diễn giải cho tình huống thử thách xảy đến cùng ngục quan: liệu giữa con
người bản – chất và con người mặt – nạ, phía nào sẽ thắng thế? Tâm nguyện của ngục quan có cơ hội thực hiện, nhưng
bằng con đường nào phải lẽ, bản thân nhân vật phải trải qua quá trình đấu tranh căng thẳng với chính mình. Xin được chữ
Huấn Cao – con người “văn hay chữ tốt nổi tiếng một vùng” là vinh hạnh của một kẻ như quản ngục, bị giam cầm trong
bổn phận, trách nhiệm. Liệu nhân vật có vượt qua được thử thách hay không? Câu hỏi địn hình từ phía nhà văn đã gợi
được trí tò mò cho bạn đọc để làm nên một không khí khác hẳn với lối diễn giải một chiều của tiểu thuyết chương hồi,
phơi bày những phức tạp mâu thuẫn nội tâm để làm rõ nét chân dung đặc sắc của ngục quan.
Nếu Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác phẩm thì ngục quan chính là nhân vật đối chiếu để làm rõ cho ý đồ của nhà
văn. Thế nhưng góc nhìn đối sánh ấy lại bắt đầu từ vị thế đối lập giữa hai nhân vật. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên xuất
hiện giữa nhà ngục, Huấn Cao đã hiện ra sừng sững những cốt cách, khí phách của một anh hùng. Chiếc gông đeo cổ sáu
tử tù – biểu tượng dữ tợn của quyền uy và tội ác với kích cỡ “xứng đáng”, với màu “đen bóng” vì mồ hôi bao kẻ tử tội trở
nên tầm thường thảm hại trước thái độ lạnh lùng “dỗ gông” của Huấn Cao. Giữa ranh giới sống – chết mong manh, khí
phách “uy vũ bất năng khuất” (uy vũ không thể khuất phục) của Huấn Cao không thể được hiểu bằng đầu óc u tối của
đám lính lệ dựa hơi quan quyền ra oai phách lối. Chỉ có thái độ “hiền lành khác hẳn ngày thường” của ngục quan mới là
sự trọng thị thật sự của những người ý thức bản thân rõ nét. Nguyễn Tuân đã thuật lại quá trình tìm cách tiếp cận Huấn
Cao của ngục quan hoàn toàn khách quan và hợp logic phát triển trên tâm lý nhân vật. Nhưng ông cũng giúp thấy rõ
nghịch cảnh trớ trêu: một đàng tìm cách gần gũi, một đàng cảnh giác tuyệt giao. Nỗi khổ tâm của ngục quan càng tăng thì
sự lạnh lùng “khinh bạc đến điều” của Huấn Cao càng tỏ rõ sự cứng rắn, đầy bản lĩnh của người anh hùng mạt lộ. Đơn
giản một điều là họ chưa tìm thấy tiếng nói chung khi vị thế hai người được đặt trong sự đối đầu về mặt xã hội.
Đỉnh cao của xung đột đầu tiên giữa hai kẻ không cùng chiến tuyến là lúc ngục quan mạo hiểm xuất hiện trước mặt Huấn
Cao và nhận được câu trả lời đuổi thẳng. Đáp lại thái độ khinh bạc của Huấn Cao là một lời bẽ bàng của quản ngục “Xin
lĩnh ý” . Tưởng chừng sau phút đó, chuyện sẽ rẽ ngoặt sang hướng khác: kính trọng sẽ thành thù hận. Nhưng điều bất
thường là rượu thịt cung phụng cho “thú sinh bình” của Huấn Cao lại còn hậu hơn trước khiến cho nảy sinh tình huống
mới: thái độ ngạc nhiên băn khoăn về quản ngục của Huấn Cao. Ngạc nhiên là phải, vì đàng sau rượu thịt không phải là
những trò mua chuộc hạ sách mà ông Huấn Cao từng biết. Băn khoăn của Huấn Cao xoay quanh bí ẩn về nhân thân của
quản ngục. Nét đặc sắc trong nghệ thuật dựng chân dung nhân vật của Nguyễn Tuân là ở đó, ông đặt nhân vật vào những
ranh giới đòi hỏi sự lựa chọn đúng – sai, thật – giả, tốt – xấu … để khám phá thêm những mặt tiềm ẩn của tâm hồn con
người, hé lộ những mặt đa dạng của tính cách nhân vật.
Lời giải đáp cho băn khoăn của Huấn Cao đến trong một hoàn cảnh thật nghiệt ngã, ông phải đứng trước thử thách của
chính mình. Ranh giới phân định không còn nằm trong thế cho con người lựa chọn như trước, bởi đó là sự sống còn và
cái chết của chính ông. Kết cục số phận của một người tử tù là cái chết, nhưng trước cái chết con người cũng có những
phản ứng khác nhau. Một người bình thường sẽ mặt tái nhợt hốt hoảng như thầy thơ lại khi báo tin cho Huấn Cao, còn
bản thân một kẻ “chọc trời khuấy nước” như Huấn Cao lại dường như bình thản đón nhận. Người anh hùng luôn đón đợi
hiểm nguy, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, phải chăng vì vậy Nguyễn Tuân đã không dùng một từ nào mô tả phản ứng
của Huấn Cao khi nghe tin dữ đến với mình. Giây phút “lặng người đi một lát rồi mỉm cười” của Huấn Cao chính là thời
điểm mở ra thế giới thực của một con người tài hoa. Cuối cùng những “kẻ thù “ trong đời đã gặp nhau or một tấm lòng.
Thời điểm này ta cũng nhận rõ hơn vai trò của thầy thơ lại. Ông ta hoàn toàn không phải là người trung gian, kẻ đầu sai
cho chủ. Cũng giống viên quản ngục, ông ta còn giữ được “thiên lương” nhưng hoàn cảnh không cho phép ông bộc lộ
con người thực của mình. Thậm chí, so với ngục quan, thầy thơ lại còn hiêïn lên vẻ an phận thủ thường bằng dáng vẻ
khúm núm, rụt rè, hớt hải của một kẻ ý thức được thân phận của mình. Nhưng đôi mắt “biết giá người” của ngục quan đã
phát hiện được con người thực của ông ta. Thầy thơ lại chính là điểm tựa, là niềm tin giúp ngục quan đủ dũng khí vượt
qua nỗi sợ hãi thường trực trong cảnh sống nơm nớp lo âu. Có thể xem thầy thơ lại là nhân vật bổ sung cho tính cách của
ngục quan. Dẫu cho ông ta không phải là người đam mê cái đẹp thư pháp giống như ngục quan, nhưng ông ta là người
đóng vai trò xúc tác để cái đẹp tìm đến nhau. Cuộc sống rất cần loại người như thế. Trong thế giới nhân vật lý tưởng hoá
của Nguyễn Tuân, viên thơ lại này là con người của đời thường, tận tâm trong công việc và tận tâm với cả bạn bè, dám
làm những việc nguy hiểm cho tính mạng bản thân vì người khác. Không có thầy thơ lại, sẽ không có cuộc gặp gỡ giữa
Huấn Cao với quản ngục, không có cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”.
Khi những hận thù, ngộ nhận được xoá nhoà, nhà văn mới để Huấn Cao bộc lộ rõ con người thật bằng những lời nói cảm
động. Điều bất ngờ của Huấn Cao về quản ngục còn làm người đọc bất ngờ hơn về thái độ của Huấn Cao khi ân hận
“Thiếu chút nữa thì ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao bỗng trở nên gần gũi, rất con người sau câu
nói này. Hoá ra nhân cách cao quí của Huấn Cao ngoài thái độ bất khuất kiên cường còn có cả một tấm lòng biết trân
trọng con người. Hoá ra nụ cười Huấn Cao không chỉ là “trông chết cười ngạo nghễ” mà còn là nụ cười sung sướng tìm
được một con người có “sở thích cao quí” chính vào thời khắc số mệnh đã an bài. Cuộc gặp gỡ của những tấm lòng đã
làm nên lời giải đáp, hoá giải mọi khổ tâm, băn khoăn, sợ hãi.
Nguyễn Tuân đã dựng lên một không gian đặc biệt để ba nhân vật gặp gỡ. Đúng như ông mô tả, đây là cảnh tượng xưa
nay chưa từng có. Nhưng trang viết này đã thể hiện bút lực Nguyễn Tuân dồi dào sung mãn nhất. Cảm hứng mạnh mẽ, tô
đậm những nét độc đáo phi thường đã làm nên nhừng hình ảnh, câu văn thật phóng khoáng. Bắt đầu của sự chuyển đổi
không gian nhà ngục – vốn tối tăm ghê rợn đã bừng sáng lên trong ánh lửa cháy “rừng rực” của những bó đuốc tẩm dầu.
Xung đột Bóng tối – Ánh sáng mang ý nghĩa tượng trưng, điển hình cho một cảm hứng quen thuộc của chủ nghĩa lãng
mạn. Đây là ánh sáng khác hẳn với sắc nhợt nhạt của “những vì sao” nhấp nháy sắp rụng, với ánh leo lét của ngọn đèn
dầu sở soi sáng gương mặt ngục quan, tâm hồn ngục quan. Ánh đuốc làm bật lên ba con người đẹp đẽ trên nền hiện thực
nhà tù tàn ác xấu xa. Đối cực giữa hoàn cảnh với con người nhờ vậy tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả, tạo một
tâm thế hào hứng đón nhận cái đẹp vượt lên thực tại tầm thường tù túng, để thậât sự thăng hoa.
Cảnh tượng đẹp nhất đánh dấu thời khắc cái Đẹp lên ngôi chính là lúc Huấn Cao viết chữ, thầy thơ lại khúm núm bưng
chậu mực, viên quan coi ngục đánh dấu lên từng con chữ. Vẫn là những con người ấy nhưng thật sự họ đã toàn tâm toàn
trí hướng về cái đẹp. Người sáng tạo, người thưởng thức, tôn vinh cái đẹp đã gặp gỡ nhau. Lời nói của Huấn Cao dành
cho quan coi ngục là lời chỉ dành cho người tri âm tri kỷ. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng bình khoảnh khắc này là
khoảnh khắc “ba đốm sáng gặp nhau”, khoảnh khắc để con người cúi đầu trước cái đẹp để thật sự cảm nhận vẻ đẹp toát
lên từ con chữ, từ tấm lụa bạch, thỏi mực thơm.
Nhà văn khép lại câu chuyện bằng lời nói của ngục quan, như hứng lấy tâm huyết hoài bão một đời của Huấn Cao: “Kẻ
mê muội này xin bái lĩnh!”. Đó là lúc cái đẹp chiến thắng tuyệt đối, là lúc “Ba người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau”.
Họ đã thật sự chiến thắng nỗi sợ hãi, cái chết. Đó là thời khắc hội tụ cái Tài – cái Đẹp – cái Thiên Lương.
Chữ người tử tù đã thể hiện trọn vẹn quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân trước các h mạng tháng Tám. Cái đẹp đối lập
với thực tại tầm thường giả trá, cái đẹp của những con người phản ứng thực tại xã hội đương thời. Và Nguyễn Tuân cũng
đã đem lại cho người đọc thú thưởng thức văn hoá rất đặc sắc trong nét chữ tài hoa. Tài hoa ấy, tấm lòng ấy cũng là của
chính Nguyễn Tuân muốn gửi gắm lại cho cuộc đời này.
Tác gia Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
I. Những nét chính trong cuộc đời :
Bác sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An trong một gia đình nhà Nho nghèo yêu
nước. Thân sinh là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng thị Loan. Lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi ra
đi tìm đường cứu nước lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Thời gian hoạt động ở Pháp lấy tên là Nguyễn ái Quốc. Khi
về nước bắt đầu lấy tên là Hồ Chí Minh.
Người đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp năm
1920. Thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 1930. Thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1941. Là Chủ tịch Đảng, Chủ
tịch nước khi cách mạng tháng Tám 45 thành công đến khi mất (2/9/1969). Suốt đời đấu tranh không mệt mỏi cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, là chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc.
Người còn là một nhà văn hóa lớn. Vì vậy , năm1990 , tổ chức UNESCO đã kỷ niệm 100 năm sinh của Người với
tư cách "anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới".
II. Sự nghiệp văn học :
A. Quan điểm sáng tác văn chương :
Sinh thời, Bác không có ý định trở thành nhà văn, nhà thơ, nhưng do yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, thêm vào đó yếu
tố môi trường xã hội và thiên nhiên gợi cảm xúc, cộng với nhiệt tình và tài năng , vốn văn hóa... đã khiến Bác đến với
văn chương. Nhưng trước hết, sáng tác văn thơ với Bác là hành động cách mạng.
Người quan niệm văn chương phải có chất thép, gắn bó với hiện thực cuộc sống xã hội. Trong "Khán Thiên gia thi hữu
cảm", Bác yêu cầu :
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
Thép là tính tích cực tiến bộ về mặt tư tưởng, là cảm hứng, đấu tranh xã hội của thi ca.
Người còn xác định rõ đối tượng thưởng thức văn chương là quần chúng cách mạng. Người xác định : Viết cho ai? Viết
để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?
Người yêu cầu văn chương phải có tính chân thật. Tiêu chuẩn của tính chân thật gắn với yêu cầu cao về nội dung và cả
hình thức. Nội dung bám sát hiện thực, nêu được những điển hình của hiện thực. Hình thức phải trong sáng, dễ hiểu,
được quần chúng yêu thích.
B. Các lĩnh vực sáng tác :
1. Văn chính luận :
2. Truyện và ký
3. Thơ
C. Phong cách nghệ thuật :
1. Văn chính luận : Bộc lộ t duy sắc sảo, giàu tri thức văn hóa, gắn lý luận với thực tiễn, giàu tính chiến đấu, vận
dụng có hiệu quả các phương thức biểu hiện
2. Truyện và ký : Đặt nền móng cho văn xuôi cách mạng. Truyện ngắn chủ động, sáng tạo; có khi là lối kể chân
thực, tạo không khí, có khi là giọng điệu sắc sảo, châm biếm thâm thúy và tinh tế. Đặc sắc nhất là chất trí tuệ và
tính hiện đại.
3. Phong cách thơ đa dạng, phong phú, mang đặc điểm của thi ca phương Đông. Vận dụng nhiều thể loại và phục vụ
có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.
Tác gia NGUYỄN TUÂN
I. Đặc điểm con người : NGÔNG
1 . Ảnh hưởng gia đình: người cha Tú tài – ngông nghênh, khinh bạc, tài hoa, am hiểu văn hoá truyền thống.
2. Tiếp thu ý thức cá nhân phương Tây
II. Quan niệm nghệ thuật :
1. Nặng tình dân tộc, quan tâm đến các giá trị văn hoá cổ truyền
2. Coi trọng nghề văn – gắn cái TÀI, cái ĐẸP, cái THIÊN LƯƠNG – luôn thể hiện nhân cách người cầm bút
III. Diễn biến tư tưởng:
1. Trước cách mạng: bi quan bế tắc
2. Sau cách mạng: hoà nhập hiện thực, thật sự “lột xác”, nhận đường.
IV. Phong cách nghệ thuật :
1. Chất tài hoa uyên bác:
a. Tiếp cận mọi sự vật ở phương diện văn hoá, thẩm mỹ để khám phá, phát hiện, khen – chê
b. Vận dụng tri thức nhiều ngành để quan sát hiện thực, sáng tạo hình tượng.
c. Luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ
d. Tô đậm những nét phi thường xuất chúng
2. Sự kế thừa và phát triển phong cách:
a. Trước cách mạng :
+ Tư tưởng : tìm về vẻ đẹp vang bóng một thời, thú giang hồ xê dịch, truỵ lạc, thú ẩm thực... nhằm bộc lộ tối đa con
người cá nhân lạc lõng trước hiện thực
+ Hình tượng: Nhân vật tài hoa, đối lập cuộc đời, u buồn
b. Sau cách mạng:
+ Tư tưởng: quy thuận quần chúng một cách tự giác, hoà nhập vào hiện thực phong phú – tinh thần dân tộc và lòng yêu
nước. Thể hiện niềm vui và niềm tin gắn bó cuộc sống mới và con người mới.
+ Hình tượng : Quần chúng tài hoa nghệ sĩ, vẻ đẹp bình thường – vĩ đại.
V. Tác phẩm tiêu biểu sau cách mạng:
- Tuỳ bút “Sông Đà” – Người lái đò sông Đà
- Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi – Tờ Hoa
- Sông Đà đỏ
- Các bài viết tiểu luận và chân dung văn học – Thời và Thơ Tú Xương
Taùc gia TOÁ HÖÕU
I. Đặc điểm con người Tố Hữu (1920 – 2002):
1. Nhà thơ bắt đầu sự nghiệp thơ cùng với sự nghiệp cách mạng
2. Tâm hồn thơ Tố Hữu đậm đà bản sắc quê hương.
3. Nhà thơ gắn cuộc đời và sáng tác với các chặng đường cách mạng ⬄ con chim đầu đàn của thi ca cách mạng Việt
Nam.
II. Nội dung các tập thơ của Tố Hữu:
A. Từ Ấy (37 – 46)
(Máu lửa – Xiềng xích – Giải phóng)
1. Tư tưởng: thể hiện rõ nét người thanh niên mới giác ngộ lý tưởng cộng sản, khao khát sống và chiến đấu cho lý tưởng,
sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cách mạng
2. Nghệ thuật: Hình thức Thơ mới, giọng điệu sôi nổi, tiếng reo vui của tâm hồn (cảm xúc và khát vọng), thể hiện chất trẻ
trung bồng bột của cái nhìn dưới ánh sáng của “đôi mắt thần chủ nghĩa”
B. Việt Bắc (47 – 54)
1. Tư tưởng : trân trọng những con người bình thường nhưng vĩ đại – bước chuyển biến sâu sắc trong nhận thức, kết quả
những trải nghiệm trong kháng chiến.
2. Nghệ thuật “: hướng tìm tòi khám phá vào vẻ đẹp nghệ thuật dân gian truyền thống, thể hiện suy nghĩ tình cảm quần
chúng bằng chính nghệ thuật của họ ⬄ thành tựu xuất sắc của thi ca kháng chiến.
C. Gió lộng (55 – 61)
1. Tư tưởng: gắn hai nguồn cảm hứng lớn
a. Niềm vui xây dựng cuộc sống mới (Mbắc)
b. Tình cảm với miền Nam và ý chí đấu tranh thống nhất đất nước.
2. Nghệ thuật: thể hiện bút pháp lãng mạn cách mạng, gắn với không khí thời đại, tinh thần lạc quan hướng về tương lai.
D. Ra trận (62 – 71) Máu và hoa (72 -77)
1. Tư tưởng: cảm hứng lãng mạn anh hùng ca là nét chủ đạo – khuynh hướng tổng kết lịch sử – dân tộc – thời đại.
2. Nghệ thuật : thiên về triết lý, âm hưởng anh hùng ca, thể hiện ý nghĩa tuợng trưng cho tinh thần, ý chí của dân tộc,
nhân danh lương tâm thời đại hào hùng.
III. Phong cách nghệ thuật Tố Hữu:
1. Trữ tình chính trị: thơ gắn với lý tưởng cách mạng, các vấn đề lớn của thời đại, dân tộc, gắn với các sự kiện chính trị.
Thể hiện chất sử thi.
2. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết:
“Tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói của đồng chí” 🡪 thâm nhập sâu rộng trong quần chúng
3. Nghệ thuật thơ đậm đà tính dân tộc:
a. Thể thơ: Đặc biệt thành công ở thể thơ lục bát, bảy chữ.
b. Ngôn ngữ: lối nói, từ ngữ quen thuộc của dân tộc
c. Giàu nhạc điệu
+ Thơ Tố Hữu kết hợp hai nguồn: dân tộc – cạ́ch mạng. Sức thu hút thơ ông là lòng say mê lý tưởng và tính dân tộc đâm
đà.
III. NHỮNG ÐẶC ÐIỂM CHÍNH CỦA PHONG CÁCH THƠ :
1) Ðỉnh cao của thơ trữ tình chính trị trong văn học Việt Nam hiện
đại.
Ở đó, có sự kế tục truyền thống thơ văn yêu nước thời Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, thơ ca Xô Viết Nghệ Tĩnh ;
kết hợp với những cách tân nghệ thuật theo xu hướng hiện đại hóa. Thơ Tố Hữu là tiếng lòng của một kiểu nhà thơ mới,
đứng giữa lòng cuộc sống mà cất lời kêu gọi đấu tranh. Qua tâm hồn chan chứa yêu thương của nhà thơ, các vấn đề và sự
kiện chính trị liên quan tới vận mệnh cả dân tộc - đều thành nguồn xúc cảm nghệ thuật mãnh liệt. Do đó, khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn bao trùm phần lớn sáng tác của Tố Hữu. Nhân vật trữ tình luôn nhân danh Ðảng, nhân danh
cộng đồng ; tập hợp những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp ; được nâng lên tầm vóc mới - nên nhiều khi mang
vẻ đẹp phi thường.
2) Thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn.
+ Thế giới quan của Tố Hữu, ngay từ buổi đầu, đã mang bản chất cách mạng. Khi được Mặt trời chân lí chói qua
tim, nhà thơ nhận ra con đường giải thoát duy nhất cho dân tộc Việt Nam : Cách mạng Vô sản. Bao chông gai thử thách
đang chờ đón, nhưng có hề gì, người thanh niên ấy đã nguyện Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa. Lý tưởng cách mạng tiên
tiến của thời đại làm sục sôi nhiệt huyết trong trái tim chan chứa yêu thương. Giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
đem lại hạnh phúc cho mọi người đã trở thành sự nghiệp, lẽ sống tha thiết, thôi thúc nhà thơ hiến dâng trọn cuộc đời.
Quyết tâm dấn thân vì nghĩa lớn và lòng trung thành tuyệt đối tạo nên chất men say kỳ diệu, có sức lôi cuốn tự nhiên, lâu
bền.
+ Thơ Tố Hữu thể hiện niềm vui, nỗi buồn và thái độ yêu-ghét đúng đắn. Ðó là tâm trạng của một người nguyện
gắn bó máu thịt với nhân dân. Là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí. Thơ ấy, đã vui thì vui bất tuyệt, còn đau
khổ thì Có khổ đau nào đau khổ hơn. Trái tim tự xát muối, cô đơn. Nhân sinh quan của Tố Hữu cũng mang bản chất cách
mạng sâu sắc : yêu đất nước, con người và cái Thiện ; ghét kẻ thù phi nhân, ghét cái Aïc. Nhưng không phải kiểu yêu -
ghét suông có màu sắc cải lương, bao giờ cũng dẫn đến hành động quyết liệt : tranh đấu tới cùng để bảo vệ chính nghĩa ;
lên án, tiêu diệt những thế lực phản cách mạng, thù địch với con người.
3) Giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết, hồn
nhiên.
+ Dù là những dòng thơ tươi xanh hay những dòng thơ lửa cháy, giọng thơ Tố Hữu vẫn một điệu sôi nổi, mãnh
liệt. Nhà thơ đặc biệt rung động với nghĩa tình cách mạng sâu nặng, luôn hướng đến đồng bào đồng chí mà chân thành
giãi bày tâm sự, kêu gọi, nhắn nhủ. Giọng thơ có cái duyên riêng của hồn thơ xứ Huế.
+ Sống và chiến đấu, tất cả cho Tổ quốc, Tố Hữu không mảy may so hơn tính thiệt cho riêng mình. Mối quan
hệ giữa nhà thơ với quần chúng bao giờ cũng rất mực gần gũi, thủy chung, tin yêu tuyệt đối. Do đó, trong ước vọng về
một thiên đường trên mặt đất - "Người yêu người sống để yêu nhau”, tiếng lòng của nhà thơ được bộc lộ một cách hồn
nhiên.
4) Nghệ thuật thơ vừa giàu tính dân tộc vừa rất hiện đại.
Dân tộc chủ yếu ở hình thức (thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, kết cấu). Hiện đại chủ yếu trong đề tài, tư tưởng chủ đề
(các giá trị truyền thống được cảm nhận và thể hiện trên tinh thần mới mẻ).
XUÂN DIỆU
( 1916 – 1985)
Một số điểm cần lưu ý :
+ Xuân Diệu là nhà thơ lớn của dân tộc, ông luôn là tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ, dẻo dai, giàu sức sáng tạo, đạt
được nhiều thành tựu lớn trong sáng tác.
+ Xuân Diệu là người giới thiệu, phê bình thơ rất tinh tế và sắc bén. Ông có được những thành công lớn không
chỉ ở việc giới thiệu, phê bình thơ cổ điển, thơ ca hiện đại, mà còn ở cả thơ ca nước ngoài. Ông thường chỉ ra được cái
hay, sự độc đáo ở mỗi nhà thơ qua tác phẩm của họ.
+ Cuộc đời và thơ của Xuân Diệu gắn với quê hương đất nước. Ông có khát vọng hiến dâng sức lực và trí tuệ của
mình cho dân tộc, ông không ngại khó khăn, gian khổ, hăng hái, nhiệt tình, đi khắp mọi nẻo đường Tổ quốc để phục vụ
nhân dân … Chính vì lẽ đó, Xuân Diệu được tất cả độc giả trong nước yêu mến, ngưỡng mộ không chỉ ở thơ, mà còn ở
tấm lòng say sưa và chân thành của ông trước cuộc đời
2 – Xuân Diệu với thơ :
2.1 – Thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám :
Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu có hai tập thơ: Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Ông là
nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới cả về nội dung lẫn hình thức. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã khẳng
định: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại”.
Khác với các nhà thơ cùng thời kì, Xuân Diệu gắn bó thiết tha với cuộc sống, “Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của
một tấm lòng trần gian”. Khát vọng mãnh liệt đến với cuộc đời, giao cảm với đời là một trong những yếu tố tạo nên sức
hấp dẫn của thơ Xuân Diệu.
Cảm hứng về tình yêu là cảm hứng nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Với ông, tình yêu đã trở thành lẽ sống, “làm
sao sống được mà không yêu”, mặc dầu ông cảm nhận :“ Yêu là chết ở trong lòng một ít, vì mấy khi yêu mà chắc được
yêu”. Bởi thế, ông luôn có tâm trạng Vội vàng, Giục giã . Ông sợ thời gian, ông muốn vũ trụ ngưng đọng :
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt nắng
Tôi muốn buộc nắng lại
Cho hương đừng bay đi.
(Vội vàng)
hay là:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi, tình non sắp già rồi
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
(Giục giã)
Tình yêu được Xuân Diệu diễn tả với nhiều cung bậc, từ Gặp gỡ rồi Yêu, cho đến khi Xa cách , Biệt li êm ái và với
những tâm trạng và hành động khác nhau: Có khi là sự “dại khờ”, “mời yêu” hay “ngẩn ngơ”, “nhớ mông lung”,“sầu”, …
Cũng có khi “ rạo rực” khát vọng :
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm .
Xuân Diệu đã thể hiện được một tình yêu đích thực, không e ấp ngượng ngùng khi bày tỏ tình yêu. Ông muốn tạo
nên một không gian thấm đẫm tình yêu để gửi gắm niềm khao khát về tình yêu vô biên và tuyệt đích :
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần
Phải mặn nồng cho mãi mãi đem xuân
Đem chim bướm thả trong vườn tình ái.
(Phải nói)
Dẫu tình yêu có nồng cháy, mãnh liệt nhưng nó vẫn không được cuộc đời đón nhận, khiến “cái tôi” phải cầu xin:
Mở miệng vàng.. và hãy nói yêu tôi
Dầu chỉ là trong một phút mà thôi!...
(Mời yêu)
Càng yêu cuộc đời bao nhiêu, Xuân Diệu càng tự đày ải trái tim của mình và càng thất vọng bấy nhiêu… Điều đó
đã tạo nên sự “cô đơn muôn lần muôn thuở cô đơn” cho nhà thơ. Đặc biệt, có khi “ cái tôi” đã lên đến đỉnh cao của sự cô
đơn, nhỏ nhen, tầm thường:
Ta là Một, là Riêng là thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta !
( Hy Mã Lạp Sơn)
“Cái tôi” gục xuống, sợ hãi, thốt lên lời rên rỉ trước cuộc đời thờ ơ, lạnh nhạt, hay đau đớn van xin : “Chớ đạp hồn em”,
“Chớ để riêng em phải gặp lòng em” và rơi vào tâm trạng tuyệt vọng :
Xao xác tiếng gà, trăng ngà lạnh buốt
Mắt run mờ, kỉ nữ thấy trăng trôi
Du khách đi, du khách đã đi rồi .
(Lời kĩ nữ)
Cũng vì thế, tình yêu trong thơ Xuân Diệu gắn liền với nỗi cô đơn và sự hoài nghi. Ngay cả khi “ được yêu”
nhưng “ cái tôi” vẫn lo sợ vì cảm nhận sự biệt li, tan vỡ đang dần đến. Cho dù cùng người yêu dạo bước dưới ánh trăng
“cái tôi” vẫn cảm thấy:
Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ.
Có thể nói, tình yêu trong thơ Xuân Diệu thời kì này rất nồng cháy, “vô biên” để rồi rơi vào bi kịch của một trái
tim hiến dâng nhầm chỗ và “say khướt đau thương”.
Về nghệ thuật: Xuân Diệu cảm nhận cuộc sống bằng nhiều giác quan mà đặc biệt là cảm giác ( Thơ duyên, Vội
vàng, Nhị hồ,… ). Ông sử dụng ngôn ngữ thơ rất sáng tạo, và luôn có sự tìm tòi mới mẻ, độc đáo nhằm tạo nên sức gợi tả,
truyền cảm mạnh mẽ cho thơ (Đây mùa thu tới, Khi chiều giăng lưới, Vội vàng). Xuân Diệu đã sử dụng thành công sự
tương quan giữa các màu sắc, âm thanh nhịp điệu để tạo nên âm hưởng trong thơ (Nguyệt cầm, Thơ duyên,… ).
Tóm lại: Thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám biểu hiện rõ tấm lòng của một con người nặng tình với
đời song bế tắc. Tình yêu nam nữ trong thơ Xuân Diệu thời kì này được diễn tả với tất cả cung bậc của nó qua những vần
thơ uyển chuyển giàu âm thanh, màu sắc, hình ảnh…, để lại âm vang mạnh mẽ trong lòng người đọc.
2..2 – Thơ Xuân Diệu sau Cách mạng tháng Tám: (SGK 11)
4 – Phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu:
Xuân Diệu là một nhà thơ luôn gắn bó với cuộc sống và sống hết mình cho cuộc sống.
Xuân Diệu luôn có mặt trong cuộc sống, ông đặt tên cho một tập thơ của mình là Tôi giàu đôi mắt. Ông hăm hở, say mê
sáng tạo với trách nhiệm của một công dân trước cuộc sống. Thơ ông bám lấy thực tại của cuộc sống, đưa sự vật, hiện
tượng vào thơ, muốn mở rộng cánh cửa thơ cho cuộc sống tràn vào, do vậy trong thơ ông có sự bề bộn của những chi tiết
hiện thực cuộc sống. Ông muốn thơ phải có sức chứa lớn và sức phản ảnh rộng lớn phong phú.
Xuân Diệu là nhà thơ giàu sức sáng tạo, luôn có ý thức tìm tòi, thể nghiệm trên nhiều phương diện (cách xây
dựng hình tượng, nhịp điệu, ngôn ngữ … ). Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân tạo nên thơ hay và thơ trung
bình ở mỗi tập thơ của ông.
Tâm hồn thơ Xuân Diệu luôn có sự tinh tế và nhạy cảm. Đó là yếu tố bền vững trong thơ Xuân Diệu trước và sau
cách mạng. Nói cách khác, sức thanh xuân luôn tràn đầy trong tâm hồn thơ Xuân Diệu. Tươi trẻ, hăng say như cái thuở
ban đầu yêu và đang yêu là nét nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Sự nhạy cảm của tâm hồn đã tạo cho thơ ông thêm giàu
hương vị của cuộc đời, tác động mãnh liệt đối với nhận thức của người đọc.
Thơ Xuân Diệu có khi còn nặng về kể, giải bày, ít ẩn ý, thiếu hàm súc, dễ dãi, dài dòng trong nhạc điệu, từ ngữ .
Điều đó tạo nên sự hạn chế phần nào về sức truyền cảm và hấp dẫn của thơ ông đối với người đọc.