Professional Documents
Culture Documents
Msv: 543703
Lớp: XHHK54
Các tác phẩm chủ yếu của ông là “ lý luận tôn giáo và tinh thần tư bản chủ
nghĩa”, “ lịch sử kinh tế nói chung” . “lý luận về tổ chức kinh tế xã hội”, “ những
luận văn về xã hội học” . Do thể chế hành chính trong “ lý tưởng” mà ông nêu ra
đã đóng góp to lớn vào lý luận tổ chức cổ điển nên các nhà khoa học về quản lý ở
phương tây đã goi ông là “ người cha của lý luận về tổ chức”. Trong ước chi Việt
Nam có bộ máy quan liêu có nói thuyết quan liêu thực sự nổi tiếng từ đầu thế kỷ
XX với các công trình nổi tiếng của Max Weber mà tác phẩm quan trọng nhất của
ông, cuốn “ nền đạo đức tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” ( 1904), đã
đươc nhà xuất bản Tri thức in bằng tiếng việt năm 2007.
_ Cần chỉ định người quản lý : 1 người quản lý giỏi có thể là 1 người có óc
tư duy sáng tạo hoặc biêt dung người để đạt được mục tiêu của mình . 1 người
có trình độ học vấn cao chưa chắc là 1 người quản lý giỏi . Vậy người quản lý
phải thể hiện được năng lực siêu phàm của mình qua hoạt động thực tiễn , phải
chứng minh đươc mình có năng lực phẩm chất của 1 nhà quản lý thực thụ. Khi
đó nhà quản lý đó được chỉ định chứ không phải là tự ứng cử .
_ Cần tra lương xưng đáng cho hoạt động của nhà quản lý : Việc trả lương
xứng đáng cho nhà quản lý chính là việc đáp ứng được nhu cầu vật chất của nhà
quản lý. Như vậy nhà quản lý sẽ yên tâm làm việc , phục vụ đắc lực cho sự phát
triển của tổ chức .
_ Người quản lý không nên là người sở hữu đơn vị mà mình điều hành : nếu
người quản lý mang tư tưởng mình là người sở hữu tổ chức thì sẽ dễ măc phải
bệnh chuyên quyền độc đoán , ôm đồm tất cả mọi công việc, đồng thời sẽ có
cách chủ quan về tổ chức đưa ra những quyết định không phù hợp ảnh hưởng
đến sự phát triển của tổ chức.
_ Hoạt động quản lý của nhà quản lý phải tuân thủ chặt chẽ mọi quy tắc ,
chuẩn mực và chịu sự kiểm tra.: Mọi công việc của nhà quản lý phải tuân thủ
theo những quy tăc nhất định của tổ chức, chịu trách nhiệm trước những sai trái .
Hoạt động của nhà quản lý chịu sự kiểm tra , giám sát của tổ chức , cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo những quy định của pháp luật .
3.3 . Phân tích quản lý gắn với quyền lực
_ Quyền lực kiểu truyền thống : Dựa vào truyền thống cổ xưa và địa vị
chính thống của người sử dụng quyền lực đó. Ông cho rằng chế độ thủ lĩnh,
trưởng bộ tộc là biểu hiện quan trọng nhất của quyền lực kiểu truyền thống.
Ngoài ra còn có hình thức cha truyền con nối. Sự phục tung đối với quyền lực
truyền thống dựa vào chỗ người cai trị chiếm giữ địa vị cai trị và việc người cai
trị có thể sử dụng quyền lực là do sự dàng buộc truyền thống. Nếu trong số họ
có người nào thường xuyên vi phạm quy định do truyền thống đặt ra thì họ sẽ có
nguy cơ đánh mất tính hợp pháp của sự cai trị.
_ Quyền lực dựa vào sự sung bái đối với lãnh tụ siêu phàm: Loại hình này
dựa vào sự sùng bái và yêu quý đối với một anh hùng có đạo đức gương mẫu. Sự
phục tùng đối với loại hình này dựa vào lòng tin của cấp dưới về sự thiêng liêng
của lãnh tụ ,chứ không phải lạ một sức mạnh cưỡng chế. Weber cho rằng loại
hình quyền lực này không thể là cơ sở cho một nền cai tri vững chắc. Vì công
việc hàng ngày c ủa một quốc gia không thể dựa vào sự ngương mộ củ a công
dân dối với một nhân vật vĩ đại và do đó , phục tùng sự cai trị của nhân vât ấy.
_ Quyền lực pháp lý : Loại hình này dựa vào tính hợp lý ,hợp pháp hoặc
quyền lực của người đã được chỉ làm chỉ huy. Nếu nói rằng tất cả những loại
hình quyền lực khác đều quy vào cá nhân thì quyền lực pháp lý chỉ quy vào các
quy đinh pháp luật , không quy vào cá nhân . Theo đây thì mọi việc đều thi hành
theo quy định của pháp luật. Những người sử dụng quyền lực là những người
thực thi các quy định của pháp luật , chứ không phải là ngọn nguồn của các quy
định pháp luật. Weber cho rằng những quan lại của các quốc gia hiện đại chỉ là
nô bộc của 1 quyền lực chinh trị cao hơn . Ví dụ , chính phủ do bầu cử hình thành
và các bộ trưởng cũng vậy. Nhưng điều Weber lo lắng là những quan lại do nhân
dân bầu ra khôna phải đều đặt minh đúng chỗ. Trên thực tế , cac quan lại không
phải lúc nào cũng làm việc tuân theo phương thức họ phải tuân theo mà thường
tìm cách mở rộng quyền lực , do đó mở rộng lợi ích riêng của họ . Họ không làm
việc với tư cách là những nô bộc trung thành mà họ muốn trở thành ông chủ của
các bộ phận thuộc quyền.
Ba loại hình quyền lực này đều dựa trên những cơ sở khác nhau để thiết lập
quan hệ phục tùng đối với quyền lực .
Theo Weber , trong 3 loại hình quyền lực trên , loại hình quyền lực theo
truyền thống căn cứ vào truyền thống tương truyền đã lâu để làm việc .Người
lãnh đạo tiến hành công việc quản lý truyền thống từ xa xưa để lại và cũng chỉ
tiến hành công việc quản lý để giữ gìn truyền thống .Không những thế những
người lãnh đạo không phải là người được lựa chọn theo năna lực cá nhân nên
việc qnản lý thuộc loại hình này kém hiệu quả. Con loại hình quyền lực dựa vào
sự siêu phàm của lãnh tụ mang nặng màu sắc thần bí. Nó dựa vào tình cảm và sự
ngưỡng mộ , phủ nhận lý trí , chỉ dựa vào sự thần bí để làm việc, không dựa vào
quy tắc do luật định, do đó không thể áp dụng. Loại hình quyền lực phap lý là
loại hình quyền lực có thể làm cơ sở cho thể chế quản lý hành chính trong lý
tưởng. Bởi vì với loại hình quản lý này , tất cả nhân viên quản lý đều không
được phép làm việc theo thiên kiến và tình cảm cá nhân , phai đối xử binh đẳng
với tất cả mọi người, không phân biệt đẳng cấp xã hội và thân phận cá nhân của
họ .Do đó có thể giữ được sự công minh thận trọng, tất cả quyền lực đều quy
vào những quy định pháp luật ; những người giữ chức vị quản lý có những
phương tiện hợp pháp để sử dụng quyền lực ; mỗi nhân viên quản lý đều trải
qua lưa chọn nên họ có thể đảm nhiệm tốt chức trách của mình ; quyền lực của
mỗi nhân viên quản lý đều được quy định rõ ràng theo nhu cầu hoàn thành nhiệm
vụ va bị hạn chế trong phạm vi cần thiết . Do đó chỉ loại hình quyền lực này là
có thể bảo đảm tính liên tục , ổn định của quản lý , bảo đảm hiệu quả cao cho
quản lý. Vì thế loại hình này trở thành nền móng cho các quốc gia hiện đại.
Quyền lực trong thể chế quan liêu là :
_ Hãy phục tùng vì mọi người vẫn làm như vậy
_ Hãy phục tùng vì ta có thể biến đổi cuộc đời của mọi người.
_ Hãy phục tùng vì pháp luật đã quy định như vậy
4. 2. Nhược điểm.
_ Coi con người là một công cụ bị động: các quy chế thực hiện như một
cỗ máy, vì vậy con người chỉ làm theo những gì được quy định, được đặt ra mà
không có sự chủ động giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách phù hợp
_ Nguyên tắc cứng nhắc và máy móc làm mất đi tính năng động. Do yêu
cầu phải nắm rõ và tuân thủ các quy định, thủ tục cho nên các nhân viên càng
tuân thủ quy định càng trở lên cứng nhắc trong hành vi ứng xử và thiếu nhạy cảm
trước vấn đề mang tính nhân văn
_ Mọi người trong tổ chức sẽ “ quá cẩn thận ” khi thực hiện nhiệm vụ
để bảo vệ mình , tránh vi phạm nguyên tắc tổ chức , điều này dẫn tới sự cầu
toàn trong công việc, từ đó có thể dẫn tới việc không giải quết dược công việc
một cách nhanh chóng dẫn tới chậm tiến độ
_ Trong quan hệ giữa các bộ phận , các thành viên trong tổ chức có sự đùn
đẩy trách nhiệm . cá bộ phận, thành viên có xu hướng nhận những công việc dễ
dàng và công việc có nhiều nguồn lợi để thực hiện quyền lợi riêng của mình nên
sẽ dẫn đến vuệc đùn đây công việc cho người khác hay không thực hiện đúng
trách nhiệm của mình
_ Che dấu khuyết điểm , nịnh bợ cấp trên.do cấp trên là người đưa ra
quyết định, kiểm soát kiểm tra công việc vì vậy sẽ dẫn tới việc một số người
dùng mọi thủ đoạn để lấy lòng cấp trên để được bao tre và nâng đỡ. Từ đó hình
thành lên việc nhân viên sẽ dùng vật chất để lấy lòng cấp trên nhằm che dấu
khuyết điểm của mình.
_ Bưng bít thông tin dẫn đến độc đoán , chuyên quyền “ quan liêu chủ
nghĩa ” ( các cá nhân có xu hướng tạo ra thêm nhiều quy định khi đối phó với các
vấn đề, nhất là khi họ phải giám sát các chuyên gia trong khi không hoàn toàn
hiểu công việc của các chuyên gia