Professional Documents
Culture Documents
MSSV: 16044301
Lớp: DHHO12D
MSSV: 16044301
Lớp: DHHO12D
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc, cán bộ, công nhân viên
Nhà máy Super Phốt Phát Long Thành cùng các thầy cô Khoa Công nghệ Hóa học
Trường Đại học Công Nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho em được tiếp cận thực tế ở Nhà máy Super Phốt Phát Long Thành tại khu
công nghiệp Gò Dầu, Đồng Nai. Qua đó, em được củng cố những kiến thức đã học
ở trường, trau dồi thêm kinh nghiệm làm việc tại môi trường công nghiệp cũng như
các kĩ năng và tác phong công nghiệp tại môi trường thực tế, cũng như cách để xây
dựng các mối quan hệ tốt đẹp với đồng nghiệp. Tất cả sẽ là hành trang quý giá để
em bước vào xã hội, vào công việc của bản thân sau này.
Để hoàn thành tốt kì thực tập này, em đã được các anh chị cùng toàn thể cô
chú công nhân viên tại Nhà máy Super Phốt Phát Long Thành và thầy Lê Thiết
Hùng dành thời gian quý báu của mình chỉ bảo, dẫn dắt tận tình, chu đáo. Giúp em
nâng cao kiến thức và kinh nghiệm cho mình. Một lần nữa em xin trân trọng tri ân.
Thời gian thực tập tuy không nhiều, kĩ năng, kiến thức và kinh nghiệm bản
thân còn nhiều hạn chế nên em không thể tránh những sai sót. Em rất mong nhận
được sự góp ý từ thầy cô cũng như anh chị hướng dẫn tại Nhà máy để bài báo cáo
của em được hoàn thiện hơn.
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
1.1. Giới thiệu khái quát đặc điểm của Nhà máy...........................................2
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy.............................2
1.1.3. Chức năng nhiệm vụ cơ bản của các bộ phận quản lý.....................4
2.2.3. Đặc điểm công nghệ chung cho sản xuất axit................................27
2.2.4. Các chất xúc tác cho quá trình oxy hóa SO2..................................35
3.2. Hệ thống phòng chống cháy nổ và hiệu quả thực hiện tại nhà máy......92
Bảng 1.4. Nhiệt độ khí SO3 và nước mềm trong ống tản nhiệt........................56
Bảng 2.1. Các sự cố và biện pháp khắc phục của máy móc 91
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2.2. Sản lượng axit sunfuric và hóa chất cơ bản khác của Mỹ................13
Hình 2.3. Biểu đồ tiêu thụ axit sunfuric trên thế giới......................................14
Hình 2.17. Sơ đồ khối công nghệ sản xuất xưởng axit số 2............................61
Axit sunfuric là một trong những hóa chất cơ bản quan trọng trong nền công
nghiệp của bất cứ một quốc gia nào. Axit sunfuric là hóa chất thương mại rất quan
trọng, chính vì vậy sản lượng axit sunfuric của một quốc gia là một chỉ số tốt về sức
mạnh công nghiệp của quốc gia đó.
Axit sunfuric (H2SO4) là một axit vô cơ mạnh. Nó hòa tan trong nước theo bất
kỳ tỷ lệ nào. Tên gọi cổ của nó là dầu sulfat, được đặt tên bởi nhà giả kim ở thế kỉ
thứ IX, Jabir ibn Hayyan sau khi ông phát hiện ra chất này. Axit sunfuric có nhiều
ứng dụng, và nó được sản xuất với một sản lượng lớn hơn bất kỳ chất hóa học nào,
ngoại trừ nước. Sản lượng của thế giới năm 2001 là 165 triệu tấn, với giá trị xấp xỉ
8 tỷ USD. Ứng dụng chủ yếu của nó bao gồm sản xuất phân bón, chế biến quặng,
tổng hợp hóa học, xử lý nước thải và tinh chế dầu mỏ.
Ở nước ta, ngành công nghiệp sản xuất axit sunfuric cũng được nhà nước quan
tâm từ khá sớm và đặt nó vào một trong những ngành công nghiệp đầu tàu. Sau giải
phóng, nhà nước đã xây dựng dây chuyền sản xuất axit sunfuric tại khu công nghiệp
Gò Dầu, Long Thành, Đồng Nai trực thuộc nhà máy Super Phốt Phát Long Thành
hiện tại. Đây được xem là dây chuyền sản xuất quy mô đầu tiên tại Miền Nam. Hiện
tại dây chuyền này vẫn hoạt động tốt tại nhà máy Super Phốt Phát Long Thành trực
thuộc tập đoàn phân bón và hóa chất Miền Nam.
Miền nam có nhà máy Super Phốt Phát Long Thành và công ty hóa chất Tân
Bình sản xuất axit sunfuric. Phía Bắc có công ty phân bón và hóa chất Lâm Thao
sản xuất với công nghệ tiếp xúc đi từ quặng pirit. Tuy vậy sản lượng axit sunfuric
vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước.
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ ĐƠN VỊ THỰC TẬP
1.1. Giới thiệu khái quát đặc điểm của Nhà máy
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy
Tên nhà máy: NHÀ MÁY SUPER PHỐT PHÁT LONG THÀNH
Nhà máy Super Phốt Phát Long Thành là một trong những đơn vị trực thuộc
của Công ty phân bón Miền Nam. Được khởi công xây dựng tháng 4/1988 và tổ
chức lễ khánh thành ngày 10/12/1992.
Công suất thiết kế ban đầu của 2 dây chuyền sản xuất chính :
Axit sunfuric (H2SO4): 40.000 tấn/năm và Supe phốt phát đơn (phân lân) :
100.000 tấn/năm.
Tháng 8 năm 2005 hoàn thành xây dựng khánh thành và đưa vào sản xuất dây
chuyền sản xuất Axit sunfuric số 2.
Nhà máy được xây dựng tại khu công nghiệp Gò Dầu – Xã Phước Thái –
Huyện Long Thành – Tỉnh Đồng Nai. Trên diện tích đất là 80.000m 2, theo quyết
định số 303/CNNG-TCNS ngày 17/7/1991 của Bộ Công nghiệp nặng, nay là Bộ
Công nghiệp. Nhà máy Supe Phốt Phát Long Thành là đơn vị trực thuộc Công ty
phân bón Miền Nam. Nhà máy sản xuất và tiêu thụ : Supe lân, axit sunfuric và các
sản phẩm phân bón khác mang gốc từ Supe phốt phát. Nhà máy là đơn vị duy nhất
tại Miền Nam sản xuất và cung cấp loại phân bón Supe lân, Axit sunfuric chủ yếu
phục vụ cho nông nghiệp và công nghiệp hóa chất của các Tỉnh phía Nam. Ngoài ra
Nhà máy còn sản xuất nhiều loại phân bón Supe lân với mọi hàm lượng P 2O5 để đáp
ứng yêu cầu khách hàng cho từng khu vực đất trồng, cây trồng.
- Sản phẩm Supe lân M của Nhà máy được tặng huy chương vàng năm 1993,
1995, 1996, 1997.
- Sản phẩm Supe lân PA được cấp huy chương vàng năm 1995.
- Sản phẩm Supe lân 16,5% P2O5 hữu hiệu đoạt giải bông lúa vàng năm 1997.
- Sản phẩm thuốc trừ sâu công nghiệp (Na 2SiF6) được công nhận huy chương
vàng năm 1996 và 1998.
Sản phẩm Supe lân nhiều năm liền được người tiêu dùng bình chọn là hàng có
chất lượng cao và đoạt giải 3 hàng Việt Nam chất lượng cao do đài tiếng nói nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức.
Hiện nay Nhà máy đã xây dựng và mỡ rộng xong dây chuyền sản xuất Supe
phốt phát từ 100.000 tấn/năm lên 200.000 tấn /năm và dây chuyền sản xuất axit
sunfuric số 2 công suất 40.000 tấn/năm bằng thiết bị và công nghệ hiện đại.
Sản xuất và tiêu thụ 2 mặt hàng chính là Supe lân và axit sunfuric theo kế
hoạch Nhà nước giao, đảm bảo sử dụng nguồn vốn Nhà nước giao có hiệu quả và
tạo thu nhập ổn định cuộc sống người lao động.
* Sản phẩm phân bón: Với nhiều chủng loại sản phẩm về phân bón mang gốc
phốt phát. Nhà máy có thể đáp ứng được nhu cầu về phân bón cho bà con nông dân
toàn khu vực phía Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Bao gồm các
loại sản phẩm như sau : Supe lân (phân lân), phân lân PA, phân lân M và nhiều loại
phân bón đặc chủng cho từng loại giống cây trồng khác nhau.
* Sản phẩm về hóa chất: axit sunfuric kỹ thuật, axit sunfuric thương phẩm,
Na2SiF6.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy
Nhà máy là doanh nghiệp Nhà Nước, hiện tại đang sử dụng mô hình quản lý
kiểu trực tuyến chức năng, với số cấp quản lý là 2.
GIÁM ĐỐC
P. TỔNG P. CUNG
P. KẾ TOÁN P. KỸ THUẬT SX P. KH-TT
HỢP ỨNG KHO
Các phòng ban trong bộ máy quản lý có mối quan hệ mật thiết, không thể tách
rời nhau tạo thành một chuỗi mắt xích liên hoàn, trong đó mỗi phòng ban, phân
xưởng là một mắt xích dưới sự lãnh đạo của Ban Giám đốc. Điều hành và quản lý
một cách nhịp nhàng, khoa học và hiệu quả. Nhằm mục đích không ngừng nâng cao
sản lượng, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng và phát triển quy mô hoạt
động của Nhà máy.
* Giám đốc có trách nhiệm quản lý chung toàn Nhà máy và chỉ đạo các bộ
phận tài chính kế toán, kế hoạch kinh doanh, tổ chức hành chính, quản lý kinh
doanh với sự tham mưu của cán bộ quản lý, các bộ phận chuyên môn để điều hành
công việc một cách hiệu quả nhất.
* Các Phó Giám đốc chịu sự ủy quyền của Giám đốc phụ trách về công tác kỹ
thuật, kinh doanh của Nhà máy.
Chịu sự điều hành trực tiếp của Giám đốc, phòng Tổng hợp có chức năng và
nhiệm vụ quản lý về nhân sự, tiền lương, tổ chức hành chính.
- Phòng Tổng hợp đảm nhận công việc như đào tạo, sắp xếp lao động cho hợp
lý. Phụ trách việc tính lương, thưởng, theo dõi lao động, giải quyết các chế độ của
người lao động. Xây dựng nội quy công tác, chế độ làm việc phù hợp với quy định
của Nhà Nước và Nhà máy.
- Theo dõi tình hình tăng giảm lao động và quản lý lao động.
- Quản lý các chế độ BHXH, BHYT cho CBCNV trong Nhà máy
- Trực tiếp quản lý các bộ phận hành chính, khối phục vụ như : đội bảo vệ, nhà
ăn ka, y tế , đội xe…
Phòng Kế toán:
Chịu sự điều hành của Giám đốc, phòng Kế toán thực hiện các nghiệp vụ quản
lý và sử dụng nguồn vốn.
Phòng kế toán có nhiệm vụ thực hiện các nghiệp vụ ghi chép phản ánh một
cách chính xác kịp thời, liên tục và có hệ thống tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh.
Cung cấp thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh cho Giám đốc. Phân tích
hoạt động kinh tế và lập báo cáo tài chính.
Kiểm tra tình hình thực hiện các chế độ hoạch toán, chế độ quản lý tài chính,
kiểm tra việc sử dụng tài sản và bảo quản tài sản, vốn.
Trích nộp ngân sách đầy đủ, đúng quy trình Nhà nước thực hiện các biện pháp
hợp lý trong thu chi, thanh toán kịp thời, đầy đủ các khoản thanh toán cho các bộ
công nhân viên và các hoạt động tài chính khác…
Chịu sự điều hành của Phó Giám đốc kinh doanh. Phòng Cung ứng – Kho vận
có nhiệm vụ lập kế hoạch cung ứng nguyên, nhiên liệu và các vật tư thay thế sửa
chữa thường xuyên.
Quản lý vật tư, nguyên vật liệu, thống kê vật tư tồn kho.
Quản lý sắp xếp kho tàn và đội xe, tiếp nhận cầu cảng hợp lý.
Chịu sự điều hành của Phó Giám đốc kinh doanh. Có nhiệm vụ xây dựng mục
tiêu, chính sách kinh doanh, xây dựng mức giá, phương thức bán hàng và trực tiếp
chỉ đạo thực hiện khi được cấp trên phê duyệt. Đồng thời còn tham mưu về công tác
quản lý, về định hướng đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp.
Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Phó Giám đốc kỹ thuật. Có nhiệm vụ kiểm tra và
theo dõi tình hình vận hành của Nhà máy về kỹ thuật để có kế hoạch sửa chữa, kiểm
tra chất lượng sản phẩm, báo cáo sản xuất, xây dựng các quy chế bảo quản máy
móc, xây dựng các định mức kỹ thuật cho sản xuất.
Hướng dẫn kỹ thuật, giám sát chất lượng sản phẩm. Tính toán định mức tiêu
hao nguyên vật liệu cho từng sản phẩm.
Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Phó Giám đốc Kỹ thuật. Thực hiện nhiệm vụ điều
hành, quản lý sản xuất theo kế hoạch của Nhà máy giao.
1.2. Giới thiệu sản phẩm
Axit sunfuric kỹ thuật sản xuất theo tiêu chuẩn TCVN2718 – 78:
Axit sunfuric là một hóa chất cơ bản dùng nhiều trong các ngành công nghiệp,
nhất là dùng trong sản xuất phân khoáng, các loại muối, các axit khác, các sản phẩm
hữu cơ, chế tạo sơn, bột màu, chất tạo khói, chất nổ…nó còn được dùng trong các
ngành lọc dầu, luyện kim, gia công kim loại, chế tạo sợi nhân tạo, làm chất hút ẩm.
Để sản xuất 1 tấn P 2O5 trong phân lân cần tiêu thụ hết 2.2 – 2.5 tấn axit
sunfuric.
Trong hóa học, axit sunfuric được xem là hỗn hợp của anhydric sunfuric với
nước. Công thức tổng quát: SO3.H2SO4 hay H2SO4.
Trong kỹ thuật thì hỗn hợp theo tỷ lệ bất kỳ của SO 3 với nước đều gọi là Axit
Sunfuric. Trong đó: nSO3 + H2O = H2SO4 + (n – 1)SO3
Nếu tỷ lệ SO3/H2O > 1: gọi là dung dịch của SO3 trong axit sunfuric hay oleum
hay axit sunfuric bốc khối.
Thành phần của dung dịch axit sunfuric được đặc trưng bởi phần trăm khối
lượng của H2SO4 hay SO3 trong hỗn hợp. Tính chất của axit thay đổi rất nhiều theo
nồng độ của H2SO4.
Mono axit: Là một chất lỏng không màu, sánh, khối lượng riêng ở 20 0C là
1.8305g/cm3. Ở 103.70C, áp suất 1atm xảy ra sự kết tinh. Áp suất thường khi nâng
nhiệt độ tới 296.20C axit sunfuric bắt đầu sôi và bị phân hủy thành hỗn hợp đẵng phí
chứa 98.3% H2SO4 và 1.7% H2O, hỗn hợp này sôi ở 336.50C.
Nhiệt độ kết tinh: Tương đối cao nên người ta quy định nghiêm ngặt nồng độ
các loại axit sunfuric và oleum tiêu chuẩn sao cho chúng không bị kết tinh trong quá
trình sản xuất, bảo quản, vận chuyển…
Khi tăng nhiệt độ: Nhiệt độ sôi dung dịch axit tăng, đạt cực đại (336.5 0C) ở
nồng độ 98.3%, sau đó giảm.
Áp suất hơi trên dung dịch axit giảm, đạt cực tiểu ở nồng độ 98.3%, sau đó lại
tăng.
- Nhiệt độ sôi của oleum giảm từ 296.20C (ở 0% SO3 tự do) xuống 44.70C (ở
100% SO3 – tức nhiệt độ sôi của SO3).
- Khối lượng riêng dung dịch axit tăng, đạt cực đại ở 98.3%, sau đó giảm.
- Khối lượng riêng oleum cũng tăng, đạt cực đại ở 62% SO 3 tự do, sau đó
giảm.
Chất thải: Khí SO2 thoát ra ở một số mặt bích hay ống dẫn khí. Không được để
hàm lượng SO2 trong khí quyển ở khu vực sản xuất quá 10mg/m3.
Khí SO3 thoát ra khỏi thiết bị hay đường ống sẽ kết hợp với nước trong không
khí ẩm tạo thành mù axit. Không được để hàm lượng SO 3 trong không khí ở khu
vực sản xuất quá 1mg/m3.
Axit sunfuric rò tỉ từ một số thiết bị hay đường ống, phải tìm cách khắc phục
chỗ rò rỉ ngay, dùng vôi bột hay mùn cưa để trung hòa khô rồi dùng chổi quét hốt
sạch. Axit sunfuric từ ống gang dàn làm lạnh rò ra làm nước tuần hoàn có tính axit,
phải trung hòa dòng nước bằng vôi đến pH = 7 – 7.5.
Super lân đơn là một hỗn hợp gồm có: các muối của axit photphoric, một
lượng nhỏ axit photphoric tự do và apatit chưa phân hủy.
Công thức hóa học của các thành phần có trong super lân đơn như sau:
- Ca(H2PO4)2.H2O
- H3PO4
- FePO4.2H2O
- AlPO4.H2O
- CaHPO4
- Ca5(PO4)3F
- CaSO4
Super lân đơn là một loại bột tơi, xốp, có màu xám sẫm hoặc xám nhạt, trọng
lượng riêng đổ đống của super lân từ 1,1 - 1,5 tấn/m 3. Hàm lượng các hợp chất phốt
phát chứa trong super lân được tính ra phần trăm anhydrit phốt phát tức là phần
trăm P2O5.
Phần P2O5 trong super lân ở dạng hòa tan trong nước (P 2O5 hòa tan trong
nước) gồm có Ca(H2PO4)2.H2O và H3PO4 tự do.
Các phốt phát sắt, nhôm, CaHPO4, không hòa tan trong nước mà chỉ hòa tan
một phần hoặc hoàn toàn trong dung dịch citrat amon, cây cối cũng có thể hấp thụ
được nhưng chậm gọi là P2O5 hòa tan trong citrat.
Chất lượng của super lân được đánh giá theo hàm lượng P 2O5 hữu hiệu (dạng
P2O5 mà cây có thể hấp thu được) là tổng các dạng P 2O5 hòa tan trong nước và hòa
tan trong citrat amon, ngoài ra trong super lân còn chứa một phần P 2O5 không hòa
tan trong citrat nằm trong lượng apatit chưa được phân hủy.
Tổng các dạng P2O5 hữu hiệu và P2O5 không hòa tan trong citrat được gọi là
P2O5 tổng.
Tỷ lệ phần trăm của P2O5 hữu hiệu đối với P2O5 chung biểu thị mức độ phân
hủy apatit bởi axit sunfuric gọi là hệ số phân hủy (K).
* Ứng dụng:
Super lân đơn được sử dụng chính là để làm phân bón có chứa phốt phát,
photpho chứa trong super lân ở thể dinh dưỡng làm tăng lượng bột ở các loài cây có
củ, có hạt, tăng lượng đường ở các loài cây có quả, làm cho cây cứng cáp, chống
được sâu bệnh. Nói chung là làm cho cây trồng phát triển khỏe mạnh, cho năng suất
thu hoạch cao đối với các loại cây nông nghiệp và công nghiệp.
Ngoài ra super lân đơn còn dùng để sản xuất các loại phân bón hỗn hợp NPK.
Super lân đơn sản xuất tại công ty Super Phốt Phát Long Thành bằng apatit
Lào Cai theo tiêu chuẩn nhà nước TCVN 4440-2004 phải đạt tiêu chuẩn kỹ thuật
sau:
Super lân phải tơi xốp, màu sáng xám, không bị vón cục, không nhão bét.
Super lân đơn sản xuất theo tiêu chuẩn thử nghiệm TCVN 4440-2004.
Theo thông tư 36/2010/TT-BNNPTNT ngày 24/6/2010 Super lân đơn sản xuất
tại nhà máy Super Phốt Phát Long Thành thuộc danh mục phải công bố hợp qui (về
axit tự do).
Anhydric sunfuro SO2: Ở nhiệt độ thường là chất khí không màu, có mùi sốc
đặc trưng, kích thích mạnh mắt và cơ quan hô hấp. Khí SO 2 dễ hóa lỏng, ở áp suất
thường nhiệt độ hóa lỏng là 10.10C. SO2 tan nhiều trong nước, trong axit (kém hơi
nước). Khi tăng nồng độ dung dịch axit, đầu tiên độ hòa tan của SO 2 giảm cực tiểu
tại 85% H2SO4, sau đó tăng. Trong phản ứng hóa học SO2 vừa là chất khử vừa là
chất oxy hóa.
Anhydric sunfuric SO3: Ở điều kiện thường là chất khí không màu. Trong
không khí nó phản ứng mạnh với nước tạo nên những giọt nhỏ lơ lửng gọi là mù
axit. Ở 44.750C, khí SO3 biến thành chất lỏng không màu.
SO3 phản ứng mãnh liệt với hơi nước và tỏa nhiều nhiệt:
SO3 là chất oxy hóa có khả năng hút nước mạnh, gây nên hiện tượng Cacbon
hóa động vật.
CHƯƠNG 2: CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT AXIT SUNFURIC
Axit sunfuric là một loại hóa chất đã được biết đến từ lâu trong lịch sử loài
người, từ thế kỉ thứ IX bởi người được coi là đã phát hiện ra chất này-nhà giả kim
thuật Hồi giáo Ibn Zakariya al-Razi (Rhases).
Axit sunfuric được sử dụng rộng rãi trong các ngành khác nhau của nền kinh
tế quốc dân. Nó là sản phẩm quan trọng nhất của ngành công nghiệp hóa học. Công
nghệ sản xuất axit sunfuric, do đó, là phổ biến và rất quan trọng trong nền sản xuất.
- H2SO4 hòa tan SO3 gọi là oleum (20, 25, 30, 35 65% SO3). Thực tế hay
sản xuất oleum vì có thể tạo axit với nồng độ khác nhau.
Hầu như mọi ngành sản xuất hóa học trên thế giới đều trực tiếp hoặc gián tiếp
sử dụng axit sunfuric. Chúng ta có thể bắt gặp axit này trong các ngành sản xuất
phân bón (Supephotphat, amoniphotphat), thuốc trừ sâu,chất giặt rửa tổng hợp, tơ
sợi hoá học, chất dẻo, sơn màu, phẩm nhuộc, dược phẩm, chế biến dầu
mỏ,v,v…..Có thể nói axit sunfuric của một quốc gia là một chỉ số tốt về sức mạnh
công nghiệp của quốc gia đó. Vai trò quan trọng đó được thể hiện rất cụ thể thông
qua tình hình sản xuất axit sunfuric trên thế giới và trong nước.
* Quá trình phát triển:
Từ lâu loài người đã biết đến axit sunfuric, từ thế kỷ X người ta đã điều chế
axit sunfuric bằng cách chưng cất sunfat sắt ở nhiệt độ cao sẽ thu được SO 2 và SO3.
Sau khi làm lạnh hỗn hợp khí SO 2 và SO3 cùng với hơi nước sẽ tạo thành H 2SO4,
nhưng phương pháp này có năng suất thấp, giá thành cao. Đến cuối thế kỷ XV
người ta đốt lưu huỳnh và diêm tiêu có thấm nước để điều chế axit sunfuric cho y
học. Năm 1740 nhà máy sản xuất axit sunfuric được xây dựng ở Anh. Nguyên tắc
sản xuất, đốt lưu huỳnh và muối nitrattrong các bình kim loại sau đó hấp thụ khí
bay ra bằng nước trong bình thuỷ tính. Năm 1796, người ta thay thế bình thuỷ tinh
bằng phương pháp phòng chì. Quá trình sản xuất gián đoạn, oxit nitơ thải ra ngoài
ảnh hưởng đến môi trường. Đầu thế kỷ XIX, bắt đầu đốt lưu huỳnh trong các lò
riêng, còn các oxit nitơ điều trế bằng cách dùng axit sunfuric phân huỷ các muối
nitrat và người ta đặt một số tháp ở trước phòng chì để tách một số oxit nitơ hoà tan
trong một số sản phẩm và đặt một số tháp sau phòng chì để hấp thụ oxit
nitơ bay theo khí thải. Do đó, tăng được năng suất và giảm giá thành sản phẩm.
Đầu thế kỷ XX, người ta dùng tháp đệm thay các phòng chì. Từ đó, phương pháp
tháp được hình thành có năng suất lớn hơn nhiều so với phương pháp phòng
trì. Nhưng phương pháp này chỉ điều chế được axit sunfuric có nồng độ 75% và độ
tinh khiết của sản phẩm không cao. Song song với phương pháp tháp năm 1931
P.Filit (người Anh) đề nghị oxi hoá SO 2 trực tiếp trên xúc tác Pt bằng oxi không
khí. Từ đó hình thành phương pháp tiếp xúc.
Ở nước ta, trong kháng chiến chống Pháp ông Phạm Đình Ái cùng một số
người đã tổ chức sản xuất axit sunfuric quy mô nhỏ theo phương
pháp phòng chì. Năm 1962, xưởng axit sufuric theo phương pháp tiếp xúc đi từ pirit
công suất 40.000 tấn/năm ở Lâm Thao bắt đầu hoạt động. Trong những năm 60 và
70 hai xưởng axit sunfuric theo phương pháp tiếp xúc đi từ S đã được xây dựng
ở Tân Bình và Thủ Đức. Tiếp đó là xưởng axit sunfuric 40.000 tấn/năm của nhà
máy super phốt phát Long Thành. Tới năm 1992, tổng công suất của các xưởng axit
sunfuric ở nước ta là 240.000 tấn/năm. Hiện nay chỉ riêng nhà máy super phốt phát
và hoá chất Lâm Thao cũng có tới ba dây chuyền sản xuất axit sunfuric theo
phương pháp tiếp xúc đi từ S với công suất lên tới 240.000 tấn/năm. Khai thác hết
công suất thiết kế, cải tiến những mắt xích yếu trong dây chuyền công nghệ để đưa
năng suất lên cao thiết kế, giảm tiêu hao vật chất và chi phí quản lí cho một tấn sản
phẩm, đảm bảo chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, cải thiện điều kiện lao
động và môi trường là những yêu cầu cần thiết đối với những người quản lí vận
hành các dây chuyền sản xuất axit sunfuric ở nước ta hiện nay. Những nhiệm vụ
sáng tạo trên đòi hỏi phải nắm vững bản chất các lí thuyết và những thành tựu mới
nhất của công nghệ, thiết bị sản xuất axit sunfuric.
2.1.1.2. Tình hình sản xuất axit sunfuric trên thế giới
Bởi những đặc tính quan trọng của axit sunfuric và nhu cầu lớn của nền sản
xuất công nghiệp hóa học mà sản lượng axit này trên thế giới ngày càng tăng. Dưới
đây là biểu đồ thể hiện sự gia tăng đó:
Hình 2.3. Sản lượng axit sunfuric trên thế giới
Từ đồ thị biểu diễn, ta có thể thấy được sản lượng axit sunfuric từ năm 1900 –
2001 có sự tăng mạnh cũng như sản xuất rất nhiều lên tới hàng trăm triệu tấn, cho
thấy đây là nguồn nguyên liệu quan trọng trong công nghiệp sản xuất.
Trong đó Mỹ được coi là một trong những nước sản xuất axit sunfuric lớn
nhất trên thế giới. Đây là đồ thị về sản lượng axit sunfuric mà Mỹ đã sản xuất ở
những thập niên trước:
Hình 2.3. Sản lượng axit sunfuric và hóa chất cơ bản khác của Mỹ
Theo Vn Express, hiện nay Trung Quốc cũng được coi là nước sản xuất H 2SO4
lớn trên thế giới. ở nước này phương pháp sản xuất đi từ quặng pyrit là chủ yếu.
Theo Hiệp hội axit Trung Quốc năm 2003 Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành đứng
đầu thế giới về sản xuất axit sunfuric với sản lượng 33,7 triệu tấn. Sau đó đến năm
2004 sản lượng đã tăng lên 35 triệu tấn.
Trong những năm 1995- 2005, tiêu thụ axit sunfuric trên thế giới đã tăng 29%
bất chấp viêc giảm 20% trong những năm 1988-1993.Theo đánh giá của các nhà
chuyên môn thì tiêu thụ axit sunfuric trên thế giới sẽ tăng khoảng 2,6% trong giai
đoạn 2005 – 2010 nếu tình hình phát triển kinh tế trên thế giới vẫn ổn định như hiện
nay. Các nước XHCN ở Châu á vẫn là thị trường chính, chiếm khoảng 23% lượng
tiêu thụ trên thế giới, tiếp theo là Mỹ tiêu thụ khoảng 20%. Các nước ở Châu Phi,
Trung và Nam Mỹ, Tây Âu tiêu thụ khoảng 10%. Trong năm 2005, cả thế giới tiêu
thụ hết khoảng 190 triệu tần axit sunfuric tương đương với giá trị là 10 tỉ USD.
Dưới đây là biểu đồ tiêu thụ axit sunfuric trên thế giới trong năm 2005.
Hình 2.3. Biểu đồ tiêu thụ axit sunfuric trên thế giới
2.1.1.3. Tình hình sản xuất axit sunfuric trong nước
Tại Việt Nam axit sunfuric cũng được sản xuất rất rộng rãi để phục vụ cho nền
công ngiệp hóa học nước nhà. Có thể kể đến 3 công ty sản xuất axit sunfuric lớn
trong nước (số liệu lấy từ trang web của Sở khoa học công nghệ Bến Tre), đó là:
Sản xuất H2SO4 đi từ quặng pyrit phối trộn với lưu huỳnh hóa lỏng nhập khẩu.
Chỉ bằng việc thay đổi tỉ lệ phối trộn nguyên liệu kết hợp cải tiến công nghệ đốt lò,
nhà máy đã biến công nghệ cũ của Liên Xô thành dây chuyền sản xuất H 2SO4 chưa
từng có, tận dụng nguồn nguyên liệu pyrit trong nước và giảm triệt để chất thải gây
ô nhiễm. Nhờ đó từ năm 1995 trở lại đây lượng axit sunfuric luôn đạt 360 tấn /ngày,
bụi xỉ bay giảm xuống mức tiêu chuẩn, xỉ thải giảm từ 280 tấn xuống 80 tấn /ngày,
thu hồi được toàn bộ lượng axit phải thải bỏ trước đây. Tại đây H 2SO4 được sản
xuất theo phương pháp tiếp xúc, chất xúc tác để oxi hóa SO 2 thành SO3 là vanađi
oxit.
Hàng năm sản lượng H2SO4 đạt khoảng 80.000 tấn /năm với nguyên liệu là
quặng sulfua sắt, sản xuất theo phương pháp tiếp xúc (chất xúc tác là V 2O5). Theo
báo cáo của công ty Phân bón miền Nam, mặc dù giá lưu huỳnh nguyên liệu tăng
mạnh nhưng để đáp ứng nhu cầu tăng đột biến, Nhà máy Super Phốt Phát Long
Thành thuộc Công ty vẫn đẩy mạnh sản xuất axit sunfuric ngay từ những ngày đầu
năm. Tính đến 25/1/2008 nhà máy đã sản xuất gần 7.000 tấn axit sunfuric, đạt trên
10% kế hoạch cả năm và tăng gấp trên 3 lần so với cùng kỳ năm 2007.
Sản xuất H2SO4 kĩ thuật đi từ nguyên liệu lưu huỳnh theo phương pháp tiếp
xúc. H2SO4 tinh khiết được sản xuất bằng cách chưng cất H 2SO4 kỹ thuật. Ngày
12/6/2008 trang www.vinachem.com.vn đã viết: Theo báo cáo của Ban Kế hoạch -
Kinh doanh Tổng Công ty Hoá chất Việt Nam (TCT HCVN), để đáp ứng đủ axit
cho sản xuất phân lân và nhu cầu thị trường, từ đầu năm đến nay các đơn vị sản xuất
vẫn đảm bảo tốt tiến độ sản xuất axit sunfuric trên cơ sở vận hành thiết bị cao tải,
chuẩn bị đủ nguyên liệu (lưu huỳnh) cho sản xuất.
Trong thời gian qua giá lưu huỳnh đã tăng cao đột biến, lên mức 700-800
USD/tấn đã trực tiếp tác động mạnh đến giá thành sản phẩm axit, điều này làm các
nhà sản xuất gặp rất nhiều khó khăn về vốn, về hạch toán sản xuất, nhất là khi axit
được sử dụng trong sản xuất phân lân, sẽ làm đội giá sản phẩm phân lân trong bối
cảnh phân bón phải thực hiện bình ổn giá theo chỉ đạo chung. Ngoài ra, giá thành
axit cao cũng sẽ ảnh hưởng đến các ngành khác như sản xuất ắc quy chì, sản xuất
phèn nhôm và nhiều sản phẩm khác.
Có 2 phương pháp:
- Phương pháp tiếp xúc: dùng V2O5 hoặc K2O làm xúc tác
- Phương pháp tháp: dùng NO làm xúc tác, xảy ra trong tháp đệm
Phương pháp tiếp xúc cho nồng độ axit cao (98 – 99%), tuy nhiên chi phí cao.
Trong phương pháp tiếp xúc bao gồm: phương pháp tiếp xúc đơn và tiếp xúc kép.
Ngày nay trên thế giới và trong nước sử dụng chủ yếu phương pháp tiếp xúc kép
với xúc tác là V2O5.
Phương pháp tháp chi phí đầu tư đơn giản nhưng nồng độ axit chỉ đạt 70 –
75%. Phương pháp này chỉ được dùng trong trường hợp sản xuất hỗn hợp axit
sunfuric và nitric.
Dù đi từ nguồn nguyên liệu nào thì quá trình sản xuất H 2SO4 cũng tiến hành
theo 4 giai đoạn chính:
- Quặng apatit: Được vận chuyển từ mỏ apatit Lào Cai do Công Ty Apatit Lào
Cai khai thác, vào Nhà máy bằng phương tiện đường sắt đến cảng Hải Phòng sau đó
tiếp tục vận chuyển bằng tàu thủy và đến cảng Nhà máy. Apatit Lào Cai đưa vào sản
xuất là loại apatit nguyên khai, chưa làm giàu, không đồng nhất về kích thước và
phẩm chất, thường chiếm từ 81-90% Floapatit và phân bố không đều. Các tạp chất
nhiều và không ổn định, độ ẩm cũng thường cao thấp bất thường.
- Axit sunfuric: Được sản xuất tại dây chuyền sản xuất axit sunfuric của Nhà
máy. Là một axit mạnh, tác dụng hầu hết được với các kim loại và oxit, tham gia
phản ứng trao đổi và kết hợp với nước, được sử dụng rỗng rãi trong nhiều ngành
công nghiệp do hoạt tính hóa học cao.
- Quặng apatit được vận chuyển từ cảng của Nhà máy về kho chứa của phân
xưởng Supe.
- Do tính chất của quặng nguyên khai có độ ẩm lớn, theo yêu cầu công nghệ,
quặng apatit được đưa vào hệ thống sấy để sấy khô. Hạ độ ẩm từ 13% H 2O xuống
còn < 2%. Sau đó được đưa qua bộ phận nghiền mịn, để nghiền nhỏ tới độ mịn <
0.16mm. Bột apatit mịn được đưa đến bộ phận điều chế. Tại đây bột apatit được đưa
vào thiết bị điều chế, trộn cùng với axit sunfuric với tỷ lệ quy định. Sau thơi gian
phản ứng thích hợi hỗn hợp (Supe tươi) được tháo xuống băng tải và được chuyển
vào kho ủ qua hệ thống băng tải và máy đánh tơi. Tại kho ủ Supe lân tươi được cầu
trục đảo trộn và ủ thành đống, sau thời gian đảo trộn và ủ thích hợp sản phẩm Supe
lân đạt đủ các yêu cầu về tính chất hóa lý, chất lượng được chuyển đến bộ phận
đóng bao để bán cho khách hàng.
Lưu huỳnh được nhập khẩu từ các nước Inđonesia, Singapor. Về đến cảng Nhà
máy và được chuyển vào kho chứa lưu huỳnh của phân xưởng axit. Lưu huỳnh
(dạng tinh thể) được đưa đến thiết bị của bộ phận hóa lỏng, tại đây nhờ hơi nước có
nhiệt độ từ 125oC đến 135oC, áp suất từ 6 – 7kg/cm2, do thiết bị nồi hơi cấp sang cho
bộ phận hóa lỏng. Lưu huỳnh dạng bột bị nóng chảy và dần chuyển thành dạng lỏng
. Lưu huỳnh lỏng sau đó được bơm và phun vào lò (dạng sương mù) nhờ hệ thống
bét phun. Với nhiệt độ quy định tại lò đốt (dạng lò đứng), lưu huỳnh tự bốc cháy
trong lò và dần chuyển hóa hoàn toàn thành dạng khí SO 2. Nhờ hệ thống quạt hút
K201, khí SO2 được hút đến tháp tiếp xúc để thực hiện phản ứng tạo SO 3, tại đây
nhờ có chất xúc tác Vandioxit (V 2O5) khí SO2 chuyển hóa thành khí SO3 và được
đưa đến tháp hấp thụ để tác dụng với nước tạo thành axit sunfuric (H 2SO4). Trong
quá trình hấp thụ axit sunfuric tạo thành có nhiệt độ cao vì vậy người ta phải cho
axit đi qua một hệ thống làm lạnh để hạ nhiệt độ của axit sau đó mới đưa về bồn
chứa.
Kho chứa lưu
Hóa lỏng Lò đốt
huỳnh
Hơi nước
Nồi hơi
Nhà máy Super Phốt Phát Long Thành có 2 dây chuyền sản xuất axit sunfuric
đều sản xuất từ S nguyên tố bằng phương pháp tiếp xúc với công suất 40.000
tấn/năm.
Nguyên liệu: Lưu huỳnh rắn dạng cục hay dạng vẩy, độ tinh khiết 99.9%.
* Lưu huỳnh:
Lưu huỳnh là một loại nguyên liệu được dùng sớm nhất và tốt nhất. Lưu
huỳnh làm đơn giản được quá trình công nghệ, tiết kiệm được kinh phí đầu tư, tiết
kiệm được chi phí nguyên liệu do lưu huỳnh có giá thành không cao.
Khi đốt lưu huỳnh ta thu được hỗn hợp khí có hàm lượng SO 2 và O2 cao. Điều
này rất quan trọng trong quy trình sản xuất axit sunfuric theo phương pháp tiếp xúc.
Lưu huỳnh chứa rất ít tạp chất đặc biệt là asen và khi cháy không tạo xỉ nên
dây chuyền sản xuất được rút ngắn rất nhiều.
Lưu huỳnh chủ yếu được chế tạo từ lưu huỳnh thiên nhiên, có nhiều phương
pháp tách lưu huỳnh ra khỏi quặng: phương pháp tuyển nổi để tách lưu huỳnh: lấy
lưu huỳnh trực tiếp từ mỏ dầu bằng cách dùng nước trực tiếp nấu chảy lưu huỳnh
trong quặng ngay tại các giếng khoan, sau đó dùng không khí để lấy lưu huỳnh lên.
Trong khí thải các ngành công nghiệp luyện kim màu, gia công dầu mỏ, khí
thiên nhiên, khí dầu mỏ… cũng chứa nhiều hợp chất của lưu huỳnh (H 2S, SO2, CO2,
…). Khí CO2, H2S sau khi tách hợp chất có thể sản xuất trực tiếp axit sunfuric hay
sản xuất lưu huỳnh. Nhà máy Super Phốt Phát Long Thành chọn lưu huỳnh nguyên
tố làm nguyên liệu sản xuất axit sunfuric.
Tinh thể lưu huỳnh rất phức tạp. Phụ thuộc vào các điều kiện cụ thể, các thù
hình của lưu huỳnh tạo thành vài cấu trúc tinh thể khác nhau, với các dạng hình
thoi và xiên đơn S8 là các dạng được nghiên cứu kỹ nhất.
Lưu huỳnh có phân tử lượng là 32.06 đvC. Ở nhiệt độ thường lưu huỳnh ở hai
dạng thù hình.
Bảng 1.1. Tính chất của lưu huỳnh
Tính chất Tinh thể hình thoi Tinh thể hình khối
Đặc biệt lưu huỳnh dẫn nhiệt và dẫn điện kém, không hòa tan trong nước. Khi
chảy lỏng thể tích tăng lên 15%. Ở 120 0C, lưu huỳnh là chất lỏng màu vàng, linh
động, độ nhớt thấp. Nếu nhiệt độ tăng lên thì độ nhớt cũng tăng. Ở 160 0C, lưu
huỳnh có màu nâu và ở 1900C có màu nâu rất thẫm và trị số độ nhớt thấp nhất.
Nhưng nếu cứ tăng nhiệt độ tiếp tục độ nhớt của lưu huỳnh lại tăng dần và đến
3000C là độ nhớt thấp nhất và kém linh động, đến 446 0C lưu huỳnh sẽ sôi lên. Ở
điều kiện bình thường lưu huỳnh dạng S 8, S6, S4, S2 khi nhiệt độ tăng cao thì hàm
lượng S2 tăng và màu của hơi lưu huỳnh cũng đổi. Ở gần điểm sôi lưu huỳnh có
màu da cam, ở nhiệt độ cao hơn có màu đỏ, chuyển sang màu ánh sáng ở 650 0C.
Hơi của lưu huỳnh ở màu vàng đỏ ở 900 0C chỉ có dạng S2 nhưng khi hạ nhiệt
độ xuống còn 8000C S2 chuyển thành S6 và S8.
Nhiệt độ bốc cháy của lưu huỳnh là 160 – 260 0C nhưng tốc độ cháy còn nhỏ.
Cần chú ý trong quá trình bốc dỡ lưu huỳnh từ tàu biển lên, tránh va chạm kim loại
dễ làm lưu huỳnh bốc cháy.
Như trên đã nói, dây chuyền sản xuất Nhà máy chọn lưu huỳnh rắn làm
nguyên liệu và phải đảm bảo các tạp chất có trong lưu huỳnh không vượt quá:
- Hàm lượng bitum không quá 0.2%. Nếu hàm lượng bitum vượt quá 0.2% khi
cháy trong lò đốt lưu huỳnh tạo thành CO2 và H2O, khi ở nhiệt độ 2700C hơi
nước sẽ kết hợp với SO3, tạo thành mù axit ở tháp hấp thụ gây ô nhiễm môi trường.
* Không khí:
Không khí chứa 21% oxy và 79% nitơ. Oxy dùng trong oxy hóa lưu huỳnh (S)
thành SO2 và oxy hóa SO2 thành SO3 với sự có mặt của xúc tác V 2O5. Không khí
phải được lọc sạch bụi ở tháp sấy bằng axit sunfuric đến độ ẩm chỉ còn nhỏ hơn
0.01% hay 0.08g/m3 khí, nếu vượt quá độ ẩm này sẽ sinh ra nhiều mù axit ở thấp
hấp thụ.
Không khí được sấy khô và tách dầu có áp suất 56kg/m 3 cung cấp cho các van
điều chỉnh tự động của bộ phận máy do kiểm tra.
Không khí nén được lấy từ máy nén bên xưởng super phốt phát đưa sang. Sau
khi tách dầu và sấy khô sẽ chứa trong thùng chứa không khí nén, cấp dầu cho bộ
phận máy đo kiểm tra.
* Nước:
Nước làm lạnh axit là nước tuần hoàn tưới cho các dàn làm lạnh axit. Yêu cầu
nước tuần hoàn phải có độ pH = 7 – 7.5; nhiệt độ cao nhất là 350C.
Nước lọc sạch dùng để pha vào axit monohydrat ở thùng tuần hoàn và pha
loãng axit xuống 76%.
Nước mềm cung cấp cho nồi hơi: được chế biến tại xưởng axit xong được
bơm lên thùng chứa, ở đây chúng được khử khí rồi bơm đến nồi hơi.
Nước ngưng: xả ra từ nồi hơi và lò nấu chảy lưu huỳnh được dẫn về thùng
chứa để sử dụng lại.
Hơi nước bão hòa dùng để nấu chảy lưu huỳnh.
* Dầu DO:
Dùng để khởi động xưởng, mỗi lần khởi động dùng hết 6 – 8 m3.
Nhìn chung lưu huỳnh vẫn là loại nguyên liệu mang đến hiệu quả sản xuất cao
nhất và đơn giản được quy trình công nghệ.
Pyrit thông dụng: Thành phần chủ yếu là FeS 2, hàm lượng lưu huỳnh là
53.44% và sắt là 46.56%. Là một khoáng vật màu xám, khối lượng đổ đống khoảng
2200 – 2400 kg/m3, trong có lẫn nhiều tạp chất như: hợp chất của Cu, Zn, Ag, Se,
Si, các muối cacbonat, sunfat canxi,… Vì vậy hàm lượng lưu huỳnh trong quặng
khoảng 30 – 52%.
Có thể khai thác quặng ở Giáp Lai – Vĩnh Phú với hàm lượng thấp 20 – 30%
S, trữ lượng không lớn lắm.
Pyrit từ tính: Loại này gần giống với loại pyrit thông dụng, thường gặp là
Fe7S8 gọi là Pyrotin. Hàm lượng lưu huỳnh thấp nên kỹ thuật đốt lò cũng hơi khác
với loại quặng thông dụng.
Pyrit tuyển nổi: Là loại quặng thu được trong quá trình làm giàu quặng theo
phương pháp tuyển nổi. Cứ tuyển 100 tấn quặng thu được 80 – 85 tấn pyrit loại này.
Nhưng loại này có kích thước rất nhỏ và độ ẩm khá lớn nên gây khó khăn cho quá
trình vận chuyển và đốt. Vì vậy trước khi sử dụng phải làm giảm hàm ẩm xuống.
* Muối sunfat:
Là nguồn nguyên liệu phong phú để sản xuất axit sunfuric, dùng nhiều nhất là
CaSO4. Tuy nhiên khi dùng nguồn nguyên liệu này để sản xuất thì tiêu tốn vốn đầu
tư cơ bản nên thường kết hợp với quá trình sản xuất xi măng. Bình quân cứ sản xuất
được 1 tấn xi măng thì tương ứng sản xuất được 1 tấn axit sunfuric.
* Hydro sunfua:
Phương pháp dùng H2S trực tiếp sản xuất ra axit sunfuric gọi là phương pháp
tiếp xúc ướt, khác với phương pháp tiếp xúc khô ở chỗ hỗn hợp khí đưa vào thiết bị
oxy hóa có cả hơi nước.
Khí H2S được lấy từ dầu mỏ hay trong khí luyện than cốc. Thu hồi lượng H 2S
này không những có ý nghĩa kinh tế mà còn đảm bảo vệ sinh công nghiệp.
Khí lò trong quá trình đốt cháy kim loại màu như: quặng đồng, kẽm, thiếc,
…có chứa nhiều SO2. Đây là nguồn nguyên liệu rẻ tiền để sản xuất axit sunfuric.
Ngoài ra việc thu hồi SO 2 trong khí lò còn tăng cường bảo vệ sức khỏe cho công
nhân và người dân xung quanh nhà máy.
- Khói lò:
Khi đốt than trong lò của các nồi hơi, lưu huỳnh và các hợp chất của nó có
trong than sẽ chuyển thành SO2. Đây là nguồn nguyên liệu đáng kể để sản xuất axit
sunfuric từ SO2 nghèo.
Sau khi dùng axit sunfuric làm tác nhân hút nước, tinh chế dầu mỏ, sunfo
hóa các hợp chất hữu cơ,…sẽ thu được chất thải chứa 20 – 50% H 2SO4. Trong công
nghệ gia công kim loại, chế tạo máy và khi sản xuất TiO 2 cũng có nhiều H2SO4
trong chất thải.
- Tách các hợp chất rồi cô đặc thu hồi axit sunfuric.
- Phân hủy nhiệt thu hồi khí SO2 sản xuất axit sunfuric.
- Sử dụng trực tiếp vào những việc không cần axit sạch.
2.2.3. Đặc điểm công nghệ chung cho sản xuất axit
- Ngăn 1: Hóa lỏng lưu huỳnh bằng hệ thống ống lồng ống, hơi nước bão hòa
đi trong ống, gia nhiệt cho lưu huỳnh rắn đi bên ngoài.
- Ngăn 2: Lưu huỳnh lỏng được dẫn sang bể lắng để xảy ra quá trình lắng tự
nhiên, các hạt bụi thô được lắng dưới tác dụng của trọng lực.
- Ngăn 3: Lưu huỳnh lỏng sau khi được lắng tự nhiên sẽ chảy tràn sang ngăn
này. Quá trình này được xem tương đương một quá trình lọc nhằm tách thêm một
phần bụi mịn từ quá trình hóa lỏng quặng.
Lưu huỳnh rắn sau khi hóa lỏng sẽ được bơm răng khía bơm qua béc phun đi
vào lò đốt. Trên đường ống dẫn lưu huỳnh lỏng từ ngăn 3 đến lò đốt vẫn sử dụng hệ
thống ống lồng ống để duy trì nhiệt độ của lưu huỳnh tránh lưu huỳnh bị giảm nhiệt
độ gây tắc ống. Đường ống dẫn lưu huỳnh đến lò đốt được đặt nghiêng một góc 45 0
nhằm tránh việc ngừng máy hay ngừng hệ thống khi đại tu, sửa chữa hay khi có sự
cố xảy ra lưu huỳnh lỏng tự chảy về ngăn 3 do trọng lực. Tránh tình trạng tắc ống
khi lưu huỳnh nguội đóng rắn.
Đây là phản ứng tỏa nhiệt, giảm thể tích do đó để tăng lượng SO 2 tạo ra ta có
thể:
Tuy nhiên, nếu tăng quá nhiều oxy thì nồng độ SO2 sẽ giảm do hỗn hợp ra lò
đốt còn quá nhiều không khí.
Ta phải duy trì nhiệt độ lưu huỳnh nóng chảy ở 140 0C vì ở nhiệt độ này lưu
huỳnh có độ nhớt thấp. Để tránh đóng rắn lưu huỳnh (t0 = 119,30C) làm tắc ống béc
phun ta phải gia nhiệt cho lưu huỳnh bằng hơi nước. Để tránh tạo mù Axit ở các
công đoạn sau ta phải sấy khô không khí trước khi đưa vào lò đốt. Lượng hơi nước
trong không khí khô không quá 0,01% thể tích.
Có thể xảy ra hiện tượng lưu huỳnh thăng hoa do lưu huỳnh chưa cháy hết, khi
làm nguội khí chứa lưu huỳnh thì lưu huỳnh sẽ đóng rắn lại gây tắc thiết bị hay ống
dẫn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do thiếu không khí hay do nhiệt độ
cháy quá thấp và thường xảy ra khi khởi động hay dừng xưởng. Để tránh tình trạng
đó người ta thường tiến hành đốt dầu DO trước khi phun lưu huỳnh vào đốt, nhằm
sấy hệ thống tạo độ đồng đều trong hệ thống đồng thời chống sự nóng cục bộ khi
đốt nóng lưu huỳnh (do lưu huỳnh cháy tỏa nhiệt rất mạnh). Nếu khi đốt lưu huỳnh
có màu vàng sáng thì lưu huỳnh cháy hoàn toàn còn có màu da cam tối hay nâu là
lưu huỳnh chưa cháy hết.
Tháp này được gọi là tháp tiếp xúc, khí SO2 sau khi đã lọc bụi và các tạp chất
có hại cho xúc tác sẽ cùng với không khí đi qua xúc tác và được oxy hóa thành SO 3.
Quá trình này là quá trình tỏa nhiệt (thay đổi theo nhiệt độ) và giảm thể tích
làm tăng áp suất và giảm nhiệt độ dẫn đến mức chuyển hóa cân bằng tăng.
Trong điều kiện sản xuất, tốc độ oxy hóa có ý nghĩa rất lớn vì nó quyết định
lượng SO2 oxy hóa trong một đơn vị thời gian trên một đơn vị thể tích xúc tác,
quyết định được lượng xúc tác cần dùng, kích thước tháp chuyển hóa, các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật khác,…
Trong đó:
- ko: hệ số thực nghiệm đặc trưng cho xúc tác, không phụ thuộc nhiệt độ.
- E: năng lượng hoạt hóa, J/mol
- E/RT: biểu thị phần phân tử có năng lượng ≥ E ↔ phần va chạm có hiệu quả
dẫn đến việc tạo thành phân tử SO3.
Khi tăng nhiệt độ và giảm năng lượng hoạt hóa thì hằng số tốc độ tăng.
Trong hệ thống đồng thể không xúc tác: Phản ứng này có E rất lớn
(≈120kJ/mol) do đó tốc độ phản ứng vô cùng chậm có thể xem phản ứng không xảy
ra ở nhiệt độ cao. Vì khi đó cần có một năng lượng rất lớn để có thể phá vỡ những
liên kết giữa các nguyên tử O2 trong phân tử, sau khi nguyên tử O2 mới tham gia
phản ứng với SO2:
Là quá trình tách SO3 ra khỏi hỗn hợp khí và chuyển thành H 2SO4. Tùy theo
hỗn hợp khí có chứa hơi nước hay không mà quá trình tách là khác nhau. Nếu hỗn
hợp khí trước khi vào tháp tiếp xúc đã được sấy khô thì quá trình tách là quá trình
hấp thụ còn nếu hỗn hợp khí đi thẳng vào tháp tiếp xúc mà không sấy thì quá trình
tách là quá trình ngưng tụ H2SO4 (thường dùng axit < 95%). Trường hợp hấp thụ
thường xảy ra hơn.
Đầu tiên SO3 hòa tan vào dung dịch axit và sau đó phản ứng với nước:
Tùy theo tỷ lệ giữa SO3 và H2O mà nồng độ axit thu được sẽ khác nhau.
Thường người ta có xu hướng sản xuất ở dạng oleum hơn (dễ bảo quản, vận
chuyển).
Trong tháp đệm, quá trình hấp thụ được thực hiện trên bề mặt đệm, bề mặt
đệm càng lớn → đường kính tháp sấy càng lớn → tăng vốn đầu tư.
Khi vận chuyển khí trong tháp tăng → tăng cường độ hấp thụ. Nhưng khi vận
tốc khí cao → cuốn theo nhiều tia bắn và sức cản cơ học của thép tấm tăng.
Khi tăng nồng độ axit, hệ số hấp thụ tăng và áp suất hơi bão hòa trên axit giảm
→ tăng lực hấp thụ → bề mặt đệm giảm nhiều. Khi nồng độ axit bằng 93% thì bề
mặt đệm giảm nhiều, khi tăng nồng độ axit thì bề mặt đệm giảm đáng kể. Để giảm
lượng SO3 bị mất và bảo vệ môi trường thì hiệu suất chuyển hóa SO3, gần như hoàn
toàn. Quá trình hấp thụ SO3 xảy ra tốt nhất là ở nhiệt độ thấp và khi nồng độ axit là
98.3%. Khi đó cả tốc độ hấp thụ và hiệu suất hấp thụ đều đạt giá trị cực đại.
Đối với axit nồng độ nhỏ hơn 98.3% tỷ lệ hơi nước và axit trong hơi bão hòa
nhiều hơn trong pha lỏng. Khi tưới axit này lên hỗn hợp khí SO 3 thì đồng thời quá
trình hấp thụ khí SO3 trong pha lỏng còn có quá trình tạo hơi H 2SO4 trong pha khí
do SO3 tác dụng với nước. Nồng độ axit tưới càng nhỏ, áp suất riêng phần của hơi
nước càng lớn → hơi axit tạo thành càng nhiều và khi quá trình bão hòa S > S tới hạn
sẽ xảy ra hiện tượng tạo mù (mù trong tháp). Vì tốc độ hấp thụ mù rất nhỏ nên đa số
mù bị khí thải kéo ra ngoài → hiệu suất hấp thụ SO3 giảm và tổn thất SO3 tăng.
Nhiệt độ càng cao → lượng hơi nước bay hơi từ dung dịch axit càng nhiều →
tốc độ tạo mù càng lớn → tốc độ, hiệu suất hấp thụ giảm.
Nếu dùng dung dịch axit lớn hơn 98.3%, hơi trên đó có cả SO 3. Nồng độ axit
càng lớn thì áp suất riêng phần của SO 3 lớn → động lực hấp thụ, tốc độ hấp thụ
giảm. Mà khi áp suất riêng phần của SO 3 sau khi hấp thụ tăng làm tổn thất SO 3 theo
khí thải tăng và hiệu suất hấp thụ giảm. Khi đó SO 3 ra ngoài theo khí thải sẽ kết hợp
với hơi nước trong không khí và tạo mù (mù ngoài ống khí thải).
Nhiệt độ càng cao thì áp suất riêng phần càng lớn → hiệu suất và tốc độ càng
nhỏ. Khi nhiệt độ axit tăng, độ hấp thụ axit giảm mạnh đến một nhiệt độ xác định
nào đó sẽ đạt trạng thái bão hòa. Do khi nhiệt độ tăng thì áp suất hơi nước trên bề
mặt axit tăng, nhiệt độ tới hạn, lượng hơi nước đủ để kết hợp với toàn bộ SO 3 trong
khí tạo mù.
Vậy khi nồng độ axit nhỏ hơn 98.3%, tổn thất SO 3 chủ yếu do tạo thành mù
axit. Khi nồng độ axit lớn hơn 98.3%, tổn thất SO 3 chủ yếu do hấp thụ không hoàn
toàn SO3, nồng độ axit tưới tối ưu 98.3%.
Quá trình ngưng tụ có thể xảy ra do trên bề mặt chất lỏng có áp suất hơi bão
hòa nhỏ hơn áp suất trong pha khí ↔ ngưng tụ trên thành thiết bị hoặc trên màng
chất lỏng.
Trong một thể tích, tức trên các trung tâm có sẵn trong hỗn hợp khí hoặc tự tạo
nên trong đó. Khi đó hình thành các giọt chất lỏng nhỏ lơ lửng trong không khí ↔
ngưng tụ trên bề mặt các trung tâm ngưng tụ có trong hỗn hợp khí.
Điều kiện cần thiết để ngưng tụ hơi axit trong một thể tích và tạo mù là phải có
hơi quá bão hòa ↔ phải làm nguội hỗn hợp khí hoặc làm tăng áp suất hơi trong pha
khí.
Quá trình làm nguội khí tạo hơi bão hòa do: dãn nở đoạn nhiệt, bổ sung khí
nguội (trơ) vào hỗn hợp khí, cho hỗn hợp khí tiếp xúc với bề mặt nguội hơn.
Quá trình tăng áp tạo hơi quá bão hòa do: có phản ứng hóa học giữa các chất
khí khi hỗn hợp hai dòng khí, có tác động kích thích do phản ứng giữa các chất
trong pha khí (khi chiếu xạ, phóng xạ…).
* Ngưng tụ dị thể:
Là quá trình tạo mù do ngưng tụ hơi trên bề mặt tác nhân ngưng tụ (các chất)
hay các ion khí. Gồm 2 giai đoạn: tạo hơi quá bão hòa và ngưng tụ hơi tác nhân
ngưng tụ hay trên ion khí rồi lớn dần tạo mù.
- Nếu độ bão hòa của hơi trong hỗn hợp khí nhỏ hơn độ bão hòa của hơi trong
giọt chất lỏng thì bề mặt giọt alfm cho đường kính giọt giảm.
- Nếu các giọt có tích điện: áp suất hơi bão hòa trên các giọt đó và độ bão hòa
của hơi trên các giọt đó sẽ nhỏ hơn các giọt không tích điện cùng kích thước.
Nếu nhân ngưng tụ là các ion khí và các hạt rắn: cơ chế ngưng tụ, nhưng độ
quá bão hòa thay đổi do áp suất hơi bão hòa khi đó còn phụ thuộc vào bản chất và
hình dạng hạt.
Là quá trình tạo mù do ngưng tụ hơi trên mầm ngưng tụ tự tạo. Gồm 3 giai
đoạn:
- Tạo mầm, độ quá bão hòa càng lớn tốc độ tạo mầm càng lớn.
- Ngưng tụ hơi trên bề mặt mầm rồi lớn dần thành mù. Khi tạo mù áp suất hơi
giảm (do ngưng tụ), áp suất hơi bão hòa tăng (do tỏa nhiệt làm nhiệt độ tăng) dẫn
đến độ quá bão hoà của hơi giảm.
Tóm lại, cơ chế ngưng tụ dị thể cũng tương tự ngưng tụ đồng thể nhưng việc
tạo giọt lỏng bắt đầu ở độ quá bão hòa nhỏ hơn. Do đó chỉ cần độ quá bão hòa lớn
hơn áp suất cân bằng của hơi nước trên các nhân ngưng tụ lơ lửng không khí.
Quá trình ngưng tụ hơi trong thể tích (tạo mù) bắt đầu ở độ quá bão hòa nhất
định gọi là độ bão hòa tới hạn.
Quá trình tạo hơi thành mù khi độ quá bão hòa của hơi bằng độ quá bão hòa
tới hạn.
Tùy thuộc tỷ lệ giữa độ quá bão hòa và số nhân ngưng tụ rất lớn vì độ quá bão
hòa của hơi trong không khí nhỏ hơn độ quá bão hòa tới hạn nên không tạo mầm
ngưng tụ.
Nếu tốc độ khuếch tán hơi tới bề mặt nhân ngưng tụ nhỏ thì độ quá bão hòa
của hơi ở xa nhân có thể bằng độ quá bão hòa tới hạn nên tạo mầm và ngưng tụ hơi
đồng thể.
Mù phân tán cao sinh ra trong tháp rửa thứ nhất, thiết bị trao đổi nhiệt, tháp
sấy, thiết bị làm nguội SO3, tháp oleum và tháp monohydate.
Phương pháp lọc mù: lọc cơ học (bằng bông thủy tinh) và lọc điện.
Hai dây chuyền này không lọc mù khí lò trước khi đi vào tháp hấp thụ.
- Dây chuyền 1: sử dụng dòng axit sunfuric tưới dòng khí trước khi đi vào
tháp hấp thụ.
- Dây chuyền 2: khí được cho đi qua chất hấp thụ xốp, ở đây sử dụng nền khử
mù, lọc mù theo nguyên tắc hấp thụ các tạp chất vào các sợi bông thủy tinh trước
khi dòng khí đi vào tháp hấp thụ.
* Theo lý thuyết:
Đối với dây chuyền 1: Khi tăng nhiệt độ axit tưới thì áp suất hơi bão hòa của
hơi axit sunfuric tăng nhưng hàm lượng mù axit giảm. Ở 139 0C hàm lượng axit
trong khí đi ra khỏi tháp là thấp nhất. nếu tiếp tục tăng nhiệt độ axit tưới thì hàm
lượng H2SO4 trong khí ra tăng vì áp suất hơi bão hòa của H 2SO4 tăng. Tóm lại, khi
tăng nhiệt độ axit rửa (còn gọi là chế độ rửa nóng) có thể tách hoàn toàn các tạp
chất SeO2 và As2O3 ở dạng hòa tan trong axit rửa mà không tạo mù.
Đối với dây chuyền axit 2: Khí lò sau khi qua chất hấp thụ, nhiệt độ còn quá
cao (350 – 4000C).
Hỗn hợp khí từ tháp tăng ẩm ra thực tế là bão hòa hơi nước nhiệt độ càng cao
thì hàm lượng hơi nước trong không khí càng lớn.
Ở điều kiện làm việc bình thường thì hơi nước không ảnh hưởng gì đến xúc
tác V2O5 nhưng nó có thể gây nên hiện tượng ngưng tụ hơi axit ở thiết bị truyền
nhiệt (công đoạn tiếp xúc) hoặc ở thiết bị làm nguội và tạo mù axit ở công đoạn hấp
thụ, …vậy sấy khô hỗn hợp khí trước khi đưa sang công đoạn tiếp theo. Hiện nay để
sấy khô hỗn hợp khí người ta thường dùng dung dịch axit sunfuric đậm đặc để hấp
thu lượng nước. Hàm lượng hơi nước trong hỗn hợp khí khi ra khỏi tháp sấy không
được lớn hơn 0.01% V (0.08 g/m3 khí).
Thực tế nhà máy cũng tiến hành sấy khô không khí trước khi đưa vào lò đốt và
quá trình sấy khí này ở hai dây chuyền là khác nhau. Ở dây chuyền 1 người ta sử
dụng axit H2SO4 khoảng 94 – 95% để sấy khí, còn dây chuyền 2 sử dụng H 2SO4
98.3% để sấy và sử dụng các thiết bị trao đổi nhiệt làm khô không khí trước khi đưa
vào lò đốt.
Theo lý thuyết, khi tăng nồng độ axit tưới, hằng số hấp thụ tăng, mặt khác áp
suất hơi nước bão hòa trên axit giảm làm động lực hấp thụ tăng dẫn đến nồng độ
axit càng tăng thì bề mặt đệm trong tháp sấy càng nhỏ. Nhưng theo tính toán, nếu
tăng nồng độ axit tưới thì bề mặt đệm giảm rất ít, trong khi đó axit bổ sung từ tháp
hấp thụ monohydrate sang tháp sấy sẽ tăng lên rất nhiều gây tăng tổn thất SO 2 theo
axit tưới và tăng thêm điện năng bơm.
Thực tế, dây chuyền 1, nhà máy không bổ sung axit tưới trực tiếp từ tháp hấp
thụ monohydrate mà dùng 2 bể chứa axit có nồng độ riêng biệt: một chứa axit thành
phẩm 98.3%, một chứa axit sấy khoảng 94 – 95% và có một đường ống để trích một
phần axit thành phẩm để bổ sung cho bể chứa axit sấy để tăng nồng độ axit có nồng
độ nhỏ hơn 92% chảy về tháp sấy. Nên khi đó nếu tăng nồng độ axit tưới thì sẽ tiêu
tốn điện năng cho bơm.
2.2.4. Các chất xúc tác cho quá trình oxy hóa SO2
Khả năng hoạt tính giảm: Pt > Rh > Ir >Pd, hay các hợp kim của vàng, bạc với
Pt, molypden, …
Pt là xúc tác hay được sử dụng vì:
- Nhược điểm: Dễ bị ngộ độc, nhất là khi có mặt As giá thành cao.
- Để tăng hoạt tính của xúc tác và giảm giá thành, cho Pt rải đều trên các chất
mang khác: amiang, silicagel,…
Oxyt sắt: Rẻ tiền, dễ kiếm, có nhiệt độ hoạt tính cao, ít nhạy đối với các tạp
chất có trong khí lò. Nhưng ở nhiệt độ nhỏ hơn 625 0C, nó dễ bị chuyển thành sunfat
sắt kém hoạt chất nên mức chuyển hóa trên xúc tác này là < 0.5.
Crom oxyt: Có hoạt tính ban đầu tương đối cao, nhưng sau một thời gian làm
việc bị chuyển thành dạng crom sunfat nên hoạt tính giảm. các hợp chất của kim
loại kiềm thì có hoạt tính cao, trong đó SiO 2 chiếm phần chủ yếu trong xúc tác và
quyết định cấu trúc bên trong.
Oxyt đồng, mangan, thiếc, titan, có nhiệt độ hoạt tính cao (khoảng 7000C).
Oxyt vanadi: Dạng nguyên chất có hoạt tính không cao nhưng khi có thêm các
chất phụ gia khác như SO2 (ở dạng tự do hay liên kết), các hợp chất của kim loại
kiềm thì có hoạt tính cao, trong đó SiO2 chiếm phần chủ yếu trong xúc tác và quyết
định cấu trúc bên trong của xúc tác nên quyết định hoạt tính xúc tác.
- Muối kim loại kiềm (K, Na, Rb, Li, Cs) là chất kích động làm tăng hoạt tính
xúc tác lên hàng trăm lần. Tỷ lệ kim loại kiềm và vanadi dao động trong phạm vi
khá rộng từ 1:1 đến 6:1. Khi tăng tỷ lệ này, nhiệt độ hoạt tính của xúc tác giảm và
độ bền nhiệt tăng. Ngoài ra các nguyên tố nhóm Lantan cũng là chất kích động cho
xúc tác.
- SiO2: ở dạng xốp (như đá diatomit, silicagel,…) là chất đóng vai trò là chất
mang.
Ngoài ra người ta còn tìm cách đưa tất cả các nguyên tố trong bảng hệ thống
tuần hoàn vào xúc tác vanadi nhằm tăng hoạt tính, độ bền cơ, độ bền nhiệt,…của
xúc tác.
Xúc tác V2O5 có hoạt tính thấp hơn Pt nhưng giá thành rẻ hơn rất nhiều (2 – 4
lần).
- Nhả SO3.
Bằng nghiên cứu quang phổ hồng ngoại, người ta xác định được trong chất
xúc tác vanadi oxyt phụ gia kim loại kiềm, chất mang SiO 2 có hình thái các hợp
chất kali sunfovanadat V2O5.K2O.SO3 (V2O5.K2SO4) hay kali pyrosunfonavadat
V2O5.K2O.2SO3 (V2O5.K2S2O7). Đây là các hợp chất có trong xúc tác vanidi oxyt
phụ gia kim loại kiềm.
Ở nhiệt độ làm việc của quá trình (3800C) các hợp chất này ở dạng nóng chảy
trên bề mặt chất mang. Đó là thành phần hoạt tính của xúc tác. O 2, SO2 bị hấp thụ
trên bề mặt xúc tác và hòa tan vào chất nóng chảy đó:
V2O4 + ½ O2 = V2O5
SiO2 đóng vai trò là chất mang, có tác dụng làm bề mặt pha của chất xúc tác
và ổn định hoạt tính của chất xúc tác.
Giai doạn đầu của quá trình : Nhiệt độ thấp, SO2 có nồng độ cao.
Giai đoạn cuối: lượng SO2 còn lại ít làm tốc độ phản ứng chậm nên khi thay
đổi thành phần khí có thể làm thay đổi hoạt tính của xúc tác (do chuyển cấu tử hoạt
tính xúc tác sang dạng khác). Nên ở giai đoạn đầu thường người ta tiến hành ở nhiệt
độ cao để tránh tạo VOSO4, đến cuối quá trình có thể hạ thấp nhiệt độ để đạt độ
chuyển hóa cao.
2.2.5.2. Một số chỉ tiêu quan trọng đánh giá hoạt tính của xúc tác
Nhiệt độ đượm cháy: Là nhiệt độ mà hoạt tính của chất xúc tác được phát huy,
chất xúc tác được nóng lên rất mạnh. Nếu nhiệt độ đượm cháy thấp tạo ra khả năng
để tháp tiếp xúc làm việc được với khí có nồng độ cao.
Nhiệt độ đượm cháy phụ thuộc vào chất xúc tác và nồng độ SO 2 trong hỗn hợp
khí. Nồng độ O2 càng cao, nhiệt độ đượm cháy càng thấp và ngược lại.
Nhiệt độ tắt: Là nhiệt độ tối thiểu của khí và lớp xúc tác để duy trì được chế độ
làm việc.
Nhiệt độ tắt nhỏ hơn nhiệt độ đượm cháy do phản ứng oxy hóa SO 2 để tạo
thành SO3 tỏa nhiệt mạnh nên nhiệt độ trên bề mặt xúc tác có thể cao hơn nhiệt độ
khí.
Trong sản xuất nhiệt độ tắt là nhiệt độ tối thiểu của khí và nhiệt độ đượm cháy
là nhiệt độ trên bề mặt xúc tác.
Theo thời gian làm việc, trở lực của lớp xúc tác tăng dần nhất là các lớp đầu và
hoạt tính xúc tác Vanadi oxit giảm dần, sau 3 – 5 năm phải thay một lần toàn bộ xúc
tác, nếu tinh chế tốt và chế độ làm việc trong máy ổn định thì sau 10 – 15 năm mới
thay hoàn toàn.
Khi thay thế, trước khi lấy xúc tác ra, phải thổi khí bằng không khí khô nóng
hơn 4000C, sau khi hết SO3 hạ dần nhiệt độ xuống 30 – 50 0C rồi mở tháp xúc tác ra
để lấy xúc tác. Và khi thay xúc tác thường lấy xúc tác cũ thay vào lớp giữa, còn lớp
đầu và lớp cuối thì thay mới để giữ nhiệt độ hoạt tính lớp đầu thấp và mức chuyển
hóa lớp cuối cao.
Nồng độ SO2: Khi tăng nồng độ SO2 lượng xúc tác cần dùng tăng → tăng
Khi giảm nồng độ SO2 thể tích hỗn hợp tăng → tốc độ khí trong tháp tăng →
tăng trở lực → cần sử dụng SO2 với nồng độ thích hợp.
Nồng độ SO2 thích hợp thu được hỗn hợp khí khi đốt các loại nguyên liệu
khác nhau.
Nhưng trong thực tế thường dùng SO 2 ở nồng độ cao hơn nồng độ thích hợp
(vì khi nồng độ SO2 tăng lên từ 6.5 – 9 % thì năng suất tháp tiếp xúc chỉ thay đổi
5%).
Đường kính xúc tác: Trong quá trình sản xuất, quá trình chuyển chất của dòng
khí đến bề mặt ngoài xúc tác (quá trình xúc tác ngoài) thường không ảnh hưởng đến
tốc độ oxy hóa.
Giai đoạn chậm nhất là quá trình khuyếch tán các chất tham gia phản ứng từ
bề mặt ngoài của hạt xúc tác đến bề mặt trong của nó (các mao quản) → bề mặt
trong của các hạt xúc tác không được sử dụng hoàn toàn, nhất là các lớp đầu.
Hạt xúc tác càng nhỏ thì mức sử dụng bề mặt bên trong của nó càng lớn –
lượng xúc tác càng ít, nhưng trở lực lớp tiếp xúc cáng tăng → tiêu hao năng lượng
vận chuyển càng tăng → cần chọn đường kính thích hợp cho xúc tác để đảm bảo
cho quá trình oxy hóa SO2 xảy ra trong miền trung gian giữa vùng động học và
khuyếch tán.
Nhưng nói chung đường kính thích hợp của lớp xúc tác ở lớp sau thường nhỏ
hơn lớp đầu.
2.2.5.3. Điều kiện oxy hóa SO2 trên xúc tác vanadi oxyt
Trong điều kiện sản xuất, khi áp suất làm việc không đổi và nồng độ ban đầu
của hỗn hợp khi đã được quy định trước, khi tăng nhiệt độ tốc độ phản ứng tăng lên
đến giá trị cực đại rồi giảm dần về không. Nên phải cần xác định nhiệt độ thích hợp
cho tốc độ phản ứng đạt giá trị cực đại.
Nhưng khi mức chuyển hóa SO2 tăng thì nhiệt độ thích hợp giảm. Giai đoạn
cuối của quá trình oxy hóa SO2 phải tiến hành ở nhiệt độ thấp để vừa tăng mức độ
chuyển hóa cân bằng vừa tăng tốc độ phản ứng.
Do quá trình oxy hóa SO2 trong từng lớp xúc tác là quá trình tỏa nhiệt nên
mức chuyển hóa càng lớn thì nhiệt độ sau lớp xúc tác càng cao, đến một lúc nào đó
hệ sẽ đạt trạng thái cân bằng và tốc độ phản ứng bằng không. Do đó phải tiến hành
làm nguội hỗn hợp khí sau mỗi lớp xúc tác.
Ngoài ra, khi dòng khí được sinh ra và được dẫn vào tháp tiếp xúc nhờ hút từ
hệ thống quạt, để tránh dòng khí có tốc độ cao đi trực tiếp vào lớp xúc tác làm vỡ
xúc tác, ở tháp tiếp xúc người ta thiết kế cho dòng khí đi vào đầu tiên sẽ qua một
lớp đá thạch anh khá dày (khoảng 200mm) để giảm vận tốc khí trước khi đi vào lớp
đầu tiên.
Đồng thời ở mỗi lớp xúc tác, phía trên và phía dưới ở mỗi lớp xúc tác đều có
một lớp đá thạch anh mỏng (50mm) để bảo vệ xúc tác. Ngoài ra lớp đá thạch anh
này còn có tác dụng duy trì nhiệt độ cho lớp xúc tác, tránh không cho lớp xúc tác
nguội xuống nhiệt độ quá thấp khi dừng xưởng.
Nếu nhiệt độ xúc tác xuống quá thấp thì khi khởi động lại xưởng, nhiệt độ lớp
xúc tác không đều dẫn đến làm nóng cục bộ trong lớp xúc tác gây phá hủy xúc tác.
Như đã đề cập tốc độ quá trình oxy hóa SO 2 rất quan trọng, khi tăng mức
chuyển hóa sẽ giảm được hàm lượng SO 2 trong khí thải, tăng được mức sử dụng lưu
huỳnh nên giảm được giá thành sản phẩm.
Nhưng để đạt được mức chuyển hóa cao cần kết thúc quá trình oxi hóa ở nhiệt
độ thấp, mà tại điều kiện gần cân bằng hằng số tốc độ giảm rất nhanh nên tốc độ
phản ứng nhỏ.
Mức chuyển hóa càng cao thì thời gian tiếp xúc càng lớn, tức lượng xúc tác
cần dùng càng nhiều nên tăng giá thành sản phẩm.
Theo tính toán khi tăng mức chuyển hóa, đầu tiên giá thành sản phẩm giảm và
đạt cực tiểu tại x = 0.98 và sau đó lại tăng nên về mặt giá thành sản phẩm thì mức
chuyển hóa cuối cùng bằng 0.98 là thích hợp nhất, nhưng về mặt vệ sinh công
nghiệp thì không đảm bảo do trong khí thải có chứa nhiều khí SO2.
Có thể giải quyết mâu thuẫn này bằng cách dùng dung dịch xút hấp thụ hết
lượng SO2 còn lại trước khi đưa ra ngoài trời để tổng hợp natri bisunfat hay dùng
phương pháp tiếp xúc kép.
Đầu tiên khí SO3 hòa tan vào trong axit sunfuric và sau đó phản ứng với nước
có trong axit sunfuric theo phản ứng:
Nếu n lớn hơn 1 ta thu được sản phẩm là oleum, nếu n là 1 thì sản phẩm là
monoaxit, khi n nhỏ hơn 1 thì sản phẩm là axit sunfuric loãng.
Lúc đầu là sự hấp thụ SO3 khí vào pha lỏng, tiếp đó là phản ứng giữa SO 3 lỏng
và nước. Quá trình hấp thụ xảy ra theo 2 giai đoạn, trong đó quá trình khuyếch tán
của SO3 vào lỏng quyết định toàn bộ quá trình, còn tốc độ phản ứng hóa học xảy ra
rất nhanh. Do phản ứng dị thể nếu bề mặt phân chia pha khí và pha lỏng cũng có
ảnh hưởng . Khi bề mặt phân chia pha không đổi, tốc độ khuyếch tán của phân tử
khí SO3 qua lớp màu khí (cố định), bề mặt phân chia, màng lỏng cố định sẽ quyết
định quá trình.
Trong đó:
Trong đó:
- Pk : Áp suất riêng phần của SO3 trong pha khí trước khi hấp thụ (N/m2)
- Pk’: Áp suất riêng phần của SO 3 trong pha khí sau khi đã được hấp thụ
(N/m2).
- PA, PA’: Áp suất riêng phần của SO 3 trên bề mặt axit tưới trước và sau hấp
thụ (N/m2).
Bề mặt tiếp xúc F: Khi tăng F phải tăng kích thước tháp, dẫn tới tăng trở lực
của tháp, do đó tăng chi phí sản xuất. Tăng F bằng cách sử dụng các tháp đệm bên
trong có chứa các vòng đệm (hay các loại đệm khác).
m
k =k 0 . W
Trong đó:
Như vậy để tăng k phải tăng W. nhưng khi W tăng sẽ làm tăng trở lực qua
tháp:
2
W
Δ P 1 =Δ P 2 2
W1
Nhưng khi tăng W cũng dẫn tới tăng năng xuất do tăng tổng lưu lượng khí. Ta
có thể thay đổi chế độ chảy qua tháp của dòng khí thành dạng chảy rối. Ngoài ra để
tăng K có thể K0 trong đó K0 tùy thuộc nồng độ và nhiệt độ axit tưới.
Khi PK = const nếu giảm PA sẽ gây tổn thất ở dạng mù (do axit loãng) dẫn tới
giảm hiệu xuất (mất H2SO4 dạng hơi).
2.2.6.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình hấp thụ
Trong quá trình hấp thụ thì nồng độ và nhiệt độ của axit tưới cũng như nhiệt
độ và nồng độ của pha khí có ảnh hưởng nhiều nhất tới tốc độ cũng như hiệu suất
của quá trình hấp thụ.
Nồng độ: Từ giản đồ ta thấy quá trình hấp thụ SO3 xảy ra tốt ở nhiệt độ thấp
và khi nồng độ axit là 98,3% H2SO4 lúc đó cả tốc độ hấp thụ và hiệu xuất hấp thụ
đều đạt giá trị cực đại.
Điều đó được giải thích là khi nồng độ axit nhỏ hơn 98,3% H 2SO4 thấp đồng
thời với quá trình hấp thụ SO 3 trong pha lỏng còn có quá trình hơi H 2SO4 trên pha
khí do khí SO3 tác dụng với hơi nước.
Nguyên nhân là do trên bề mặt dung dịch axit nếu nồng độ của nó càng nhỏ
thì áp suất hơi riêng phần của hơi nước trên bề mặt axit càng lớn và hơi H 2SO4 tạo
thành càng nhiều.
Trong quá trình hấp thụ thì nồng độ và nhiệt độ của axit tưới cũng như nhiệt
độ và nồng độ của pha khí có ảnh hưởng nhiều nhất tới tốc độ cũng như hiệu suất
của quá trình hấp thụ.
Mặt khác khi áp suất hơi riêng phần của hơi H 2SO4 trong pha khí càng lớn thì
độ quá bão hòa của hơi càng lớn, dẫn tới tạo mù axit có khả năng bị hấp thụ kém,
nên đa số sẽ đi ra theo khí thải.
Khi nồng độ axit lớn hơn 98,3% H 2SO4 thì trên bề mặt của nó có cả hơi SO 3
làm giảm động lực và tốc độ của quá trình hấp thụ. Hay giảm hàm lượng SO 3 trong
khí thải (P’k) và hàm lượng axit sau hấp thụ. Trường hợp cố định hàm lượng axit
tưới trước và sau khi hấp thụ thì chỉ tăng Pk.
Nhiệt độ: Khi tăng nhiệt độ thì lượng hơi nước hay SO 3 trên bề mặt dung dịch
càng lớn và mù axit tạo thành càng nhiều. Do đó làm giảm tốc độ và hiệu suất của
quá trình.
Nhiệt độ tới hạn: Ứng với một giá trị nhiệt độ nào đó mà khi đó động lực quá
trình hấp thụ bằng không (PK ≤ P’A). Hoặc tại đó toàn bộ SO3 phản ứng với pha hơi,
quá trình hấp thụ được coi là nhiệt độ tới hạn. Với mỗi nồng độ H 2SO4 xác định sẽ
có 1 giá trị nhiệt độ tới hạn.
Khi dùng axit H2SO4 85% ở nhiệt độ ≥105oC lúc đó hầu như toàn bộ SO 3 phản
ứng ở pha hơi tạo H2SO4 dạng hơi.
Đối với oleum, nhiệt độ tới hạn chủ yếu là do động lực hấp thụ bằng không.
T0 ↑ =› P0SO3 ↑
Khi dùng oleum 5% SO3 để tưới ở t0 = 76oC áp suất hơi riêng phần SO 3 trên
oleum cân bằng với áp suất hơi riêng phần SO3 trong pha hơi.
Khi xảy ra phản ứng hấp thụ SO3 làm giảm lượng nước trong axit tuần hoàn vì
vậy phải bổ sung 1 lượng nước vào axit tuần hoàn.
Thông thường axit ra khỏi tháp hấp thụ có nồng độ cao hơn axit thương phẩm
(98,5% so với 98,3%). Nên phải pha loãng axit ra khỏi tháp bằng axit loãng hơn
93% từ hệ thống tháp sấy không khí.
2.3. Công nghệ sản xuất axit sunfuric 1
Dưới đây là sơ đồ khối của quy trình công nghệ sản xuất axit sunfuric của
xưởng sản xuất axit số 1:
Dùng xe có gầu xúc 2 tấn chở lưu huỳnh từ kho đổ vào bể hóa lỏng (B201), bể
này gồm 3 ngăn: 1 ngăn hóa lỏng S, 1 ngăn lắng, ngăn thứ 3 cho S lỏng tự chảy
tràn.
Ngăn 1: S được nấu chảy bằng hơi nước bão hòa 7kg/cm 2 hơi nước từ bên
trong các ống xoắn ruột gà, ngưng tụ thành lỏng và cung cấp lượng nhiệt ngưng tụ
này làm hóa lỏng S rắn bên ngoài.
Ngăn 2: S được tách các cặn rắn nhờ trọng lực, sử dụng hơi nước 4.5kg/cm 2, to
= 135 – 1400C, ở nhiệt độ này S có độ nhớt nhỏ nhất để chuẩn bị bơm lên lò đốt S.
Sau bể hóa lỏng: S lỏng được bơm răng khía G - 202 bơm lên phun vào lò đốt
F201. Lò đốt đặt đứng, S lỏng được phun qua becphun từ phía trên đi vào lò đốt ở
dạng sương. Trên đường đi S lỏng được duy trì nhiệt độ bằng ống lồng ống, S lỏng
đi trong ống hơi nước đi ngoài ống nhằm tránh cho S không bị đóng rắn làm tắc
đường ống. Đường ống dẫn S lên lò đốt đặt nghiêng 450 đề phòng trường hợp có sự
cố hay khi ngừng hệ thống để sửa chữa hay đại tu thì S lỏng sẽ chảy ngược lại bể
chứa.
Do trong không khí thường chứa ẩm, lượng ẩm này không gây hại cho xúc tác
nhưng ở nhiệt độ nhỏ hơn 270 0C, lượng ẩm này sẽ kết hợp với SO 3 tạo mù axit
trong tháp gây ăn mòn các thiết bị tận dụng nhiệt.
- Nồng độ 94 – 95%
- To = 4000C.
Sau tháp sấy không khí ra ở 350C, p = 200 (mmH2O) được đưa qua thiết bị
trao đổi nhiệt qua lớp xúc tác 1 để nâng nhiệt độ lên 90 0C rồi đưa vào lò đốt S. S
phun từ trên xuống, không khí đi từ dưới lên. Dòng axit sau khi sấy khô không khí
bị giảm nồng độ và chảy về bể chứa.
Lưu huỳnh lỏng được phun vào đỉnh lò: t 0 = 130 – 1400C, áp suất phun =
4kg/cm2.
Ra khỏi nồi hơi, khi có nhiệt độ 460 – 470 0C, p = 950 mmH2O được dẫn đến
thiết bị lọc khí nóng để tách tiếp bụi mịn. Quá trình qua nồi hơi cũng được tách một
phần bụi.
Ra khỏi thiết bị khí được pha với không khí khô 50 0C để giảm nồng độ SO 2
xuống 9.5% và giảm nhiệt độ xuống 4200C, p = 960 mmH2O rồi vào lớp xúc tác 1.
Ra khỏi lớp 1 dòng khí có nhiệt độ 601 0C vào thiết bị trao đổi nhiệt làm nóng
không khí khô từ tháp sấy, để hạ nhiệt độ xuống rồi vào lớp 2.
- Nhiệt độ ra khỏi lớp 2, 3 được giảm bằng cách trộn trực tiếp bằng dòng
không khí khô bổ sung vào tháp, nhiệt độ ra khỏi lớp 2 là 513 0C, lớp 3 là 4540C.
Sau lớp 3 dòng khí đi qua 2 lớp xúc tác 4A, 4B (lớp 4 được tách thành 2 lớp để tăng
thời gian lưu của dòng SO2 trên bề mặt xúc tác).
Ra khỏi tháp tiếp xúc, hỗn hợp khí 445 0C được đưa qua thiết bị làm nguội SO 3
Hình 2.3. Sơ đồ quy trình công nghệ axit xưởng số 1
bằng nước mềm để hạ nhiệt độ xuống 1800C rồi dẫn vào tháp hấp thụ monohydrate,
còn nước mềm được tăng nhiệt lên 90 0C để cấp cho nồi hơi tận dụng nhiệt thừa sau
lò đốt.
- Dòng khí SO3 ở nhiệt độ t = 1800C, p = 200 mmH2O được dẫn vào tháp hấp
thụ.
- Dòng axit có nồng độ 98,3 ± 0,4%, t0 < 500C được tưới từ trên xuống sẽ hấp
thụ SO3 với mức độ hấp thụ > 99,9%.
Sau khi qua quá trình hấp thụ dòng axit chảy vào bể chứa có nồng độ ≤ 99%,
t0 ≥700C được dẫn vào bể chứa axit thành phẩm. Tại bể chứa này ta trích một phần
axit sang bể chứa axit cho tháp sấy để pha axit cho bể này lên nồng độ 95%, đồng
thời trích một phần bể này sang bể axit thành phẩm để pha loãng bể axit thành phẩm
về nồng độ 98%, nếu lượng axit từ bể sấy trích sang vẫn chưa đủ để giảm nồng độ
bể axit thành phẩm về nồng độ yêu cầu thì ta có thể bổ sung thêm nước từ bên ngoài
cho quá trình pha loãng.
Ra khỏi tháp hấp thụ vẫn còn một hàm lượng nhỏ khí SO 3 ở nhiệt độ 900C, p =
30mmH2O.
Trong nhà máy ngoài bể chứa axit thành phẩm 98,3% còn có một bể chứa axit
76% dùng để cung cấp cho phân xưởng super. Đầu tiên, cho dòng axit 98% (từ dây
chuyền), nhiệt độ 500C vào bể chứa và cung cấp nước mềm để pha axit về nồng độ
76%, t0 = 40 – 500C. Năng suất trộn 50 – 60 tấn/ca.
Cấp nước vào rửa sạch nồi hơi, quan sát nước xả đáy tới khi nước xả sạch,
trong thì đóng kín van xả.
Cấp nước mềm vào nồi hơi tới mức 1/3 ống thủy.
Tháo bích lắp van an toàn, dùng mặt lỗ bích này để đưa hóa chất vào.
Cân 85kg NaOH (100%) hòa tan với 400 lít nước nóng trong thùng phi sạch.
Cân 70kg Na3PO4.12H2O quy về 100% Na3PO4 hòa tan với 300 lít nước nóng
trong thùng phi sạch khuấy mạnh cho tan hết rồi lần lượt rót các hóa chất trên qua
cửa van an toàn. Khi rót xong lắp van an toàn lại.
Tốc độ nâng nhiệt 8 – 100C/h. Sau khi đạt 1000C giữ nhiệt độ này trong 4h sau
đó nâng nhiệt độ này lên 10 – 15 0C/h. Khi áp suất đạt 8kg/cm 2 thì duy trì ở áp suất
này trong 6 giờ, định kỳ 2 giờ xả van đáy 1 lấn trong 5 giây và lấy nước lò đem đi
phân tích độ kiềm. Khi độ kiềm trong nước ổn định thì kết thúc quá trình kiềm hóa,
từ từ hạ áp suất về 0 bằng cách đưa nước về nồi hơi, đồng thời mở van xả cạn cho
đến khi hết cạn nước bên trong thì đóng van xả, kiểm tra hệ thống lần cuối đảm bảo
hệ thống không có vấn đề gì mới cấp nước vào nồi hơi và tiến hành chạy nồi hơi
theo quy định.
Bể hình khối chữ nhật, bằng bê tông cốt sắt có kích thước: Dài 13m, rộng
3.6m, đặt chìm sâu 2.1m dưới mặt đất và nhô lên khỏi mặt đất 0,4m. Bể gồm 3
ngăn:
Ngăn 1: Được xây lót thêm một lớp gạch đỏ để bảo vệ tường vách bê tông.
Bên trong có đặt một hệ thống ống xoắn E - 201A, B, C bằng thép, diện tích truyền
nhiệt 25m2 để dẫn hơi nước bão hòa. Ngoài ra còn có một cánh khuấy U201 (81
vòng/phút) để tăng cường khuấy động cho S chảy lỏng nhanh. Trên vách ngăn có
một lỗ để S lỏng chảy tràn qua ngăn thứ 2.
Ngăn 2: Lớn gấp đôi ngăn 1, xung quanh thành bể có đặt 4 bộ xoắn E -
202A, B, C, D; bề mặt truyền nhiệt 20m 2 dẫn hơi nước bão hòa để duy trì S ở dạng
lỏng. Ngoài ra còn có thêm 2 máy khuấy J - 206A, B (1000 vòng/phút) và 2 bơm S
bẩn. Đây là loại bơm ly tâm, thân và guồng bằng gang để đẩy S bẩn lên thùng trộn
chuẩn bị lọc sạch.
Ngăn 3: Có kích thước bằng ngăn 1 chứa S lỏng sạch chuẩn bị đem đi đốt.
Bên trong có đặt 2 dàn ống xoắn E203A, B; bề mặt truyền nhiệt 10m 2 để duy trì S
lỏng có độ nhớt nhỏ dễ bơm đi.
Các lỗ trên bể được xây kín bằng các tấm đan bằng bê tông để tránh mưa.
Lưu huỳnh được oxy không khí oxy hóa thành SO 2. Nhiệt của phản ứng này
đưa hỗn hợp khí và khối gạch chịu lửa lên nhiệt độ 850 – 1100 0C làm cho toàn bộ S
lỏng biến thành hơi S2. Sự oxy hóa S2 bằng oxy xảy ra hoàn toàn với tốc độ cao.
Lò đốt hình trụ đặt đứng, đường kính 3300 mm, cao 8800 mm, vỏ thép dày 10
mm, trong xây lót 2 lớp gạch chịu lửa chia làm 2 phần:
Phần trên: Là khoảng không gian để phân phối không khí vào lò với lưu lượng
trên 13650 m3/h, nhiệt độ từ 180 – 2000C, áp suất 1500 mm H2O và lưu huỳnh lỏng
130 – 1350C, áp suất phun 4 – 5 kg/cm 2, phun mù trộn lẫn với nhau, tiếp đó là các
lớp gạch chịu lửa xếp theo hình bàn cờ, mục đích làm tăng bề mặt tiếp xúc giữa
không khí với lưu huỳnh. Ở đỉnh bố trí đường ống dẫn khí thải 710X5.
Bên ngoài vỏ lò có bọc một lớp bảo ôn bằng len thủy tinh Banrok dày 100mm,
ngoài cùng bọc một lóp nhôm lá che mưa.
Hình 2.3. Lò đốt lưu huỳnh
Phần dưới: rỗng.
Để đảm bảo thời gian cháy hết lưu huỳnh người ta xây dựng một bức tường
ngăn khí cho khí thải ngoắt ngoéo qua hai cửa và vách ngăn mới ra được khỏi là đi
vào nồi hơi.
Nguyên tắc vận hành: không khí khô ở nhiệt độ 2000C với lưu lượng
13650m3/h được đẩy vào lò đốt F201 cùng với 1673kg/h lưu huỳnh lỏng tinh khiết
qua vòi phun cùng chiều xuống lớp gạch chịu lửa xếp theo bàn cờ. S được oxy
không khí oxy hóa thành SO2 theo phản ứng tỏa nhiệt.
Nhiệt này đưa hỗn hợp khí và khói gạch chịu lửa lên 850 – 1100 0C làm cho
toàn bộ lưu huỳnh lỏng biến thành SO2.
Hàm lượng oxy trong không khí là 21% ta có thể điều chế SO 2 có nồng độ là
21% nhưng khi đó nhiệt độ lò đốt lên đến 1300 0C có thể phá hủy lớp gạch chịu lửa
ở bên trong lò.
Ở đây ta duy trì khí có nhiệt độ 850 – 1100 0C với nồng độ khí SO2 từ 10 –
12% thể tích.
Khí SO2 ra khỏi lò đốt có nhiệt độ khoảng 850 – 11000C, nồng độ 8.5 – 9% sẽ
được dẫn qua nồi hơi H-202.
Tại nồi hơi SO2 và khí đốt sẽ trao đổi nhiệt với nước, làm cho nước bốc hơi
thành hơi nước bão hòa áp suất 15kg/cm 2, hạ nhiệt độ khí SO2 ra khỏi nồi hơi xuống
420 – 4400C.
Dưới đây là cấu tạo của nồi hơi với các chi tiết sau:
- Phần đầu hay hộp khói: Vỏ thép chịu nhiệt dày 10mm, đường kính 2860mm,
trong xây 2 lớp gạch chịu lửa.
- Phần giữa (phần bốc hơi): Dài 3660mm, nửa phần dưới là ống chùm gồm
278 ống truyền nhiệt φ 60.3 x 2.9mm, diện tích truyền nhiệt F = 192.6m2.
Trên nồi hơi có cửa cung cấp nước lỏng và nước lạnh vào, cửa để dẫn hơi quá
nhiệt ra, cửa xả cạnh bên dưới. Nồi hơi có gắng bộ phận đo mức nước, đo nhiệt độ,
áp suất.
Lượng nước mềm cấp vào nồi hơi Q = 5570 kg/h, áp lực 20 kg/cm2.
Ngoài cùng bọc một lớp bảo ôn dày 100mm bằng len thủy tinh và một lớp
nhôm tấm che mưa.
Khí SO2 ra khỏi lò đốt có nhiệt độ trong khoảng 980 – 1100 0C, nồng độ 8.5 –
9% và ra khỏi nồi hơi sẽ có nhiệt độ trong khoảng 420 – 4400C.
Lượng nước sau khi đã được xử lý bằng cột trao đổi ion được cho vào nồi hơi
với lưu lượng khoảng 7.5 m3/h sẽ qua hệ thống thân ống trao đổi nhiệt gồm 278 ống
chạy dọc quanh thân của nồi hơi. SO 2 và khí đốt sẽ trao đổi nhiệt với nước, làm cho
nước bốc hơi thành hơi nước bão hòa áp suất 15 kg/cm 2, hạ nhiệt độ khí SO2 ra khỏi
nồi hơi xuống 420 – 4400C. Hơi nước được đưa trở lại bể hóa lỏng lưu huỳnh.
SO2 được oxy hóa thành SO3 trên bốn lớp tiếp xúc VK59 ( trong đó lớp 4 chia
thành hai lớp 4A và 4B).
Bên trong có 19 cột ngang để ghi các gang đỡ 4 lớp xúc tác.
Trên đỉnh tháp ngay gần miệng ống dẫn khí SO 2 có đặt một tấm lưới phân
phối khí đường kính 1200mm, tiếp xúc sau đó một khoảng có một lưới phân phối
khí thứ hai, trên mặt có trải một lớp thạch anh cỡ 25 x 25 dày 200mm. Riêng lớp
xúc tác IV được tách đôi cách nhau một khoảng trống, giữa khoảng trống đó có đặt
một hệ thống gồm 12 đĩa để phân phối lại và trộn đều hỗn hợp khí trước khi xuống
lớp xúc tác cuối cùng.
I 400
II 400
III 500
IV(A) 400
IV(B) 400
Để bảo vệ cho lớp xúc tác khỏi bị sắt làm ảnh hưởng, mỗi lớp xúc tác đều có
một lớp thạch anh cỡ 25 x 25 dày 50mm lót dưới và phủ trên.
Để tránh tình trạng sục xúc tác, ở xung quanh thùng tháp ta đổ cao gờ lên
60mm, rộng 100mm. Nạp xúc tác trong lớp nào dùng gạch chịu lửa xây kín cửa và
hàng một nắp sắt ở cửa nạp xúc tác.
Nguyên tắc vận hành: Điều chỉnh tháp chuyển hóa:
Hai van đẩy và hút của quạt K201 dùng để điều chỉnh tải hệ thống.
G1, G2 dùng để điều chỉnh nhiệt và thiết bị lọc khí nóng J202.
Các van A4, A8 dùng để điều chỉnh khí qua thiết bị hâm nóng không khí E204
vào lò đốt.
Các van A5, A6, A7 dùng để pha khí và sau các lớp xúc tác I, II, III với mục
đích làm nguội sau các lớp xúc tác, các van này có bố trí hệ thống điều khiển bằng
khí nén.
Trước hết, sấy tháp và làm nóng đến nhiệt độ làm việc theo bảng chỉ dẫn và
nung xúc tác riêng.
Khi nhiệt độ xúc tác đạt 4200C và lớp IV lớn hơn 2080C thì mới đưa khí SO2
vào tháp.
Ban đầu nồng độ đưa vào là 9% S, ta duy trì hệ thống khởi động và tăng dần
nồng độ SO2 đạt 7% thể tích thì dừng hệ thống khởi động.
Dừng ngắn hạn: Trước khi dừng phải đưa nhiệt độ tháp tiếp xúc lên mức độ
cao nhất cho phép, đóng toàn bộ van lạnh, dừng quạt K201.
Dừng dài hạn (>10h): Khi dừng phải thổi vào tháp tiếp xúc không khí khô và
không đưa lưu huỳnh vào lò đốt, dùng dầu hâm nóng không khí lên 420 – 4300C rồi
thổi vào tháp. Khi nồng độ SO2 ra ngoài còn 0.03% thể tích thì lúc đó mới được làm
nguội xúc tác.
Thực chất là bình trao đổi nhiệt bên ngoài của tháp chuyển hóa, có chức năng
làm nguội hổn hợp khí SO2 và SO3, đồng thời hâm nóng không khí khô có lưu
lượng 13650 Nm3/h, nhiệt độ 430C lên 2000C tạo điều kiện tốt cho việc đốt S ở lò
F201.
Thiết bị có hình trụ đặt đứng, vỏ thép, đường kính 1880mm, gồm 499 ống
Ø48.3 x 2.8mm, bề mặt truyền nhiệt F = 300m2.
Bảng 1.4. Nhiệt độ khí SO3 và nước mềm trong ống tản nhiệt
SO3 sẽ hấp thụ nước trong axit sunfuric H 2SO4 98.3% để tạo ra sản phẩm. Quá
trình hấp thụ xảy ra ngược chiều, khí SO 3 đi từ dưới lên, axit được tưới từ trên
xuống.
Hình 2.3. Tháp hấp thụ C - 202
Tháp hình trụ, vỏ thép CT3, dày 10mm, đường kính ngoài 3600mm, đường
kính trong 3045mm, cao 9238mm. Bên trong xây lót hai lớp gạch chịu lửa axit và
chứa các vòng đệm sứ raching. Tháp có hai lớp đệm:
Lớp đệm chính nằm ở phần giữa thân tháp được bố trí như sau (từ dưới lên):
- Xếp một hàng vòng đệm φ200, H = 100, gồm 130 vòng.
- Xếp một hàng vòng đệm φ150, H = 100, gồm 292 vòng.
- Xếp một hàng vòng đệm φ100, H = 100, gồm 650 vòng.
Đổ lộn xộn các φ80, lớp đệm phụ dùng để tách tia bắn axit đi theo khí ra đỉnh
tháp, gồm một lớp đệm đổ lộn xộn 35 x 35 x 4mm.
Trên nó là một lớp đệm đổ lộn xộn 25 x 25 x 3mm với tổng chiều cao 780mm.
Giữa hai lớp đệm là mâm phân phối axit bằng gang để phân phối chảy tràng tưới
đều axit lên toàn tiết diện ngang của tháp.
Khi bắt đầu chạy xưởng phải cho tháp sấy và tháp hấp thụ chạy trước, sau đó
mới cho máy nén khí và các bộ phận khác chạy.
Nếu dừng xưởng trên 1 giờ thì phải cho tháp sấy và tháp hấp thụ chạy trước 20
phút.
Cho các tháp chảy axit tuần hoàn từ thùng chứa qua dàn lạnh vào tháp rồi chảy
về thùng chứa, khi toàn bộ hệ thống đã chạy và đã sinh ra khí SO 3 thì mới trao đổi
nhiệt giữa hai tháp.
Báo cáo trưởng ca bộ phận sấy – hấp thụ đã chạy ổn định, sẵn sàng tiếp nhận
khí từ máy.
Trước khi dừng phải đưa axit về dưới mức thấp nhất để tránh axit có thể tràn
qua thùng chứa tuần hoàn.
Khi thấy có xu hướng tràn thùng thì chạy bơm chuyển axit vào thùng axit
thương phẩm hoặc thùng trộn axit.
Sau khi dừng thì đóng van trao đổi axit giữa các tháp đồng thời đóng van nước
bổ sung vào thùng chứa axit hấp thụ.
Khí SO2 ra khỏi nồi hơi có nhiệt độ khoảng 4200C còn mang theo một ít bụi
cát hoặc lưu huỳnh thăng hoa, những chất này làm giảm tuổi thọ chất xúc tác nên
phải lọc sạch nó ở thiết bị J202.
Có dạng hình trụ đặt đứng, đường kính 4300mm, cao 2435mm, vỏ dày 10mm,
bên trong đặt một lớp ghi gang có các cột chống ghi bằng gang, trên lớp ghi đặt ba
lớp thạch anh.
Ngoài vỏ bọc một lớp len thủy tinh Benrok dày 100mm và 1 lớp nhôm lá che
mưa. Mỗi năm phải có một lần tháo lớp thạch anh ra, sàng sạch bụi xong lại đổ vào
như lúc ban đầu.
Thùng tuần hoàn axit monohydrat: Hình trụ, đặt đứng, vỏ thép, đường kính
ngoài 4000mm, trong xây lót một lớp gạch chịu axit, đường kính trong 3780mm,
cao 2770mm. Trên nóc thùng đặt một máy bơm chìm G205, công suất 36Hp, số
vòng quay n = 1450 vòng/phút, công suất Q = 155 m3/h.
Thùng tuần hoàn axit sấy T204: Hình trụ, đặt đứng, vỏ thép, đường kính
ngoài 3350mm, trong xây lót một lớp gạch chịu axit, đường kính trong 3130mm,
cao 2770mm.
Trên nốc thùng đặt một máy bơm chìm G207, công suất 20Hp, số vòng quay
n = 1460 vòng/phút, công suất Q = 97m3/h.
Quá trình hút ẩm trong không khí sấy tỏa nhiệt lớn, đó là do nhiệt hydrat hóa
làm nóng axit từ 40 – 450C.
Quá trình hấp thụ khí SO3 bằng axit với nồng độ là 98,3% H 2SO4 tỏa nhiệt
càng lớn do phản ứng tỏa nhiệt giữa SO3 và H2O làm nóng axit từ nhiệt độ 50 –
700C.
Khi trộn axit 94% H2SO4 với nước thì tỏa nhiệt ra rất mạnh là do nhiệt trộn,
làm nóng axit từ 40 – 1100C. Tất cả các loại axit nóng này phải được làm lạnh trở
lại nhiệt độ ban đầu.
Axit sấy được bơm qua dàn làm lạnh để hạ nhiệt độ xuống 40 0C, rồi được đưa
lên tưới tuần hoàn cho tháp sấy C203.
Các dàn làm lạnh axit sấy E207, axit hấp thụ E206 lúc bình thường làm việc
theo phương pháp nối tiếp, nhưng khi có sự cố cần thay ống gang làm lạnh ta có thể
chuyển sang phương pháp làm việc song song, tức là các dàn làm việc độc lập với
nhau.
Dàn nào cần thay ống gang làm lạnh thì chỉ cần khóa van axit vào và ra khỏi
dàn, song mở van tháo axit chảy vào bơm tháo axit G206, bơm trở về thùng T203
hay T204.
Dàn làm lạnh axit sấy T206: Gồm 3 dàn, mỗi dàn có 14 ống dài 15m, gồm 126
ống ngang φ150mm, dài 5000mm có bề mặt truyền nhiệt F = 300m2.
Dàn làm lạnh axit sấy E207: Gồm 2 dàn, mỗi dàn có 10 hàng ống, mỗi dàn dài
15m, gồm 60 ống gang φ150mm, dài 5000mm nối liền nhau, diện tích truyền nhiệt
F = 141m2.
Dàn làm lạnh axit thành phẩm E208: Gồm 60 ống gang φ150 x 2500mm ghép
thành 10 hàng ống. Bề mặt truyền nhiệt F = 70m 2.2.2.2. Dây chuyền công nghệ sản
xuất xưởng axit số 2.
2.4. Công nghệ sản xuất axit sunfuric 2
Lưu huỳnh rắn từ kho chứa được băng tải có năng suất 5 – 6 tấn/h, tốc độ băng
tải 0.47m/s chuyển đến lò nấu chảy.
Tại đây người ta sử dụng tác nhân gia nhiệt là hơi nước có áp suất 6kg/cm 2, đi
trong ống xoắn ruột gà nấu chảy lưu huỳnh rắn thành lưu huỳnh lỏng, nhiệt độ lưu
huỳnh lỏng sau đó được dẫn qua bể lắng là 134 0C, tại bể chứa lưu huỳnh sạch là
1400C.
Dòng khí này đóng vai trò là tác nhân oxy hóa đồng thời tạo áp suất dương để
hệ thống làm việc
Khác với dây chuyền 1, tác nhân sấy không khí ở đây là axit sunfuric 98,3%
được tưới vào giữa tháp qua đĩa phân phối lỏng thấm ướt bề mặt đệm.
Axit Sunfuric 98,3% có áp suất hơi nước cân bằng trên bề mặt rất thấp nên hấp
thụ gần như hoàn toàn ẩm trong không khí.
Axit sau khi hấp thụ ẩm có nồng độ tưới 98,3% được nhập chung với dòng
axit sau khi hấp thụ khí SO3 rồi quay về bồn chứa axit thành phẩm.
Không khí sau sấy khô được đưa qua thiết bị trao đổi nhiệt E-1001 làm nóng
lên đến 2300C rồi đưa vào lò đốt bằng 2 dòng, dóng 1 đi vào ở đỉnh của cửa lò và
dòng 2 cùng với lưu huỳnh được becphun phun vào lò đốt. Tác dụng của dòng 2 là
tạo áp lực để tán sương lưu huỳnh lỏng.
Các hạt lưu huỳnh lỏng rất mịn ở nhiệt độ cao sẽ nhanh chóng hóa hơi và phản
ứng với oxy tạo khí SO2.
Nhiệt độ trong lò đốt được giữ rất cao (khoãng 900 0C) để hơi lưu huỳnh tồn tại
chủ yếu ở dạng S2 tránh các dạng mạch xoắn S4, S6, S8 làm quá trình đốt lưu huỳnh
không triệt để.
Lưu huỳnh hóa hơi càng nhanh quá trình đốt càng triệt để. Phản ứng xảy ra
trong lò đốt như sau:
2S (lỏng) → S2 (hơi)
½ S2 (hơi) + O2 → SO2 + Q
Hổn hợp khí ra khỏi lò đốt có nhiệt độ khoảng 1050 0C với nồng độ khí SO2 từ
10-11% thể tích, để tận dụng nhiệt người ta sử dụng một phần hổn hợp khí làm tác
nhân gia nhiệt trong nồi hơi D-1002.
Ở đây dòng khí trao đổi nhiệt với nước làm nước bốc hơi thành hơi nước bảo
hòa áp suất P ≈ 7 kg/cm2, nhiệt độ 2000C được dẫn về bộ phận hóa lỏng lưu huỳnh.
Phần khí không qua nồi hơi được sử dụng để điều chỉnh nhiệt độ của dòng khí ra
khỏi nồi hơi lên khoãng 4200C.
Hỗn hợp khí trên đường đi có thể cuốn theo bụi cơ học và còn một ít lưu
huỳnh thăng hoa, những chất bẩn này có thể gây đầu độc xúc tác, do đó trước khi
đưa vào tháp tiếp xúc dòng khí được đưa qua thiết bị lọc khí nóng P-1001 để lọc bụi
rồi mới đưa vào tháp tiếp xúc H – 1001 thực hiện quá trình oxy hóa khí SO 2 thành
SO3.
Tháp tiếp xúc H – 1001 sử dụng chất xúc tác vanadi oxyt V 2O5 có kích thước
φ10 x 10 với bốn lớp có chiều cao khác nhau.
Lưu lượng khí SO2 vào tháp khoảng 15888 Nm3/h, nồng độ 10 – 11% thể tích
và nhiệt độ là 4200C. Do phản ứng oxy hóa tỏa nhiệt nên sau khi qua mỗi lớp xúc
tác, nhiệt độ khí lại tăng lên.
Để đảm bảo phản ứng xảy ra ở nhiệt độ gần với nhiệt độ tối ưu đồng thời giữ
cho xúc tác dưới nhiệt độ nóng chảy (620 0C), dòng khí sau khi đi qua mỗi lớp xúc
tác được đưa qua các thiết bị trao đổi nhiệt để hạ nhiệt độ. Cụ thể từng lớp như sau:
Nhiệt độ
Nhiệt độ khí(0C)
Lớp xúc tác khí( C)
0
Thiết bị trao đổi nhiệt
Vào Ra Vào Ra
Mức độ chuyển hóa qua mỗi lớp xúc tác cụ thể như sau:
1 67
2 86
3 90
Sau khi ra khỏi lớp 3, hỗn hợp khí SO 3 được dẫn qua thiết bị trao đổi nhiệt
E – 1003, E – 1004 hạ nhiệt độ xuống còn 180 0C rồi đưa qua tháp hấp thụ F – 1002
để hấp thụ lần 1. Tác nhân hấp thụ là axit sunfuric 98.3% với lưu lượng khoảng 75
m3/h lấy từ thùng chứa axit tuần hoàn G – 1005 và được bơm J – 1002B bơm qua
thiết bị làm lạnh bằng nước E – 1006A rồi vào tháp.
Hiệu suất hấp thụ là 99.9%. Dung dịch axit sau hấp thụ được đưa về thùng
chứa axit tuần hoàn G – 1005.
Hỗn hợp khí chưa hấp thụ được đưa về thiết bị làm lạnh E – 1005 làm nguội
xuống còn 1800C rồi đưa qua tháp hấp thụ F – 1003 hấp thụ lần 2. Tác nhân hấp thụ
khí SO3 lần 2 cũng là axit sunfuric 98.3% được đưa vào tháp bằng bơm J – 1002C.
Trước khi vào tháp hấp thụ, axit được làm lạnh bằng nước qua thiết bị trao đổi nhiệt
E – 1006B. Hiệu suất hấp thụ đạt được là 99.9 %. Lượng axit tạo thành được đưa về
thùng chứa axit tuần hoàn G – 1005, còn phần khí không hấp thụ đi qua nến lọc mù
để lọc mù axit.
Hiệu quả lọc mù của nến là 99% nên khí đi ra được thải ra khí trời qua ống
khói với nồng độ SO2 thực tế đo được là 500ppm.
Sau khi đại tu, để đưa dây chuyền hoạt động trở lại phải tiến hành sấy lò đốt
D – 1001, sấy tháp tiếp xúc H – 1001, hoạt hóa xúc tác, kiềm hóa nồi hơi D – 1002,
nung tháp lọc khí nóng.
Sấy lò đốt lưu huỳnh: Mở cửa bích ống lắp vòi phun lưu huỳnh ở cửa lò bằng
quạt thổi khí nén. Đóng chặt các van.
Giai đoạn 1:
Bay hơi nước tự do, đốt lò bằng củi, nhiệt độ lò tăng từ 30 – 1200C.
Đưa khay tôn vào lò, xếp củi lên khay, trong khi xếp không được để củi sát
với gạch đề phòng củi cháy làm nứt gạch.
Trong khi đốt điều chỉnh ngọn lửa để tốc độ nâng nhiệt từ 5 – 80 0C/h. Tốc độ
nâng nhiệt phải khống chế đúng theo quy trình để không làm phồng rộp lớp bề mặt.
Ở nhiệt độ 1000C nước ở trạng thái tự do thấm trong các mạch vữa bắt đầu
bay hơi, để đảm bảo nước ở các mạch bên trong bay hơi hoàn toàn người ta nâng
nhiệt độ lò lên đến 1200C và giữ nhiệt độ này trong vòng 24 giờ.
Trong quá trình sấy lò, đặt một tấm tôn nhỏ ở đầu ra của khói để kiểm tra sự
bốc hơi nước cũng như điểm kết thúc của quá trình tách ẩm.
Giai đoạn 2:
Bay hơi ẩm liên kết, đốt dầu DO, cho khí nóng qua cửa nồi hơi quan sát thấy
hết khói đen thì đóng kín cửa. Nhiệt độ lò tăng từ 120 – 220 0C. Tốc độ nâng nhiệt
độ là 15 – 200C/h. Giai đoạn này kéo dài trong khoảng 7 giờ.
Giai đoạn 3:
Quá trình nung lò, giai đoạn này kéo dài khoảng 48 giờ và được tiến hành
đồng thời với quá trình nung lọc nóng và kiềm hóa nồi hơi.
Mục đích của việc kiềm hóa nồi hơi là làm sạch bề mặt bên trong của nồi hơi,
ống hơi đồng thời tạo trên bề mặt kim loại một lớp màng bảo vệ.
Trước khi kiềm hóa nồi hơi phải kiểm tra toàn bộ hệ thống.
Sau đó vệ sinh sạch sẽ bên trong nồi hơi, kiểm tra an toàn kỹ các van an toàn,
ống đo mức, đồng hồ đo áp suất, các van xả, van cấp nước phải làm việc tốt.
Cấp nước vào rửa sạch nồi hơi, quan sát nước xả đáy tới khi nước xả sạch,
trong thì đóng kín van xả.
Cấp nước mềm vào nồi hơi tới mức 1/3 ống thủy.
Thoát bích lắp van an toàn, dùng mặt lỗ bích này để đưa hóa chất vào.
Cân 85 kg NaOH (100%) hòa tan với 400 lít nước nóng trong thùng phi sạch.
Cân 70 kg Na3PO4.12H2O quy về 100% Na3PO4 hòa tan với 300 lít nước nóng
trong thùng phi sạch khuấy mạnh cho tan hết rồi lần lượt rót các hóa chất trên qua
cửa van an toàn. Khi rót xong lắp van an toàn lại.
Tốc độ nâng nhiệt 8 – 100C/h. Sau khi đạt 1000C giữ nhiệt độ này trong 4 giờ
sau đó nâng nhiệt độ này lên 10 – 15 0C/h. Khi áp suất đạt 1 kg/cm2 thì xả ống thủy,
áp suất đạt 4 kg/cm2 thì siết các van lại.
Khi áp suất đạt 8 kg/cm2 thì duy trì ở áp suất này trong 6 giờ, định kỳ 2 giờ xả
van đáy một lần trong 5 giây và lấy nước lò đem đi phân tích độ kiềm. Khi độ kiềm
trong nước ổn định thì kết thúc quá trình kiềm hóa, từ từ hạ áp suất về 0 bằng cách
đưa nước về nồi hơi, đồng thời mở van xả cạn cho đến khi hết cạn nước bên trong
thì đóng van xả, kiểm tra hệ thống lần cuối đảm bảo hệ thống không có vấn đề gì
mới cấp nước vào nồi hơi và tiến hành chạy nồi hơi theo quy định.
Trước khi sấy xúc tác, khởi động tháp sấy làm việc 15 phút sau đó cho dòng
không khí khô đi vào tháp tiếp xúc.
Đưa trực tiếp dòng khí nóng từ lò đốt sang tháp tiếp xúc, nâng nhiệt độ lò đốt
lên cao sao cho phù hợp với việc nâng nhiệt độ xúc tác lên từ 10 – 15 0C/h cho đến
khi nhiệt độ xúc tác trong lớp 1 đạt 3800C thì giữ nhiệt độ này trong 4 giờ để làm
nóng toàn bộ khối xúc tác trong tháp tiếp xúc.
Quá trình sấy lò đốt và sấy tháp tiếp xúc là rất quan trọng vì nó quyết định
tuổi thọ và hiệu quả làm việc của toàn bộ hệ thống, do đó trong quá trình khởi động
xưởng phải thường xuyên theo dõi máy móc thiết bị và ghi chép đầy đủ và trung
thực các thông số kỹ thuật vào sổ nhật ký kỹ thuật.
2.4.4. Các thiết bị chính
Lưu huỳnh rắn được băng tải đưa vào ở đỉnh lò với năng suất từ 5 – 6 tấn/h,
hơi nước bão hòa 7 kg/cm2 đi trong các ống xoắn, đốt nóng lưu huỳnh lên đến
1130C và hóa lỏng.
Lưu huỳnh lỏng chảy tràn qua bể lắng cặn cơ học nhờ vào trọng lực. Bể lắng
có dạng hình hộp được xây dựng bằng bê tông cốt thép, có thể tích gấp 2 lần lò nấu
chảy lưu huỳnh và được giữ ở 1340C bằng hơi nước bão hòa.
Lưu huỳnh lỏng đi hết chiều dài của bể lắng rồi chảy tràn qua bể chứa lưu
huỳnh sạch, sau đó được bơm J – 1001 A/B bơm vào lò đốt.
Ưu điểm: Sử dụng bể nổi để nấu chảy lưu huỳnh có ưu điểm là dễ vệ sinh sửa
chữa khi bị tắc cặn bên trong lò.
Nhược điểm: dễ bị thất thoát nhiệt ra ngoài làm giảm hiệu quả truyền nhiệt,
khó quan sát khi bể lắng đang làm việc.
Lò có dạng hình trụ nằm ngang, dài 9.8m, đường kính 3.38m được chia làm 3
ngăn để tăng thời gian lưu của lưu huỳnh đồng thời chắn ngọn lửa tránh làm hỏng
nồi hơi. Để đốt triệt để lưu huỳnh, ở ngăn 2 có bổ sung không khí đốt.
Vỏ lò làm bằng thép CT3, vì lò đốt làm việc ở nhiệt độ cao (1050 0C) nên bên
trong được lót hai lớp gạch chịu lửa samot, mỗi lớp dày 510mm, công dụng của lớp
gạch này là bảo vệ vật liệu đồng thời giữ nhiệt cho lò khi lò có sự cố phải ngừng
làm việc trong thời gian ngắn.
Bên ngoài lò có một lớp bảo ôn bằng bông thủy tinh dày khoảng 100mm, và
ngoài cùng là lớp nhôm để che nắng mưa.
Lưu huỳnh sau khi nấu chảy và tách cặn được không khí thổi vào lò ở dạng
sương mịn qua bec phun. Lưu huỳnh lỏng ở nhiệt độ khoảng 900 0C hóa hơi thành S2
gặp không khí đưa vào lò ở đầu lò phản ứng tạo thành SO 2. Phần lưu huỳnh chưa
phản ứng hết tiếp tục qua ngăn 2, nhờ dòng không khí bổ sung lưu huỳnh gần như
phản ứng hoàn toàn.
- Áp suất (S lỏng) tải bec đốt: 0.4 – 0.5 Mpa. Lưu lượng không khí vào:
11000 ÷ 12000 Nm3/h.
Nhược điểm: chỉ hoạt động với lưu huỳnh sạch, nếu lưu huỳnh có lẫn nhiều
cặn sẽ gây tắc nghẽn đường ống, nghẹt vòi phun.
Cấu tạo tương tự như nồi hơi của dây chuyền sản xuất axit một, tạo hơi nước
bão hòa cung cấp cho bộ phận nấu chảy lưu huỳnh đồng thời làm nguội dòng khí ra
khỏi lò đốt từ 10500C xuống còn 4200C.
Hỗn hợp khí ra khỏi tháp đốt có nhiệt độ trong khoảng 1050 0C được đưa vào
nồi đun đi qua hệ thống ống, nước sau khi được xử lý ion được đưa vào nồi hơi trao
đổi ống khí đi trong ống tạo hơi nước bão hòa.
Dùng để lọc bụi có trong hỗn hợp khí ra khỏi nồi hơi, không gây đầu độc xúc
tác.
Tương tự thiết bị lọc khí nóng J202 của dây chuyền 1. Thiết bị có dạng hình
trụ thẳng đứng, bên trong đổ đá thạch anh được đựng trên ghi bằng gang.
Dòng khí ra khỏi nồi hơi được đưa vào tháp, đi qua lớp đá thạch anh, những
tạp chất cơ học bị giữ lại.
Tháp hình trụ đứng được chia thành 4 tầng riêng biệt được ngăn với nhau bằng
các tấm thép.
Tùy theo mức độ chuyển hóa và lưu lượng dòng khí mà mỗi tầng có chiều cao
bằng nhau, vỏ tháp được làm bằng thép 20K, bên trong lót gạch chịu lửa.
Trong tháp có 19 cột chống được bố trí theo các đỉnh tam giác đều. Cột chống
làm bằng gang HC – 5.5 dùng để đỡ các ghi đựng xúc tác.
Ở mỗi tầng có đường ống dẫn khí vào, đi qua lớp xúc tác và ra. Các lớp xúc
tác ở mỗi tầng có chiều dày khác nhau tùy thuộc vào mức độ chuyển hóa của SO 2
thành SO3. Xúc tác được đặt trên những ghi đỡ làm bằng gang HC-5.5 gồm nhiều
hình tam giác định hình theo hình tròn ghép lại với nhau bằng đinh ốc và được đỡ
trên những cột chống.
Xúc tác được đổ trên các ghi gồm 3 lớp như sau:
Dưới cùng là lớp thạch anh kích thước 25x25 dày 50 mm có tác dụng bảo vệ
xúc tác khỏi bị ảnh hưởng của sắt và tránh cho xúc tác bít kín các khe của ghi.
Tiếp theo là xúc tác Vanadium Monsanto chiều cao thay đổi theo từng tầng.
Trên cùng là lớp thạch anh dày 50 mm có tác dụng phân phối điều khí theo toàn bộ
tiết diện ngang của tháp và giữ cho lớp xúc tác không bị xáo trộn khi dòng khí đi
vào.
Ở tầng trên cùng, gần cửa nạp khí vào có bố trí 1 lớp thạch anh dày 220 mm
có tác dụng cản áp lực gây ra do dòng khí đi vào đồng thời phân phối điều khi trên
toàn bộ tiết diện của tháp.
Việc nạp xúc tác vào tháp được thực hiện như sau: đổ xúc tác từ phía đối diện
của cửa nạp đến độ cao nhất định, san bằng xúc tác rồi lùi dần về phía cửa, đóng
bích và hàn chặt. Tuyệt đối không được dẫm lên lớp xúc tác làm vỡ xúc tác làm cho
không sử dụng được. Trong hoàn cảnh bắt buộc, phải lót ván rồi mới được đi lên.
Để đo nhiệt độ làm việc của mỗi lớp người ta hàn vào một ống thép
X17H13M2T có kích thước bằng kích thước của cặp nhiệt điện cắm vào giữa lớp
thạch anh sau đó cắm cặp nhiệt điện vào. Nhờ vào kết cấu này khi cặp nhiệt điện có
sự cố người ta có thể rút ra sửa chữa hoặc thay thế mà không ảnh hưởng đến hoạt
động của tháp.
Cặp nhiệt điện sử dụng trong tháp là cặp loại K có thể đo nhiệt độ trong
khoảng từ 0 – 12000C. Dòng vào do nhiệt độ đã được khống chế ở những giai đoạn
trước nên chỉ lấy tín hiệu tại một vị trí; dòng ra lấy tín hiệu ở 3 vị trí, mỗi vị trí cách
nhau góc 1200, giá trị nhiệt độ thể hiện được lấy trung bình cộng của 3 vị trí đó.
Cửa vào và ra của dòng khí được thiết kế hình chữ nhật có kích thước 500 x
800 mm có tác dụng tránh tạo xoáy khi hỗn hợp khí đi vào đồng thời phân phối điều
khí.
Hỗn hợp khí SO2 được dẫn vào tầng thứ nhất ở đỉnh tháp. Sau khi thực hiện
xong quá trình phản ứng, hỗn hợp khí được dẫn ra ngoài trao đổi nhiệt để hạ nhiệt
độ xuống rồi lại tiếp tục dẫn vào lớp thứ 2. Sau khi ra khỏi lớp thứ 2, do quá trình
phản ứng sinh nhiệt nên nhiệt độ hỗn hợp khí lên cao, tiếp tục dẫn ra ngoài trao đổi
nhiệt trước khi đưa trở lại vào lớp thứ 3 tiếp tục quá trình chuyển hóa. Hỗn hợp khí
sau khi đã ra khỏi lớp thứ 3 đã đạt được một độ chuyển hóa nhất định (gồm chủ yếu
là SO3) nên được dẫn sang tháp hấp thụ để được dung dịch axit hấp thụ tạo oleum.
Lớp xúc tác thứ 4 dùng để chuyển hóa phần khí SO 2 chưa phản ứng được hồi
lưu về tháp sau khi đã hấp thụ.
Thông số kỹ thuật:
Lớp 1: 710 mm
Lớp 2: 615 mm
Lớp 3: 615 mm
Lớp 4: 681 mm
Vào Ra
Khống chế được nhiệt độ của hỗn hợp khí, tận dụng được nhiệt của hỗn hợp
khí để gia nhiệt cho dòng khí trước khi đem đi đốt lưu huỳnh.
Hỗn hợp khí ra khỏi tháp đốt có nhiệt độ trong khoảng 1050 0C được đưa vào
nồi đun đi qua hệ thống ống, nước sau khi được xử lý ion được đưa vào nồi hơi trao
đổi ống khí đi trong ống tạo hơi nước bão hòa.
Nhược điểm: Kết cấu phức tạp, khó gia công, thiết kế, tiêu tốn nhiều vật liệu
và các thiết bị điều chỉnh tự động.
Hỗn hợp khí SO3 đi trong ống, còn không khí khô đi ngoài ống.
Hỗn hợp khí sau khi đi ra khỏi lớp xúc tác thứ nhất có nhiệt độ 601 0C được
dẫn qua thiết bị này, trao đổi nhiệt với không khí khô (đi từ tháp sấy đến) để làm hạ
nhiệt độ xuống còn 4400C rồi dẫn lại vào lớp xúc tác thứ 2 của tháp tiếp xúc. Khối
không khí khô sau khi trao đổi nhiệt sẽ nâng nhiệt độ từ 50 – 230 0C rồi dẫn đến lò
đốt lưu huỳnh lỏng.
Thông số kỹ thuật:
- Cỡ ống: Φ 51 x 3, L = 4000
Dùng làm nguội hỗn hợp khí ra khỏi lớp 2 bằng các sử dụng hỗn hợp khí SO 2
hoàn lưu.
Hình 2.3. Thiết bị trao đổi nhiệt E – 1002
Hỗn hợp khí sau khi ra khỏi lớp xúc tác thứ 2 có nhiệt độ là 5130 0C được dẫn
qua thiết bị, trao đổi nhiệt với dòng SO 2 chưa phản ứng để giảm nhiệt độ xuống còn
4300C rồi mới dẫn lại vào lớp thứ 3 của lớp tiếp xúc.
Thiết bị truyền nhiệt ống chùm, trao đổi nhiệt ngược chiều.
Hỗn hợp khí đi trong ống, hỗn hợp khí SO2 hoàn lưu đi ngoài ống.
Hỗn hợp SO2 hoàn lưu sau khi trao đổi nhiệt ở thiết bị E – 1003 lên đến nhiệt
độ 3450C tiếp thụ được dẫn vào thiết bị, trao đổi nhiệt với dòng SO 3, nâng nhiệt độ
lên 4300C rồi mới dẫn vào lớp xúc tác thứ 4 để tiếp tục quá trình chuyển hóa.
Thông số kỹ thuật:
- Số ống: n = 439.
Thành phần Hỗn hợp khí SO3 Hỗn hợp khí SO2
Dùng làm nguội hỗn hợp khí SO3 ra khỏi lớp 3 bằng hỗn hợp khí SO2 hoàn
lưu.
Sử dụng thiết bị truyền nhiệt ống chùm, trao đổi nhiệt ngược chiều. Hỗn hợp
khí SO3 đi trong ống còn hỗn hợp khí SO2 đi ngoài ống.
Hỗn hợp khí sau khi đi ra khỏi lớp xúc tác thứ 3 có nhiệt độ là 454 0C được dẫn
qua thiết bị, trao đổi với dòng SO2 chưa phản ứng để giảm nhiệt độ xuống còn
2480C rồi được dẫn qua tháp hấp thụ để tạo axit.
Hỗn hợp SO2 hoàn lưu sau khi đi ra khỏi tháp hấp thụ có nhiệt độ khoảng 80 0C
sẽ được dẫn vào thiết bị E – 1003 trao đổi nhiệt với hỗn hợp SO 3 lên đến 3450C, tiếp
tục được dẫn vào thiết bị E – 1002, trao đổi nhiệt với dòng SO3 đi ra từ lớp 2.
Hình 2.3. Thiết bị trao đổi nhiệt E – 1003
Thông số kỹ thuật:
- Bố trí: tam giác đều, bước ống t = 67, số lỗ qua đường kính là 27.
- Số ống: n = 613.
Sử dụng thiết bị truyền nhiệt ống chùm, kiểu ống đứng, trao đổi nhiệt theo
hướng ngược chiều. Hỗn hợp khí SO3 sẽ được đi trong ống còn không khí khô thì
đi ngoài ống.
Hỗn hợp SO3 sau khi trao đổi nhiệt ở thiết bị E – 1003 xuống nhiệt độ 248 0C,
tiếp tục được đưa qua thiết bị E – 1004 để trao đổi nhiệt với không khí xuống 180 0C
trước khi đi qua tháp tiếp xúc để tạo axit.
Không khí đưa vào có nhiệt độ 30 0C, sau khi trao đổi nhiệt với SO 3 xong sẽ
lên đến 700C rồi thải ra ngoài không khí.
Thành phần Hỗn hợp khí SO3 Hỗn hợp khí SO2
Hỗn hợp khí sau khi đi qua lớp xúc tác thứ 4 có nhiệt độ là 445 0C sẽ được làm
nguội bằng oxi không khí xuống còn 1800C rồi mới dẫn vào tháp hấp thụ thứ 2 để
tạo axit.
Không khí sau khi trao đổi nhiệt tăng từ 30 – 1450C được thải bỏ.
- Số ống: n = 517.
Dùng để sấy không khí ẩm bằng axit H2SO4 98.3% trước khi đưa vào lò đốt và
tháp tiếp xúc, tránh tạo mù axit.
Là tháp hấp thụ dạng tháp đệm. Vỏ tháp làm bằng thép không gỉ SS400, vì
tháp làm việc trong môi trường axit nên bên trong có lót gạch chịu axit dày 120 mm
để bảo vệ vật liệu.
Dưới cùng là khoảng không gian trống cao 1825 mm cho không khí đi vào.
Phần giữa được xếp đệm gạch ceramic theo dạng bàn cờ, đệm được xếp thành
3 lớp theo kích thức đệm: 120 x 120, 100 x 100, 80 x 80 cao gần 7300 mm.
Phần trên cùng cao khoảng 6200 mm bao gồm cả nắp và cửa người. Bên trong
có lắp cột nến lọc cao 3500 mm dùng để lọc mù axit bị cuốn theo dòng khí sau quá
trình hấp thụ. Nến lọc mù được làm bằng sợi thủy tinh nén chặt và được nhập từ
nước ngoài về.
Axit H2SO4 98.3% dẫn vào giữa tháp rồi theo đĩa phân phối lỏng chảy từ trên
xuống thấm ướt bề mặt đệm. Không khí đi từ dưới lên, tiếp xúc với axit trên bề mặt
đệm; do axit H2SO4 98% có áp suất cân bằng của hơi nước trên bề mặt rất nhỏ so
với áp suất riêng phần của hơi nước trong không khí → động lực hấp thụ P lớn
Không khí được sấy khô tiếp tục đi lên trên, qua nến lọc mù, toàn bộ mù axit
cuốn theo bị giữ lại trong cột nến và chảy lại xuống dưới. Không khí khô ra khỏi
tháp được dẫn qua các thiết bị trao đổi nhiệt để nâng lên đến nhiệt độ thích hợp
trước khi vào lò đốt lưu huỳnh lỏng.
- Khối lượng có tải: 74382 kg. - Khối lượng không tải: 68667 kg.
Dùng để hấp thụ khí SO3 sau khi đi qua 3 lớp xúc tác của tháp tiếp xúc, bằng
axit H2SO4 98.3%.
Tương tự tháp sấy không khí, tháp hấp thụ dạng đệm, hình trụ, vỏ thép bằng
thép không gỉ SS400 bên trong có lót gạch chịu axit. Đường kính ngoài 2538 mm,
đường kính trong 2513mm, tháp cao 15400 mm, được chia làm 2 phần:
- Phần dưới cao 9555 mm (tính từ chân tháp), được xếp đệm, thực hiện quá
trình hấp thụ SO3. Đệm ceramic dạng viên gạch được xếp thành 3 lớp (từ dưới lên)
theo kích thước: 120 x 120, 100 x 100, 80 x 80.
- Phần trên cao 4450 mm (tính từ vị trí trên cùng của đệm đến vị trí khí ra),
thực hiện quá trình lọc khí bằng nến lọc khí.
Hỗn hợp khí ra khỏi lớp thứ 3 của tháp tiếp xúc được đưa vào tháp hấp thụ I từ
dưới lên, axit được tưới từ trên xuống. Sự tiếp xúc pha xảy ra trên bề mặt đệm. Khí
SO3 được axit hấp thụ vào pha lỏng tạo oleum, hỗn hợp khí còn lại đi qua nến lọc
khí, phần mù axit được giữ lại, SO2 chưa chuyển hóa được đưa trở lại tháp tiếp xúc
để tiếp tục được oxy hóa thành SO3.
Thông số kỹ thuật:
Áp suất khí:
- Khối lượng có tải: 103100 kg. - Khối lượng không tải: 97375 kg.
Nguyên tắc hoạt động: Khi mới bắt đầu chạy tháp hay sau dừng tháp để đại tu,
để vận hành tháp trở lại, trước hết ta phải cho axit tưới ướt đệm trong tháp từ 4 – 8
giờ rồi mới cho khí vào để thực hiện quá trình hấp thụ. Nếu không có quá trình làm
ướt đệm này, hiệu suất quá trình hấp thụ sẽ rất thấp vì khi đó diện tích bề mặt truyền
khối sẽ giảm đi đáng kể.
Cấu tạo tương tự như tháp hấp thụ một, dùng để hấp thụ khí SO 3 sau khi ra
khỏi lớp 4 của tháp chuyển hóa, bằng axit sunfuric 98.3%.
Tương tự tháp hấp thụ I, do hiệu quả lọc mù của nến lọc là 99.9% nên dòng
khí ra khỏi tháp hấp thụ II được phóng không mà không cần xử lý (có nồng độ SO 2
khoảng 560ppm).
Thông số kỹ thuật:
Áp suất khí:
- Khối lượng có tải: 103280 kg - Khối lượng không tải: 97375 kg.
Thùng chứa axit tuần hoàn G – 1005: Chứa axit tuần hoàn monohydrate
(H2SO4 98.3%).
Bên trong thùng có lắp đặt các bơm để tuần hoàn axit về tháp sấy và tháp hấp
thụ.
Thùng hình trụ, nằm ngang, vỏ bằng thép 20K, bên trong có xây 1 lớp gạch
chịu axit.
Trên thùng có đặt 3 máy bơm công suất 20 HP, n = 1460 vòng/phút, hai máy
để bơm axit về 2 tháp hấp thụ, bơm còn lại để dùng cho tháp sấy.
Thông số kỹ thuật:
- Kích thước giới hạn: dài x rộng x cao = 9876 x 3220 x 3420.
Các thiết bị làm lạnh axit tuần hoàn: Làm lạnh axit tuần hoàn về tháp sấy và
tháp hấp thụ để làm tăng hiệu quả quá trình hấp thụ.
Thiết bị trao đổi nhiệt dạng tấm có bề mặt truyền nhiệt phẳng, bên trong gồm
những tấm làm bằng thép không gỉ ghép thành những hộp rỗng có nhiều ngăn, có
những lỗ nối nhau tương ứng tạo thành lối chuyển động riêng cho từng lưu chất.
Giữa các tấm có các dây ron bao kín đảm bảo ngăn cách 2 lưu chất.
Bên ngoài có các thanh dần có bulong để ép chặt các tấm bản.
Các tấm trao đổi nhiệt được dập theo hình mũi tên có tác dụng hướng cho các
dòng lưu chất chảy theo một hướng nhất định.
Hình 2.3. Thiết bị làm lạnh axit tuần hoàn
CHƯƠNG 3: AN TOÀN LAO ĐỘNG VÀ MÔI TRƯỜNG
Tất cả công nhân phải nắm vững nguyên lý vận hành máy, chấp hành đúng nội
quy an toàn lao động như: đeo găng tay, khẩu trang, đi giày bảo hộ, mặc trang phục
bảo hộ lao động, …
Thận trọng khi làm việc tại các bộ phận nguy hiểm như: khuôn ép, máy đùn,
… có nhiệt độ cao, những trục cuốn và trục kéo của máy thổi màng, máy kéo chỉ,
chú ý an toàn với xe nâng.
Khi có sự cố phải báo ngay cho người có trách nhiệm để xử lý kịp thời, không
ảnh hưởng đến người xung quanh và không làm thiệt hại tài sản của Công ty.
Không uống rượu, bia trước và trong giờ làm việc. Không rời vị trí, đùa giỡn
trong lúc làm việc.
Thường xuyên kiểm tra hệ thống điện trong khu vực sản xuất, theo dõi tình
trạng máy móc, phát hiện kịp thời các hư hỏng bất thường. Khi có sự cố phải dừng
máy và báo ngay cho phòng kĩ thuật, không tự ý sửa chữa khi chưa được hướng dẫn
trước đó.
Khi hết giờ làm việc phải tiến hành vệ sinh máy và khu vực sản xuất. Kiểm tra
toàn bộ hệ thống điện.
Nắm vững nguyên tắc mở máy, vận hành máy và tắt máy.
Trước khi mở máy phải kiểm tra các bộ phận của máy, nếu có trục trặc phải
báo ngay cho các trưởng ca và trưởng bộ phận để kịp thời kiểm tra và sửa chữa.
Luôn chú ý theo dõi các thông số trên bảng điều khiển của máy để kịp thời
điều chỉnh tránh làm hư hỏng sản phẩm và thiết bị.
3.2. Hệ thống phòng chống cháy nổ và hiệu quả thực hiện tại nhà máy
Nghiêm chỉnh chấp hành nội quy phòng cháy chữa cháy. Các thùng chứa dung
môi, xăng dầu phải tuân theo quy định về an toàn, bảo quản, vận chuyển và sử
dụng. Phế phẩm phải đặt đúng nơi quy định. Quần áo hay đồ dùng cá nhân không
treo lên bảng điện hay khung máy.
Nguyên liệu sản xuất trong các xưởng hầu hết đều có đặc tính dễ cháy. Nguồn
điện sử dụng có điện áp cao, các máy làm việc ở nhiệt độ khá cao nên khi làm việc
phải thật thận trọng nhằm tránh gây sự cố hỏa hoạn làm thiệt hại tới người và của.
Trong nhà xưởng và ở vị trí đặt máy, thiết bị được bố trí các dụng cụ phòng
cháy chữa cháy.
Sắp xếp vật tư, hàng hóa trong kho gọn gàng sạch sẽ, xếp theo từng loại có
khoảng cách xa với tường để tiện cho việc kiểm tra và cứu chữa khi cần thiết.
Phương tiện, dụng cụ chữa cháy phải để ở nơi dễ thấy, dễ lấy khi cần thiết,
không được sử dụng vào mục đích khác.
Cấm hút thuốc trong toàn bộ xưởng sản xuất, kho, phòng làm việc và những
nơi công cộng như văn phòng, phòng họp, …Nếu cho phép hút thuốc phải có khu
vực riêng cho người hút thuốc.
Không sử dụng các vật dụng có thể phát sinh tia lửa điện như: bật lửa, máy
ảnh, điện thoại di động, …ở các khu vực có nguy cơ cháy nổ cao.
Người lao động phải được huấn luyện An toàn – Vệ sinh lao động và sát hạch
đạt yêu cầu mới được giao nhiệm vụ.
Người lao động bị cấm làm việc khi có nồng độ cồn trong máu, không được
bỏ vị trí làm việc để làm việc khác.
3.3. Các sự cố trong sản xuất và biện pháp khắc phục
Bảng 2.1. Các sự cố và biện pháp khắc phục của máy móc
- Thiếu hydroxit
- Tăng thêm hàm
- Lưu huỳnh sau nhôm. lượng oxit nhôm.
khi qua máy lọc - Lớp trợ lọc
- Thay lưới lọc.
vẫn còn bẫn mỏng, lưới lọc bị
thủng.
- Nhiệt độ và nồng
độ SO2 sau khi ra - Vòi phun lỏng bị - Kiểm tra thay
khỏi lò đột tăng hư. vòi phun khác.
giảm thất thường.
- Mở van xả vả
- Áp suất trong nồi
- Nổ nồi hơi tăng lượng nước
hơi tăng
cấp vào nồi hơi
Giảm tải.
Tháp sấy - Không khí sau - Lượng axit tưới - Kiểm tra sự
sau tháp sấy vẫn vào tháp chưa đủ. phân phối axit
còn độ ẩm vượt - Nồng độ axit tưới qua kính quan sát
quá 0.02%. quá thấp. ở đỉnh tháp, tăng
lượng nước, kiểm
- Nhiệt độ axit tưới
tra máy bơm.
để cao quá 500C,
hấp thụ kém. - Đưa trở lại
nồng độ axit
98.3%.
- Tăng lượng
nước tưới dàn
E207, hạ nhiệt độ
axit tưới còn
400C.
Đóng ngay van pha nước từ thùng chứa T201 xuống thùng chứa axit tuần hoàn
T203 tránh việc pha loãng nồng độ axit.
Đóng van đẩy của máy quạt K201 đang làm việc ngăn không cho dầu khí lưu
thông trong dây chuyền.
Tránh mọi việc có thể làm mất điện của bộ phận lò, bộ phận chuyển hóa.
Phải cho máy bơm dự phòng làm việc ngay sao cho thời gian ngưng là ngắn
nhất.
Khi một trong hai máy bơm axit sấy hoặc hấp thụ ngừng:
Sau khi ngừng xưởng lâu quá 8 giờ, lúc chạy lại xưởng, nhiệt độ vào và ra các
lớp xúc tác bị giảm, không tăng lên được nghĩa là các lớp xúc tác không làm việc
được.
Phải cho ngừng ngay máy quạt K201 để tránh hút khí ẩm vào hệ thống và
tránh khí thải SO3 ra ngoài trời mà không được hấp thụ triệt để.
Sấy lò F – 201:
Đóng chặt van G1, G2, lắp đồng hồ đo nhiệt ở đỉnh lò.
Chuẩn bị khay bằng tôn mỏng để đốt lò, có thể kéo tro ra được.
- Đưa khay sấy lò vào, xếp củi trên khay sấy đó, chú ý không được để củi sát
với gạch để phòng khi cháy sẽ nứt gạch xây lò, dùng que đưa giẻ tẩm dầu để nhóm
củi.
- Tốc độ nâng nhiệt từ 5 – 80C/h, khi nhiệt độ đạt 1200C thì giữ nhiệt độ này
trong 24h. Trong quá trình sấy lò, đặt một tôn nhỏ trên đường khói ra đỉnh lò để
kiểm tra sự bốc ẩm hơi nước cũng như điểm kết thúc quá trình tách ẩm của lớp gạch
xây lót.
- Giai đoạn nung lò đốt F201 – Nung J202 : Lấy khay sắt tro ra, lắp bộ đốt
dầu, xây gạch và bắt chặt cửa đốt củi lò đốt.
- Lắp cửa đinh lò đốt, tránh bích cắm trước van A4, đường ống phụ bổ sung
không khí, lắp bích cắm trước cụm van bổ sung khí lạnh, chắn bích cắm sau E205,
mở cửa đáy E205.
- Đồng thời với gian đoạn sấy lò, nung lò là quá trình kiềm hóa nồi hơi.
- Chắn bích hai quạt khởi động, mở van xiphia và bắt chặt cửa J202.
- Tháo bích cắm trước van A4, đường ống phụ bổ sung không khí và đóng
chặt van A4.
- Không khí → tháp sấy→ quạt K202→ lò đốt F201 (không khí khô đi vào
đỉnh lò đốt qua van A8, không cho không khí qua van A4)→ J202→ C201→ thải ra
ngoài qua cửa đáy E205.
- Chạy bơm sấy trước 15 phút cho tháp sấy làm việc, sau đó chạy K201 với tải
140 – 150A. Dùng không khí khô nóng, nâng nhiệt độ vào máy tiếp xúc từ 5 –
80C/h, đến khi nhiệt độ trong lò đốt cân bằng với tháp tiếp xúc thì tiến hành gia
nhiệt cho xúc tác.
Nung xúc tác: Chạy quạt K201, chạy bơm dầu đưa trực tiếp khí nóng sang
tháp tiếp xúc, nâng nhiệt độ lò đốt lên sao cho phù hợp với việc nhiệt độ xúc tác từ
10 – 150C/h cho đến khi nhiệt độ lớp xúc tác 1 đạt 420 0C và nhiệt độ lớp xúc tác 4b
đạt 3000C thì giữ ở nhiệt độ này trong 4h để làm nóng toàn bộ khối xúc tác trong
tháp tiếp xúc, kết thúc quá trình nung xúc tác.
Tiến hành bơm lưu huỳnh lỏng: Trước khi bơm lưu huỳnh phải lắp vòi phun
lưu huỳnh, tháo bích cắm sau E205 và đóng chặt cửa đáy E205, kiểm tra lại toàn bộ
hệ thống lần cuối khi hệ thống đã thông thoáng thì tiến hành chạy máy: chạy quạt
K201, bơm lưu huỳnh lỏng, lượng lưu huỳnh vào lò, phải điều chỉnh hợp lý, khống
chế nồng độ SO2 bằng 4.5 – 5.5% thể tích. Sau đó tùy theo chế độ của tháp tiếp xúc
mà quyết định tăng dần tải, đưa hệ thống vào làm việc ở chế độ bình thường.
Trong quá trình khởi động xưởng phải thường xuyên theo dõi máy móc thiết
bị, phải ghi chép đầy đủ, trung thực các thông số kỹ thuật vào sổ nhật ký kỹ thuật.
Cho bộ phận đốt đầu khởi động làm việc để nâng cao nhiệt độ khí SO 2 ở lò lên
đến nhiệt độ quy định, lớp xúc tác đủ nhiệt sẽ được phục hồi, sau đó sẽ tắt bộ phận
vòi đốt vào lò F201.
Sau khi đại tu, để đưa dây chuyền hoạt động trở lại tiến hành sấy, nung lò
F201 và gia nhiệt máy tiếp xúc. Đồng thời quá trình này là kiềm hóa hơi H202,
nung lọc khí nóng J202.
Tất cả mọi người đến làm việc tại phân xưởng axit phải từ 18 tuổi trở lên,
phải học tập quy trình sản xuất, quy trình an toàn lao động và phải được kiểm tra,
ký sổ theo dõi kỹ thuật an toàn .
Tất cả mọi người đến làm việc tại phân xưởng axit phải được trang bị các
phương tiện phòng hộ lao động phù hợp với từng cương vị sản xuất.
Chỉ được phép mở máy khi đã kiểm tra bên trong, ngoài thiết bị đạt tiêu chuẩn
an toàn cho người và cho thiết bị cũng như lệnh của người chỉ huy.
Khi dừng máy để sửa chữa phải thực hiện đúng quy trình: ngất điện treo biển,
cấm đóng điện có người đang làm việc.
Với các thiết bị chịu áp suất, khi sửa chữa phải đưa áp suất về 0 và t < 40 0C.
Với các ống dẫn thiết bị chứa và bơm axit, khi sửa chữa phải tháo hết axit
dùng vôi trung hòa rồi mới sửa chữa. Đồng thời người sửa chữa phải biết van nước
sinh hoạt ở nơi gần nhất.
Khi cần hàng các thùng tháp chứa axit phải tháo hết axit, dùng quạt thổi hết
khí H2, H2S tránh gây nổ khi hàn.
Chỉ được hàng, sửa chữa các vỏ thiết bị có xây tốt khi được phụ trách an toàn
phó giám đốc kỹ thuật cho phép.
Không được bão dưỡng, vệ sinh máy khi máy đang hoạt động.
Khi có axit rõ từ trên cao phải khoanh vùng, treo biển “ Cấm Qua Lại” và tìm
cách khắc phục ngay.
Nhà máy phải tổ chức khám sức khỏe định kỳ, bệnh nghề nghiệp cho tất cả
mọi người.
Khi bị cháy nổ về điện phải lập tức tìm cắt cầu dao nơi gần nhất rồi mới được
dập tắt lửa.
Khi bị điện giật phải lập tức tách người ra khỏi dòng điện sau đó mới cấp cứu
v.v…
Khi bị bỏng axit, dùng nước sạch xối mạnh rửa sạch axit, sau đó dùng dung
dịch NaHCO3 5 % trung hòa, rồi đưa bệnh nhân đi cấp cứu. Cần dùng vôi để trung
hòa vết bỏng.
Cấm dùng đèn điện có điện thế lớn hơn 36V để sửa chữa trong các thiết bị.
Khi sửa chữa các thiết bị có khí độc phải đeo mặt nạ phòng độc và cử người
quan sát.
Phải bố trí hệ thống nước cứu hỏa, dụng cụ chống cháy ở nơi quy định dễ
thấy, dễ lấy và luôn được kiểm tra, vệ sinh.
Làm việc trên cao phải đeo dây an toàn. Trong phân xưởng phải quy định nơi
đổ chất thải.
Trong phân xưởng luôn luôn giữa gìn trong lành: Nồng độ SO 2 < 10 mg/m3,
nồng độ 80 < 1 mg/m3.
Khi axit rò rỉ, phải dùng với bột để trung hòa khô quyét sạch. Cần dùng nước
để dội và quyét axit xuống rãnh. Nước thải có axit phải trung hòa axit đến PH = 7-
7,5.
Mọi người làm tại phân xưởng phải đượ bồi dưỡng độc hại, bảo hiểm theo chế
độ hiện hành vệ sinh trước khi ăn và ra về.
Sáu tháng một lần, mọi người phải được học tập, kiểm tra chấm điểm an toàn
tại sở theo dõi kỹ thuật an toàn, nhà máy khám sức khỏe định kỳ bệnh nghề nghiệp
cho tất cả mọi người làm việc tại phân xưởng ít nhất một năm một lần.
CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua thời gian thực hiện đề tài, em đã được tìm hiểu, học tập những kiến thức
quý báu từ thực tế sản xuất acid Sunfuric của nhà máy Super Phốt Phát Long Thành
cũng như sự hướng dẫn của thầy ThS. Lê Thiết Hùng, những cuốn giáo trình, những
tài liệu tham khảo là vô cùng quý báu. Em nhận thấy rằng đây là một đề tài tuy
không xa lạ gì với chúng ta nhưng khi thực sự bắt tay vào thực hiện thì nó đã cho
thấy áp lực về mặt lý thuyết và thực tế là không nhỏ. Đề tài cho em những kiến thức
cũng như những kinh nghiệm về công nghệ mà một kỹ sư, kỹ thuật viên ngành hóa
cần phải biết.
Tuy nhiên hạn chế của đề tài là chưa nêu được tất cả về công nghệ của nhà
máy, các thiết bị cũng như công nghệ phụ trợ cho dây chuyền sản xuất chính của
nhà máy rất hay và cần học tập. Với những kiến thức đã được học cùng với thời
gian có hạn nên em chưa đi sâu tìm hiểu hết các giai đoạn cũng như toàn bộ dây
chuyền, cụ thể của từng thiết bị. Mong rằng công nghệ sản xuất acid sunfuric trong
tương lai sẽ được phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Nội dung về đề tài này sẽ được
nhiều người nghiên cứu hơn nữa.
Các máy móc cũng như thiết bị phục vụ trong quá trình sản xuất axit sunfuric
của nhà máy Super Phốt Phát Long Thành hơi cũ, cần vệ sinh cũng như đại tu lại để
tránh tình trạng máy móc bị hỏng, rò rỉ axit cũng như khí độc ra ngoài gây nguy
hiểm cho người lao động và ô nhiễm môi trường khí quyển cũng như ảnh hưởng tới
năng suất sản xuất axit sunfuric của nhà máy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Bình, “Công nghệ sản xuất axit sunfuric”, Trường Đại Học Bách Khoa
Hà Nội, (1999).
[2] Nhiều tác giả, “Sổ tay quá trình và thiết bị công nghệ hóa chất tập 2”, Nhà
xuất bản Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội, (2006).
[3] Một số tài liệu tham khảo của nhà máy Super Phốt Phát Long Thành.