You are on page 1of 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LỊCH SỬ

----o0o----

TIỂU LUẬN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

Đề tài: Chủ đề 14: Phân tích nội dung cơ bản đường lối
kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Giảng viên hướng dẫn: TS. Lương Thị Phương Thảo

Nhóm sinh viên thực hiện:

48. Hà Thị Vân Dung – MSV: 21070584

47. Trần Gia An – MSV: 21070908

51. Hoàng Thị Hồng – MSV: 21070530

52. Vũ Công Minh – MSV: 21070782

60. Nguyễn Tiến Tân – MSV: 21070211

Mã lớp: HIS100111

Trường Quốc Tế

Hà Nội 2021

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3

NỘI DUNG ............................................................................................................ 6

Chương 1: CHỦ TRƯƠNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH


MẠNG .................................................................................................................... 6

1.1.Hoàn cảnh nước ta trước CMT8 ................................................................... 6

1.1.1.Thuận lợi ................................................................................................ 6

1.1.2.Khó khăn ................................................................................................ 6

1.2.Chủ trương “Kháng chiến – Kiến quốc” ...................................................... 8

1.2.1.Quá trình thực hiện ................................................................................ 8

1.2.2.Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm .............................................. 9

Chương 2: ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP ........ 11

2.1.Hoàn cảnh lịch sử ....................................................................................... 11

2.2.Quá trình hình thành và ND đường lối ....................................................... 12

2.2.1.Quá trình hình thành ............................................................................ 12

2.2.2.Nội dung đường lối .............................................................................. 13

2.3.Đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân ........................................... 17

2.3.1.Hoàn cảnh lịch sử ................................................................................ 17

2.3.2.Chính cương Đảng lao động Việt Nam ............................................... 17

2.4.Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm . 19

2.4.1.Kết quả ................................................................................................. 19

2.4.2.Ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi ........................................... 20

2.4.3.Bài học kinh nghiệm ............................................................................ 21

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 24

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 25

2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi đã chứng minh được sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, nhưng ngay sau khi giành được thắng lợi đó thì
nhân dân và cả nước ta rơi vào thế “Ngàn cân treo sợi tóc” và phải tiếp tục cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là có thêm sự can thiệp của Mĩ. Lực
lượng của ta vẫn còn ít, nhỏ bé, vũ khí vẫn còn thô sơ, lạc hậu so với kẻ thù.
Đứng trước những thuận lợi và khó khăn Đảng ta đã đưa ra những quan điểm,
chủ trương, chính sách, đường lối cụ thể, sáng tạo, kịp thời, phù hợp với thời
điểm, tình hình nước ta, trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, văn
hoá, ngoại giao,…
Những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng ta đó là sự kế thừa, phát
huy, sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh
nhân dân và vai trò quần chúng trong lịch sử, truyền thống đánh giặc giữ nước
của dân tộc ta, mối quan hệ con người với vũ khí trang bị.
Thực hiện theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 1946 của Người “Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ...”, cả Đảng và nhân dân đồng lòng kháng chiến thực dân Pháp và can
thiệp của Mĩ. Vì thế mà đã đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta nhanh chóng ổn
định, phát triển đúng hướng, đúng chiến lược, từng bước từng bước đi đến thắng
lợi cuối cùng.
Vậy nên để chứng minh và làm sáng tỏ nhận thức đúng đắn, sáng tạo hơn về
đường lối, chủ trương kháng chiến chống Pháp và can thiệp của Mĩ của Đảng,
chúng em đã chọn đề tài: “Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp và can thiệp Mĩ của Đảng (1945- 1954)” để làm bài tiểu luận của
nhóm.
2. Tổng quan đề tài
Đề tài nghiên cứu chủ yếu sử dụng các nguồn tài liệu đã được công bố trong
các công trình nghiên cứu như: Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam –
Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh; Bộ giáo dục và Đào tạo “Giáo trình lịch Đường lối cách mạng của
Đảng cộng sản Việt Nam, NXB chịnh trị Quốc gia, ST, 2009. Với tiểu luận

3
nghiên cứu này, chúng em muốn đưa một cái nhìn tổng quan về đường lối kháng
chiến của Đảng chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này giúp chúng em trang bị cho bản thân những hiểu
biết cơ bản về tình hình nước ta trong giai đoạn này: những chủ trương,
chính sách và đường lối của Đảng đã đề ra để có thể vận dụng để giải quyết
những khó khăn mà nhân dân ta phải đối mặt, đưa cuộc cách mạng của dân tộc đi
đến thắng lợi hoàn toàn.
Nghiên cứu vấn đề này còn bồi dưỡng niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt, tài
tình của Đảng, lý tưởng và đường lối của Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm của
bản thân trước những nhiệm vụ, vận mệnh của đất nước, giúp nâng cao tinh thần
yêu nước, đóng góp tài sức, trí tuệ để cùng nhau xây dựng đất nước, đặc biệt là
trong thời kỳ đất nước đang phát triển và hội nhập trên trường quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đường lối kháng chiến của Đảng (1946-
1954) với tất cả các mặt biểu hiện của nó.
Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi nghiên cứu đường lối của Đảng Cộng
Sản Việt Nam về kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1946 –
1954).
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
và chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đề tài chủ yếu thực hiện
phương pháp: Phương pháp lịch sử, phân tích, tiếp cận, kế thừa,...
6. Đóng góp của tiểu luận
Đề tài góp phần tìm hiểu sâu hơn, rộng hơn về đường lối của Đảng trong
kháng chiến thực dân Pháp; làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên
trong việc học tập và giảng dạy. Góp phần nâng cao tinh thần truyền thống yêu
nước, lòng tự hào dân tộc và lòng thành kính với Đảng, Chính phủ và Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ ngày nay.
7. Kết cấu của đề tài
Bao gồm 4 phần: mở đầu, nội dung, kết luận và tài liệu tham khảo. Phần nội
dung được kết cấu thành 2 chương:

4
+ Chương 1: Chủ chương xây dựng và bảo vệ chính quyền CM
+ Chương 2: Đường lối kháng chiến chống TD Pháp (1946-1954)
8. Lời cảm ơn
Do hiểu biết còn hạn hẹp, chưa có được cái nhìn sâu sắc để hiểu biết hết
đường lối của Đảng và cũng do đây là lần đầu tiên chúng em viết tiểu luận nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm. Chúng em mong sẽ nhận được sự
góp ý thẳng thắn, chân thành từ phía cô để giúp bài tiểu luận của chúng em được
hoàn thiện hơn. Từ đó chúng em có được những kinh nghiệm quý báu cho bản
thân.
Chúng em xin chân thành cảm ơn cô!

5
NỘI DUNG
Chương I: Chủ trương xây dựng và bảo vệ chính
quyền CM
1.1 Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trước CMT8
1.1.1.Thuận lợi
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng
đầu được hình thành. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc điều kiện phát
triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng
đang vươn lên mạnh mẽ.
Ở trong nước, thuận lợi cơ bản và lâu dài là Việt Nam trở thành quốc gia độc
lập, tự do; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân
của chế độ dân chủ mới; Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo
cách mạng trong cả nước. Việc hình thành hệ thống chính quyền cách mạng
thống nhất từ cấp Trung ương đến cơ sở trong toàn quốc với những phẩm chất
chính trị hoàn toàn mới; cơ cấu tổ chức bộ máy, mục đích hoạt động gắn liền với
lợi ích của nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân,…
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng niềm tin, sức mạnh của nhân dân cả nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với uy tín đạo đức, trí tuệ và tài năng của mình đã trở
thành trung tâm đại đoàn kết toàn dân tộc, là biểu tượng của nền độc lập, tự do
của Việt Nam. Sự phát triển nhanh của Quân đội quốc gia Việt Nam, việc thống
nhất lực lượng Công an trong toàn quốc, thành lập các tòa án quân sự và xây
dựng các tổ chức bán vũ trang khác... trở thành công cụ chuyên chính tin cậy, sắc
bén để bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng,
1.1.2.Khó khăn
a)Đối ngoại
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, mặc dù chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu diệt, lực
lượng đế quốc đã suy yếu hơn trước, song với bản chất phản động, bọn Đế quốc
ra sức đàn áp phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng
dân tộc, giành giật lại những thuộc địa đã mất. Việt Nam trở thành đối tượng đàn
áp và giành giật của các thế lực Đế quốc và tay sai.

6
Theo qui định của hội nghị Ianta và Pôtxđam, vấn đề giải pháp quân đội
Nhật ở Đông Dương, mà cụ thể là ở Việt Nam được qui định như sau: phía Bắc
vĩ tuyến 16 giao cho 20 vạn quân Tưởng, mà đằng sau quân Tưởng là nước Mỹ.
Còn Nam vĩ tuyến 16 được giao cho quân Anh, mà đằng sau quân Anh là thực
dân Pháp.
Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt Nam lại cùng lúc phải đối phó với
nhiều kẻ thù đến như vậy. Đó là chưa kể đến lúc này ở Việt Nam còn có 6 vạn
quân Nhật đang chờ giải giáp. Lúc này, Đảng ta nhận định: Việt Nam nằm trong
vòng vây trùng trùng điệp điệp của chủ nghĩa Đế quốc. Trong tất cả các kẻ thù
lúc bấy giờ, Pháp chính là kẻ thù nguy hiểm nhất đối với nền độc lập của Việt
Nam.
b)Đối nội
Về chính trị: Hệ thống chính quyền còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm
lãnh đạo. Khối đại đoàn kết toàn dân cần có thời gian củng cố. Chính phủ Hồ Chí
Minh vừa mới thành lập, chưa được một nước nào trên thế giới công nhận nên
gặp nhiều khó khăn trong đối ngoại. Bọn phản động ngóc đầu dậy ráo riết hoạt
động.
Về kinh tế - tài chính: Kinh tế- tài chính lâm vào tình trạng kiệt quệ. Kinh tế
Việt Nam tiêu điều, xơ xác, nạn đói tràn lan, mùa màng thất bát. Nhà máy nằm
trong tay tư bản pháp, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tài chính khánh kiệt,
ngân quỹ trống rỗng, kho bạc Nhà nước chỉ còn 1,2 triệu, trong đó 58 vạn rách
nát, ngân hàng Đông Dương đang nằm trong tay tư bản nước ngoài. Quân Tưởng
lại tung thêm tiền quan kim và quốc tệ đang mất giá khiến tình hình càng thêm
rối loạn. Bức tranh kinh tế - tài chính ảm đạm.
Về văn hóa – xã hội: Hậu quả chính sách văn hóa ngu dân để lại là 95% dân
số thất học, mù chữ; các tiêu cực xã hội tràn lan, các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật
xấu, tệ nạn do chế độ cũ để lại rất to lớn.
→Chính quyền non trẻ lúc và nhân dân Việt Nam này phải đối phó với nhiều loại
kẻ thù cả trong và ngoài nước, nền độc lập, tự do của Tổ quốc bị đe dọa nghiêm
trọng, vận mệnh dân tộc “như ngàn cân treo sợi tóc”; hai khả năng đặt ra cho
chính quyền cách mạng: một là đánh mất chính quyền, phải quay trở lại kiếp
sống lô nệ, hai là xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.

7
→Chỉ thị nhận định thuận lợi là cơ bản, khó khăn có thể khắc phục được, Đảng
lựa chọn con đường củng cố xây dựng chính quyền và đề ra chủ trương và biện
pháp cụ thể được thể hiện qua chỉ thị “Kháng chiến-kiến quốc” 25/11/1945
Trung ương Đảng.
1.2.Chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” của Đảng
1.2.1.Quá trình thực hiện
Trước tình hình mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng
suốt phân tích tình hình, dự báo chiều hướng phát triển của xu thế cách mạng thế
giới và lực lượng dân tộc mới, từ đó đưa ra chính sách. Giữ vững chính quyền và
bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ra “Chỉ thị khởi nghĩa, lập quốc” vạch đường lối cho cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Chủ trương kháng chiến và kiến quốc của
Đảng là:
+ Về chỉ đạo chiến lược, Đảng xác định mục tiêu mà cách mạng Việt Nam đề ra
lúc này vẫn là giải phóng dân tộc, khẩu hiệu hành động lúc này là “Tổ quốc trên
hết, Tổ quốc có trước”, nhưng không phải là đấu tranh cho. độc lập nhưng để duy
trì độc lập.
+ Xác định kẻ thù, Đảng đã phân tích âm mưu chống phá Đông Dương của các
nước đế quốc và chỉ rõ: “Kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược,
phải tập trung hỏa lực đấu tranh cho chúng”. Vì vậy, cần thành lập “Mặt trận dân
tộc thống nhất chống thực dân Pháp”; mở rộng Mặt trận Liên đoàn Việt Nam để
thu hút các tầng lớp nhân dân; đoàn kết Mặt trận Việt Nam - Mianma - Lào, v.v.
+Về phương hướng, nhiệm vụ, Đảng bộ đưa ra 4 nhiệm vụ cấp bách chủ yếu cần
phải thực hiện: “Củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, xóa bỏ
giặc giã, nâng cao đời sống nhân dân.” Đảng bộ tuân thủ chủ trương thêm bạn
bớt thù, thực hiện đúng khẩu hiệu quân đội Tưởng Giới Thạch “hữu nghị Trung -
Việt” và khẩu hiệu “Độc lập chính trị, nhân nhượng kinh tế” chống Pháp.
Chỉ thị Toàn quốc kháng chiến có ý nghĩa to lớn. Chỉ thị đã xác định đúng kẻ
thù chính của dân tộc Việt Nam là thực dân Pháp xâm lược. Nó đã kịp thời chỉ ra
những vấn đề cơ bản về đường lối, chiến lược cách mạng, đặc biệt làm rõ hai
nhiệm vụ chiến lược mới của cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là
xây dựng đất nước và bảo vệ bờ cõi. Đề ra những nhiệm vụ và biện pháp cụ thể

8
để khắc phục nạn đói, giặc dốt, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đối nội và đối
ngoại của chính quyền cách mạng. Nội dung của cuộc Kháng chiến chống Nhật
và lập quốc, trước hết là từ tháng 9 đến cuối năm 1945, được Đảng trên tinh thần
quyết tâm, khẩn trương, linh hoạt, đổi mới, tập trung triển khai trên thực tế. Như
bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính quy, ban hành hiến pháp, xây dựng
các tổ chức đoàn thể, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, xóa nạn mù
chữ, mở trường mới. năm, huấn luyện quân sự, hòa hoãn với Tưởng ở miền Bắc,
và thực dân Pháp ở miền Nam Chống Pháp, đuổi Giang về nước ...
1.2.2.Kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm
Cuộc đấu tranh thực hiện chủ trương kháng chiến kiến quốc của Đảng giai
đoạn 1945-1946 đã diễn ra rất gay go, quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao và đã giành được những kết quả hết sức to
lớn.
Về chính trị – xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội
mới – chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử.
Hiến pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy
chính quyền từ Trung ương đến làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công
cụ chuyên chính như Vệ quốc toàn, Công an nhân dân được thiết lập và tăng
cường. Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt Minh, Hội Liên hiệp quốc dân
Việt Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được xây
dựng và mở rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được thành
lập.
Về kinh tế, văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa
bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ
quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được hồi phục. Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản
được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. Tháng
11-1946, giấy bạc “Cụ Hồ” được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức
khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới đã
bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt,
bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946, cả nước đã có thêm 2.5
triệu người biết đọc, biết viết.

9
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp
thời lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào
Nam tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quân Pháp đánh ra Trung Bộ. Ở
miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và
Chính phủ ta đã thực hiện sách lược nhân nhượng với quân đội. Tưởng tay sai
của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực lượng chổng Pháp ở miền
Nam. Khi Pháp – Tưởng ký Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận mua
bán quyền lợi với nhau, cho Pháp kéo quân ra miền Bắc, Đảng lại mau lẹ chỉ đạo
chọn giải pháp hòa hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về
nước. Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtennơbờlô
(Phongtennebleau, Pháp), Tạm ước 14-9-1946 đã tạo điều kiện cho quân dân ta
có thêm thời gian để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Ý nghĩa của những thành quả đấu tranh nói trên là đã bảo vệ được nền độc
lập của đất nước, giữ vững chính quyền cách mạng; xây dựng được những nền
móng đầu tiên và cơ bản cho một chế độ mới, chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa; chuẩn bị được những điều kiện cần thiết, trực tiếp cho cuộc kháng chiến
toàn quốc sau đó.
Bài học kinh nghiệm trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện chủ trương
kháng chiến kiến quốc giai đoạn 1945-1946 là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc, dựa vào dân để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi
dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân
nhượng có nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng
cần thiết trong hoàn cảnh, cụ thể. Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng lực
lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng
phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước khi kẻ địch bội ước.

10
Chương 2: Đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp 1946-1954
2.1.Hoàn cảnh lịch sử
Đảng, Chính phủ và nhân dân ta muốn hoà bình nên đã nhân nhượng kí với
Pháp Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9. Chấp hành chủ trương của Chính
phủ, nhân dân ta kiên trì đấu tranh giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian để
chuẩn bị lực lượng, đề phòng khả năng bất trắc phải kháng chiến chống Pháp lâu
dài. Nhưng chính phủ Pháp không thành thật trong việc kí Hiệp định Sơ bộ
6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 với Việt Nam, nên kí xong lại tìm cách phá hoại,
đẩy mạnh việc chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa.
Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, Pháp đánh vào các vùng tự do của ta. Ở Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ: tháng 11- 1946, Pháp khiêu khích, tấn công ta ở Hải
Phòng, Lạng Sơn. Tháng 12 – 1946, Pháp đóng chiếm trái phép ở Đà Nẵng, Hải
Dương và đưa thêm viện binh đến Hải Phòng. Ở Hà Nội, tình hình nghiêm trọng
hơn. Trong các ngày 15 và 16, quân Pháp bắn súng, ném lưu đạn ở nhiều nơi: đốt
Nhà thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài chính và Bộ giao
thông công chính. Chúng còn cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, gây
ra những vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh,... Trắng trợn hơn,
trong các ngày 18 và 19/12/1946, tướng Moóclie gửi tối hậu thư cho ta yêu cầu ta
phải giải tán lực lượng vũ trang và giao lại quyền kiểm soát thủ đô cho Pháp.
Nếu yêu cầu đó không được chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng 20/12/1946,
quân Pháp sẽ chuyển sang hành động!
Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm
nô lệ”, ngày 18-12-1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng
họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội)
đã đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình hình, kịp thời đề ra chủ trương đối phó
và quyết định phát động toàn dân, toàn quốc nhất tề đứng lên tiến hành cuộc
kháng chiến chống xâm lược Pháp. Tối ngày 19-12-1946, vào lúc 20 giờ, ở Hà
Nội và tất cả các đô thị từ Bắc vĩ tuyến 16 trở ra, quân và dân ta đồng loạt nổ
súng chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Rạng sáng 20-12-
1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, khẳng định
quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền độc
11
lập, tự do: “Hỡi đồng bào tổ quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân
nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân càng lấn tới, vì chúng
quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!”
2.2.Quá trình hình thành và nội dung đường lối
2.2.1.Quá trình hình thành
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước trong quá trình
chỉ đạo Nam bộ kháng chiến, qua thực tiễn đối phó với âm mưu, thủ đoạn của
địch cũng như từ thực tiễn chuẩn bị lực lượng về mọi mặt của ta.
Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong chỉ thị “Kháng
chiến kiến quốc”, Đảng ta nhận định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc là
thực dân Pháp, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ
đạo cuộc kháng chiến Nam bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết
hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp
định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.
Ngày 19/10/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị quân sự
toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận
định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình nhất định phải đánh
Pháp”, Hội nghị đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ
chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị
“Công việc khẩn cấp bây giờ” ngày 05/11/1946, Hồ Chí Minh đã nêu lên những
việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định
lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung
trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ngày 22/12/1946, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” của Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946 và tác phẩm “Kháng chiến nhất định
thắng lợi” của Trường Chinh xuất bản đầu năm 1947.

12
2.2.2.Nội dung đường lối kháng chiến
2.2.2.1.Cơ sở lý luận và thực tiễn
Xuất phát từ những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ
nghĩa Mac-Lenin; xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng, của bối cảnh
lịch sử lúc bầy giờ; Xuất phát từ truyền thống yêu nước của nhân dân ta và được
kế thừa những kinh nghiệm đánh giặc ngoại xâm của cha ông. Đường lối kháng
chiến của Đẳng đã được đề ra vô cùng đúng đắn, sang tạo và kịp thời. Có tác
dụng to lớn trong việc đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng vào giai đoạn ổn định
và phát triển đúng hướng.
2.2.2.2.Nội dung đường lối
Mục đích kháng chiến: Dân tộc ta kháng chiến đánh bọn phản động thực dân
Pháp, nhằm giành độc lập và thống nhất, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc
và phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chống thực dân Pháp là kế tục sự nghiệp
của Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến này có tính chất giải phóng dân tộc
và dân chủ mới.
Phương châm kháng chiến: “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh
sinh”.
Toàn dân kháng chiến có nghĩa là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân;
động viên toàn dân, đoàn kết toàn dân tộc tích cực tham gia cuộc kháng chiến.
Phải xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc,
“mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi phố là một mặt
trận”. Trong đó Quân đội nhân dân và các lực lượng vũ trang là lực lượng làm
nòng cốt cho toàn dân đánh giặc
“Đường lối này xuất phát từ truyền thống chống giặc ngoại xâm lâu đời
của dân tộc ta; từ mục đích của cuộc kháng chiến là vì độc lập dân tộc, vì
tự do dân chủ của nhân dân; từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng” của chủ nghĩa Mác – Lênin; từ tư tưởng “chiến tranh nhân
dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và từ chủ trương “kháng chiến toàn diện,
trường kì, tự lực cánh sinh”. Muốn phát huy sức mạnh của toàn dân
kháng chiến phải đánh lâu dài, muốn có lực lượng đánh lâu dài phải huy

13
động lực lượng toàn dân. Có lực lượng toàn dân tham gia mới thực hiện
được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh”.
Chúng ta có thể thấy từ các đời vua Hùng Vương nhân dân ta đã biết đứng
dậy cùng nhau đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Từ thời Bà Trưng, Bà Triệu…
cho đến Nguyễn Huệ, Đinh Tiên Hoàng những vị anh hùng kiên cường bất khuất,
không chịu khuất phục trước kẻ thù này có được chiến thắng không chỉ nhờ vào
chiến lược hay sự chiến thắng của họ có được mà còn nhờ vào sự ủng hộ, tinh
thần đoàn kết quyết tâm chống giặc của nhân dân ta. Đây cũng chính là động lực
giúp nhân dân ta vượt qua mọi rào cản ngoại xâm và ngày càng khẳng định rõ
hơn về quyền lãnh thổ của đất nước bằng sự chung sức, chung lòng. Tinh thần đó
được cha ông ta đúc kết thành câu ca dao:
“Một cây làm chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Toàn diện kháng chiến có nghĩa là đánh địch trên tất cả các phương diện:
quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó mặt trận quân sự, đấu
tranh vũ trang giữ vai trò tiên phong, mũi nhọn, mang tính quyết định.
+Về chính trị: thực hiện đoàn kết, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các
đoàn thể nhân dân; đoàn kết Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa
bình.
+Về quân sự: thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,
tiêu diệt địch. Đánh chính quy “Triệt để dùng du kích, vận động chiến; bảo toàn
thực lực, kháng chiến lâu dài, vừa đánh vừa võ thêm trang, vừa đánh vừa đào tạo
thêm cán bộ”.
+Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung
phát triển nông nghiệp, thủ CN, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
+ Về văn hóa: xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân
chủ mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
+Về ngoại giao: thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp với
dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp
công nhận Việt Nam độc lập.
“Sở dĩ phải kháng chiến toàn diện vì địch đánh ta toàn diện, ta cũng phải
chống chúng toàn diện. Đồng thời, ta vừa “kháng chiến” vừa “kiến
quốc”, tức là xây dựng chế độ mới nên phải xây dựng toàn diện. Mặt

14
khác, thông qua những hình thức của cuộc kháng chiến toàn diện mới tạo
điều kiện cho toàn dân tham gia kháng chiến tuỳ theo khả năng của
mình”.
Với sự xuất phát trước từ thực dân Pháp, chúng đánh ta trên tất cả mọi lĩnh
vực: chính trị, quân sự, văn hóa, tư tưởng,... bởi sự tương quan lực lượng không
cân, vì vậy chúng ta cũng phải đánh chúng trên tất cả các mặt thì mới tạo nên
chiến thắng toàn diện, phát huy hết sức mạnh tiềm năng của đất nước và buộc
chúng phải khuất phục. Đánh bại âm mưu chiến tranh toàn diện và lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh của bọn thực dân Pháp. Như vậy, để kháng chiến thắng lợi
ta phải xây dựng một hậu phương kháng chiến xây dựng vững chắc, 1 hậu
phương vững mạnh về mọi mặt, đồng thời ta phải biết tranh thủ sự ủng hộ và
giúp đỡ của quốc tế.
Trường kỳ kháng chiến có nghĩa là ta phải đánh lâu dài để chống âm mưu
đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên địa, địa
lợi, nhân hòa”, xoay chuyển tương quan lực lượng theo chiều hướng có lợi cho
ta.
“Đây là một chủ trương sáng suốt của Đảng dựa trên sự vận dụng chủ
nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh của nước ta một cách khoa học; đồng
thời, kế thừa, phát huy truyền thống của dân tộc “lấy yếu chống mạnh”,
“lấy chính nghĩa thắng hung tàn”…
Mặt khác, lúc mở đầu chiến tranh, địch mạnh hơn ta rất nhiều về quân sự.
Chúng có cả một đội quân nhà nghề, trang bị hiện đại, vũ khí tối tân, lại
có các đế quốc khác giúp đỡ. Âm mưu của chúng là đánh nhanh thắng
nhanh để kết thúc chiến tranh. Ngược lại, quân đội ta còn non trẻ, vũ khí
thô sơ. Ta đánh lâu dài để vừa đánh, vừa tiêu hao dần lực lượng của địch,
phát triển dần lực lượng của ta, đợi đến khi ta mạnh hơn địch mới đánh
bại được chúng”.
Đánh lâu dài nhân dân ta sẽ có thời gian để vừa kháng chiến vừa kiến quốc,
vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phương và vận động quốc tế. Tuy nhiên
kháng chiến lâu dài cũng cần biết nắm bắt thời cơ, trên cơ sở thực hiện kháng
chiến phương châm kháng chiến lâu dài còn phải giành thắng lợi từng bước, làm
thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, tiến lên tranh thủ

15
giành chiến thắng quyết địch kết hợp với giải pháp ngoại giao để kết thúc cuộc
kháng chiến tranh gây mất mát đau thương cho nhân dân.
Tự lực cách sinh có nghĩa là ta phải dựa vào sức mình là chính: phải tự túc,
tự cấp về mọi mặt, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước khác.
“Đảng ta đề ra chủ trương này vì hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố chủ
quan và khách quan, trong đó yếu tố chủ quan giữ vai trò quyết định nhất.
“Tự lực cánh sinh” sẽ phát huy tiềm năng vốn có của cả dân tộc. Tranh
thủ sự ủng hộ quốc tế nhưng ta không ỷ lại vào sự giúp đỡ đó. “Lấy sức ta
mà giải phóng cho ta” là quan điểm xuyên suốt trong tiến trình cách
mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Đây là con đường duy nhất
đúng để phát huy tiềm năng vốn có của dân tộc: truyền thống yêu nước,
tinh thần tự lực tự cường… Sức mạnh nội sinh một khi được khơi dậy thì
sự giúp đỡ của bên ngoài mới được phát huy. Hơn nữa, chỉ khi biết dựa
vào chính mình thì mới không trông chờ, ỷ lại.”
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quan điểm dựa vào sức mình là
chính có ý nghĩa rất lớn, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. Trong bối
cảnh cách mạng nước ta mới thành công, lại bị bao vây bốn phía, chưa có quan
hệ rộng rãi với các nước bạn bè, nếu không phát động, tổ chức được toàn dân và
dựa vào sức mình là chính thì không thể kháng chiến thắng lợi. Trong sự vận
động của sự vật, nhân tố nội tại chủ quan bao giờ cũng giữ vai trò quyết định.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp nhân tố này càng nổi bật.
Triển vọng kháng chiến: Mặc dù là lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất
định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là
đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các
nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với
thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm
đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển
đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi. Tháng 1-1948, Hội nghị Trung ương
Đảng mở rộng đã đề ra nhiệm vụ và biện pháp về quân sự, chính trị, văn hóa
nhằm thức đẩy cuộc kháng chiến, phát động phong trào thi đua yêu nước xây
dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt. Tháng 1-1950, Hội nghị toàn quốc của

16
Đảng chủ trương gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng
phản công.
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 đến năm 1950,
Đảng đã tập trung chỉ đạo chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố các
vùng tự do lớn, đánh bại các cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo
đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách chống phá thủ đoạn “lấy chiến tranh
nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Thắng
lợi của chiến dịch Biên giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí
xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến
trường Bắc Bộ.

2.3.Đường lối xây dựng chế độ dân chủ nhân dân


2.3.1.Bối cảnh lịch sử
Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều
chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt
quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã
giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào chiến tranh Đông Dương tìm cơ
hội thay thế Pháp. Điều kiện lịch sử đó đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh
đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
Tháng 2 – 1951, Đảng Cộng sản Đông Dương họp Đại hội đại biểu lần thứ II
tại Tuyên Quang. Đại hội nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và đưa ra nghị quyết chia tách
Đảng Cộng sản Đông Dương thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng
chiến của ba dân tộc đi tới thắng lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai
lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

2.3.2.Chính cương Đảng lao động Việt Nam


Đại hội đã thông qua các văn kiện quan trọng, đặc biệt là bản “Chính cương
Đảng Lao động Việt Nam”. Nội dung cơ bản của Chính cương Đảng Lao động
Việt Nam:

17
Tính chất xã hội gồm 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và
nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mẫu thuẫn chủ
yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất DCND và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn
đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống
thực dân Pháp.
Đối tượng của cách mạng: Cách mạng Việt Nam có hai đối tượng: đối tượng
chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; đối
tượng phụ là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động.
Nhiệm vụ của cách mạng: là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập
và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong
kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tạo cơ sở
cho chủ nghĩa xã hội.
Động lực của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam: là giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư
sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai
cấp, tầng lớp và phần tử đó hợp thành nhân dân với nền tảng là liên minh công –
nông và lao động trí thức.
Đặc điểm cách mạng: Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân
dân làm động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công
nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ, cũng
không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng tư sản dân
chủ lối mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Triển vọng cách mạng: là cách mạng Việt Nam nhất định se tiến lên chủ
nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Com đường đi lên
chủ nghĩa xã hội là một quá trình đấu tranh lâu dài với 3 giai đoạn không tách rời
nhau, mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau.
Chính sách của Đảng gồm 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế đọ dân chủ
nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến
thắng lợi.

18
Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ, phải tranh thử
sự giúp đỡ của các nước XHCN và nhân dân thế giới, trước hết là Trung Quốc,
Liên Xô; thực hiện đoàn kết Việt – Miên - Lào.
Đường lối chính sách của Đại hội đã được bổ sung, phát triển qua các hội
nghị Trung ương tiếp theo.
Tại Hội nghị Trung ương 1 (3 – 1951), Đảng đã phân tích tình hình quốc tế
và trong nước, nhấn mạnh cần tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến tranh,
củng cố, gia cường các lực lượng dân quân vũ trang, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh
doanh và gọi vốn tư nhân phát triển công thương nghiệp
Tại Hội nghị Trung ương 2 (10 – 1951), Đảng nêu chủ trương đẩy mạnh
cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ: tiêu diệt sinh lực địch, giành ưu
thế quân sự, phá âm mưu thâm độc của địch, đẩy mạnh kháng chiến các vùng
tạm bị chiếm, củng cố phát triển sức kháng chiến của toàn quốc, toàn dân.
Tại Hội nghị Trung ương 4 (1 – 1953), Đảng tập trung nghiên cứu vấn đề
cách mạng ruộng đất, ra chủ trương thực hiện giảm tô tiến tới cách mạng ruộng
đất. Hội nghị cho rang muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi thì phải nâng cao
quyền lợi kinh tế, chính trị của nhân dân, chia ruộng đất cho nông dân.
Tại Hội nghị Trung ương 5 (11 – 1953), Đảng phát động quần chúng giảm
tô, tiến hàng cải cách ruộng đất trong kháng chiến để đảm bảo kháng chiến thắng
lợi, đồng thời khẳng định cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nhân dân,
rộng lớn, phức tạp vì vậy cần có sự chuẩn bị đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ
Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trong giai đoạn 1951 –
1954.

2.4.Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm
2.4.1.Kết quả
Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ chức,
tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính quyền được
củng cố từ Trung ương đến cơ sở. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên
Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dần phát triển lên một bước mới.

19
Chính sách ruộng đất được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu người cày
có ruộng.
Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có sáu đại đoàn bộ
binh, một đại đoàn công binh - pháo binh. Thắng lợi của các chiến dịch Trung
du, Đường 13, Hà - Nam- Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, v.v. đã tiêu
diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và dân cư, mở rộng
vùng giải phóng của Việt Nam và giúp đỡ cách mạng Lào, v.v.. Chiến thắng
Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch
Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới
như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị
áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và
ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta, ngày 27-
12-1953, Ban Bí thư ra Thông tư nêu rõ: "lập trường của nhân dân Việt Nam là
kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta
cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải quyết hòa bình vấn để Việt
Nam". Ngày 8-5- 1954, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh Đông Dương
chính thức khai mạc tại Giơnevơ (Thụy Sĩ). Ngày 21-7-1954, các văn bản của
Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương,
được ký kết, cuộc khang chiến chổng thực dân Pháp xâm lược của quân dân ta
kết thúc thắng lợi.
2.4.2.Ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thắng lợi
• Ý nghĩa lịch sử
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công
nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất
bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều
kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, trở thành hậu phương
lớn, chỗ dựa vững chắc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam sau này và đóng

20
vai trò là nhân tố quyết định nhất đối với công cuộc đấu tranh giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước châu Á, châu Phi và Mĩ Latinh; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực
lượng cho nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và
Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương,
mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống
thuộc địa của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu
đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của
nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình,
dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
• Nguyên nhân thắng lợi
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là nhờ có sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng
chiến đúng đắn, sáng tạo; toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, dũng cảm
trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược giành
được thắng lợi cũng là nhờ có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả
nước, mặt trận dân tộc thống nhất được cũng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang
ba thứ quân sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng
lớn, vững chắc về mọi mặt.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân
hai nước Lào và Campuchia được tiến hành trong liên minh chiến đấu của nhân
dân ba nước chống kẻ thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của Trung
Quốc, Liên Xô và câc nước dân chủ nhân dân, của nhân dân Pháp và loài người
tiến bộ.
2.4.3.Bài học kinh nghiệm
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Việt Nam là cuộc
chiến đấu quyết liệt, vô cùng anh dũng, không ngơi nghỉ trên mọi lĩnh vực, mọi
mặt trận, trên phạm vi cả nước. Sự hy sinh của Đảng, của quân đội và nhân dân

21
ta là vô bờ bến. Thắng lợi của cuộc kháng chiến, ghi nhận sự phát triển và thành
công trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh giải phóng dân tộc của Đảng Lao động
Việt Nam và để lại nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu.
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của
cuộc kháng chiến trong những ngày đầu.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm
vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ chức điều hành cuộc
chiến tranh phù hợp với đặc thù của cuộc kháng chiến trong từng giai đoạn.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng quân sự 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời mọi
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị-quân sự của cuộc kháng chiến.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh
đạo toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt
trận.

22
KẾT LUẬN
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta (1946-
1954) là một điển hình về một dân tộc nhỏ bé thể thắng một dân tộc lớn, một
quân đội trang bị vũ khí kém có thể thắng một đội quân xâm lược đông có trang
bị tốt hơn. Đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn đuốc rực sáng đã dẫn dắt nhân dân ta làm
nên thắng lợi vẻ vang. Đường lối đó là một mẫu mực về tính kiên cường và tinh
thần sáng tạo, những đức tính thuộc bản chất của đảng Mác – Lênin chân chính.
Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có những
quan điểm cơ bản là: Phát động và tổ chức toàn dân kháng chiến; kháng chiến
toàn diện trên tất cả các mặt trận: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao;
kháng chiến lâu dài; dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ
của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của cả loài người tiến bộ. Đó
là sự kết hợp nhuần nhuyễn nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về
chiến tranh cách mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc, giữ
nước của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của các
nước anh em và của thế giới. Đường lối đó giải quyết được khó khăn lớn nhất mà
nhân dân ta phải vượt qua là: muốn giành thắng lợi thì phải có sức mạnh hơn
địch mà trong thời kỳ đầu của chiến tranh thì lực lượng vũ trang của ta so với đội
quân xâm lược chỉ như lạng với cân trên cán cân so sánh lực lượng.
Sức mạnh của một cuộc cách mạng, của chiến tranh cách mạng là sức mạnh
của nhân dân. Nhân dân tạo ra mọi sức mạnh. Cuộc chiến tranh chính nghĩa
chống xâm lược, giải phóng dân tộc, nhân dân đều đứng dậy chiến đấu để bảo vệ
quyền sống, quyền tự do của mình. Trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp,
sức mạnh đó lại càng có tính quyết định. Vì Nhà nước ta vừa mới được thành lập,
còn rất non trẻ. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh có đường lối đúng đắn nên đã
tổ chức phát động được nhân dân đông đảo nhất, mạnh mẽ nhất trong lịch sử dân
tộc và có tính độc đáo sáng tạo của thời đại. Đó là cơ sở để cơ quan lãnh đạo
kháng chiến tổ chức chiến tranh nhân dân; huy động toàn dân đánh giặc. Tuy
nhiên cũng có cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược, nhưng cơ quan lãnh
đạo chiến tranh không có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn và
không có nghệ thuật quân sự tài giỏi thì cũng không giành được thắng lợi. Nhân

23
tố chính nghĩa trong thời đại ngày nay có ý nghĩa rất lớn. Lênin đã nói: “Không
bao giờ người ta có thể đánh bại được một dân tộc trong đó bộ phận lớn công
nhân và nông dân do kinh nghiệm đã hiểu rằng và đã nghiệm thấy rằng họ bảo vệ
chính quyền của họ…”. Phát động và tổ chức toàn dân đánh giặc là phát triển
không ngừng cả về số lượng và chất lượng của lực lượng, và từ đó có thể vận
dụng nhiều phương thức đấu tranh vô cùng phong phú, sinh động và có hiệu quả
cao. Quá trình kháng chiến diễn ra đúng như lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm
thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước”. Đó là kết quả tuyệt vời về huy động lực lượng kháng chiến trong lịch sử
chống xâm lược của dân tộc ta. Sức mạnh của nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo là sức mạnh dời non lấp biển.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã cung cấp cho ta nhiều bài học quý
giá. Những bài học đó đã được vận dụng và nâng cao trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lại cung cấp
những bài học mới cũng vô cùng quý giá cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc ngày
nay.

24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam ( Dùng trong các trường Đại
học, cao đẳng khối không chuyên nghành Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh) – Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa
học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Bộ giáo dục và Đào tạo “Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng cộng
sản Việt Nam” ( Dành cho SV đại học, cao đẳng khối không chuyên Mác –
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị Quốc gia, ST, 2009)
3. Bài giảng môn lịch sử Đảng của giảng viên: Lương Thị Phương Thảo
4. https://cuuduongthancong.com
5. https://thichhohap-duongloicuadang.com
6. Giáo Trình Những Nguyên Lý Cơ Bản Của Chủ Nghĩa Mác-Lênin; NXB
Chính Trị 2011

25

You might also like