You are on page 1of 18

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC UEH


TRƯỜNG KINH TẾ LUẬT VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

MÔN: QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Văn Hoá

Mã học phần: 22C1MAN50200701

Họ và tên sinh viên: Nguyễn Kim Kha-31201020323


Hoàng Lê Xuân Huy-31201025034
Phạm Huỳnh Lan Phương- 31191025294
Nguyễn Lê Ngọc Hân-31201026070
Lê Hoàng Nguyên-31201020415
Vũ Văn Phong- 31201023910

1
TP.HCM, tháng 5 năm 2022

MỤC LỤC

DẪN NHẬP....................................................................................................................................................... 3
CÁC NỘI DUNG CHÍNH, THÔNG TIN CHÍNH YẾU, CÁC MÔ HÌNH ĐƯỢC TRÌNH BÀY TRONG BÀI
ĐỌC CHÍNH..................................................................................................................................................... 3
 CƠ SỞ LÝ THUYẾT :...........................................................................................................................................3
 TÍCH CỰC:...................................................................................................................................................... 5
 TIÊU CỰC:...................................................................................................................................................... 6
DIỄN GIẢI VÀ GIẢI THÍCH TỪNG NỘI DUNG, THÔNG TIN VÀ MÔ HÌNH............................................7
 TRÌNH BÀY Ý NGHĨA CỦA LÝ THUYẾT............................................................................................................7
2.1. QM Practice...................................................................................................................................................7
2.2. Phân loại các dạng đổi mới sáng tạo..........................................................................................................10
 GIỚI THIỆU VÀ GIẢI THÍCH CÁC BIẾN TRONG MÔ HÌNH.................................................................................12
ỨNG DỤNG VÀO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HOẶC VIỆN DẪN ĐẾN CÁC CÂU CHUYỆN, TÌNH
HUỐNG THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM.............................................................................................................. 14

2
DẪN NHẬP

Trong một xã hội phát triển theo từng ngày thì yếu tố mà  các doanh nghiệp cần
chuẩn bị để có thể hội nhập với thế giới đó là quản trị chất lượng (tên tiếng anh là quality
management hay còn được viết tắt là QM) 
Mục đích, điều quan trọng của bài nghiên cứu này là nâng cao kiến thức của việc
quản trị chất lượng và các mối liên hệ giữa việc quản trị chất lượng trong thực tiễn và sự
đổi mới của nó. Mục đích là của bài nghiên cứu là khám phá xem những quan điểm lý
thuyết nào đã thống trị ngành quản trị chất lượng. 
Thông qua các phương pháp như thiết kế, phương pháp và cách tiếp cận thì nhóm
tác giả đã đưa ra những sự phân tích về sự phát triển của thuyết quản trị chất lượng (QM)
trong vòng 30 năm qua. 
Khi mà xã hội đi lên đồng nghĩa với chúng ta phải liên tục cải tiến và đổi mới thì
mới có thể theo kịp được, đổi mới chính là cách nhanh nhất để chúng ta tiến hành nắm
bắt cơ hội, tiếp thu và không để vuột mất nhưng tri thức của nhân loại. 
Đổi mới thường được mô tả là sự phát triển hoặc áp dụng ý tưởng, kiến thức,
phương pháp và kĩ năng mới có thể sáng tạo ra các khả năng độc đáo và thúc đẩy khả
năng cạnh tranh của tổ chức. Một ý tưởng mới có thể là một sản phẩm, quy trình hoặc
dịch vụ mới như việc cải tiến kỹ thuật hoặc có thể là cả một thị trường, cơ cấu tổ chức
hoặc hành chính mới. Sự sáng tạo của cải tiến đó là nó tạo ra một sản phẩm hoặc dịch vụ
có tính độc đáo và sáng tạo, mang lại giá trị cao hơn so với sản phẩm hoặc dịch vụ trước
đây. 
Các nghiên cứu đã đưa ra nhiều cái nhìn hơn về quản trị chất lượng tuy nhiên về
mặt hạn chế thì nghiên cứu chỉ mới so sánh rằng quản trị chất lượng có liên quan trực tiếp
hay gián tiếp với sự đổi mới, chỉ xem xét các mặt tích cực của việc thực hành quản trị
chất lượng (QM) mà chưa xem xét đến các mặt tiêu cực, mặt hạn chế của mô hình.

CÁC NỘI DUNG CHÍNH, THÔNG TIN CHÍNH YẾU, CÁC MÔ HÌNH ĐƯỢC
TRÌNH BÀY TRONG BÀI ĐỌC CHÍNH

 Cơ sở lý thuyết :

Thực hành quản lý chất lượng là mức độ doanh nghiệp áp dụng những phương
pháp quản lý tinh gọn vào quy trình hoạt động, giám sát công việc thực hiện và chất
lượng, thiết lập và theo dõi các mục tiêu để doanh nghiệp đạt được kết quả đầu ra có hiệu
quả cao nhất.

Thực hành quản lý chất lượng bao gồm lãnh đạo, quản lý nguồn lực, lập kế hoạch
chất lượng, tập trung vào khách hàng, quản lý quy trình, quản lý nhà cung cấp, công cụ
chất lượng cải tiến liên tục  có thể tác động đến hệ thống hoạt động của công ty (Kaynak,
2003). Với Powel, 1995; Saraph et al, 1989; Malcolm Baldrige, 1992; Flynn và cộng sự,
1994, cũng đã xác định được cá yếu tố quan trọng của việc thực hành quản lý chất lượng:
3
Mối quan hệ nhà cung cấp, đo điểm chuẩn, đo lường chất lượng và cải tiến quy trình liên
tục. Prajogo và Sohal (2004) kiểm tra tính đa chiều của quản lý chất lượng liên quan đến
hiệu suất chất lượng của các công ty tại Úc bằng mô hình SEM từ bộ dữ liệu thu thập của
194 công ty tại Úc trong lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất đã kết luận được rằng việc tập
trung vào khách hàng và quản lý quy trình có liên quan đến chất lượng sản phẩm trong
khi lãnh đạo và quản lý con người liên quan đến đổi mới sản phẩm. Điều tra 106 công ty
Tây Ban Nha về mối quan hệ giữa thực hành quản lý chất lượng và ảnh hưởng trực tiếp,
gián tiếp của chúng đến kết quả chất lượng đã đưa ra được kết luận rằng quản lý nhân sự
và công cụ chất lượng, cải tiến liên tục có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và quản lý
chất lượng (Tari và cộng sự, 2007), những nỗ lực để phát triển một bộ thực hành quản lý
chất lượng đem đến nền tảng lý thuyết để kết nối một cách khoa học các triết lý quản lý
chất lượng truyền thống với thực tiễn các hoạt động.

“Đổi mới” là chủ đề của nhiều nghiên cứu do độ phức tạp và đa nghĩa. Nhiều nhà
nghiên cứu đã kết hợp công nghệ và quan điểm thị trường trong việc phát triển các mô
hình lý thuyết về đổi mới (Rowe & Boise 1974; Dewar & Dutton 1986; Rogers 1995,
Utterback 1994; Afuah 1998; Fischer 2001). Một số tác giả cho rằng đổi mới bao gồm
việc tạo ra một ý tưởng mới và triển khai nó thành một sản phẩm, quy trình hoặc dịch vụ
mới, dẫn đến sự tăng trưởng năng động của nền kinh tế quốc dân và gia tăng việc làm
cũng như tạo ra lợi nhuận thuần túy cho doanh nghiệp kinh doanh sáng tạo (Urabe,
1988). Theo Twiss, 1989 – đổi mới là quá trình kết hợp giữa khoa học, công nghệ, kinh tế
và quản lý, nhằm đạt được tính mới và kéo dài từ khi xuất hiện ý tưởng đến khi thương
mại hóa nó dưới hình thức sản xuất, trao đổi, tiêu dùng. Đề cập đến sự đổi mới là kiến
thức mới được tích hợp vào sản phẩm, quy trình và dịch vụ (Afuah, 1998). Mỗi một nhà
nghiên cứu đều có các đề xuất phân loại đổi mới khác nhau theo như nghiên cứu của một
số nhà khoa học Salavou & Lioukas, 2003; Di Benedetto và cộng sự, 2008; Hermann và
công sự, 2007) đã đúc kết được năm loại đổi mới: sản phẩm gia tăng, quá trình gia tăng,
sản phẩm cấp tiến, quy trình cấp tiến và hành chính.

Quá trình đổi mới bắt đầu là do nhu cầu phát triển các sản phẩm mới bởi nhu cầu
của khách hàng hay mong muốn thâm nhập thị trường bằng cách phát triển sản phẩm mới
hoặc điều chỉnh sản phẩm hiện có.  Đổi mới triệt để được định nghĩa là áp dụng áp dụng
công nghệ mới để tạo ra nhu cầu chưa được khách hàng và thị trường chấp nhận (Jansen
và cộng sự, 2006), đổi mới gia tăng đề cập đến những thay đổi nhỏ của các công nghệ về
thiết kế, chức năng, giá cả, số lượng và tính năng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng
hiện tại. Từ đây ta có thể phân loại đổi mới sản phẩm thành đổi mới sản phẩm triệt để
(đổi mới liên quan đến các sản phẩm, dịch vụ mới được kết hợp với công nghệ hoàn toàn
mới), đổi mới sản phẩm gia tăng (cũng là quá trình đổi mới các sản phẩm dịch vụ nhưng
lại dựa trên các công nghệ hiện có và tiến hành nghiên cứu cải tiến các công nghệ hiện
tại)

4
Đổi mới quy trình liên quan đến việc đưa các yếu tố mới vào hoạt động của tổ
chức, chẳng hạn như đầu vào vật liệu, đặc điểm kỹ thuật, cơ chế công việc và luồng
thông tin, và thiết bị được sử dụng để sản xuất một sản phẩm hoặc cung cấp một dịch vụ
(Afuah, 1998). Khi phản ánh cả mức độ và chủ thể đổi mới thì đổi mới quy trình được
phân làm 2 loại: đổi mới quy trình triệt để và đổi mới quy trình gia tăng (Reichstein và
Salter, 2006). Đổi mới quy trình triệt để liên kết với ứng dụng mới hoặc các yếu tố được
cải tiến thành sản xuất hoặc dịch vụ của tổ chức hoạt động với mục đích đạt được chi phí
thấp và chất lượng sản phẩm cao, còn đổi mới quy trình gia tăng được xác định là sự đổi
mới dần dần các yếu tố cải tiến thành các hoạt động dịch vụ cũng đem lại cho tổ chức đạt
được mức chi phí thấp và chất lượng sản phẩm cao.

Đổi mới hành chính là quá trình đổi mới kéo dài đề cập đến việc áp dụng các ý
tưởng để cải thiện hệ thống tổ chức, đổi mới hành chính được kích hoạt bởi nhu cầu nội
bộ  bằng cách sử dụng cách tiếp cận từ cấp cao đến cấp thấp, trong đó các nhà quản lý
cấp cao phải cám kết thực hiện các hoạt động liên quan.

Tóm lại ý tưởng chính của việc đổi mới là nhằm tăng tốc quá trình , đổi mới sản xuất để
đạt được các mục tiêu: Tối đa hóa lợi nhuận, hiệu quả các dự án xã hội, tăng trưởng kinh
tế bền vững....

 Tích cực:

Hầu hết các bài báo thu được trong nghiên cứu này cho thấy mối quan hệ tích cực
giữa quản lý chất lượng và đổi mới sáng tạo. Một số bài viết trình bày kết quả thực
nghiệm liên quan tích cực một tập hợp các thực tiễn quản lý chất lượng với đổi mới
(Prajogo & Hong, 2008; Kim, Kumar, & Kumar, 2012; Martinez-Costa & Martinez-
Lorente, 2008; Bourke & Roper, 2017; Perdomo- Ortiz, González-Benito, & Galende,
2006; Hoang, Igel, & Laosirihongthong, 2006; Baldwin & Johnson, 1996; Flynn,
Schroeder, & Sakakibara, 1994; Samson & Terziovski, 1999). Các nghiên cứu nhấn
mạnh rằng thực tiễn quản lý chất lượng có thể cung cấp cơ hội để áp dụng các nguyên tắc
và kỹ thuật quản lý chất lượng trong các hoạt động sáng tạo, cho phép phát hiện hiệu quả
nhu cầu của khách hàng, bắt nguồn chia sẻ kiến thức và nuôi dưỡng hệ thống và cải tiến
quy trình. Việc áp dụng một hệ thống quản lý chất lượng giúp các công ty đổi mới theo
nhu cầu của khách hàng, giảm thiểu các hoạt động mà không có giá trị và giảm thời gian
và chi phí phát triển sản phẩm mới. Quản lý chất lượng quan niệm sự hài lòng của khách
hàng, đổi mới và cải thiện hiệu suất của hầu hết các doanh nghiệp. Những bài viết này
được mô tả ngắn gọn dưới đây.

Một nghiên cứu (Kim, Kumar, & Kumar, 2012) đã phân tích tám thực hành quản
lý chất lượng khác nhau để xem những thực tiễn nào trong số các thực tiễn này liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp với năm loại đổi mới. Sử dụng một mẫu các công ty sản phẩm
và/hoặc dịch vụ được chứng nhận ISO 9001, các tác giả đã xác minh rằng quản lý quy

5
trình có liên quan trực tiếp và tích cực đến đổi mới gia tăng, triệt để và hành chính. Năng
lực tổ chức để quản lý các quy trình đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định các
thói quen, thiết lập một cơ sở học tập và hỗ trợ các hoạt động sáng tạo. 

Trong một nghiên cứu thực nghiệm của 451 công ty, các tác giả nhận thấy rằng
việc sử dụng các công cụ quản lý chất lượng dẫn đến đổi mới sản phẩm và quy trình
(Martinez-Costa & Martinez-Lorente, 2008). Thực hiện các công cụ quản lý chất lượng
có thể giúp xác định các lĩnh vực tiềm năng cho sự đổi mới, 7 Phát triển các kế hoạch đổi
mới và sản xuất các sản phẩm và quy trình sáng tạo (Martinez-Costa & Martinez-Lorente,
2008)

Các nghiên cứu đã xác định mối quan hệ tích cực giữa quản lý chất lượng và đổi
mới tổng thể về tốc độ thị trường (Flynn, Schroeder, & Sakakibara, 1994) và mức độ đổi
mới trong các tổ chức (Baldwin & Johnson, 1996). Hầu hết các nghiên cứu đều đồng ý
rằng chất lượng sẽ luôn luôn quan trọng cho khả năng cạnh tranh, nhưng sự đổi mới có
thể sẽ tiếp tục phát triển như một yếu tố chính của chiến lược cạnh tranh. Một trong
những thách thức của các công ty ngày nay là xác định cách tích hợp cả hai.

Sức mạnh của mối quan hệ giữa thực hành quản lý chất lượng tổng số (biến độc
lập) và hiệu suất tổ chức (các biến phụ thuộc) đã được kiểm tra bởi (Samson &
Terziovski, 1999). Các tác giả coi đổi mới là một biến phụ thuộc đại diện cho hiệu suất tổ
chức được đo bằng số lượng sản phẩm mới được sản xuất. Quản lý tổng thể có mối quan
hệ tích cực đáng kể với chất lượng sản phẩm và hiệu suất đổi mới sản phẩm, mặc dù mức
độ của mối quan hệ dường như lớn hơn liên quan đến chất lượng sản phẩm. Nghiên cứu
không xác nhận một tác động tích cực đáng kể đối với sự đổi mới. Tuy nhiên, mối tương
quan giữa hai biến dường như phụ thuộc vào lĩnh vực cụ thể đang nghiên cứu

Có hai lập luận chung được đưa ra bởi các nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tích
cực giữa chất lượng và đổi mới. Một lập luận là sự đổi mới là kết quả của việc kết hợp
các hoạt động khác nhau như nghiên cứu và phát triển, phát triển quy trình, thiết kế, tiếp
thị, tái cấu trúc tổ chức, quản lý tài nguyên và phát triển nhân viên và do đó có khả năng
được hỗ trợ bởi các hoạt động quản lý chất lượng tổng thể giúp tăng cường sự kết hợp
giữa hoạt động đa chức năng. Lập luận khác là các thực tiễn quản lý chất lượng tổng số
giúp tạo ra một môi trường và văn hóa hỗ trợ đổi mới. Một trong những yêu cầu chính
của quản lý chất lượng toàn bộ là sự hài lòng của khách hàng. Các công ty thực hiện một
hệ thống quản lý chất lượng tổng số cần khám phá và tìm cách đáp ứng tốt nhất nhu cầu
và mong đợi của khách hàng và điều này làm cho các công ty đổi mới trong việc phát
triển và ra mắt các sản phẩm và/hoặc dịch vụ mới để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

 Tiêu cực:

Mặc dù là thiểu số, nhưng có những nghiên cứu cho rằng quản lý chất lượng tổng
thể có thể cản trở sự đổi mới (Kim & Maubougne, 1999; Prajogo & Sohal, 2001). Lập
6
luận chính là trọng tâm của khách hàng là sự phù hợp của sản phẩm (chất lượng sản
phẩm) nhưng không phải là tính mới của sản phẩm (đổi mới sản phẩm) và những quan
điểm này đang trong thực tế mâu thuẫn. Nghiên cứu về (Singh & Smith, 2004) không tìm
thấy đủ bằng chứng thống kê cho thấy rằng quản lý chất lượng tổng thể có liên quan đến
hiệu suất đổi mới trong các doanh nghiệp. Họ cho rằng mối quan hệ giữa các khái niệm
này có thể phức tạp hơn so với đề xuất của các nghiên cứu được đề cập. Tuy nhiên, họ
không hoàn toàn bác bỏ các lập luận rằng quản lý chất lượng tổng thể có thể hỗ trợ đổi
mới và thừa nhận rằng quản lý chất lượng tổng thể có thể tạo điều kiện cho sự đổi mới,
nhưng chỉ ở một mức độ rất hạn chế.
Mặc dù thừa nhận bằng chứng về ảnh hưởng tích cực đến sự đổi mới, những người ủng
hộ quan điểm ngược lại tin rằng việc thực hiện quản lý chất lượng tổng thể có thể tạo ra
nhiều bất lợi cho sự đổi mới theo thời gian so với lợi thế (Prajogo & Sohal, 2001)

DIỄN GIẢI VÀ GIẢI THÍCH TỪNG NỘI DUNG, THÔNG TIN VÀ MÔ HÌNH

 Trình bày ý nghĩa của lý thuyết

2.1. QM Practice
Trong nghiên cứu khoa học, lý thuyết nghiên cứu là nền tảng vô cùng quan trọng
bởi “lý thuyết là kinh nghiệm, kiến thức, tri thức, trí tuệ của các thế hệ tích lũy lại, cung
cấp cho người nghiên cứu cơ sở kiến thức để lập luận và kiến giải các vấn đề nghiên
cứu”. Vì lẽ đó, sẽ không quá nếu nói hệ thống lý thuyết nghiên cứu chính là “quỹ đạo”
của nhà nghiên cứu. Và để kết quả nghiên cứu đảm bảo đạt những giá trị khoa học cần
thiết, thì quá trình triển khai nghiên cứu, nhà nghiên cứu không thể đi chệch cái “quỹ
đạo” đó.
Không chỉ gọi là “quỹ đạo”, mà hệ thống lý thuyết còn có thể được xem là “chìa
khóa” để nhà nghiên cứu trả lời các câu hỏi nghiên cứu trên nền tảng khoa học và lý luận.
Khi có được lý thuyết nghiên cứu phù hợp, nhà nghiên cứu sẽ thuận tiện trong việc xây
dựng cấu trúc của đề tài, hướng giải quyết vấn đề nghiên cứu cũng như việc đặt ra các giả
thuyết nghiên cứu phù hợp.
Nhiều sự chú ý trong nghiên cứu đã được dành cho việc phát triển các cấu trúc đo
lường của QM và kiểm tra sự liên kết giữa QM Practices và hiệu suất. Saraph và cộng sự.
(1989) cung cấp nỗ lực đầu tiên để khám phá việc đo lường QM Practices (Perdomo-
Ortiz và cộng sự, 2006)
Kiểm tra chất lượng là hoạt động như đo, xem xét, thử nghiệm, định cỡ một hay
nhiều đặc tính của đối tượng và so sánh kết quả với yêu cầu nhằm xác định sự phù hợp
của mỗi đặc tính, sàng lọc và loại ra bất cứ một bộ phận nào không đảm bảo tiêu chuẩn
hay quy cách kỹ thuật.
Kiểm soát chất lượng là các hoạt động và kỹ thuật mang tính tác nghiệp được sử dụng
để đáp ứng các yêu cầu chất lượng. Việc kiểm soát này nhằm ngăn ngừa sản xuất ra sản
phẩm khuyết tật. Nói chung, kiểm soát chất lượng là kiểm soát các yếu tố sau đây:

7
·       Kiểm soát con người thực hiện

·       Kiểm soát phương pháp và QTSX

·       Kiểm soát nguyên vật liệu đầu vào

·       Kiểm soát, bảo dưỡng thiết bị

·       Kiểm soát môi trường làm việc

Để quá trình kiểm soát chất lượng hiệu quả, tổ chức cần xây dựng cơ cấu tổ chức hợp
lý, phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận.

QM nắm bắt các đặc điểm từ các mô hình tổ chức riêng biệt và mở rộng chúng bằng
cách đưa ra các nguyên tắc, phương pháp luận và kỹ thuật (Spencer, 1994). Các nhà
nghiên cứu nhấn mạnh rằng các công ty cần phải xác định và phát triển các thực hành
QM có thể hỗ trợ triết lý quản lý đa chiều. QM Practices đề cập đến các hoạt động quan
trọng được kỳ vọng sẽ dẫn, trực tiếp hoặc gián tiếp, để cải thiện hiệu suất chất lượng và
lợi thế cạnh tranh (Flynn và cộng sự, 1995).
 Nguyên tắc hoạt động quản lý chất lượng:
+ Nguyên tắc: Định hướng vào khách hàng
+Giá trị chất lượng do khách hàng đánh giá. Tổ chức phải biết rõ khách hàng của
mình cần tìm hiểu những nhu cầu gì cho hiện tại và tương lai để không chỉ đáp ứng mà
còn vượt cao hơn sự mong đợi của họ. Định hướng vào khách hàng được coi là một
nguyên tắc cơ bản nhất của quản lý chất lượng.
+Nguyên tắc: Sự lãnh đạo
+Lãnh đạo các doanh nghiệp cần đi đầu trong nỗ lực về chất lượng, phải cam kết thực
hiện HTQLCL. Sự cam kết này sẽ tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa chiến lược kinh
doanh của tổ chức và chiến lược QLCL.
+Nguyên tắc: Sự tham gia của mọi thành viên
+Chất lượng hình thành trong suốt quá trình hoạt động, nó không tự nhiên sinh ra, mà
cần phải được quản lý. Nó liên quan đến mọi thành viên trong tổ chức.
+Nguyên tắc: Quản lý theo quá trình
+“Quá trình là tập hợp các hoạt động có liên quan lẫn nhau hoặc tương tác để biến đổi
đầu vào thành đầu ra”. Kết quả mong muốn sẽ đạt được một cách hiệu quả khi các nguồn
và các hoạt động có liên quan được quản lý như một quá trình.
+Nguyên tắc: Tính hệ thống.
+Việc xác định, hiểu biết và quản lý một hệ thống các quá trình có liên quan lẫn nhau
đối với mục tiêu đề ra sẽ đem lại hiệu quả của doanh nghiệp. Phương pháp hệ thống của
quản lý là cách huy động, phối hợp toàn bộ các nguồn lực để thực hiện mục tiêu chung
của tổ chức.
+Nguyên tắc: Kiểm tra

8
+Trong quản lý chất lượng luôn lấy nguyên tắc kiểm tra và phòng ngừa làm phương
châm chính.
+Nguyên tắc: Quyết định dựa trên sự kiện, dữ liệu thực tế
Hệ thống phân tích dữ liệu và thông tin phải chính xác và kịp thời và có khả năng lượng
hóa được.
+Nguyên tắc: Cải tiến liên tục:
Cải tiến liên tục là mục tiêu, cũng là phương pháp của mọi tổ chức. Sự cải tiến có thể là
từng bước nhỏ hoặc nhảy vọt.
+Nguyên tắc: Phát triển quan hệ hợp tác cùng có lợi với các đối tác:
Các mối quan hệ hợp tác là sự liên kết để bổ sung với nhau là tạo ra mối quan hệ tương
hỗ cùng có lợi, nâng cao năng lực để tạo ra giá trị cho cả hai.
+Nguyên tắc: Pháp lý.
+Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các hoạt động quản lý chất lượng trong các tổ chức
phải luôn tuân thủ theo đúng các văn bản pháp luật của nhà nước qui định về QLCL và
CLSP.
QM là một triết lý quản lý toàn diện nhằm thúc đẩy tất cả các chức năng của một
tổ chức thông qua việc liên tục cải tiến và thay đổi tổ chức (Kaynak và Hartley, 2005)
Đổi mới, cải thiện chất lượng là một phần không thể thiếu của QLCL tập trung vào nâng
cao khả năng thực hiện các yêu cầu:
Các hướng tiến hành:

·       Phát triển sản phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm.

·       Thực hiện công nghệ mới.

·       Thay đổi quá trình nhằm giảm khuyết tật.

Các bước công việc chủ yếu:


+Thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết để cải tiến, đổi mới chất lượng.
+Xác định nhu cầu đặc trưng về đổi mới chất lượng. Đề ra dự án hoàn thiện.
+Thành lập tổ công tác đủ khả năng thực hiện thành công dự án.
  +Cung cấp các nguồn lực cần thiết (tài chính, kỹ thuật, lao động).
_Đào tạo và khuyến khích quá trình thực hiện dự án cải tiến, đổi mới chất lượng.

Như vậy, vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khoa học là cung cấp các khái
niệm, khung lý thuyết để nhà nghiên cứu kiến giải câu hỏi nghiên cứu từ cơ sở khoa học
một cách tường minh, thuyết phục. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên đặt ra đối với những ai khi
bắt đầu vào con đường nghiên cứu khoa học là nghiên cứu hệ thống lý thuyết, lý luận
nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học mà họ quan tâm.

Tóm lại, trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực, tìm hiểu và ứng
dụng lý thuyết nghiên cứu để đi tìm lời giải cho các câu hỏi nghiên cứu, giải quyết các

9
vấn đề mà công trình nghiên cứu đặt ra là một yêu cầu mang tính tất yếu của một nền
khoa học phát triển bền vững.

2.2. Phân loại các dạng đổi mới sáng tạo

Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các nhà lãnh đạo có tác động đến đổi
mới sáng tạo của tổ chức. Nhiều nghiên cứu đã nhận thấy tần suất đổi mới liên quan với
định hướng quốc tế của các quản trị viên hàng đầu (Kaluzny, Veney & Gentry, 1972) và
với động lực đổi mới của quản trị viên (Mohr,1969). Nhưng vai trò chính xác của các nhà
lãnh đạo tổ chức trong quá trình đổi mới không rõ ràng. Một giải thích cho những phát
hiện trên là các nhà lãnh đạo có tác động tích cực trong quá trình đổi mới. Nhưng các
quản trị viên hệ thống sẽ đóng vai trò như một cầu nối giữa tổ chức với môi trường công
nghệ. Họ được tiếp xúc với nhiều ý tưởng mới và hiện thực hóa nó. Những nhà lãnh đạo
sẽ thúc đẩy sự đổi mới theo các cách khác ví dụ như tìm kiếm nguồn vốn để thực hiện
chương trình (theo Dewar (1973)).

Nhiều nghiên cứu cho rằng sự đổi mới sáng tạo không thường bắt đầu từ những
người đứng đầu, đa số họ đặt ra mục tiêu và thúc đẩy (Selznick, 1957). Khi mục tiêu đổi
mới được thiết lập, việc khởi xướng nó sẽ bắt đầu từ các thành viên cấp thấp hơn. Các
nghiên cứu đều ủng hộ rằng những người quản trị viên đứng đầu không tác động trực tiếp
đến quá trình đổi mới sáng tạo.  Sự tiếp xúc của nhân viên ở các cấp tổ chức thấp hơn cho
phép các ý tưởng đổi mới đi vào tổ chức và được đề xuất. Vai trò của nhà lãnh đạo là đặt
ra các mục tiêu đổi mới, khuyến khích đổi mới sáng kiến từ các thành viên thấp hơn và
chấp thuận hoặc không chấp thuận các đề xuất đổi mới đó.

Đổi mới luôn đóng vai trò  quan trọng theo các cách khác nhau trong một tổ chức.
Hành vi đổi mới sáng tạo diễn ra theo hai lĩnh vực -  đổi mới kỹ thuật và đổi mới hành
chính – liên quan trực tiếp đến kỹ thuật công nghệ và bộ máy quản trị.   Đổi mới hành
chính đề cập đến việc áp dụng những ý tưởng mới để cải thiện cấu trúc và hệ thống tổ
chức, và các quy trình liên quan đến cấu trúc xã hội của một tổ chức(Weerawardena,
2003; Damanpour, 1987). Ngược lại, đổi mới công nghệ được định nghĩa là việc áp dụng
các công nghệ mới được tích hợp vào các sản phẩm hoặc quy trình (Yonghong et
al.,2005). Đổi mới hành chính thường được kích hoạt bởi nội bộ nhu cầu về cấu trúc và
điều phối, trong khi đổi mới công nghệ chủ yếu đáp ứng các yếu tố môi trường, chẳng
hạn như điều kiện thị trường hoặc kiến thức kỹ thuật

Trong một số tổ chức, chẳng hạn như ở các khu vực chuyên môn cao, gần như tất
cả các đổi mới đều bắt nguồn từ cốt lõi kỹ thuật, và gần như tất cả các đổi mới được tổ
chức áp dụng đều có bản chất kỹ thuật. Đổi mới kỹ thuật dường như hoạt động độc lập.
Trong các tổ chức khác, thành phần quản trị tương đối quan trọng hơn. Các tổ chức áp
dụng số lượng lớn hơn các đổi mới hành chính. Trong một thị trường toàn cầu, các công
ty nên có khả năng xác định các cơ hội mới, cấu hình lại và bảo vệ các công nghệ, năng

10
lực, tài sản tri thức và tài sản tương hỗ để đạt được lợi thế cạnh tranh lớn mạnh. Cần tìm
hiểu và tìm sự  cân bằng tương đối giữa hai lĩnh vực đổi mới.

Đổi mới công nghệ có thể được chia thanh đổi mới từng bước và đổi mới triệt để.
Đổi mới gia tăng đề cập đến những thay đổi nhỏ của công nghệ hiện có về thiết kế, chức
năng, giá cả, số lượng và tính năng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng hiện tại (Garcia
và Calantone, năm 2002; De Propris, 2002), trong khi đổi mới triệt để được định nghĩa là
áp dụng công nghệ mới để tạo ra nhu cầu chưa được khách hàng và thị trường thừa nhận
(Jansen và cộng sự, 2006)  

 Một nghiên cứu cho thấy rằng đổi mới triệt để chỉ chiếm 10% tổng số đổi mới,
trong khi tỷ lệ đổi mới từng bước là khoảng 90%. Các lý thuyết về đổi mới dựa trên "lực
đẩy công nghệ" hoặc "sức kéo thị trường" được chứng minh là quá đơn giản. Người cung
cấp và người sử dụng các đổi mới cần phải tương tác trong quá trình phát triển một công
nghệ, một thị trường cụ thể. Các nhà sản xuất đã phát triển các đổi mới bền vững (kết hợp
linh hoạt đổi mới từng bước và đổi mới triệt để) có thể sản xuất một tập hợp các sản
phẩm được đánh giá cao, đánh giá thấp để đáp ứng các yêu cầu của người dùng luôn thay
đổi. Sản phẩm của họ, để tạo nên được các biến thể khác nhau trên một yêu cầu, bản thân
họ phải  nghiên cứu và phát triển, sản xuất, tiếp thị, bán hàng; và đối với người dùng,
người cung cấp học hỏi từ kinh nghiệm, khả năng sửa đổi dựa trên cảm hứng của người
dùng, một loạt các gói hiệu suất giá thay thế và khả năng thích ứng nhanh chóng với môi
trường thay đổi. Trong một thế giới luôn thay đổi, các thiết kế bền vững và các dòng sản
phẩm linh hoạt luôn tiết kiệm và hiệu quả hơn những sản phẩm chỉ đáp ứng các yêu cầu
nhất thời của người sản xuất hoặc người dùng. Về mặt chiến lược, đổi mới triệt để làm
giảm sự không chắc chắn và giảm thiểu rủi ro cho nhà sản xuất và người dùng.

Tất nhiên, trong một thế giới hoàn hảo và ổn định, với kiến thức hoàn hảo, nhà sản
xuất và người dùng có thể thiết lập các đổi mới tối ưu cho tất cả cá nhân của họ khi yêu
cầu về sản phẩm và quy trình. Thật không may, tình huống này hiếm khi đạt được trong
thực tế, và về mặt chiến lược, thường tốt hơn nếu chọn cấu hình thiết kế bền vững hơn là
cho một cấu hình gọn nhẹ (tối ưu) một để đối phó tốt hơn với sự không chắc chắn trên thị
trường. Và, nếu nó có thể thấy rằng một sản phẩm hoặc một quy trình đã có thiết kế tinh
gọn, thì tại giai đoạn đổi mới, nó phải được cấu hình lại mạnh mẽ hơn.

Bên cạnh đổi mới triệt để và đổi mới từng bước, điều quan trọng là một công ty
phải quyết định đối tượng nào nên nhận đổi mới cho một vị trí thị trường mới. Chủ thể
đổi mới là hoặc một sản phẩm hoặc một quá trình. Đổi mới sản phẩm đề cập đến những
thay đổi khi kết thúc việc cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ, trong khi đổi mới quy trình
được định nghĩa là những thay đổi trong phương pháp sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ.
Đổi mới căn bản đề cập đến đổi mới liên kết với việc áp dụng mới hoặc  các yếu tố được
sản xuất hoặc dịch vụ được cải thiện đáng kể, cải tiến với mục đích đạt được chi phí thấp
hơn và / hoặc chất lượng sản phẩm cao hơn. Ngược lại, đổi mới quy trình gia tăng được
xác định là sự đổi mới liên quan đến việc áp dụng hoặc cải tiến từng bước các yếu tố vào

11
hoạt động sản xuất hoặc dịch vụ của tổ chức với mục đích đạt được mức chi phí thấp hơn
và / hoặc chất lượng sản phẩm cao hơn.

Ở các dạng đổi mới, các công ty luôn được hưởng lợi khi tham gia đổi mới phát
triển cả người cung cấp lẫn người tiêu dùng, đặc biệt trong trường hợp đổi mới sản phẩm,
cả người mua và người cung cấp đều được hưởng lợi từ sự hợp tác liên ngành dọc. Không
có lời giải thích rõ ràng cho sự bất cân xứng của lợi ích từ đổi mới giữa người mua và
nhà cung cấp. Có vẻ như người mua được hưởng lợi từ đổi mới chung nhiều hơn các nhà
cung cấp trong cả bốn loại hình đổi mới. Có hai giải thích có thể xảy ra cho điều này.
Một có thể là một vấn đề về quản trị, trong đó người mua có thể được hưởng quyền lực
thương lượng mạnh mẽ hơn đối với các nhà cung cấp Vấn đề khác có thể là vấn đề về
năng lực. Trong trường hợp này các nhà cung cấp, mặc dù tham gia vào đổi mới chung,
họ không thể là đối tác tích cực và đóng góp vào quá trình đổi mới đủ để chia sẻ đầu ra
với người mua. Ngay cả trong trường hợp này, cần phải lưu ý rằng sự bất đối xứng của
các năng lực giữa người mua và nhà cung cấp có thể dẫn đến sự bất cân xứng về quyền
lực trong hợp đồng. Trong thực tế, mức độ thay thế cao giữa các nhà cung cấp, ví dụ như
các hoạt động được định giá thấp, làm giảm khả năng thương lượng của họ đối với người
mua. 

 Giới thiệu và giải thích các biến trong mô hình

12
H1. Lãnh đạo quản lý sẽ gắn kết tích cực với quan hệ khách hàng

H2. Quan hệ khách hàng sẽ có liên quan tích cực với dữ liệu và báo cáo chất lượng.

Dữ liệu chất lượng và báo cáo đề cập đến mức độ mà một tổ chức sử dụng dữ liệu chất
lượng, thường xuyên đo lường chất lượng và đánh giá nhân viên dựa trên kết quả hoạt
động chất lượng ( Saraph và cộng sự, 1989). Báo cáo dữ liệu chất lượng là việc quản lý
của các nhà lãnh đạo sử dụng dữ liệu để đo lường về sự hiệu quả và đánh giá nhân viên

13
dựa trên các kết quả của hoạt động trong tổ chức. Các bài nghiên cứu trước đây đã xác
định rằng quản lý dữ liệu chất lượng mang lại những lợi ích tích cực cho tổ chức. Nhân
viên có thể sử dụng chất lượng dữ liệu để lựa chọn đối tác kết hợp, đánh giá sản phẩm
dịch vụ của đối tác. Việc quản lý dữ liệu chất lượng không đóng góp giá trị gia tăng và
tiêu chuẩn hóa các quy trình phát triển sản phẩm mà chỉ giúp nhân viên tập trung vào vận
hành các quy trình. Điều này giúp công ty có thể tiết kiệm thời gian và chi phí phát triển
hệ thống, có thể cạnh tranh tốt hơn trong thị trường.

H3. Dữ liệu chất lượng và báo cáo sẽ được kết hợp tích cực với quản lý quá trình.

Các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng dữ liệu chất lượng có thể đóng một vai trò
quan trọng trong việc đạt được sự đổi mới. Martinez-Costa và Martinez- Lorente (2008),
trong một nghiên cứu thực nghiệm về 451 công ty, phát hiện ra rằng việc sử dụng các
công cụ QM dẫn đến đổi mới sản phẩm và quy trình. Điều này cho thấy rằng bằng cách
triển khai các công cụ QM, một công ty có thể xác định các lĩnh vực đổi mới tiềm năng,
phát triển các kế hoạch đổi mới và sản xuất các sản phẩm và quy trình đổi mới. Miller
(1995), trong một cuộc khảo sát 45 công ty đa quốc gia lớn, đã kết luận rằng quản lý dữ
liệu chất lượng là phương pháp QM quan trọng nhất có thể áp dụng cho các hoạt động
đổi mới. Cùng quan điểm đó, Mathur-De Vré (2000) nhận thấy rằng thực hành QM giúp
phát triển niềm tin vào độ tin cậy và độ tin cậy của tất cả các dữ liệu khoa học. Do đó, các
giả thuyết sau được đề xuất:

H4-1. Quản lý quá trình sẽ có liên quan tích cực với việc đổi mới sản phẩm triệt để.

H4-2. Quản lý quá trình sẽ có liên quan tích cực với sự đổi mới sản phẩm gia tăng. 

H4-3. Quản lý quá trình sẽ được kết hợp tích cực với đổi mới quy trình triệt để.

H4-4. Quản lý quá trình sẽ có liên quan tích cực với quá trình đổi mới gia tăng. 

H4-5. Quản lý quá trình sẽ được kết hợp tích cực với đổi mới hành chính.

ỨNG DỤNG VÀO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM HOẶC VIỆN DẪN ĐẾN CÁC CÂU
CHUYỆN, TÌNH HUỐNG THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM

Quản trị chất lượng và đổi mới Honda Việt Nam


**Công ty Honda Việt Nam thực hiện nguyên tắc định hướng khách hàng:
Honda VN là một công ty luôn coi trọng nguyên tắc định hướng khách hàng, công
ty cho rằng: khách hàng là đối tác, là bạn, vì thế công ty luôn cố gắng tạo ra bầu không
khí tốt nhất cho đôi bên đều cảm thấy hài lòng với những gì mình thu được. Và gắn bó
lâu dài luôn là mục tiêu, cũng như tiêu chí của công ty.
Công ty cho ra các loại xe máy được người tiêu dùng ưa chuộng vì chất lượng tốt, giá cả
phù hợp, đa dạng phong phú về kiểu dáng và màu. Đặc biệt hai dòng sản phẩm vừa ra đời
14
là Air Blade và Click mang tính đột phá, thanh lịch và sang trọng. Qua đây có thể thấy
công ty đã thực hiện tốt việc nghiên cứu thị trường và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
**Công tác thu nhập phản hồi của khách hàng
Chương trình thăm dò khách hàng được tổ chức thường niên trong các năm 2006,
2007, 2008, 2009. Honda VN đã tổ chức chương trình thăm dò ý kiến khách hàng với cửa
hàng bán xe và dịch vụ Honda ủy nhiệm trên toàn quốc. Với mục đích muốn nhận được
các thông tin trực tiếp từ các khách hàng đã từng mua xe, một lần nữa khẳng định chất
lượng sản phẩm Honda và sẽ tiếp tục đồng hành với khách hàng thân thiết tại Việt Nam.
**Bảo dưỡng:
Honda đã đẩy mạnh dịch vụ chăm sóc khách hàng và nhận được phản hồi rất tốt
từ người tiêu dùng, bên cạnh đó công ty còn đưa ra dịch vụ bảo dưỡng lưu động được gọi
là Wing Service. Việc ứng dụng dịch vụ hậu mãi của công ty là chiến lược cần thiết của
công ty. Honda đã trở thành thương hiệu mạnh đến nỗi người dân khi nói đến xe gắn máy
đều nhắc đến Honda
**Những chương trình tài trợ và hoạt động xã hội của công ty
Công ty rất tích cực tham gia xây dựng một đất nước Việt Nam tươi đẹp hơn.
Ngoài accs hoạt động giáo dục và từ thiện, Honda còn tổ chức các hội thi “Lái xe an
toàn” mang tên “Tôi yêu Việt Nam” tại hơn 20 tỉnh thành trên cả nước; tài trợ cho các
hoạt động thể thao. Với tinh thần “Lá lành đùm lá rách”, Honda VN luôn hỗ trợ kịp thời
cho người dân khi xảy ra thiên tai, bão lũ và tiến hành nhiều hoạt động từ thiện khác,...
**Những nhận xét, phản hồi từ khách hàng

*Phản hồi tốt:  Kể từ khi Honda tung ra những dòng xe máy đầu tiên, hầu hết
người tiêu dùng đều nhận xét: xe máy Honda VN có động cơ khỏe, bền, phù hợp với túi
tiền người dân, dịch vụ bảo hành khá ổn. Công ty cải tiến phù hợp với xu hướng thay đổi
hiện nay, nhiều loại xe ra đời đáp ứng cho nhiều khách hàng khác nhau, làm hài lòng
khách hàng.
*Phản hồi xấu: Bức xúc của người tiêu dùng về vấn đề nâng giá xe, gây sốt xe tay
ảo của đại lý ủy quyền của Honda. Mẫu xe AB FI và xe LEAD 110 đội giá lên 6-7tr
đồng/xe và có giá dao động từ 37-39tr đồng thay vì mức giá đề xuất 31.99tr đồng/chiếc.
**Cách xử lý của công ty về phàn nàn của khách hàng
Công ty giải thích “Khi Honda VN bán hàng cho HEAD chúng tôi sẽ bán ở mức
giá sỉ và mức giá này do công ty quy định. Tuy nhiên giá bán lẻ chúng tôi đưa ra chỉ là
mức giá tham khảo và mức giá bán lẻ cuối cùng sẽ được quyết định bởi đại lý. Hơn thế
nữa, theo quy định hiện thời của luật cạnh tranh VN và tập quán chung của quốc tế, nhà
sx không đc phép điều chỉnh giá bán lẻ nhằm đảm bảo sự cạnh tranh công bằng”.
Nhiều người vẫn còn bức xúc về vấn đề tăng giá, song bằng chiến lược đẩy mạnh dịch vụ
hậu mãi công ty vẫn giữ được hình ảnh tốt trong lòng người tiêu dùng, trong thời gian sắp
tới khi cung về xe tay ga tăng lên thì chắc chắn việc giá cao sẽ được giải quyết.

KẾT LUẬN:

15
Quản lý chất lượng là một yếu tố chiến lược, dẫn tới khả năng chiếm lĩnh thị
trường, duy trì và thu hút khách hàng. Đòi hỏi phải luôn cải tiến quá trình tạo ra sản
phẩm, đổi mới công nghệ, khả năng thích ứng nhanh và đáp ứng nhanh chóng mau lẹ các
yêu cầu của thị trường, giảm sai lỗi và những khiếu nại của khách hàng. Chất lượng sản
phẩm hàng hóa của một doanh nghiệp phải được định hướng bởi khách hàng, doanh
nghiệp phải sản xuất, bán cái mà khách hàng cần chứ không phải cái doanh nghiệp có.

********

Công ty Rạng Đông đã thực hiện quá trình chuyển đổi số bằng cách thực hiện
đồng bộ trên 3 phương diện: Công nghệ, quá trình, và tổ chức-con người. Qua đó công ty
lựa chọn việc tập trung vào khách hàng, lấy việc phục vụ khách hàng làm khâu dẫn, từ đó
dẫn theo các khâu sản xuất, khâu hổ trợ kinh doanh, thúc đẩy phát triển hệ thống và năng
lực của nhân viên. Trong 60 năm thành lập Rạng Đông đạt những thành tựu trong công
cuộc tái cấu trúc toàn diện công ty, thực hiện 3 bước mang tính chiến lược: công ty
chuyển từ tập trung vào sản xuất sang định hướng thị trường, phụng sự khách hàng; Ban
lãnh đạo định hướng chuyển từ công ty công nghệ sang công ty công nghệ cao thời 4.0;
Công ty tập trung xây dựng tổ chức chuyên nghiệp, đội ngũ giàu kinh nghiệm về chuyên
môn với tinh thần cầu thị, học tập suốt đời. Đồng thời Rạng Đông đã đưa vào ứng dụng
các phần mềm mô phỏng, thiết kế, sản xuất được hỗ trợ bằng máy tính để thúc đẩy quá
trình tự động hóa của doanh nghiệp. Công đã cho ra đời các Trung tâm Nghiên cứu và
Phát triển Công nghệ Kỹ thuật số (Digital R&D Center) và Hệ sinh thái  LED - 4.0 của
Rạng Đông. Sự kiện đánh dấu bước chuyển tầng công nghệ thứ tư trong chiếu sáng từ
tầng công nghệ thứ ba, chiếu sáng rắn (Solid State Lighting SSL - LED tĩnh) sang giải
pháp chiếu sáng xanh - thông minh - vì sức khỏe hạnh phúc con người (G-S-HCL), giải
pháp chiếu sáng nông nghiệp công nghệ cao HTAL, là thay đổi quan trọng trong chiến
lược sản phẩm và dịch vụ của công ty. Chỉ sau 1 năm đầu tiên tiến hành chuyển đổi số
một cách quyết liệt, năm 2020, Rạng Đông tăng trưởng doanh thu 15,6% so năm 2019.
Quý I/2021, doanh thu tăng 38,4% (trong đó xuất khẩu tăng 70%, sản phẩm CSL & G-S-
HCL tăng 176%, HTAL và Năng lượng tái tạo tăng 32,9%).

*******
Trong các đề án về đổi mới hành chính thì nhóm tìm được một đề án của Thủ tướng
chính phủ đó là đề án “ Đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong
giải quyết thủ tục hành chính” 
Quan điểm chủ yếu và chủ chốt của đề án đó là lấy người dân và doanh nghiệp làm trung
tâm để phục vụ, sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp được lấy ra làm thước đo chất
lượng và sự hiệu quả phục vụ của các cán bộ công nhân viên chức. Yêu cầu việc cải cách
16
hành chính, nhất là việc cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính thông qua việc
ứng dụng công nghệ thông tin.
Đề án đề ra 5 chỉ tiêu cần hoàn thành như sau:
 Gắn kết việc số hóa hồ sơ, giấy tờ với quá trình tiếp nhận, xử lí tại Bộ phận Một
cửa để tạo cơ sở hình thành dữ liệu sống, sạch và đảm bảo chính xác
 Đổi mới tổ chức quản lí, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ việc đơn giản hóa trong
chuẩn bị, tiếp nhận, giải quyết hồ sơ
 Mở rộng việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính theo hướng không phụ
thuộc vào địa giới hành chính trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin trong thực
hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
 Nâng cao tính chủ động trong đổi mới, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động của
Bộ phận Một cửa
 Đổi mới các công việc giám sát, đánh giá chất lượng giải quyết thủ tục hành chính
theo thời gian thực trên cơ sở ứng dụng công nghệ mới

KẾT LUẬN:

Yếu tố đổi mới là một trong những yếu tố có tầm quan trọng khá lớn trong việc
đổi mới, nó không chỉ quan trọng trong doanh nghiệp mà còn trong bộ máy nhà nước,
điển hình như đề án đổi mới thì các thủ tục pháp lí giấy tờ trước đây nay đã được tiến
hành nhanh chóng hơn qua đổi mới về công nghệ thông tin, không chỉ góp gần giảm thiểu
rất nhiều chi phí cho Nhà nước mà còn giúp người nhân, doanh nghiệp tiết kiệm thời gian
hơn trong quá trình làm các thủ tục cần thiết. 

Link: https://sxd.tiengiang.gov.vn/chi-tiet-tin?/-e-an-oi-moi-viec-thuc-hien-co-che-mot-
cua-mot-cua-lien-thong-trong-giai-quyet-thu-tuc-hanh-chinh-/31774230

17
18

You might also like