You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA SAU ĐẠI HỌC

----------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SAU ĐẠI HỌC

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VÀO


VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH

Ở CẦN THƠ HIỆN NAY

Người hướng dẫn Người thực hiện

TS. Nguyễn Thị Đan Thuỵ Lê Ngọc Ân

MSHV: 1622002

Nhóm: 01

CẦN THƠ - 2022


1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU................................................................................................................3

1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................3

2. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................3

3. Phương pháp nghiên cứu:..........................................................................3

4. Kết cấu của tiểu luận...................................................................................3

Chương 1: ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN


CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO DỨC NHO GIÁO........................................................4

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Trung Hoa thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc – cơ
sở hình thành những tư tưởng đạo đức của Nho giáo..............................................4

1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Nho giáo...............................5

1.3. Giá trị và hạn chế trong tư tưởng đạo đức Nho giáo.........................................9

1.3.1. Những giá trị tích cực trong tư tưởng đạo đức Nho giáo..............................9

1.3.2. Những hạn chế trong tư tưởng đạo đức Nho giáo.......................................13

Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VÀO VIỆC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở CẦN THƠ HIỆN NAY VÀ GIẢI
PHÁP.................................................................................................................... 16

2.1. Thực trạng đạo đức học sinh ở tỉnh Cần Thơ hiện nay...................................16

2.2. Vận dụng những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo đề xuất một số giải
pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở tỉnh Cần Thơ hiện nay...............................19

2.2.1. Nâng cao nhận thức của học sinh về vai trò của đạo đức............................19

2.2.2. Tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, sinh hoạt câu lạc bộ với các chủ
đề về giáo dục đạo đức cho học sinh....................................................................20
2

2.2.3. Phát huy vai trò chủ thể của học sinh và năng lực tự quản của tập thể học
sinh....................................................................................................................... 20

2.2.4. Tuyên truyền và phát huy “Tiên học lễ - hậu học văn”...............................21

2.2.5. Tăng cường công tác phối hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội...........21

2.3. Ý nghĩa của tư tưởng đạo đức Nho giáo đối với việc rèn luyện đạo đức của
của bản thân........................................................................................................... 22

KẾT LUẬN..........................................................................................................24

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................25


3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ thực tiễn cho thấy xã hội càng phát triển, xu thế hội nhập với việc văn hoá
các nước phương Tây du nhập vào nước Việt Nam ta đã phần nào ảnh hưởng đến đời
sống đạo đức, văn hoá ứng xử của thanh thiếu niên nói chung, học sinh ở Cần Thơ nói
riêng. Bên cạnh việc học hỏi được các văn hoá điều tiến bộ, hiện đại, các em cũng dần
quên đi những giá trị đạo đức và lối sống “nhân - lễ - nghĩa – trí – tín” đáng quý của
dân tộc Việt Nam. Cho nên, việc tìm ra chân lý và phương pháp vận dụng chân lý đó
vào việc giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh là một vấn đề cấp bách. Các tư
tưởng, trường phái trong triết học phương Đông, đặc biệt là Nho giáo, từ lúc hình
thành và phát triển đã có sự ảnh hưởng to lớn đối với không chỉ là chính trị, xã hội mà
còn cả hành vi, lối sống của con người. Tuy nhiên, mỗi một tư tưởng trong Nho giáo
bản thân nó cũng có những mặt tích cực và tiêu cực, cho nên, bài tiểu luận “VẬN
DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VÀO VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH Ở CẦN THƠ HIỆN NAY” được thực hiện nhằm mục đích tìm ra
những phần tích cực của các tư tưởng trong Nho giáo để có thể xây dựng nên phương
pháp giáo dục về đạo đức hiệu quả cho học sinh ở Cần Thơ hiện nay.

2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng đạo đức Nho giáo

3. Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết


Phương pháp phân loại và hệ thống hoá lý thuyết
Phương pháp cách thức hoá

4. Kết cấu của tiểu luận

Điều kiện hình thành và những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Nho giáo

Vận dụng tư tưởng đạo đức Nho giáo vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh ở Cần
Thơ hiện nay và giải pháp
4

Chương 1: ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
TƯ TƯỞNG ĐẠO DỨC NHO GIÁO

1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Trung Hoa thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc – cơ
sở hình thành những tư tưởng đạo đức của Nho giáo

Thời kì Xuân Thu – Chiến Quốc ở đất nước Trung Hoa có lịch sử kéo dài từ thế kỷ
thứ VIII trước công nguyên cho đến giữa thế kỷ thứ III trước công nguyên. Đây là thời
kỳ có nhiều biến động lớn lao, toàn diện. Nhiều ngành nghề mới ra đời. Đồ sắt xuất
hiện phổ biến, công cụ sản xuất bằng sắt được sử dụng rộng rãi đã khiến cho nền sản
xuất nông nghiệp và công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của sản xuất dẫn
đến kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu
các giai cấp trong xã hội. Nếu như vào đầu thời kì Chu, đất đai và con dân là thuộc
quyền sở hữu tối cao của nhà Vua thì lúc bấy giờ, cái quyền sở hữu ấy lại bị một giai
cấp mới có tiền chiếm hữu. Giai cấp quý tốc thị tộc nhà Chu dần bị mất đất đai, mất
dân, ngày càng sa sút về địa vị kinh tế, và vai trò chính trị, ngôi Thiên tử của nhà Chu
chỉ còn tồn tại như dưới dạng hình thức. Lúc này, tài sản chính là thứ cốt yếu quyết
định sự phân biệt sang hèn trong xã hội. Các nước chư hầu của nhà Chu đã không còn
phục tùng vương mệnh nữa. Họ không chỉ dừng việc cống nạp mà còn mang quân đi
thôn tính lẫn nhau. Tầng lớp đại chủ mới nổi ngày càng giàu có, dần lấn át tầng lớp thị
tộc cũ.

Có thể thấy rằng, sự biến động mạnh mẽ trong nền kinh tế đã dẫn đến sự ra đời đa
dạng trong kết cấu giai tầng của xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Nhiều giai tầng xã hội
mới xuất hiện, mới cũ đan xen lẫn nhau dẫn đến mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt.
Có thể tóm tắt mấy mâu thuẫn chính nổi lên trong thời kì Xuân Thu – Chiến Quốc như
sau:

Thứ nhất là mâu thuẫn giữa tầng lớp mới nổi có sự tư hữu về tài sản, có địa vị kinh
tế trong xã hội mà không được tham gia vào chính quyền với giai cấp quý tộc thị tộc
cũ của nhà Chu đang nắm quyền điều hành đất nước.

Thứ hai là mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với
giai cấp quý tộc thị tộc nhà Chu.
5

Thứ ba là chính trong nội bộ giai cấp quý tộc thị tộc nhà Chu cũng đã có một bộ
phận tách ra, chuyển hoá lên giai cấp mới; những người này một mặt muốn bảo lưu
nhà Chu, mặt khác học cũng không hài lòng với trật tự vốn có của nó. Họ có khát vọng
cải biến nó bằng con đường cải lương, cải cách.

Thứ tư là tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc vừa bị tầng lớp mới nổi tấn công về mặt
chính trị và kinh tế, vừa có mâu thuẫn với tầng lớp đại quý tộc thị tộc đang nắm chính
quyền.

Và cuối cùng là mâu thuẫn của tầng lớp nông dân công xã thuộc các tộc bị người
Chu nô dịch với nhà Chu và tầng lớp mới nổi đang ra sức bóc lột sức lao động của họ.

Những mâu thuẫn trên ngày càng gay gắt, dẫn đến cảnh đất nước ngày càng loạn
lạc, anh em giết nhau, con giết cha tranh giành ngôi báu, vua mất uy phong, các nước
chư hầu chìm đắm trong chiến tranh xưng bá xưng vương triền miên, dân chúng lầm
than, khổ sở. Trước bối cảnh đó, Khổng Phu Tử hay còn được người đời biết đến với
tự Khổng Tử, một triết gia và chính trị gia người Trung Quốc, sinh sống vào thời Xuân
Thu, đã phát triển, hệ thống hoá và truyền bá rộng rãi tư tưởng Nho giáo của Chu
Công.

1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Nho giáo

Trước hết cần phải hiểu rằng chữ giáo trong Nho giáo không mang nét nghĩa tôn
giáo, mà chữ giáo ở đây có nghĩa là giáo hoá, dạy bảo cách sống sao cho phải đạo làm
người. Khổng Tử và các học trò của ông đã nhìn thấy được sức mạnh và vai trò tối
quan trọng của đạo đức đối với xã hội. Vì vậy, nội dung quan trọng của Nho giáo là để
dạy con người về đạo đức. Thực vậy, nỗ lực của Nho giáo chính là đưa ra một phương
pháp, một cách thức để con người sống “tốt, sống “đẹp” với nhau trong xã hội loài
người. Chính vì thế, “tu thân” đóng một vai trò cục kỳ quan trọng. “Tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”. Một người quân tử trước hết phải biết rèn giũa chính mình, phải
biết sống tốt sống đúng với đạo đức thì mới có thể sắp đặt nhà cửa chỉnh tề, đất nước
mới có thể được cai trị, và nhờ đó thiên hạ mới có thể thái bình, thịnh vượng vì bởi lẻ
gốc của thiên hạ là nhà nước, gốc của nhà nước là gia đình, và gốc của gia đình chính
là cá nhân.
6

Theo Khổng Tử, “đạo” bao gồm năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người,
được gọi là nhân luân, hay ngũ luân theo cách gọi của Mạnh Tử. Năm mối quan hệ đó
bao gồm vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh em, bạn bè. Trong đó có ba mối quan hệ
được Đổng Trọng Thư xem là cơ bản nhất, được gọi là Tam cương – tức là ba sợi dây
ràng buộc con người với nhau trong mối quan hệ từ gia đình đến ngoài xã hội. “Đức”
chính là các phẩm chất về hành vi, lối sống quan trọng nhất mà con người cần phải có
để có thể thực hiện tốt các mối quan hệ trên. Trong đạo đức làm người, Khổng Tử
nhấn mạnh tầm quan trọng của “tam đức” – nhân, trí, dũng; Mạnh Tử thì nhấn mạnh
“Tứ đức” – nhân, nghĩa, lế, trí; Đổng Trọng Thư nhấn mạnh “ngũ thường” – nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín.

Tam Cương – Ngũ Thường là nội dung cơ bản trong Nho giáo khi nói về đạo
làm người, không chỉ là nguyên tắc quyết định mọi hành vi, suy nghĩ mà còn là khuôn
khổ để đánh giá phẩm hạnh của một con người trong xã hội. Tam cương – Ngũ thường
góp phần vào việc điều chỉnh hành vi của con người, khiến cho mọi người hành động
và suy nghĩ đúng với lễ pháp của nhà nước Chu cũng như các triều đại sau này. Tuy
nhiên, trong Tam cương – Ngũ thường cũng có những mặt hạn chế. Theo đó, “quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung” hay “phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” – vua xử bề
tôi phải thì bề tôi phải chết, còn nếu không chết tức là không trung với vua, cha xử con
chết mà con không chết tức là con không hiếu thuận”. Chính tư tưởng này cũng khiến
cho con người ngày càng thụ động, từ đó cản trở sự phát triển của xã hội và đây cũng
chính là nguyên nhân khiến xã hội phương Đông trì trệ kém phát triển.

Phạm trù đạo đức đầu tiên và cơ bản nhất trong Tam cương – Ngũ thường là
Nhân. Đây là phạm trù trung tâm trong tất cả các phạm trù. Từ Nhân mà sinh ra các
đức khác, và các đức khác đó lại phát triển quy tụ về đức Nhân. Đức Nhân bao gồm
một số nội dung cơ bản sau đây:

- Nhân có nghĩa là biết yêu người, yêu thương chính mình và người khác, yêu
thương muôn loài, muôn vật.
- Nhân có nghĩa là trung và thứ, tức là từ lòng mình suy ra lòng người, phải
biết giúp đỡ người khác. Khổng Tử khuyên rằng nên làm cho người những
7

điều mà mình muốn và không làm cho người những điều mà mình không
muốn.
- Nhân có nghĩa là phải thực hiện đúng với lễ: “Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là
phát huy điều nhân”.
- Nhân còn là cái gốc rễ và cốt lõi của hiếu. Theo Khổng Tử, tình cảm giữa
cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ, giữa anh em với nhau là những tình
cảm thiêng liêng, tự nhiên và vốn có của con người. Ông cho rằng, trong gia
đình có người cha đứng đầu gánh vác thì cũng giống như một đất nước có
một vị vua cai trị. Theo Khổng Tử, quốc gia cũng giống như một đại gia
đình, ở đó có Vua là người cha gánh vác cái gia đình đó. Vua là vị trị đầu
tiên trong đạo Tam cương – Ngũ thường. Vì vậy, đạo làm người phải tận
hiếu với cha mẹ, tận trung với vua. Một người biết yêu thương người thân
của mình, biết yêu thương cha, mẹ, anh chị em của mình mới có thể rộng
lòng thương với người khác. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm
đầu tiên là gia đình, từ đó suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Coi trọng
vai trò gia đình trong việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người ở
Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với
ngày nay, bởi lẽ, gia đình là một tế bào của xã hội, xã hội không thể ổn định,
phát triển nếu các gia đình không sống có đạo đức. Vì vậy, người cầm
quyền nếu không “tề gia” (cai quản gia đình) của mình thì cũng không thể
“trị quốc” (cai trị đất nước) được và cũng không thể nào “bình thiên hạ”
(làm cho thiên hạ thái bình).
- Nhân còn gắn liền với Nghĩa. Khổng Tử cho rằng người quân tử thì phải chú
trọng Nghĩa và xem thường tư lợi.

Phạm trù thứ hai trong Tam cương – Ngũ Thường là Lễ. Theo Nho giáo, Lễ là
các quy định về mặt đạo đức trong mối quan hệ ứng xử giữa người với người. Con cái
phải biết hiếu với cha mẹ, bề tôi phải biết trung thành với vua, chồng vợ phải sống có
lễ nghĩa với nhau, anh em phải biết kín trên nhường dưới. Lễ là những quy tắc mà ai
cũng phải tuân theo.
8

Phạm trù thứ ba là Nghĩa. Nghĩa là đạo đối xử với người khác một cách công
bằng, theo lẽ phải, không tư vị. Nghĩa không thể thiếu đối với con người. Người thấy
việc nghĩa mà không dám làm là người không có nghĩa khí, thấy việc đáng làm để giúp
người mà chịu ra tay là người nhát gan không xứng đáng với danh quân tử.

Phạm trù thứ tư là Trí. Trí là sự hiểu biết sâu rộng, sáng suốt, có học thức. Người có trí
sẽ biết lý lẽ, biết phân biệt thiện ác, đúng sai, không bị u mê dẫn dắt lầm đường lạc lối,
từ đó mới cư xử và hành động đúng theo đạo làm người. Người có Trí mới có thể nhìn
người, biết đề bạt những người tài giỏi và xa lánh những kẻ tiểu nhân.

Tín là phạm trù thứ năm trong Ngũ thường. Tín có nghĩa là giữ đúng lời hứa,
sống sao cho mọi người tin cậy, là giá trị về lòng tin của con người với nhau. Tín là
điều kiện đầu tiên và quan trọng trong mối quan hệ bạn bè. Tuy nhiên, chỉ tín còn có
thể hiện ở lòng tin vô hạn vào đạo lý của các bậc thánh hiền và các mối quan hệ vua
tôi, cha con, chồng vợ. Theo quan niệm của Nho giáo, Tín là nền tảng cho một xã hội
có trật tự vững chắc.

Tư tưởng đóng vai trò chủ đạo, xuyên suốt trong học thuyết của Khổng Tử là
thuyết “Chính danh”. Khổng Tử cho rằng nguyên nhân cốt lõi dẫn đến xã hội loạn lạc
là do xã hội đã không còn chính danh, vua đã không hành xử đúng với những điều mà
một vị vua nên làm, quân không làm đúng vài trò trách nhiệm của quân, con không
làm đúng đạo làm con, anh em cư xử không đúng nghĩa anh em, bằng hữu đối đãi với
nhau không bằng đạo bằng hữu. Theo ông, “Danh không chính thì lời nói chẳng thuận,
lời nói không thuận thì việc chẳng nên, việc không nên thì lễ nhạc chẳng hưng vượng,
lễ nhạc không hưng vượng thì hình phạt chẳng trúng, hình phạt không trúng ắt dân
không biết xử trí ra sao”. Riêng đối với người cầm quyền vua - thiên tử được thay trời
cai trị đất nước thì càng phải làm đúng danh phận của mình, như vậy mọi người mới
noi theo. Đặc biệt, trong việc chính sự, điều đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính
danh, phải xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người để họ làm
cho đúng. Khổng tử cho rằng không ở chức vị ấy thì không được bàn việc của chức vị
đó, không được hưởng quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy. Vì thế “Chính danh” là cơ
sở thiết lập trật tự tốt lành cho xã hội.
9

“Hành đạo” được coi như là mục đích cuối cùng của Nho giáo. Người quân tử
sau khi tu thân thì bước tiếp theo là phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị.
Nội dung này được thể hiện qua câu “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, tức là phải làm
việc nhỏ - gia đình, sau đó đến việc lớn – quốc gia, và đến cuối cùng là làm thiên hạ
thái bình – bình thiên hạ.

Một số nội dung khác trong tư tưởng Nho giáo:

Tam tòng – có nghĩa là thuận theo, nghe theo, vâng lời – được dùng để chỉ ba
điều mà người phụ nữ xưa bắt buộc, chắc chắn phải nghe và làm theo. Đó là bổn phận
mà bất cứ người phụ nữ nào sinh ra cũng không được làm trái. Tam tòng bao gồm tòng
phụ, tòng phu và tòng tử. Theo đó, người phụ nữ “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử”, tức là ở nhà phải nghe theo lệnh cha, xuất gia phải nghe theo lời
chồng, chồng mất thì phải nghe con. Có thể thấy, tam tòng trong xã hội cũ chính là
một sợi xích vô hình trói buộc cuộc đời người phụ nữ từ khi họ được sinh ra cho đến
khi họ chết đi, họ không có quyền quyết định cuộc đời của họ, lúc nào cũng phải nghe
theo lời của người đàn ông.

Tứ đức – công, dung, ngôn, hạnh – là bốn đức tính tốt mà người phụ nữ phải
có, phải thực hành. Công có nghĩa là khéo léo trong việc làm, biết vung vén công việc.
Dung là chỉ sự hoà nhã trong sắc diện. Ngôn là lời nói phải mềm mại, thanh tao. Hạnh
tức là phải có nét nhu mì trong tính nết, trong cử chỉ hành vi.

1.3. Giá trị và hạn chế trong tư tưởng đạo đức Nho giáo

Các tư tưởng đạo đức Nho giáo mang lại những giá trị to lớn trong việc giáo
dục con người, là kim chỉ nam định hướng con đường tu thân của mỗi cá nhân và cũng
là hành trang quan trọng giúp con người sống tốt sống đẹp trong cuộc sống này. Tuy
nhiên, bản thân các tư tưởng trong đạo đức Nho giáo cũng có những hạn chế nhất định.
Tiếp theo đây, tôi xin được chỉ ra các giá trị cũng như những mặt còn hạn chế trong tư
tưởng đạo đức Nho giáo.

1.3.1. Những giá trị tích cực trong tư tưởng đạo đức Nho giáo

Giá trị đầu tiên và cũng là cốt lõi nhất của Nho giáo, chính là đưa ra những tiêu
chuẩn đạo đức giúp cải tạo, hoàn thiện nhân cách con người. Nho giáo dạy con người
10

phải biết sống theo đạo, tức là đi đúng con đường để xây dựng nên các mối quan hệ
lành mạnh, tốt đẹp. Đạo theo quan điểm của Nho giáo là phải phù hợp với tình người.
Trong Kinh dịch có hai câu thế này “lập đạo của trời, nói âm và dương, lập đạo của
đất, nói nhu và cương” và tiếp theo sau đó là câu “lập đạo của người, nói nhân và
nghĩa”. Từ đó có thể thấy, Khổng Tử chủ trương cải tạo xã hội bằng đạo đức. Theo
ông, làm người trước tiên nhất là phải có đức.

Nho giáo dạy cho con người về Nhân và Nghĩa. Theo cách hiểu thông thường,
Nhân là lòng thương người, còn Nghĩa là sự chung thuỷ, trong đó Nhân là yếu tố trung
tâm, mọi đức tính khác đều từ Nhân mà hình thành phát triển, và quay trở lại với chữ
Nhân, cũng giống như vạn vật trên đời, dù trên trời cao hay đất rộng đều là do âm
dương nhu cương hợp thành. Chính vì lẽ đó, Nhân là cao trên tất cả các đức khác.
Khổng Tử còn dạy “ai làm được điều này trong thiên hạ người đó có nhân: cung,
khoan, tín, mẫn, huệ.” Cung tức là khiêm nhường, biết tôn trọng người và tôn trọng
công việc, không tỏ ra coi thường người khác, không kiêu ngạo. Khoan tức là khoan
dung, rộng lượng, tha thứ cho người khác. Tín là chữ tín, biết giữ lời hứa, nói sao làm
được như vậy. Mẫn là nhanh nhẹn, không lề mề, ỷ lại, là cần mẫn, siêng năng. Nếu
người làm được năm điều này thì dân chúng sẽ tin tưởng, sẽ dễ sai khiến. Mà tất cả
những điều này đều phải xuất phát từ lòng thương người, tôn trọng con người mà
thành.

Nho giáo còn dạy người ta về Lễ - Nghĩa – Trí – Tín. Nho giáo khuyến khích
con người sống cho hợp với Lễ nghi, tức là biết phép tắc, biết tuân thủ pháp luật, biết
tôn trọng chính danh, từ đó xã hội mới trật tự, cuộc sống mới có phép tắc. Nho giáo
còn dạy con người ta sống phải có Nghĩa, tức là biết làm những việc nên làm, chuyện
không nên làm tuyệt đối không làm, có như vậy đạo lý mới được duy trì. Bên cạnh đó,
Nho giáo còn nhắc con người về chữ Trí, tức là phải có tri thức, biết học hỏi thêm điều
mới, như vậy mới có thể thành nhân được. Quan trọng hơn nữa là chữ Tín, tức là lời
nói và hành động phải thống nhất với nhau, con người phải dựa vào chữ Tín để xây
dựng niềm tin với nhau trong xã hội. Một xã hội mà con người không tin tưởng nhau,
đấu đá, lừa gạt nhau thì tất sẽ loạn. Như vậy, Nho giáo đã hướng con người ta tới đức
11

Nhân, tức là đạo làm người. Mỗi một con người trong xã hội cần tu tập nhiều đức tính,
phải thực hành theo nhiều tiêu chuẩn đạo đức thì mới là con người hoàn thiện.

Nho giáo còn giáo dục con người về cách đối nhân, cách hành xử cho phải đạo
trong các mối quan hệ xã hội, mà cụ thể đó là Ngũ luân: vua – tôi, cha – con, anh –
em, vợ - chồng, bạn bè. Kinh lễ đã nêu lên mười một đức tính lớn mà con người trong
xã hội cần có: vua nhân, cha từ, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, trưởng
có ân, ấu ngoan ngoãn, với bạn hữu cần có đức tín.

Thuyết Tam tòng – Tứ đức đưa ra cơ sở rèn luyện đạo đức và phẩm hạnh một
cách cụ thể cho người phụ nữ. Nhờ có Tam tòng – Tứ đức mà giá trị của người phụ nữ
được nâng cao. Đặc biệt, Tam tòng – Tứ đức có thể được áp dụng với tất cả mọi người
phụ nữ, không phân biệt đẳng cấp, địa vị, giàu nghèo, tuổi tác, vùng miền, học vấn. Kể
cả những người phụ nữ nông thôn, miền núi không có điều kiện học tập vẫn có thể rèn
luyện thành người đảm đang, giỏi giang, hết lòng thương yêu chồng con. Bên cạnh đó,
Tam tòng – Tứ đức còn góp phần giáo dục người phụ nữ hoàn thiện cả về vẻ đẹp hình
thức lẫn nội dung toàn diện theo các đức Công – Dung – Ngôn – Hạnh.

Những tiêu chuẩn đạo đức mà Nho giáo đưa ra góp phần dạy bảo, khuyên răn
mỗi một cá nhân trong xã hội trong việc hình thành nhân cách của mình, đều là hướng
con người ta đến lối sống đẹp, hợp lẽ phải, chan hoà tình yêu thương, có lễ nghĩa.

Nho giáo cũng có các đóng góp quan trọng trong giáo dục. Khổng Tử chủ
trương thành lập trường học, hướng mọi người tới con đường học hành để mở mang
dân trí, rèn luyện đạo đức con người, hoàn thiện nhân cách của từng cá nhân. Theo
Khổng Tử, giáo dục phải đi đôi với hoàn thiện nhân cách. Đây chính là bộ phận giàu
sức sống nhất trong tư tưởng Nho giáo. Theo đó, muốn nhân loại trở về gần nhau, tức
quay về với cái thiện bản chất thì phải đầu tư vào giáo dục vì giáo dục có thể hoá ác
thành thiện. Đối với Khổng Tử, giáo dục không chỉ là để mở mang tri thức mà còn là
hoàn thiện nhân cách, dạy con người ta lối sống có đạo lý. Bởi vậy, mục đích cuối
cùng của giáo dục là để ứng dụng cho lợi ích của cuộc sống, cho xã hội, cho mọi người
chứ không phải chỉ để làm quan nhận bổng lộc, hưởng thụ cho riêng bản thân mình.
12

Trong tư tưởng Nho giáo có nêu rõ, phương pháp giáo dục cần đúng với điều
kiện tâm sinh lý, coi trọng mối quan hệ của các giai đoạn, "học phải đi đôi với hành.

Trong việc dạy học trò, Khổng Tử luôn giải đáp các thắc mắc dựa theo trình độ
vốn có của bản thân người học, câu trả lời có sâu có nông, có cao có thấp tuỳ theo khả
ngộ của từng người. Ngoài ra, Khổng Tử còn coi trọng việc mở trường lớp cho tầng
lớp “hữu giáo vô đạo”, dạy cho người mà không cần phân biệt đẳng cấp. Đây chính là
một tư tưởng rất tiến bộ của Khổng Tử. Và trên hết, chính ông cũng là người thực hiện
tư tưởng này.

Tư tưởng đạo đức Nho giáo cũng đóng vai trò không thể bàn đối với nền chính
trị quốc gia. Nho giáo chính là cơ sở để chế độ phong kiến dựa vào mà cai trị đất nước,
với mục đích xây dựng nên một xã hội trật tự, nề nếp, không còn loạn lạc triền miên.
Thuyết Chính danh của Khổng Tử chính là phương tiện đưa xã hội thoát khỏi rối ren,
loạn lạc. Nhờ có Chính danh mà con người suy nghĩ, hành động theo đúng với danh
phận của mình, bề trên làm đúng nghĩa vụ của bề trên, bề tôi làm đúng bổn phận của
bề tôi, cha mẹ làm đúng nghĩa vụ, con cái cư xử phải phép, bạn bè đối đãi với nhau
đúng đạo bằng hữu. Khi mà mọi người đều ở đúng cái danh phận của mình thì xã hội
mới trật tự, yên ổn.

Thuyết Lễ trị của Nho giáo dạy mọi người về những nghi thức, quy chế, kỉ
cương, trật tự, tôn ti của cuộc sống chung trong xã hội và lối cư xử hằng ngày. Lễ đã
làm cho tất cả sinh hoạt trong xã hội đều có quy củ: “Đạo đức nhân nghĩa, không có lễ
không thành; dạy bảo, sửa đổi phong tục, không có lễ không đủ; xử việc phân tranh
kiện tụng, không có lễ không quyết; vua tôi, trên dưới,cha con, anh em, không có lễ
không định; học làm quan, thờ thầy, không có lễ không thân; xếp đặt thứ vị trong triều,
cai trị quân lính, đi làm quan, thi hành pháp lệnh không có lễ không uy nghiêm; cầu
khấn tế tự, cung cấp quỷ thần, không có lễ không thành kính, không trang chính. Bởi
thế cho nên quân tử dung mạo phải cung, trong bụng phải kính, giữ gìn pháp độ, thoái
nhượng, để làm sáng rõ lễ” (Lễ ký: Khúc lễ thượng).

Lễ khiến cho hành vi của con người có chừng mực, để lúc nào cũng hợp với
đạo trung: “Cung kính mà không có lễ thì phiền, cẩn thận mà không có lễ thành ra sợ
13

hãi, dũng mà không lễ thì loạn, trực mà không có lễ thành ra vội vã” (Luận ngữ: Thái
Bá, XIII). Nếu như pháp luật đặt ra để trừng trị những hành vi đã xảy ra thì Lễ như
một lời nhắc nhở giúp ngăn chặn những chuyện chưa xảy ra, mà chưa xảy ra thì tất
nhiên chưa có hậu quả, mà không có hậu quả thì tất nhiên là tốt đẹp.

Nho giáo cũng đóng góp những quan điểm tích cực trong vấn đề quản lý xã hội.
Thuyết chính danh của Nho giáo với chủ trương là mỗi người làm đúng danh phận của
mình đã giúp cho xã hội tồn tại có trật tự, ổn định, mọi người sống có nề nếp, giữ đúng
kỉ cương.

Nho giáo đưa ra quan điểm tích cực về gia đình. Theo đó, gia đình là nền tảng
của xã hội. Muốn xã hội êm ấm, phát triển thì mỗi gia đình cũng phải được êm ấp, hoà
thuận. Vợ chồng yêu thương nhau, anh em hoà thuận với nhau tạo nên một đơn vị tốt
đẹp. Nhiều đơn vị tốt đẹp cùng tồn tại sẽ tạo ra một xã hội tốt đẹp.

Một điểm nổi bật khác của Nho giáo chính là trọng kẻ sỉ, tức là người có học.
Nho giáo rất chú trọng đến văn chương, cho nên nó thúc đẩy các nước đề cao đức trị,
lễ nhạc, văn hiến, đề cao giá trị của giáo dục. Từ đó, các nước theo tư tưởng Nho giáo
đều rất coi trọng người đi học, người biết chữ, người biết làm thơ phú, dẫn đến việc
sách vở, người đi học được tôn sùng, quý trọng.

1.3.2. Những hạn chế trong tư tưởng đạo đức Nho giáo

Những giá trị mà Nho giáo mang lại thật là quảng đại, đó là điều mà không một
ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, vũ trụ có âm dương hai mặt, Nho giáo cũng không
thể thoát khỏi quy luật này. Ngoài những giá trị tích cực, các tư tưởng đạo đức trong
Nho giáo cũng có những hạn chế nhất định.

Nho giáo dựa trên Tam cương – ngũ thường để cai trị xã hội, các quy định, lễ
nghĩa được đặt ra có tính hà khắc và giáo điều. Tư tưởng Nho giáo chủ yếu xoay
quanh việc cải tạo đạo đức con người để trở thành các bậc quân tử bằng việc tu thân.
Tu thân chủ yếu là để đạt được đạo Tam cương (tức là làm tròn ba mối quan hệ lớn
gồm vua – tôi, cha – con, chồng – vợ), mà trong đó, Nho Gia nhấn mạnh mối quan hệ
Vua – tôi, cho rằng đây là mối quan hệ quan trọng nhất. Hệ quả là xã hội ngày càng trở
nên phong kiến, khắc khe, bảo thủ, và quan liêu.
14

Nho giáo không chỉ yêu cầu con người phải đạt đạo, mà phải đạt cả đức, tức là
Ngũ thường – năm phẩm chất cần có ở người quân tử là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Việc
đặt ra các chuẩn mực khắc khe đã gò ép con người trong xã hội bấy giờ phải sống theo
khuôn khổ quá mức, không còn tự do. Hơn nữa là, việc xây dựng nhân cách đạo đức
con người cũng hoàn toàn không dựa trên các quan hệ kinh tế - xã hội, mà chỉ dựa vào
duy nhất tầng lớp thống trị. Điều này làm cho tư tưởng Nho giáo mang tính duy tâm,
không phù hợp với thực tế.

Nho giáo cũng đề cao quá mức giá trị người quân tử mà bỏ qua vai trò của
người phụ nữ. Hàng loạt các chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng trong mỗi gia đình
đồng thời thực hiện cùng chế độ đẳng cấp chính trị trong xã hội. Không hề có sự bình
đẳng giới trong xã hội. Người phụ nữ trong xã hội bị trói buộc bởi Tam tòng – Tứ đức
một cách rập khuôn và gay gắt. Họ không hề có sự tự do hay quyền quyết định vận
mệnh của mình. Chính điều này đã tạo nên quan điểm “trọng nam khinh nữ” ăn sâu
vào tiềm thức con người qua nhiều thời đại. Điều này làm cho người phụ nữ bị xem
thường và phụ thuộc rất nhiều vào đàn ông, khiến cho họ trở thành đối tượng bị áp bức
nhiều nhất trong xã hội.

Tuy là nói “dân làm gốc”, nhưng Khổng Tử lại có mâu thuẫn trong chính phân
cấp đặc quyền con người trong xã hội. Ông đề cao người quân tử, và cho rằng chỉ có
người quân tử - những người có phẩm chất đạo đức theo Ngũ thường – mới là những
người có nhân quyền, còn những kẻ tiểu nhân chỉ biết hám danh lợi thì không đủ tư
cách với chữ người, mà chỉ là những công cụ lao động phụ vụ cho xã hội. Nói như thế,
ông đã vô tình gôm chung những người phụ nữ, những kẻ tiểu thương, lái buôn, những
người lao động khốn khổ theo quan điểm của ông là những tiểu nhân. Và vì thế những
hạng người này thường không nhận được sự coi trọng, nếu không phải nói là bị khinh
thường.

Khổng Tử coi trọng việc học, việc trau dồi kiến thức cho bản thân để trở thành
người có đủ nhân nghĩa phụ vụ đất nước, phục vụ xã hội nhưng ông lại bỏ sót một điều
cũng quan trọng không kém, đó là một xã hội muốn phát triển bền vững thì nếu chỉ
vững trên lĩnh vực giáo dục là chưa đủ mà còn cần phải mạnh về kinh tế. Theo ông,
thời Chiến Quốc loạn lạc là do con người chạy theo “lợi” vì vậy nho giáo coi thường
15

những người chạy theo lợi nhuận, làm giàu là “vi phú bất nhân, vi nhân bất phú”,
thương nhân chỉ là kẻ tiểu nhân. Chính quan điểm này đã ảnh hưởng đến nền kinh tế
của các nước phong kiến, không giao thương với nước ngoài, nền kinh tế trở nên trì
trệ, phương thức làm ăn ngày càng trở nên lạc hậu với thời đại.

Một thiếu sót nữa trong tư tưởng Nho giáo là nó quá xem trọng thiên mệnh.
Khổng Tử cho rằng con người có ba điều phải sợ, thứ nhât là mệnh trời, thứ hai là bậc
đại nhân và thứ ba là lời nói của thánh nhân. Ông cho rằng sự hiểu biết về thiên mệnh
được xem là điều kiên tiên quyết để trở thành một người hoàn thiện. “Không hiểu
mệnh trời thì không trở thành người quân tử. Đã biết mệnh trời thì phải sợ và thuận
mệnh. Đó là cái đức của người quân tử. Sống chết có mệnh, giàu sang tại trời…” Theo
đó mà con người phụ thuộc vào tâm niệm là phải thờ phụng thiên mệnh, coi vua là bậc
tối cao nhất bởi vua là hình ảnh đại diện cho trời. Mọi hoạt động kinh tế xã hội, văn
hoá cho tới giáo dục đều là vì mục đích phụ tùng cho hệ thống chính trị phong kiến.
Và cũng vì quá xem trọng thuyết thiên mệnh mà con người thường sống an phận và
cam chịu những gì được cho là đã an bài, không có ý chí phấn đấu, thay đổi cuộc đời
và việc cải thiên là một điều đại kị, hay là tội lỗi cũng như câu nói “Con quan thì được
làm quan, con sải ở chùa thì quét lá đa”. Đây cũng chính là một tư tưởng góp phần tạo
nên tính quan liêu, phong kiến trầm trọng thời bấy giờ.

Nho giáo dạy con người tu thân, xong lại vô tình đưa con người trở thành
hướng nội, chỉ chuyên chú xuy xét bên trong bản thân mình mà không hướng dẫn con
người hướng ra thế giới bên ngoài, chinh phục thiên thiên, vạn vật xung quanh. Nho
giáo khuyến khích mọi người, đặc biệt là thành phần tri thức đi sâu vào cải tạo “tu thân
– tề gia – trị quốc – bình thiên hạ” vào việc học hành, thi cử, dương danh thiên hạ. Vì
vậy thực tế là, Nho giáo đã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ ngày càng
rời xa hoạt động kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ đề cao đạo tu thân mà
không cân nhắc đến các tri thức khoa học tự nhiên cũng như các ngành sản xuất lưu
thông hàng hoá. Điều này làm cho nền văn minh, khoa học tự nhiên, kỹ thuật sau một
thời gian dài phát triển bị chững lại so với các nước phương Tây vốn xuất hiện sau.

Dù đã tồn tại và phát triển, Nho giáo nhìn chung vẫn gắn liền với giai cấp
phong kiến địa chủ và là công cụ thống trị và tư tưởng của giai cấp đó. Tuy giai cấp
16

này có vai trò nhất định những vẫn là một giai cấp bộc lột nhân dân. Và đã là một gia
cấp bốc lột thì dù nó có đem lại sự phát triển thế nào đi nữa thì những vết nhơ và bàn
tay vấy máu người lao động vẫn không thể được ủng hộ, chấp nhận.

Các giáo điều lễ nghi của Nho giáo cũng đã làm cho con người mất đi tự do
trong cuộc sống. Lối sống giản dị, những mối quan hệ trong sáng, những tình cảm tự
nhiên và chân thực bị bóp nghẹt, thậm chí những loại tình cảm này còn bị xem là phản
động. Do đó, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có những mặt hạn
chế làm kìm hãm sự phát triển về văn hoá, chính trị, xa hội, kinh tế của các nước đi
theo tư tưởng Nho giáo.

Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO VÀO VIỆC GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH Ở CẦN THƠ HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP

2.1. Thực trạng đạo đức học sinh ở tỉnh Cần Thơ hiện nay

Giới trẻ đóng một vai trò cực kì quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước ở mỗi quốc gia vì đây là lực lượng đảm bảo sự phát triển bền vững. Và
đối với Việt Nam, một quốc gia đang trong quá trình nổ lực phấn đấu để khẳng định vị
thế của mình trên trường Quốc Tế thì lực lượng này lại càng đóng vai trò then chốt
hơn nữa. Cho nên, việc đào tạo ra tầng lớp người trẻ Việt Nam vừa có tài vừa có đức
là một mục tiêu hàng đầu.

Thế nhưng, đáng buồn thay là thực tế đang báo động rằng lối sống đạo đức của
một bộ phận học sinh đang đi xuống bởi nhiều nguyên nhân, trong đó vừa có nguyên
nhân khách quan, vừa có nguyên nhân chủ quan. Vậy để có giải pháp để cải thiện đạo
đức cho học sinh ở Việt Nam nói chung, cũng như học sinh ở Cần Thơ nói riêng thì
việc xác định được thực trạng và nguyên nhân cốt lõi của vấn đề là một yêu cầu cấp
bách.

Dựa theo kết quả khảo sát của Viên Nghiên cứu và Phát triển Giáo dục, tình
hình vi phạm các chuẩn mực đạo đức của học sinh đang ở mức khá nghiêm trọng. Có
đến 8% học sinh tiểu học thực hiện hành vi quay cóp trong các kì thi cử và tỉ lệ này gia
tăng đáng kể ở các cấp độ cao hơn, cụ thể là 55% học sinh trung học cơ sở và 60% đối
với học sinh trung học phổ thông. Hành vi không trung thực, nói dối cũng diễn ra ở
17

khắp các cấp độ học sinh, trong đó 22% học sinh tiểu học, 50% học sinh trung học cơ
sở và 64% học sinh trung học phổ thông có hành vi nói dối bố mẹ (Trần Hữu Quang,
2012). Hai tác giả Đặng Văn Chương và Trần Đình Hùng đã đưa ra lời nhận xét đáng
suy ngẫm “Càng học lên cao thì số học sinh, sinh viên vi phạm đạo đức càng tăng lên.”
Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có khoảng 1.600 học sinh đánh
nhau trong và ngoài trường học trong một năm học, tính trên phạm vi cả nước, trung
bình xảy ra khoảng 5 vụ mỗi ngày (Mai Chi, 2017).

Nhìn chung, học sinh ở Cần Thơ đang thiếu lòng thương người. Trải qua hai lần
giản cách xã hội, có thể nhìn thấy rằng một bộ phận học sinh ở Cần Thơ vẫn còn rất
kém về mặt ý thức trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Khi cả nước đang gồng mình
chống dịch, các biện pháp giản cách xã hội được ban hành, trong đó nhà trường chủ
động cho các em nghỉ học vừa là để bảo vệ sức khoẻ tính mạng cho các em cũng như
gia đình, vừa là để góp phần vào công cuộc hỗ trợ đất nước chống dịch. Vậy mà, thay
vì tuân thủ theo chỉ thị của nhà nước, các em học sinh lại xem đây như một cơ hội để
vui chơi. Thật không khó để bắt gặp hình ảnh các em ngồi chật kín các hàng quán vỉa
hè, thoải mái trò chuyện vui tươi mà không hề có chiếc khẩu trang trên mặt. Các em ấy
hầu như không ý thức được việc mình làm sẽ đem lại tác động lớn thế nào đến việc
chống dịch, và cũng như hậu quả nghiêm trọng ra sao nếu vô tình mình đem bệnh về
lây lan cho gia đình, người thân của mình. Hay là các em hoàn toàn biết rõ, nhưng lại
phớt lờ đi những rủi ro. Phải chăng các em đã quá vô tâm, vô tâm với chính bản thân
và người nhà, với mọi người xung quanh, với đồng bào dân tộc mình, và với thế giới
này. Nếu các em có lòng thương người đủ lớn, thì chắc hẳn các em sẽ biết nghĩ nhiều
hơn, quan tâm hơn, và dè chừng hơn trong hành động và suy nghĩ của mình. Đây được
xem như là bất nhân.

Cũng trong đợt dịch vừa rồi mà ta thấy được truyền thống tôn sư trọng đạo của
các bạn học sinh đã mai một đi rất nhiều. Với chính sách không để các em bị hụt hẫng
về kiến thức khi nghỉ dịch dài hạn, gia đình và nhà trường đã đầu tư vào công cuộc dạy
học trực tuyến. Có những gia đình khó khăn cũng phải tìm cách vay trước mượn sau
để mua cho con em chiếc điện thoại di động để các em có cơ sở điều kiện học tập, nhà
trường và giáo viên thì phải soạn bài để dạy các em. Ấy thế mà, các em không chỉ xem
18

nhẹ việc học, mà còn xem nhẹ thầy cô. Có rất nhiều trường hợp, các em chỉ mở điện
thoại lên để đấy chứ không chú ý nghe giảng, có học sinh thì thoải mái ăn uống, chơi
trò chơi điện tử, xem phim trong lúc thầy cô giảng bài vì cho rằng dù sao thầy cô cũng
không thể thấy hoặc phạt mình được. Đó chính là các em đang xem nhẹ việc học, và
cũng không có ý thức học tập đúng đắn, không có tinh thần học tập tự thân.

Bên cạnh đó, điểm số trong quá trình học trực tuyến trong mùa dịch cũng là một
vấn đề đáng báo động. Rất nhiều em trong quá trình học trực tuyến, khi tham gia làm
bài kiểm tra và thi cử đểu sử dụng tài liệu hoặc sự trợ giúp từ các trang mạng tìm kiếm,
dẫn đến một kết quả là hầu hết học sinh đều đạt điểm giỏi cho tất cả các môn. Nhưng
khi thực tế vào trường học thì điểm số chỉ còn đạt một nữa, thậm chí dưới trung bình.
Đây đều là biểu hiện của việc thất tín, tức là không đáng tin cậy, làm việc dối trá,
không trung thực.

Bạo lực học đường luôn là một vấn đề nhức nhói đã tồn tại qua nhiều năm, và
hiện tại nó càng diễn ra thường xuyên và tính chất trầm trọng hơn. Các bài báo, trang
mạng không ít lần đưa tin về việc học sinh tụ tập đánh nhau, “dạy dỗ” nhau cả trong và
ngoài sân trường, có vụ các em còn dùng đến “hung khí” khiến cho bạn bè bị trọng
thương phải nhập viện trong tình trạng nguy kịch. Và phải biết rằng, những bài báo
được đăng tải cũng chỉ mới thể hiện được phần nổi của tảng băng trôi, thực tế có thể
còn nhiều vụ việc tương tự xảy ra hơn nữa. Nếu như bản thân các bạn học sinh góp
phần trong các vụ bạo lực học đường đã đáng trách, thì các bạn chỉ ngồi xem và không
làm gì cả còn đáng trách hơn. Nếu người trong cuộc đã mất tỉnh táo, thiếu sáng suốt để
nhận ra hành vi của mình là sai, thì các bạn ngoài cuộc phải là người tỉnh táo để biết
can ngăn, hoặc là tìm đến sự giúp đỡ của thầy cô hoặc người lớn, thậm chí là cảnh sát
để ngăn chặn sự việc tiến triển tệ hơn. Không những không can ngăn, các bạn đôi khi
còn tham gia cổ vũ, khuyến khích đánh nhau, cùng nhau ghi hình và đăng lên các
mạng xã hội, cùng nhau bình luận hả hê vì vốn dĩ, chuyện không liên quan đến các bạn
nên các bạn nghĩ mình không cần phải có trách nhiệm. Tự hỏi, như vậy có phải các
bạn đang sống bất nghĩa hay không.

Với sự phát triển của mạng lưới internet toàn cầu và sự phổ cập rộng rãi của các
nền tảng mạng xã hội, tưởng chừng các bạn học sinh khi có điều kiện tiếp xúc với các
19

nền văn hoá trên thế giới và cả nền văn hoá ở các khu vực khác nhau trong nước, các
bạn học sinh sẽ học hỏi được những điều hay, điều tốt đẹp thì một thực tế đáng buồn là
lễ nghĩa ứng xử của càng em ngày càng xuống cấp trầm trọng. Các em tự do bình luận
trên các trang mạng, bài bào một cách ngông cuồng, không chút phép tắc trong hành vi
ngôn ngữ. Thậm chí có nhiều trường hợp, các em học sinh bình luận vào bài viết của
các tác giả, nhà văn lớn tuổi bằng ngôn từ thô tục, không biết “kính trên” vì cho rằng
dẫu sao cũng không ai biết các em là ai, nên các em không cần chịu trách nhiệm gì cho
những gì mình nói.

Nếu như hình tượng nữ sinh ở nhiều năm về trước là những hình ảnh người con
gái đẹp dịu dàng, thướt tha, tao nhã thì ở thời đại bây giờ, nữ học sinh ngày càng cư xử
ương bướng, ngang ngạnh chẳng kém cạnh các bạn nam sinh. Và không ít vụ bạo lực
học đường xảy ra mà trong đó, nhân vật chính là các bạn học sinh nữ. Bốn chữ công
dung ngôn hạnh hầu như trở thành một điều quá đỗi xa lạ đối với nữ sinh ngày nay. Có
ý kiến cho rằng, con gái ở thời đại mới cần năng nổ, có tính cách mạnh mẽ thì mới hợp
thời đại. Tuy nhiên, nói như thế chỉ đúng khi nói đến người phụ nữ trong việc đối
ngoại, còn giá trị cốt lõi của một người phụ nữ thì phải được giữ gìn và phát huy.

2.2. Vận dụng những giá trị tích cực của đạo đức Nho giáo đề xuất một số giải
pháp giáo dục đạo đức cho học sinh ở tỉnh Cần Thơ hiện nay

Giáo dục và đào tạo là hoạt động có tổ chức của xã hội, nhằm bồi dưỡng và
phát triển các phẩm chất và năng lực cho mỗi con người. Trong quá trình giáo dục ở
nhà trường, nhiệm vụ giáo dục tri thức luôn phải gắn với nhiệm vụ giáo dục đạo đức.
Thông qua “dạy chữ" để “dạy người", giáo dục đạo đức là một khâu then chốt để giáo
dục nhân cách con người. Lúc sinh thời Hồ Chủ Tịch rất quan tâm đến vấn đề giáo
dục, rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ. Bác nói: “Có tài mà không có đức là người vô
dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó''. Như vậy có thể thấy Đức và
Tài là hai phạm trù cơ bản để đánh giá nhân cách của một con người. Cho nên để phát
triển nhân cách phải hình thành, rèn luyện phẩm chất đạo đức, giá trị đạo đức phù hợp.
Để làm được điều này, dựa trên các giá trị tích cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo, tôi
xin đưa ra một số đề xuất giáo dục đạo đức cho học sinh ở Cần Thơ hiện nay như sau:
20

2.2.1. Nâng cao nhận thức của học sinh về vai trò của đạo đức

Theo Nho giáo đạo đức là giá trị cốt lõi và cơ bản nhất của mỗi một con người,
vì vậy việc nâng cao nhận thức của học sinh về vai trò của đạo đức là hết sức cần thiết.
Chính vì thế, vai trò của các môn dạy đạo đức, cụ thể là môn Giáo Dục Công Dân cần
được xem trọng và phát huy tối đa. Thầy cô bộ môn Giáo Dục Công Dân cần đẩy
mạnh giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh, phối hợp với các giáo viên khác trong
nhà trường cùng tạo nên môi trường thực hành đạo đức cho học sinh. Giữa các giáo
viên cần có sự thống nhất về các tiêu chuẩn đạo đức từ đó thể giúp các em rèn luyện,
phát huy đạo đức trong nhà trường vì bởi lẽ đạo đức không phải chỉ là chữ viết và lời
nói suông, mà nó còn phải được thể hiện thông qua tư duy, ý thức và hành động. Do
đó hơn hết, giáo dục đạo đức phải được thực hiện thường xuyên, mọi lúc mọi nơi,
được thực hiện bởi cùng một lúc nhiều đối tượng nhưng phải có sự nhất quán theo một
chuẩn mực nhất định. Học phải đi đôi với hành cũng là đúng với tinh thần của Nho
giáo.

2.2.2. Tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, sinh hoạt câu lạc bộ với các
chủ đề về giáo dục đạo đức cho học sinh.

Tham gia các hoạt động giải trí, văn nghệ, diễn đàn không những giúp các em
nâng cao hiểu biết về văn hoá mà còn giúp các em hiểu biết hơn về thơ – ca – lễ -
nhạc. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp như văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt động ngoại
khoá, các câu lạc bộ nên được tăng cường nhằm thu hút nhiều học sinh tham gia vì lứa
tuổi này rất năng động và thích giao tiếp. Nếu nhà trường tạo được những môi trường
hoạt động như thế cũng sẽ phần nào giúp các em tránh xa các phần từ xấu lôi kéo, lợi
dụng. Tuy nhiên, trong hoạt động này cần lưu ý kết hợp hài hòa giữa “học mà chơi,
chơi mà học" theo đúng định hướng giáo dục.

Cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc thi hiểu biết về văn hoá xã hội, tham gia lễ
hội truyền thống của trường, của địa phương, hoạt động giao lưu văn hoá giữa các
trường giúp học sinh có vốn sống thực tế, góp phần hình thành niềm tin đạo đức, tình
cảm đạo đức. Các hoạt động này giúp học sinh mở mang trí tuệ, phát triển thể chất, tạo
21

điều kiện thuận lợi để học sinh giao tiếp, hình thành những phẩm chất đạo đức, có
năng lực hoà nhập vào cộng đồng xã hội sau này.

2.2.3. Phát huy vai trò chủ thể của học sinh và năng lực tự quản của tập thể học
sinh

Việc phát huy tính năng động, sáng tạo, tự lập, tự chủ của học sinh vừa là mục
tiêu, vừa là nguyên tắc giáo dục. Với tinh thần của Nho giáo, điều này đặc biệt đúng vì
“tu thân” chính là quá trình tự thân tu sửa, là hoạt động đầu tiên trong bước làm người.
Và trong giai đoạn hiện nay, , khi chúng ta đang đòi hỏi phải đào tạo cho được những
thế hệ yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức trách nhiệm công dân cao…thì việc phát huy
tính năng động sáng tạo trong học tập, rèn luyện ở học sinh là một nguyên tắc cần
được quán triệt trong mọi hoạt động.

Trên tinh thần của Nho giáo, cá nhân là một phần của xã hội, và xã hội chỉ phát
triển bền vững khi cá nhân phát triển, cho nên vai trò giáo dục của tập thể cũng cần
được phát huy. Nhà trường và giáo viên chủ nhiệm không phải lúc nào cũng theo sát
từng học sinh mà phải thông qua mạng lưới cộng tác viên để nắm bắt tình hình. Thông
qua tập thể và giáo dục bằng tập thể, giáo dục bằng dư luận, giáo dục bằng cảm hóa sẽ
có tác dụng tích cực, giúp học sinh điều chỉnh hành vi của mình.

2.2.4. Tuyên truyền và phát huy “Tiên học lễ - hậu học văn”

Lễ nghĩa đi đầu câu chuyện. Đây là một nội dung rất quan trọng trong các tư
tưởng đạo đức của Nho giáo. Con người nếu như chỉ có kiến thức, hiểu biết mà không
biết cách cư xử sao cho đúng lễ nghi, phép tắc thì cũng giống như trà ngon mà đựng
trong cái ấm cũ kỹ, xấu xí. Cư xử không đúng lễ nghĩa khiến cho các mối quan hệ
trong xã hội trở nên rối ren, hỗn loạn. Trong khuôn khổ nhà trường, học sinh không
biết phép tắc, lễ nghi thì sẽ có hành vi suy nghĩ không đúng mực với giáo viên, với bạn
bè. Đó là mầm mống tai hoạ của sự loạn lạc. Cho nên, nhà trường trước tiên phải dạy
cho học sinh cách ứng xử, và phải chịu trách nhiệm giám sát và khuyến khích “lễ”
thường xuyên, liên tục.
22

2.2.5. Tăng cường công tác phối hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội

Tư tưởng đạo đức của Nho giáo có chỉ ra rằng, gia đình chính là nền tảng của
xã hội, và mỗi cá nhân là một phần thiết yếu tạo nên một gia đình. Xã hội muốn phát
triển tốt đẹp thì trước tiên mỗi một gia đình cũng phải triển tốt đẹp, mà muốn gia đình
phát triển tốt đẹp thì mỗi một cá nhân trong gia đình cũng phải sống tốt đời đẹp đạo.
Vì thế, khi nói đến giáo dục đạo đức học sinh thì không thể nào bỏ qua vai trò của gia
đình và cộng đồng xã hội. Chính vì thế, nhà trường và gia đình, cộng đồng nơi học
sinh sống cần có những liên hệ thường xuyên trong vấn đề quản lý, giám sát thực hành
đạo đức của học sinh. Nếu một học sinh nào đó có hành vi, lối sống không đúng chuẩn
mực đạo đức thì nhà trường và gia đình cần thương thảo và tìm ra cách thức giáo dục
các em cho đúng và kịp thời. Nhà trường cần quyết tâm không từ bỏ học sinh hư và
gia đình cũng không phó thác hoàn toàn trách nhiệm giáo dục đạo đức về phía nhà
trường. Nhà trường, giáo viên và phụ huynh phải thống nhất về biện pháp giáo dục.
Phụ huynh đồng thuận, đồng hành cùng giáo viên và nhà trường trong quá trình giáo
dục học sinh với mục tiêu tất cả vì sự tiến bộ của học sinh, vì tình thương và trách
nhiệm.

Các cơ quan chức năng như Công an trên địa bàn trường học phối hợp chặt chẽ
với nhà trường trong việc điều tra, cung cấp thông tin học sinh vi phạm và quản lý
giáo dục học sinh cá biệt.

Các trường trong cùng một địa bàn cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh, bởi mỗi em học sinh sẽ có mối quan hệ địa bàn, quan
hệ liên trường và những mối quan hệ khác ngoài xã hội. Cho nên việc giáo dục, các
chuẩn mực đạo đức giữa các trường cùng địa bàn cần có sự thống nhất chặt chẽ với
nhau, có như thế thì mới quản lý tốt được học sinh.

2.3. Ý nghĩa của tư tưởng đạo đức Nho giáo đối với việc rèn luyện đạo đức của
của bản thân

Thông qua việc tìm hiểu về các tư tưởng đạo đức của Nho giáo, phân tích
những giá trị tích cực cũng như thấy được những mặt hạn chế của nó, tôi nhận thấy các
tư tưởng đạo đức của Nho giáo có ý nghĩa quan trọng trong việc rèn luyện đạo đức của
23

bản thân. Bản thân là một giáo viên, người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, là người
truyền tải kiến thức cũng như các giá trị tinh thần đến với thế hệ người trẻ, tôi cảm
thấy việc rèn luyện đạo đức của chính mình là chuyện vô cùng cần thiết.

Nho giáo giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về đạo làm người và tầm quan trọng của đạo
đức đối với giá trị nhân sinh của mỗi con người. Nho giáo tồn tài như một người thầy
dẫn dắt tôi đi đúng con đường tu thân của mình. Đức nhân có lẽ là quan trọng nhất hết
thảy, vì bởi lẽ một người giáo viên để có thể giáo dục thành công học sinh thì trước hết
cần có tình yêu thương to lớn đối với học sinh của mình, nếu không có yêu thương thì
không có nhẫn nại, không có niềm tin vượt qua các khó khăn trên hành trình “đưa đò”
vốn nhiều khó khăn và trở ngại.

Thuyết chính danh của Nho giáo như một lời nhắc nhở với tôi về vị trí và vai
trò của mình. Giáo viên thân thiện được học sinh và đồng nghiệp yêu mến là điều đáng
quý, tuy nhiên, bản thân phải biết mình ở ví trí nào mà cư xử cho đúng mực, không
nên vượt quá giới hạn đó.

Chữ Nghĩa trong Nho giáo nhắc nhở tôi phải làm biết làm những chuyện đúng
đắn, vì người mà hành động. Một việc làm tốt nhỏ không thể bỏ qua, một việc ác nhỏ
cũng tuyệt đối không làm.

Chứ Tín trong Nho giáo dạy tôi về giá trị của sự tin tưởng. Niềm tin là thứ khó
xây dựng nhất, vì thế giá trị của nó là lớn nhất. Cho nên, một khi mình dã nhận được
sự tín nhiệm của người khác thì tuyệt đối không làm ra hành động bán bỏ niềm tin của
họ.

Và phải luôn luôn không ngừng học hỏi để đạt được Trí. Có trí thì mới nhận
định đúng sai phải trái, phân biệt được thiện ác.

Về việc dạy học trò, Khổng Tử cũng dạy rất rõ rằng người thầy phải biết linh
hoạt, tuỳ duyên mà hành động, đối với học trò khác nhau phải có cách giáo dục khác
nhau, không máy móc, giáo điều, rập khuôn.

Nho giáo còn giúp tôi nhận thức sâu sắc hơn về tính biện chứng của thế giới.
Thế giới luôn vận động, phát triển, những điều có thể là tốt đẹp nhất của hôm nay chưa
chắc đã là phù hợp cho ngày mai, cho nên con người cần phải chủ động trong tư duy,
24

phải linh hoạt thay đổi sao cho hợp với thời đại. Và cũng như trong thế giới âm dương
tương sinh tương khắc, mọi sự trên đời đều có tốt có xấu, biết nhìn nhận cái tốt và dẹp
bỏ cái xấu, không phiến diện chỉ nhìn một mặt mà vội đánh giá bất cứ điều gì về sự
vật, hiện tượng và con người.
25

KẾT LUẬN

Một sự thật bất khả tư nghị là Khổng Tử hay Nho giáo đã có những đóng góp to
lớn trong việc thiết lập nên diện mạo cho cả một thời đại. Nho giáo ra đời vốn là để
cứu rỗi người dân ra khỏi cơn loạn lạc, với những tư tưởng tiến bộ, đầy tính nhân văn,
lấy Nhân làm trọng tâm của Khổng Tử và sau này được phát triển và phổ biến bởi
Mạnh Tử và Tuân Tử. Nho giáo đã góp phần ổn định Trung Hoa dân quốc qua lịch sử
mấy ngàn năm, cho nên những giá trị tích cực mà nó mang lại là không thể không nói
đến. Tuy nhiên, lịch sử luôn luôn vận động phát triển, cho nên theo thời gian thì Nho
giáo đã phát sinh những hạn chế trong chính bản thân nó. Nhưng nếu chúng ta biết học
tập và theo tinh thần cầu tiến, biết chắt chiu những điểm tốt, loại trừ những tiêu cực thì
Nho giáo sẽ có ích trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống mãi về sau, mà đặc biệt nhất
là vai trò của Nho giáo đối với nền giáo dục của Việt Nam.

Trước thực trạng đạo đức học sinh ở Cần Thơ ngày càng có dấu hiệu đi xuống
thì yêu cầu tìm ra giải pháp để giáo dục đạo đức cho học sinh là hết sức cấp bách. Và
Nho giáo trên tinh thần lấy Nhân làm gốc, lấy Đức làm nền tảng giá trị của con người,
nếu bỏ qua các hạn chế tồn động trong nó, thì thực sự như là một phương thuốc chữa
bệnh hiệu quả.

Thông qua việc phân tích những giá trị tích cực của Nho giáo cũng như nhận
định những mặt hạn chế, tôi tin rằng việc áp dụng những giá trị tư tưởng đạo đức tiến
bộ và tích của của Nho giáo vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh ở Cần Thơ là việc
vô cùng có ý nghĩa và sẽ mang lại được những lợi ích to lớn, góp phần đào tạo ra lớp
người trẻ Việt Nam không những vững về kiến thức văn hoá mà còn hoàn thiện trong
nhân cách.
26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thái Bá (XIII), Tứ thư bình giải: Luận ngữ.


2. Mai Chi (2017), Xuống cấp về đạo đức xã hội: Không ngăn chặn sớm sẽ “mất
gốc”, Pháp luật Việt Nam.
3. Lê Tấn Lộc (2019), Đạo đức học sinh: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp,
Báo Giáo dục và Xã hội.
4. Pgs.Ts. Trần Văn Phòng, Tìm hiểu môn học Triết học Mác-Lênin (dưới dạng
hỏi và đáp), NxB Lý luận chính trị, Hà Nội.
5. Trần Hữu Quang (2012), Đi tìm nguồn gốc của tình hình suy thoái đạo đức
trong xã hội, Thời đại mới.
6. Khổng Tử, Lễ ký: Khúc lễ thượng, Kinh Lễ.
7. Giáo trình triết học Việt Nam (tái bản lần thứ nhất).

You might also like