You are on page 1of 49

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

KHOA HÓA DƯỢC

BÀI TIỂU LUẬN

Đề tài:
KỸ THUẬT TỔNG HỢP POLYMER
ỨNG DỤNG TRONG NGÀNH DƯỢC

Nhóm : Nhóm 3 - Tổ 2
Khoa : Công nghệ Hóa Dược
Bộ môn : Hóa Hữu Cơ
Môn : Hợp chất cao phân tử

HÀ NỘI - 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
KHOA HÓA DƯỢC

BÀI TIỂU LUẬN


NHÓM 3 – TỔ 2

KỸ THUẬT TỔNG HỢP POLYMER


ỨNG DỤNG TRONG NGÀNH DƯỢC

KỸ THUẬT QUAY ĐIỆN ELECTROSPINNING


HỌC PHẦN CÁC HỢP CHẤT CAO PHÂN TỬ

Người hướng dẫn:


1. PGS. TS. Vũ Trần Anh
2. Ths. Ngô Xuân Hoàng
3. Ths. Bùi Thị Thanh Hà
Người thực hiện:
1. Nguyễn Ngọc Anh 2091007
2. Lê Thị Tâm Băng 2091013
3. Ngô Hồng Duy 2091018
4. Phùng Thị Hậu 2091027
5. Mai Uyền Hương 2091032
6. Đào Thị Khánh Ly 2091042
7. Nguyễn Mai Ngân 2091047
8. Phạm Đăng Nguyên 2091048

HÀ NỘI – 2022

1
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy cô bộ môn
Hóa Hữu Cơ - khoa công nghệ Hóa Dược .Trong suốt quá trình học tập và tìm hiểu
môn học Hợp chất cao phân tử, chúng em đã nhận được sự quan tâm và giúp đỡ,
hướng dẫn tận tình, tâm huyết của các thầy cô bộ môn. Bộ môn đã giúp chúng em
tích lũy thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn trong học tập
và nghiên cứu. Thông qua bài tiểu luận này, chúng em xin trình bày những gì mình
đã tìm hiểu về vấn đề Kỹ thuật tổng hợp Polymer ứng dụng trong ngành Dược trong
Hợp chất cao phân tử gửi đến bộ môn.

Có lẽ kiến thức là vô hạn mà tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người
luôn tồn tại những hạn chế nhất định. Do đó trong quá trình hoàn thành bài tiểu
luận, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân chúng em rất mong
nhận được những đóng góp đến từ bộ môn để bài tiểu luận của chúng em được hoàn
thiện hơn.

Kính chúc các thầy cô bộ môn có thật nhiều sức khỏe, hạnh phúc thành công
trên con đường sự nghiệp giảng dạy.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

Nhóm 3 – Tổ 2 – Lớp H1K1

2
MỤC LỤC

MỤC LỤC ........................................................................................................................... 3


HÌNH ẢNH .......................................................................................................................... 5
ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................................... 6
KỸ THUẬT ELECTROSPINNING ................................................................................. 7
I. NGUỒN GỐC & PHÁT TRIỂN ............................................................................. 7
1. Nguồn gốc ............................................................................................................... 7
2. Phát triển ............................................................................................................... 10
II. CẤU TẠO ................................................................................................................ 12
1. Khối cao áp ........................................................................................................... 14
2. Khối cấp nguyên liệu ............................................................................................ 14
3. Khối thu................................................................................................................. 15
III. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG VÀ CHI TIẾT QUÁ TRÌNH ........................ 16
1. Nguyên tắc hoạt động của electrospin .................................................................. 16
2. Chi tiết quá trình ................................................................................................... 18
IV. PHÂN LOẠI ........................................................................................................ 22
1. Hấp thụ vật lý ........................................................................................................ 23
2. Pha trộn điện quay ................................................................................................ 24
3. Quay điện đồng trục .............................................................................................. 24
4. Cố định cộng hóa trị .............................................................................................. 25
V. THÔNG SỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỢI ELECTROSPUN .................................. 26
VI. TÍNH CHẤT CỦA SỢI NANO ......................................................................... 32
1. Tính chất nhiệt ...................................................................................................... 32
2. Tính chất cơ học .................................................................................................... 33
VII. ỨNG DỤNG ......................................................................................................... 33
1. Trong y sinh .......................................................................................................... 34
1.1. Băng vết thương ............................................................................................. 34
1.2. Liệu pháp điều trị ung thư .............................................................................. 35
1.3. Kỹ thuật mô .................................................................................................... 36
1.3.1. Sợi nano cho kỹ thuật mô da ................................................................... 37
1.3.2. Sợi nano cho kỹ thuật mô thần kinh ........................................................ 38
1.3.3. Sợi nano cho kỹ thuật mô tim.................................................................. 39
1.3.4. Sợi nano cho kỹ thuật mô xương............................................................. 40
3
1.4. Thiết bị thay thế trong y tế ............................................................................. 41
1.5. Vận chuyển các loại thuốc ............................................................................. 42
2. Trong môi trường ................................................................................................. 43
3. Trong năng lượng, xúc tác ................................................................................... 43
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 46

4
HÌNH ẢNH

Hình 1. Thí nghiệm của William Gilbert ............................................................................. 7


Hình 2. Bằng sáng chế đầu tiên của kĩ thuât electrospinning .............................................. 7
Hình 3. Mô tả phương pháp sản xuất mạng sợi tổng hợp từ nhiều Polymer và chất nền.... 8
Hình 4. Mô tả quá trình kéo sợi Cellulose Acetate bằng dung môi Aceton ........................ 8
Hình 5. Hình dạng giọt nước khi tăng dần điện áp .............................................................. 9
Hình 6. Hình nón Taylor ...................................................................................................... 9
Hình 7. Hệ thống quay điện theo chiều thẳng đứng ......................................................... 13
Hình 8. Hệ thống quay điện theo chiều ngang ................................................................... 13
Hình 9. Thiết bị electrospinning ........................................................................................ 13
Hình 10. Khối cao áp ......................................................................................................... 14
Hình 11. Khối cấp nguyên liệu .......................................................................................... 15
Hình 12. Khối thu .............................................................................................................. 15
Hình 13. Thiết lập mô hình Electrospinning ..................................................................... 16
Hình 14. Sự phân bố điện tích và hình dạng của hình nón Taylor .................................... 18
Hình 15. Thiết lập thử nghiệm của quá trình quay điện .................................................... 19
Hình 16. Giản đồ về các dạng mất ổn định khác nhau xuất hiện từ hình nón Taylor ....... 21
Hình 17. Giản đồ các chế độ khác nhau của các tia điện tích xuất hiện từ một hình nón
Taylor.................................................................................................................................. 21
Hình 18. Giản đồ của các vùng khác nhau trong quá trình quay điện ............................... 22
Hình 19. Kỹ thuật chế tạo sợi electrospun nạp phân tử sinh học ...................................... 23
Hình 20. Hình ảnh SEM cho thấy các sợi nano PAN đồng nhất được kết hợp với polyme
PEG.(polyethylene glycol) ................................................................................................. 27
Hình 21. Hình ảnh SEM cho thấy các sợi nano PVP phân nhánh. .................................... 27
Hình 22. Hình ảnh SEM cho thấy sợi nano PCL có đính hạt. ........................................... 28
Hình 23. Sơ đồ minh họa về các đặc tính mong muốn của sản phẩm băng vết thương ... 34
Hình 24. Liệu pháp điều trị ung thư ................................................................................... 36
Hình 25. Sợi nano cho kỹ thuật mô thần kinh ................................................................... 37
Hình 26. Các góc nhìn đẳng áp của việc tái tạo 3D của dây thần kinh ............................ 38
Hình 27. Kỹ thuật mô, sủa chữa nội sinh........................................................................... 40
Hình 28. Ghép xương kĩ thuật mô .................................................................................... 41
Hình 29. Sợi electrospun được dùng trong hoạt động phẫu thuật ..................................... 42
Hình 30. Giải phóng thuốc từ sợi nano electrospun .......................................................... 42
Hình 31. Màng lọc không khí ............................................................................................ 43
Hình 32. Vị trí của các sợi nano electrospun trong DSSC ................................................ 43

5
ĐẶT VẤN ĐỀ

Sợi nano polymer là loại vật liệu thu hút được nhiều quan tâm nghiên cứu trong hơn
chục năm trở lại đây do chúng có bề mặt riêng lớn, dễ biến tính thành phần và tính chất để
phù hợp với mục đích ứng dụng. Màng sợi nano polymer được đánh giá có hiệu quả cao
khi sử dụng trong các lĩnh vực: xúc tác, chất mang xúc tác, chất hấp phụ, màng lọc khí và
nước, cảm biến… . Hiện nay, electrospinning là kỹ thuật phổ biến để chế tạo sợi nano
polymer với đường kính có thể đạt trong khoảng từ 5 nm đến dưới 1 µm.

Về nguyên tắc, kỹ thuật electrospinning sử dụng một điện trường mạnh áp lên giọt
dung dịch polymer được đẩy ra từ đầu mao quản (kim phun). Khi điện áp đạt đến giá trị
tối ưu, lực tương tác tĩnh điện thắng được sức căng bề mặt của dung dịch thì sẽ tạo ra
dòng dung dịch được di chuyển từ đầu kim phun đến bộ thu sản phẩm. Khi đó, dòng dung
dịch này được kéo dãn, uốn, vắt và đồng thời bay hơi dung môi. Kết quả là ở bộ thu sản
phẩm thu được các sợi polymer sắp xếp ngẫu nhiên hoặc có trật tự tùy thuộc cấu trúc của
bộ thu sản phẩm. Do đó, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu sợi, hình thái sợi,
đường kính sợi, sự phân bố đường kính sợi và cấu trúc bề mặt sợi. Các yếu tố chính có thể
kể đến là khối lượng phân tử polymer, nồng độ dung dịch polymer, độ nhớt, điện áp, tốc
độ phun sợi, khoảng cách từ kim phun đến bộ thu sản phẩm, độ ẩm, dung môi. Kỹ thuật
này đã trở nên quan trọng trong công nghiệp gần đây nhờ vào việc khám phá các đặc tính
tuyệt vời của sợi electrospun trong nhiều ứng dụng Y Dược.

Sợi nano electrospun được đưa vào và ứng rộng ngày càng rộng rãi, góp phần không
nhỏ cho sự phát triển của ngành Y Dược nói riêng và những ngành nghề khác nói chung
do những đặc tính độ xốp cao, diện tích bề mặt lớn, đặc tính cơ học có thể kiểm soát và
hình thái có thể thay đổi. Sợi nano electrospun có những ứng dụng quan trọng trong lĩnh
vực y dược như giải phóng thuốc có kiểm soát , kỹ thuật mô, băng bó vết thương y tế.

Trong bài tiểu luận này, chúng em khảo sát một cách có hệ thống ảnh hưởng của các
thông số về nồng độ dung dịch, dung môi, điện áp, tốc độ bơm, khoảng cách từ đầu kim
phun tới bộ thu sản phẩm, hình thái sợi, đường kính trung bình và sự phân bố đường kính
sợi nano electrospun chế tạo bằng kỹ thuật electrospinning. Các tính chất và ứng dụng nổi
bật của của sợi nano electrospun cũng được đưa ra trong báo cáo này.

6
KỸ THUẬT ELECTROSPINNING

I. NGUỒN GỐC & PHÁT TRIỂN

1. Nguồn gốc
Electrospinning hay electrostatic spinning không phải là một công nghệ mới để xử lý
dung dịch polyme hoặc nấu chảy thành các sợi vi mô và nano. Thí nghiệm đầu tiên của
electrospinning dựa trên những thí nghiệm trước đó với chất lỏng trong lĩnh vực điện.

Ở đầu thế kỷ XVII, báo cáo đầu tiên về ảnh hưởng của điện tích trên một giọt chất
lỏng được ghi nhận. Khi đó William Gilbert bắt đầu quan tâm và nghiên cứu các hành vi
của các hiện tượng từ trường và tĩnh điện [1]. William Gilbert cho một giọt nước rớt trên
bề mặt khô phẳng. Ông quan sát thấy rằng khi một mảnh hổ phách mang điện phù hợp
được Thí nghiệm của William Gilbert đưa đến gần giọt nước đó, nó sẽ tạo thành hình nón
và các giọt nhỏ sẽ được bắn ra từ đỉnh của hình nón: đây là quan sát đầu tiên được ghi lại
về hiện tượng electrospraying (phun điện). (Hình 1)

Hình 1. Thí nghiệm của William Gilbert

Năm 1882, Lord Rayleigh đã báo cáo cơ chế ổn định thủy động lực học của một tia
chất lỏng có và không có điện trường tác dụng. Ông nghiên cứu cơ chế mất ổn định trong
quá trình quay điện và phát hiện ra rằng khi lực tĩnh điện vượt qua sức căng bề mặt, chất
lỏng phát ra dưới dạng các tia nhỏ.

Năm 1902 và 1903, J.F.Cooley và


W.J.Morton nộp bằng sáng chế đầu tiên về
electrospinning - thiết bị phun chất lỏng bằng
cách sử dụng điện tích[2]. ( Hình 2)

Năm 1914, John Zeleny đã công bố công


trình nghiên cứu về hoạt động của các giọt chất Hình 2. Bằng sáng chế đầu tiên của kĩ
lỏng ở cuối các mao quản kim loại[3]. Ông cũng thuât electrospinning
7
cố gắng lập mô hình toán học về hành vi của chất lỏng dưới lực tĩnh điện. Zeleny cũng
báo cáo rằng có thể phát ra các tia chất lỏng dạng sợi mịn từ một giọt chất lỏng tích điện
khi có điện thế. Đây được coi là nguồn gốc nguyên lý của kỹ thuật quay kim điện hiện
đại.

Năm 1929, Hagiwaba đã tiến hành điều chế tơ nhân tạo bằng các điện tích.

Từ 1931 - 1944, Anton Formhals đã công bố ít nhất 22 bằng sáng chế về


electrospinning. Năm 1934, Formhals nộp bằng sáng chế đầu tiên mô tả thiết bị sản xuất
sợi chỉ nhân tạo sử dụng điện tích[4] . Tuy nhiên, phương pháp sản xuất sợi nhân tạo sử
dụng điện trường đã được thử nghiệm từ lâu trước đó, nhưng nó chưa bao giờ trở nên
quan trọng do một số lo ngại về kỹ thuật và ứng dụng của sợi được sản xuất, cho đến khi
Formhals phát triển. Formhals đã mô tả quá trình kéo sợi cellulose acetate bằng dung môi
aceton, trong bằng sáng chế đầu tiên của mình . Quá trình kéo sợi của Formhals có khả
năng tạo ra các sợi thẳng hàng song song trên một thiết bị nhận theo cách mà các sợi có
thể được tháo ra một cách dễ dàng . (Hình 4)

Hình 4. Mô tả quá trình kéo sợi Cellulose Acetate bằng dung môi Aceton

Hình 3. Mô tả phương pháp sản xuất mạng sợi tổng hợp từ nhiều Polymer và chất nền
8
Sau đó, vào năm 1940, Formhals đã nộp một bằng sáng chế khác mô tả một phương pháp
sản xuất mạng sợi tổng hợp từ nhiều polyme và chất nền bằng cách quay điện các sợi
polyme trên nền cơ bản chuyển động[5]. (Hình 3)

Năm 1936, C.L Norton đã phát hiện ra electrospinning từ một chất nóng chảy chứ
không còn cần phải sử dụng một vụ nổ không khí để hỗ trợ sự hình thành sợi[2].

Năm 1938, N.D. Rozenblum và I.V. Petryanov-Sokolov sản xuất sợi electrospun[2].

Vào đầu những năm 1960, những nghiên cứu cơ bản về cơ chế hình thành phản lực đã
được Geoffrey Ingram Taylor đi tiên phong. Sau đó, vào năm 1969, Taylor đã nghiên
cứu hình dạng của giọt nước xuất hiện ở đầu ống mao dẫn, khi một điện trường được đặt
vào, và chỉ ra rằng nó có dạng hình nón và phản lực chất lỏng phát ra từ các đỉnh của hình
nón . (Hình 5)

Hình 5. Hình dạng giọt nước khi tăng dần điện áp


Hình dạng hình nón này được các nhà nghiên cứu sau này gọi là “hình nón Taylor” trong
các tài liệu sau này. (Hình 6)

Hình 6. Hình nón Taylor

9
2. Phát triển

Trong những năm tiếp theo, các nhà nghiên cứu chuyển trọng tâm sang nghiên cứu
hình thái cấu trúc của sợi nano và phát triển sự kiến thức về sự phụ thuộc của các đặc tính
sợi nano vào hình thái sợi và các thông số quá trình. Các thiết bị, chẳng hạn như kính hiển
vi điện tử quét (SEM), kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM), nhiễu xạ tia X (XRD) và
nhiệt lượng quét vi sai (DSC), đã được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng để mô tả các sợi
nano điện tử.

Năm 1971, Baumgarten đã báo cáo về vi sợi acrylic thông qua quá trình quay điện với
đường kính nằm trong khoảng từ 500 đến 1100 nm.[6]

Năm 1971, Larrondo và Manley đã tạo ra sợi polyethylene và polypropylene từ quá


trình nung chảy và nghiên cứu mối quan hệ giữa đường kính sợi và nhiệt độ nóng chảy và
xác định rằng nhiệt độ nóng chảy cao hơn dẫn đến giảm đường kính sợi. Nghiên cứu của
họ cho thấy rằng đường kính sợi giảm khoảng 50% khi điện áp kéo sợi tăng gấp đôi.[3]

Năm 1987, Hayati et al. đã nghiên cứu ảnh hưởng của điện trường, điều kiện thí
nghiệm và tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến độ ổn định của sợi quang, hình thái và nguyên
tử hóa. Họ phát hiện ra rằng chất lỏng dẫn điện cao với trường tĩnh điện cao tạo ra dòng
không ổn định cao chạy vòng và xoay vòng theo các hướng khác nhau. Công trình nghiên
cứu của họ cũng chỉ ra rằng loại sợi này tạo ra phản lực không ổn định với sự phân bố
đường kính rộng hơn nhiều.

Sau một khoảng thời gian ngắn khoảng hai thập kỷ, sự bùng nổ mạnh mẽ trong
nghiên cứu về electrospinning đã bắt đầu do kiến thức về các ứng dụng tiềm năng của
sợi nano electrospun trong các ngành công nghiệp khác nhau ngày càng tăng.

Năm 1995, nghiên cứu về sợi nano electrospun được thúc đẩy trong thời đại gần đây
dựa trên công trình tiên phong của Doshi và Reneker, sự gia tăng thực sự trong quy trình
quay điện bắt đầu. Doshi và Reneker đã nghiên cứu các tính năng của polyetylen oxit
(PEO) bằng cách thay đổi nồng độ dung dịch và điện áp đặt vào. Đường kính phản lực
phát ra từ hình nón Taylor được đo như một hàm của khoảng cách từ đỉnh của hình nón,
và họ quan sát thấy rằng đường kính phản lực giảm khi khoảng cách mà phản lực truyền
từ đỉnh của hình nón tăng lên.

Một lần nữa, vào năm 1995, Reneker và Chun tiến hành tạo sợi poly (axit amic) và
poly (acrylonitril) electrospun thông qua quá trình quay điện và chứng minh sự quay điện
của polyme nóng chảy cả trong không khí và chân không.

10
Năm 1996, Vancso et al. tạo sợi poly (ethylene oxide) electrospun và sử dụng kính
hiển vi đầu dò quét để nghiên cứu cấu hình bề mặt và các hình thái khác của chúng.
Deitzel và cộng sự đã chứng minh rằng sự gia tăng điện trường tác dụng làm thay đổi
hình dạng và bề mặt của giọt mà từ đó tia phản lực xuất hiện và sự thay đổi hình dạng có
liên quan đến các khuyết tật của hạt.

Năm 1998, Tenoien và cộng sự đã sản xuất tấm ghép mạch bằng polyeste silicone
bằng phương pháp kéo sợi điện. Phân tích toàn diện quá trình quay điện bằng cách mô tả
thực nghiệm và đánh giá sự bất ổn định của chất lỏng được thực hiện bởi Hohman và
cộng sự. Yarin và cộng sự, Warner và cộng sự, và Feng . Spivak và Dzenis đã áp dụng
phương trình cấu tạo lưu biến phi tuyến tính cho quá trình quay điện và phân tích kết quả
thử nghiệm .

Số lượng các công bố về kỹ thuật electrospinning đã tăng lên kể từ năm 2000. Các
ứng dụng mới của sợi electrospun đã được khám phá và các quy trình đổi mới tương tự
như electrospinning đã được nhiều nhà nghiên cứu chứng minh trong gần hai thập kỷ.
Trong số các quy trình mới, một số là quay điện trường gần, quay điện không kim và
quay điện nhiều tia, v.v ... electrospinning đã nhận được sự quan tâm lớn của các nhà
khoa học và nhà nghiên cứu trên khắp thế giới.

Năm 2003, hơn 250 bài báo nghiên cứu đã được xuất bản về điện quay[7].

Năm 2004, hơn 300 bài báo kỹ thuật đã được xuất bản trong lĩnh vực điện quay.

Sự gia tăng số lượng công cộng này là do các ứng dụng mới của sợi nano electrospun
trong nhiều mục đích sử dụng công nghiệp. Số lượng các ấn phẩm sẽ tiếp tục tăng và các
ứng dụng mới của sợi nano electrospun sẽ xuất hiện trong tương lai gần. Công nghệ này
đã trở nên quan trọng trong công nghiệp gần đây nhờ vào việc khám phá các đặc tính
tuyệt vời của sợi electrospun trong nhiều ứng dụng công nghiệp. Kỹ thuật điện quay
thường tạo ra các sợi có đường kính trong khoảng 402000 nm . Tuy nhiên, các sợi có
đường kính thậm chí còn mỏng hơn có thể được sản xuất từ tinh thể lỏng hoặc các hệ
thống tách rời khác có thể tạo ra các sợi nano có kích thước xuống đến 3 nm . Sợi polyme
nhỏ nhất phải chứa ít nhất một phân tử polyme và một phân tử điển hình có đường kính
vài phần mười nanomet . Một số hình dạng và kích thước khác nhau của sợi kích thước
micromet và nano có thể được chế tạo từ nhiều loại polyme khác nhau. Có một số lợi thế
đối với sợi nano electrospun, bao gồm:

 Nhiều polyme chịu lửa, chẳng hạn như polyetherether xeton (PEEK), polyvinyl
clorua (PVC), polyacrylonitril (PAN) và polystyrene (PS) có thể được điện tử.

 Diện tích bề mặt của sợi nano lớn hơn 10010,000 lần so với sợi thông thường.
11
 Tỷ lệ hấp thụ tiếng ồn trong sợi nano dự kiến sẽ cao hơn theo cấp số nhân vì sự
tương tác của các phân tử không khí của sóng âm với bề mặt sợi.

 Trọng lượng tổng thể của vật liệu được sử dụng cho nhiều ứng dụng công nghiệp ít
hơn.

 Sợi nano có thể nâng cao các đặc tính vật lý của vật liệu tổng hợp.

 Sợi nano có thể được điện hóa trên cả bề mặt composite và kim loại.

 Chất kết dính có thể được thêm vào polyme để cải thiện độ bám dính giữa sợi và
bề mặt.

 Điện quay là một phương pháp kinh tế và công nghệ hoàn thiện để sản xuất hàng
loạt cho các ngành công nghiệp khác nhau.

II. CẤU TẠO

Electrospinning một quá trình đơn giản và rẻ tiền tạo ra các sợi nano liên tục từ các
dung dịch polyme hoặc nóng chảy, và thu hút nhiều sự chú ý trên toàn thế giới với sự phát
triển của công nghệ nano. Do rất nhiều lợi thế đặc biệt, có rất nhiều ứng dụng tiềm năng
của công nghệ đốt điện và sợi nano electrospinning. Toàn bộ quá trình quay điện bị điều
chỉnh bởi điện trường bên ngoài do điện áp đặt và điện trường cảm ứng gây ra bởi các
điện tích tự do và cảm ứng trên chất lỏng bề mặt. Do đó, điện trường là một thông số quan
trọng trong quay điện, và các thông số như điện áp, khoảng cách giữa đầu kim và mục
tiêu, hình dạng của bộ thu và các đặc tính của kim có thể được sử dụng để điều khiển điện
trường.Các thông số này có thể được sử dụng để thay đổi hình thái sợi nano một cách
đáng kể. Do đó, điều quan trọng và cần thiết là phân tích sự phân bố của điện trường
trong máy quay điện .Mô hình phần tử hữu hạn của điện trường được thiết lập dựa trên
ANSYS, và sự phân bố của điện trường được tính toán và phân tích. Hình dạng của cấu
trúc điện trường được tối ưu hóa. Cuối cùng, tính hợp lệ của kết quả mô phỏng được xác
minh bằng hình thái của các sợi điện cực.

Cấu tạo của máy electrospinning bao gồm một máy tạo áp suất cao, một bộ phận
phun, một kim (ống mao dẫn) và một bộ phận thu nhận sợi.Hệ thống quay điện chủ yếu
có loại thẳng đứng (Hình 7) và loại nằm ngang (Hình 8) theo sự sắp xếp hình học của
mao quản đẩy ra và mục tiêu thu gom.[8]

12
Hình 7. Hệ thống quay điện Hình 8. Hệ thống quay điện
theo chiều thẳng đứng theo chiều ngang

Từ hình trên chúng ta có thể nhận thấy rằng các bộ phận cấu thành thiết bị phun điện
và quay điện là không quá phức tạp. Thiết bị electrospinning sẽ bao gồm 3 khối: khối cấp
nguyên liệu, khối cao áp, khối thu. (Hình 9)

Hình 9. Thiết bị electrospinning

13
1. Khối cao áp

Hình 10. Khối cao áp

Khối cao áp là phần quan trọng nhất đối với một thiết bị quay điện (Hình 10). Trên
cơ sở cao áp của máy thu hình, đã thiết kế được các bộ cấp cao áp phục vụ cho việc phân
cực gốm áp điện cũng như sử dụng cho thiết bị quay và phun điện. Sơ đồ mạch điện tử
của khối cấp cao áp được mô tả trên hình. Điện áp lối ra có thể điều chỉnh được từ 0 đến
25 Kv.

Các thiết bị cung cấp cao áp hầu hết là bộ nguồn cao áp đơn dương hoặc bộ nguồn
cao áp kép âm - dương. Thông thường kim quay được kết nối với điện áp cao dương, và
thiết bị nhận được nối đất hoặc điện áp cao âm. Điện áp quay thông thường là + 10-25kv
và điện áp cao âm nhận được là -5-10kv. ; Vai trò của nó là tạo ra một trường tĩnh điện
quay giữa kim quay và thiết bị nhận, và cung cấp điện tích tĩnh cho các giọt quay đầu
kim.

2. Khối cấp nguyên liệu


Khối cấp nguyên liệu gồm có ống tiêm, bơm tiêm và kim phun (Hình 11). Tùy thuộc
vào tính chất, dung môi, pH,… của dung dịch mà ống tiêm có thể là nhựa hoặc thủy tinh.

14
Hình 11. Khối cấp nguyên liệu
Phần bơm tiêm là quan trọng nhất, nó cho phép chúng ta thay đổi chính xác, ổn định
tốc độ phun dung dịch. Máy bơm tiêm siêu nhỏ, có thể ép dung dịch kéo sợi ra khỏi kim
với tốc độ dòng chảy không đổi để duy trì sự cân bằng giữa nguồn cung cấp chất lỏng và
hiệu suất kéo sợi thực tế. Ở đây, chúng tôi sử dụng thiết bị bơm tiêm điện ULIS P1B với
tốc độ thay đổi từ 1 mL/h đến 999 mL/h.

Kim phun là bộ phận quan trọng ảnh hưởng lớn đến kích thước của sợi được tạo ra.
Thiết bị này sử dụng 01 kim tiêm inox đường kính trong khoảng 0.5 mm. Là loại kim thép
không gỉ miệng phẳng, quy cách thường dùng là 18G-22G, 1 / 2-1 inch.

3. Khối thu

Hình 12. Khối thu

15
Hầu hết là các tấm phẳng kim loại, các con lăn, đĩa quay, ... trong đó các sợi nhận
được các con lăn có độ đồng đều tốt nhất (Hình 12). Cả đĩa phẳng và đĩa quay đều nhận
được màng sợi dày ở giữa và mỏng quanh chu vi. Con lăn tốc độ cao và đĩa quay tốc độ
cao có thể được sử dụng để chuẩn bị màng sợi nano định hướng.

III. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG VÀ CHI TIẾT QUÁ TRÌNH

1. Nguyên tắc hoạt động của electrospin


Electronspin là một phương pháp thông thường để chế tạo vi sợi/ nano [9]. Nó áp
dụng một điện áp cao để tạo ra các luồng tích điện của dung dịch polyme với tốc độ được
cài đặt trước, và các sợi micro / nano có thể được phát triển nhờ sự bay hơi của dung
môi[9]. Hệ thống kéo sợi điện sơ cấp bao gồm bốn phần: (1) điện trường cao, (2) ống mao
dẫn dẫn điện có vòi phun, (3) bơm tiêm, và (4) bộ thu sợi [10](Hình 13). Khi điều chế sợi
điện cực, dung dịch polyme được xử lý với điện thế 10–20 kV trước tiên và giọt chất lỏng
tích lũy với các điện tích trên bề mặt thu được. Các phản lực polyme tích điện hình thành
ở điện áp tới hạn. Dung môi được làm khô, và các sợi còn lại cuối cùng được thu thập
[11]. Quá trình này cho phép thu được các sợi vi mô / nano siêu mịn.

Hình 13. Thiết lập mô hình Electrospinning

Electrospinning là một quá trình trong đó điện áp cao, và do đó là trường tĩnh điện
cao, được áp dụng cho dung dịch polyme hoặc nóng chảy để tạo ra các sợi nano trong thời
gian rất nhanh. Một polyme nóng chảy hoặc dung dịch chất nóng chảy được giữ bởi sức
16
căng bề mặt của nó ở cuối ống mao dẫn, khi các điện tích được đưa vào chất lỏng bởi một
trường tĩnh điện. Các ion tích điện này di chuyển theo trường ứng về phía màn hình thu
có cực tính ngược nhau, do đó truyền lực kéo sang dung dịch polyme. Ở đầu của ống mao
dẫn, giọt mặt dây chuyền có dạng giọt hình bán cầu, thường được gọi là hình nón Taylor
khi có trường tĩnh điện. Khi cường độ của trường tĩnh điện vượt qua sức căng bề mặt của
dung dịch polyme, một tia phản lực được phát ra từ hình nón Taylor, chuyển động tuyến
tính trong một khoảng cách nào đó, được gọi là chiều dài phản lực, và sau đó trải qua
chuyển động quất hoặc chuyển động pirouette ( chuyển động xoay tròn ) , thường là gọi là
mất ổn định uốn của phản lực nhiễm điện. Tính không ổn định khi uốn làm cho sợi rất dài
và làm giảm đường kính sợi từ kích thước micrômet đến kích thước nano. Sau khi bắt đầu
từ hình nón, phản lực chất lỏng trải qua một chuyển động hỗn loạn hoặc sự không ổn định
uốn cong và trường hướng về phía bộ thu tích điện trái dấu, bộ thu này sẽ thu thập các sợi
polyme tích điện. [12] Khi phản lực di chuyển trong khí quyển, dung môi bay hơi, để lại
một sợi khô như một mạng lưới liên kết với nhau trên thiết bị thu nhận được đặt ở một
khoảng cách nào đó so với ống mao dẫn. Đối với các dung dịch có độ nhớt thấp, tia phun
sẽ vỡ thành các giọt nhỏ, trong khi đối với các dung dịch có độ nhớt cao, nó sẽ truyền đến
bộ thu dưới dạng các tia sợi. Sự mất ổn định uốn này kéo dài phản lực của dung dịch cao
phân tử hơn hàng nghìn lần, trải qua biến dạng dẻo và do đó tạo ra các sợi siêu mỏng
trước khi đến màn hình thu.

Dòng điện từ nguồn điện cao áp vào dung dịch qua một kim kim loại sẽ làm cho
một giọt hình cầu biến dạng thành hình nón Taylor và tạo thành các sợi nano siêu mịn ở
điện áp tới hạn. Giá trị tới hạn của điện áp đặt vào thay đổi từ polyme này sang polyme
khác. Sự hình thành các sợi nano có đường kính nhỏ hơn với sự gia tăng điện áp đặt vào
là do sự kéo dài của dung dịch polyme tương quan với lực đẩy điện tích trong phản lực
polyme. Sự gia tăng điện áp đặt ra vượt quá giá trị tới hạn sẽ dẫn đến sự hình thành các
hạt hoặc sợi nano kết cườm. Sự gia tăng đường kính và sự hình thành của các hạt hoặc sợi
nano dạng hạt với sự gia tăng điện áp đặt vào là do sự giảm kích thước của hình nón
Taylor và tăng vận tốc phản lực đối với cùng một tốc độ dòng chảy như trong (Hình 14).

17
Hình 14. Sự phân bố điện tích và hình dạng của hình nón Taylor
(A) Hình cầu, (B) Thuôn nhọn, (C)Hình nón Taylor, (D) Điện tích trong hình cầu,
(E) Điện tích trong hình thuôn nhọn, và (F) Điện tích trong hình nón Taylor

2. Chi tiết quá trình


Sợi Electrospun có độ xốp, độ mềm dẻo cao và tỷ lệ diện tích bề mặt trên thể tích, và
cũng là một phương pháp đơn giản, thẳng và hiệu quả về chi phí để tạo ra các sợi có
đường kính trong khoảng từ 3 nm đến 10 μm [13]. Electrospinning là một quá trình trong
đó trường tĩnh điện cao (chủ yếu là điện áp một chiều) được áp dụng để tạo ra các sợi
nano với các đặc tính khác nhau. Dung dịch cao phân tử hoặc chất nóng chảy phải là điện
phân được ép bằng ống tiêm bơm qua một ống quay để tạo thành một giọt nhỏ của dung
dịch cao phân tử ở đầu ống mao dẫn (ống quay). Đầu của ống mao dẫn được nối với một
điện cực và đầu kia của điện cực được nối với nguồn DC ( dòng điện một chiều ) cao. Sau
đó, các lực điện kéo mặt dây chuyền này rơi xuống thành hình bán cầu, thường được gọi
là hình nón Taylor [1]. Nếu độ nhớt của dung dịch polyme và sức căng bề mặt được điều
chỉnh chính xác, thì độ giãn có thể tránh được sự vỡ và một phản lực ổn định bắt nguồn từ
hình nón Taylor. Một hình nón taylor được hình thành khi có sự cân bằng giữa lực tĩnh
điện và sức căng bề mặt. Ngay sau khi trường tĩnh điện được đặt tăng lên và vượt qua bề

18
mặt, một hình nón thuôn dài được hình thành và một tia phản lực được tạo ra. Phản lực
chất lỏng xuất phát từ hình nón Taylor chuyển động tuyến tính trong một khoảng cách
nào đó (thường là 1-2 cm), còn được gọi là chiều dài phản lực, và sau đó trải qua chuyển
động xoáy hoặc xoắn ốc, thường được gọi là sự không ổn định khi uốn của phản lực điện
hóa của sợi. Tính ổn định khi uốn làm cho sợi rất dài và mỏng do biến dạng dẻo. Tính
không ổn định khi uốn làm giãn tia phản lực gấp hàng nghìn lần so với kích thước ban
đầu của nó, do đó trải qua một lượng lớn biến dạng dẻo và do đó tạo ra các sợi siêu mịn
trước khi đến màn hình kim loại (bộ thu). Trong quá trình bay của phản lực chất lỏng từ
ống mao dẫn đến màn hình thu, hầu hết dung môi bay hơi và tia cuối cùng được thu lại
trên màn hình thu nối đất. ( Hình 15 ) cho thấy thiết lập thực nghiệm của một quá trình
quay điện.

Hình 15. Thiết lập thử nghiệm của quá trình quay điện
Hầu hết tất cả các dung dịch cao phân tử có thể được điện hóa từ 7 đến 30 kV sau khi
hòa tan trong dung môi thích hợp. Tuy nhiên, để tạo ra sợi ở kích thước nano, trường tĩnh
điện được áp dụng phải cao hơn. Khi một trường tĩnh điện được đặt vào dung dịch
polyme, điện tích được tạo ra trong dung dịch polyme. Khi cường độ của trường tĩnh điện
tăng lên, nhiều điện tích được tạo ra trong dung dịch đa điện tích và lực đẩy điện tích lẫn
nhau tạo ra ứng suất dọc. Các ứng suất dọc này vượt qua sức căng bề mặt của dung dịch
cao phân tử để tạo thành hình nón Taylor mà từ đó phản lực nhiễm điện bắt nguồn, trải
qua sự mất ổn định uốn trước khi thu thập trên màn hình thu ở dạng thảm sợi. Khi một
trường tĩnh điện bên ngoài được áp dụng cho chất tan cao phân tử, các ion âm và dương
chuyển động ngược chiều để phản ứng với trường được áp dụng.

Các ion âm chủ yếu di chuyển về phía điện cực dương của hệ thống. Sự khác biệt về
số lượng ion dương và âm được gọi là điện tích dư thừa, hay đơn giản là điện tích. Đối
với những dung dịch cao phân tử có tính cách nhiệt, muối có thể được thêm vào trong
dung dịch cao phân tử, muối này phân ly thành các ion dương và âm với số lượng bằng

19
nhau và do đó độ dẫn của ion tăng lên để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điện phân.
Khi trường tĩnh điện được đặt vào, dung dịch được tích điện và xảy ra sự di chuyển của
các ion qua dung dịch, do đó tạo thành phản lực nhiễm điện, mang điện tích dư . Phản lực
xuất phát từ trục quay đầu tiên đi theo một đường thẳng (chiều dài phản lực), và sau đó
trải qua một chuỗi uốn cong qua lại không ổn định với biên độ tăng dần theo ba chiều.
Vòng phản lực phát triển dài hơn và mỏng hơn trước khi được thu vào màn hình thu được
đặt cách trục quay một khoảng cách. Đường kính và chu vi vòng lặp tăng liên tục khi
phản lực chất lỏng rời khỏi trục quay. Chu trình uốn có thể được mô tả theo ba bước như
được trình bày dưới đây :

 Một đoạn thẳng và trơn của phản lực chất lỏng có thể tạo ra một loạt các khúc cua
hoặc trải qua chuyển động cong trong khi bắt đầu quá trình quay điện.

 Đoạn tia trong mỗi đoạn uốn cong có thể kéo dài ra, và dãy đoạn uốn cong có thể
trở thành một loạt các vòng xoắn ốc hoặc các vòng xoắn với đường kính ngày càng
tăng.

 Ngay khi chu vi của các vòng sợi tăng lên, đường kính của tia sợi có thể nhỏ lại.
Sau khi đã thiết lập bước đầu tiên ở quy mô nhỏ, chu kỳ tiếp theo của sự mất ổn
định uốn bắt đầu hình thành.

Chu kỳ của sự mất ổn định uốn lặp lại chính nó vài lần và sau đó nhiều chu kỳ hơn
hình thành và phát triển trước khi đường kính tia phản lực bị giảm liên tục, do đó tạo ra
các sợi nano (hoặc các sợi micromet và submicron dựa trên các điều kiện). Dung môi bay
hơi do quá trình đối lưu tự nhiên để lại một tấm thảm sợi nano trên màn hình thu.

Sự bất ổn định xảy ra sau trạng thái tuyến tính. Phản lực chất lỏng trải qua sự giảm
lớn diện tích mặt cắt ngang, và chuyển động xoắn ốc diễn ra, thường được gọi là sự mất
ổn định uốn / bẻ của phản lực chất lỏng. Do đó, vòng phản lực tự hình thành, như có thể
thấy trong ( Hình 16 ). Loại mất ổn định này được gọi là mất ổn định giãn tĩnh, trong đó
bán kính của phản lực được điều biến nhưng đường tâm vẫn khá thẳng [14]. Trong tính
không ổn định Rayleigh, một cột chất lỏng hình trụ liên tục bị vỡ thành các giọt hình cầu.
Loại không ổn định này có thể bị dập tắt bởi điện trường cao. Tùy thuộc vào trường tĩnh
điện được áp dụng và các thông số của quá trình, một số tia lửa có thể phát ra từ hình nón
Taylor, như thể hiện trong ( Hình 17 ) [14]. Trong chế độ nhúng, các giọt hình cầu bắt
nguồn từ hình nón Taylor, đây cũng là điểm bắt đầu của các sợi. Ở chế độ trục chính,
phản lực chất lỏng được kéo dài và sau đó vỡ ra thành các giọt nhỏ. Ở chế độ dao động,
tia phản lực xoắn xung quanh và các giọt nhỏ bị đẩy về phía trước. Trong chế độ trục
chính, tia phản lực hình thành ban đầu sẽ lặp lại trước khi vỡ thành các giọt ( vật thể nhỏ).

20
Ở chế độ nhiều tia, nhiều tia nước phóng ra từ trục quay đồng thời do hiệu ứng độ nhớt.
Nói chung, quay điện được thực hiện ở chế độ phản lực hình nón.

Hình 16. Giản đồ về các dạng mất ổn định khác nhau xuất hiện từ hình nón Taylor

Hình 17. Giản đồ các chế độ khác nhau của các tia điện tích
xuất hiện từ một hình nón Taylor

21
Phản lực quay điện có ba vùng, như trong ( Hình 18 ): (a) phần đế, nơi phản lực xuất
hiện hoặc bắt đầu từ hình nón Taylor; (b) một vùng khác ngay sau chân đế, nơi phản lực
giãn ra và tăng tốc, chiều dài của phản lực tăng lên và đường kính giảm; và (c) vùng cuối
cùng, nơi phản lực thí nghiệm biến dạng dẻo và trải qua chuyển động xoáy và xoắn ốc và
cuối cùng được thu lại trên màn hình thu ở dạng sợi [14].

Hình 18. Giản đồ của các vùng khác nhau trong quá trình quay điện

IV. PHÂN LOẠI

Theo dạng cấu trúc sợi electrospun tạo ra bằng electrospinning

Các SMD (thuốc phân tử nhỏ), protein và axit nucleic khác nhau đã được nạp vào
màng electrospun chủ yếu thông qua hấp thụ trực tiếp, hòa trộn hoặc quay điện đồng trục,
và cố định cộng hóa trị (Hình 19).

22
Hình 19. Kỹ thuật chế tạo sợi electrospun nạp phân tử sinh học
1. Hấp thụ vật lý
Hấp thụ vật lý đề cập đến việc nhúng các sợi electrospun trong dung dịch lỏng, trong
đó các tác nhân bên trong có xu hướng bám vào bề mặt của giá thể bằng tương tác tĩnh
điện. Đây là cách dễ nhất để kết hợp các phân tử hoạt tính sinh học vào màng . Tuy nhiên,
do sự phóng thích thuốc không kiểm soát được, phương pháp này hiếm khi được sử dụng
để nạp protein hoặc axit nucleic. Ví dụ, Wang và các cộng sự đã xây dựng các vi sợi điện
tử poly(lactic-co-glycolic acid) / hydroxyapatite (PLGA / HAp) được bao bọc bằng BMP-
2 (bone morphogenetic protein: protein di truyền hình thái xương) [15]. Mặc dù việc giải
phóng BMP-2 được hấp phụ được duy trì trong hơn hai tuần, 75% protein đã được giải
phóng trong vòng năm ngày đầu tiên. Trong khi đối với việc phân phối gen, cũng có hiện
tượng giải phóng bùng nổ rõ ràng và gen được giải phóng nhanh chóng bị suy thoái [16].
23
2. Pha trộn điện quay
Pha trộn điện quay cũng là một phương pháp dễ dàng để chuẩn bị các sợi được nạp
thuốc thông qua sự trộn lẫn các phân tử sinh học với dung dịch polyme. Không giống như
hấp phụ vật lý, pha trộn điện quay có khả năng tải các tác nhân bên trong các sợi, cung
cấp cấu hình giải phóng thuốc bền vững hơn. Trong phương pháp này, các tác nhân hoạt
tính sinh học định vị ngẫu nhiên trên / gần bề mặt của sợi hoặc được bao bọc trong sợi.
Các nhà nghiên cứu khác đã pha trộn thuốc với các dung dịch polyme thành một nhũ
tương đồng nhất, và điện phân nhũ tương để có được các sợi mà các phân tử sinh học
phân bố trong lõi hoặc vỏ của sợi nano.

Pha trộn điện quay được sử dụng rộng rãi để nạp nhiều loại thuốc khác nhau. Colello
và cộng sự đã phát triển một loại giá thể điện tử kết hợp với yếu tố tăng trưởng thần kinh
(NGF) và chondroitinase ABC (ChABC) để điều trị chấn thương tủy sống [12]. Giá thể
được thiết kế tốt này tạo cầu nối để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái tạo sợi trục sau
chấn thương tủy sống. Trong một nghiên cứu khác, Bagrov và các cộng sự đã điều chế
một loại màng điện phân từ poly (hydroxybutyrate-co-hydroxyvalerate) (PHBV) và BSA
(bovine serum albumin: albumin huyết thanh bò) [17]. Các vi sợi pha trộn cho thấy tốc độ
hòa tan BSA chậm và một mạng lưới BSA tuyệt vời. Các nghiên cứu khác cũng áp dụng
pha trộn điện quay để bao bọc các SMD (small molecule drug: thuốc phân tử nhỏ),
protein hoặc axit nucleic[16].

Tuy nhiên, có hai vấn đề rõ ràng trong pha trộn điện quay. Thứ nhất, pha trộn điện có
khả năng duy trì hoạt tính sinh học của các phân tử sinh học được nạp vào thấp, đặc biệt
là các protein và axit nucleic. Điều này là do môi trường dung dịch hữu cơ và tác hại cơ
học của quá trình khuấy hoặc siêu âm có thể dẫn đến sự thay đổi cấu trúc của các phân tử
sinh học và làm hỏng các chức năng ban đầu của chúng[18]. Mặt khác, cấu hình giải
phóng chùm ban đầu của pha trộn điện quay là rất rõ ràng do vị trí gần bề mặt của các tác
nhân. Hiện tượng phóng thích nổ luôn xảy ra trong 24 giờ đầu tiên không phụ thuộc vào
vật liệu polyme để chế tạo sợi micro / sợi nano. Ví dụ: trong một nghiên cứu đã tải
dexamethasone (DEX) và Polyphenol trà xanh (GTP) trong lưới sợi siêu mịn PLGA
(poly(lactic-co-glycolic acid)) để điều trị sẹo lồi, mặc dù việc giải phóng GTP và DEX có
thể duy trì tương ứng trong 400 và 600 giờ, cả hai loại thuốc đều biểu hiện mô hình phóng
thích bùng phát trong giai đoạn đầu . Do đó, kỹ thuật pha trộn điện quay có thể không phù
hợp với một số bệnh cần giải phóng thuốc liên tục trong quá trình điều trị lâu dài.

3. Quay điện đồng trục


Dung dịch polymer và dung dịch phân tử sinh học có thể được điện hóa đồng trục và
đồng thời trong các mao quản đồng trục và riêng biệt. Thông qua quay điện đồng trục, các
phân tử sinh học sẽ định vị trong lõi bên trong của các sợi. So với pha trộn điện quay,
quay điện đồng trục có thể ngăn chặn tốt vấn đề phóng thích bùng nổ và duy trì hoạt tính
24
sinh học của các tác nhân được tải. Điều này là do các tác nhân được phân bố đồng nhất ở
lõi của sợi và vỏ bọc polymer bên ngoài sẽ hoạt động như một lớp bảo vệ. Bên cạnh đó,
các điện tích chủ yếu nằm ở lớp vỏ bên ngoài, điều này làm tăng khả năng bảo vệ hơn nữa
các phân tử sinh học không tích điện trong lõi bên trong của sợi . Bằng cách này, hoạt tính
sinh học của các phân tử sinh học này được bảo toàn tốt cho các ứng dụng điều trị. Ngoài
ra, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự giải phóng các phân tử sinh học là bền vững và sự
phóng thích bùng nổ ở các sợi điện quay đồng trục thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với ở
các sợi điện quay pha trộn [19]. Việc giải phóng dược chất cũng có thể được điều chỉnh
bằng cách sử dụng các sợi electrospun tổng hợp có chứa các polyme với các đặc tính phân
hủy khác nhau. Ví dụ, Carson và cộng sự nạp tenofovir (TFV), một loại thuốc kháng vi
rút hòa tan trong nước chống lại vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV), vào sợi nano
PCL / PLGA (poly(ε-caprolactone) / poly(lactic-co-glycolic acid)) thông qua quay điện
đồng trục [20]. Hàm lượng PCL cao hơn dẫn đến giải phóng tenofivir bùng nổ trong khi
tỷ lệ PLGA đáng kể hơn dẫn đến cấu hình giải phóng bền vững hơn, điều này chủ yếu là
do các đặc tính phân hủy khác nhau của hai polymer. Nó được tìm thấy bởi sự thay đổi tỷ
lệ PCL và PLGA, thời gian giải phóng thuốc có thể được điều chỉnh từ <24 giờ đến hơn
30 ngày.

4. Cố định cộng hóa trị


Cố định cộng hóa trị đề cập đến việc cố định các tác nhân trên bề mặt của các sợi
bằng một liên kết hóa học. Với sự trợ giúp của các enzym bên ngoài, việc giải phóng các
tác nhân có thể được điều chỉnh. Thông qua phương pháp này, các đặc tính bề mặt của
màng sợi có thể được thay đổi [21]. Cố định cộng hóa trị không phải là cách thông thường
để cung cấp các phân tử có hoạt tính sinh học vì sự phức tạp để cố định các tác nhân trên
bề mặt màng.

Gần đây hơn, sự kết hợp của các hạt nano với sợi nano electrospun đã nổi lên như
một lĩnh vực nghiên cứu đầy hứa hẹn. Việc kết hợp các hạt nano được nạp thuốc với sợi
nano thông qua phương pháp quay điện (electrospun) đã đạt được hiệu suất đa chức năng.
Ví dụ, trong một giá thể sợi nano electrospun nhúng hạt nano, BMP-2 (bone
morphogenetic protein: protein di truyền hình thái xương) được bao bọc trong các hạt
nano BSA (BNP) (BNP, BSA: nanoparticle: hạt nano; BSA: albumin huyết thanh bò) có
thể giữ được hoạt tính sinh học của nó và cũng giúp giải phóng thuốc kéo dài[22]. Trong
một nghiên cứu khác, các hạt nano CS (chitosan) được hấp phụ vào sợi nano PCL
(poly(ε-caprolactone)) để tạo thành một hệ thống phân phối phức hợp hạt nano - sợi nano.
Hệ thống phức hợp này có lợi thế hơn so với chỉ sợi nano vì các hạt nano CS (chitosan)
có thể được giải phóng từ từ xung quanh vị trí vết thương, thâm nhập qua mô bị thương
và thâm nhập sâu hơn vào các tế bào. Các hạt nano vô cơ, chẳng hạn như hạt nano silica
trung tính (MSN), có nhiều điểm đáng giá bao gồm kích thước hạt và lỗ xốp đồng đều,

25
các đặc tính vật lý và hóa học ổn định, và khả năng tương thích sinh học tuyệt vời. Hu và
cộng sự đã phát triển hạt nano silica trung tính tải ibuprofen (IBU) được bao bọc đồng
nhất trong các sợi nano poly (L-lactide) (PLLA). Các sợi nano tổng hợp điện tử cho thấy
sự phát hành bền vững trong hơn 100 ngày. Ngoài ra, việc phát hành thuốc có thể được
điều chỉnh thuận tiện bằng cách thay đổi lượng hạt nano silica trung tính. Sau đó, cùng
một nhóm nghiên cứu đã thiết kế một nền tảng sợi nano đa chức năng cho tác dụng chống
viêm tạm thời và tác dụng kháng u kéo dài sau phẫu thuật giảm nhẹ. Họ nạp DOX
(doxorubicin) và natri bicacbonat (NaHCO3) vào hạt nano silica trung tính, được kết hợp
với IBU ở bên ngoài. Trong DDS (drug delivery system: hệ thống phân phối thuốc) này,
IBU được giải phóng khi tạo ra carbon dioxide (CO2) có nguồn gốc từ phản ứng của
NaHCO3 và axit trong vi môi trường khối u. Sau đó, DOX (doxorubicin) sẽ được giải
phóng từ từ và liên tục để phản ứng với độ pH giảm. Nói chung, việc kết hợp các hạt nano
đa năng vào các sợi electrospun có thể tối ưu hóa cấu hình giải phóng thuốc, bảo vệ các
tác nhân hoạt tính sinh học được bao bọc, đạt được sự giải phóng theo thứ bậc của một số
loại thuốc và tăng sự tích tụ thuốc tại vị trí được nhắm mục tiêu, làm cho các sợi nano
electrospun trở nên có nhiều kho dự trữ tốt hơn trong cơ thể.

V. THÔNG SỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỢI ELECTROSPUN

Một lượng lớn các sợi có thể được sản xuất bằng quy trình mạ điện. Mặt cắt ngang
của sợi thông qua quá trình mạ điện phần lớn phụ thuộc vào các dung dịch polymer. Sợi
tròn, sợi hạt, sợi phân nhánh, sợi ruy băng phẳng, ruy băng có hình dạng khác và sợi phân
tách có thể được sản xuất bằng các dung dịch polymer khác nhau. Các sợi có tiết diện
cũng đã được sản xuất bởi một số polyme bằng cách kiểm soát thích hợp các tham số quy
trình, sợi với kích thước và hình dạng khác nhau có thể được chế tạo. Kính hiển vi điện tử
quét (SEM) thường được sử dụng để phân tích kích thước sợi quang (đường kính), tính
đồng nhất và hình thái. Nếu các thông số xử lý không được kiểm soát thích hợp, thay vì
sợi nano, sợi có kích thước micron hoặc submicron (nhỏ hơn micron) có thể được sản
xuất.

26
Hình 20 . Hình ảnh SEM cho thấy các sợi nano PAN đồng nhất
được kết hợp với polyme PEG.(polyethylene glycol)

Hình 21. Hình ảnh SEM cho thấy các sợi nano PVP phân nhánh.

Trong số các tham số xử lý, nồng độ dung dịch polymer là tham số quan trọng nhất.
Demir cùng cộng sự đã chứng minh rằng tồn tại mối quan hệ chặt chẽ giữa đường kính
sợi và nồng độ dung dịch polymer. Theo nghiên cứu của họ, đường kính sợi tỷ lệ với lập
phương của nồng độ dung dịch. Nếu nồng độ quá cao, một tia thứ hai gồm các sợi nhỏ
hơn cũng có thể được tạo ra với các sợi sơ cấp, khi nồng độ dung dịch vượt quá một giá
trị ngưỡng nhất định. Điện áp kéo sợi (trường tĩnh điện) cũng ảnh hưởng đến đường kính
sợi. Nói chung, đường kính sợi giảm khi điện áp kéo sợi tăng lên. Hình 20, 21, 22 hiển thị
ảnh SEM của một số sợi điện cực[3] .Sự hiện diện của các lỗ rỗng và các hạt là một vấn
đề phổ biến trong quay điện [3]. Sự hiện diện của các hạt cũng phụ thuộc vào các thông
số xử lý.Khi tăng điện áp quay, sau đó vận tốc phản lực tăng

27
Hình 22. Hình ảnh SEM cho thấy sợi nano PCL có đính hạt.

và dung dịch được đẩy ra khỏi spinneret nhanh hơn, dẫn đến lượng giọt nhỏ hơn khi nó
đạt đến đầu của spinneret (1 cơ quan để tạo sợi). Hình nón Taylor trở nên không ổn định,
vì vậy điều này dẫn đến sự hình thành các hạt. Ở độ nhớt dung dịch cao (nồng độ dung
dịch), sự cân bằng giữa lực tĩnh điện và sức căng bề mặt bị xáo trộn, dẫn đến hình thành
hạt. Tuy nhiên, các dung dịch đậm đặc đã được chứng minh là tạo ra sợi có ít hạt hơn.
Hình thái và hình dạng của các hạt thay đổi khi nồng độ dung dịch tăng lên. Các hạt trở
nên giống như trục chính từ hình cầu, khi nồng độ dung dịch tăng lên.

Các đặc tính của sợi nano khác nhau về tỷ lệ bề mặt trên thể tích, độ xốp, hình thái và
hình dạng của chúng. Các đặc tính này có thể được điều chỉnh và thay đổi để điều chỉnh
tính phù hợp của polyme đối với ứng dụng dự kiến của nó. Các đặc tính của sợi nano bị
ảnh hưởng bởi các thông số quy trình (tức là điện trường được áp dụng, khoảng cách giữa
kim và bộ thu, tốc độ dòng chảy, đường kính kim), các thông số hệ thống (nghĩa là dung
môi, nồng độ polyme, độ nhớt, độ dẫn điện) và các thông số môi trường (tức là độ ẩm,
nhiệt độ).Các thông số này ảnh hưởng đến hình thái sợi và bằng cách kiểm soát thích hợp
các thông số này, các sợi có hình thái và đường kính mong muốn có thể được tạo ra.

Thông số hệ thống:

 Polyme, trọng lượng phân tử, và các loại dung môi và dung môi phân cực

 Độ nhớt, độ dẫn điện, liên kết ngang và sức căng bề mặt của polyme.

Thông số quy trình:

 Tiềm năng điện, tốc độ dòng chảy và nồng độ polymer;

 Khoảng cách giữa màn hình mao dẫn và màn hình thu gom;

 Nhiệt độ, hiệu ứng,độ ẩm và vận tốc không khí trong buồng.
28
Thông số môi trường:

 Nhiệt độ môi trường

 Độ ẩm môi trường

Thông số hệ thống:

Hầu hết các polyme có thể được đốt điện trong các dung môi khác nhau là tinh khiết
hoặc sau khi pha trộn với các polyme hữu cơ và vô cơ. Nói chung, polymer đối với kỹ
thuật electrospinning nên có trọng lượng phân tử vừa phải để tránh hạt hình thành trên bề
mặt của các sợi. Nếu trọng lượng phân tử thấp, lỗ trên bề mặt, vi hạt và hạt sẽ được hình
thành. Mặt khác, nếu trọng lượng phân tử quá cao, việc mạ điện sẽ là không thể hoặc các
cấu trúc đính cườm (xâu thành chuỗi) có thể được hình thành. Độ hòa tan của polymer
trong dung môi thích hợp là một vấn đề quan trọng. Polyme nên được hòa tan trong một
dung môi thích hợp để tạo thành một phương pháp đồng nhất một pha. Độ nhớt đóng một
vai trò quan trọng trong quá trình mạ điện. Nó có ảnh hưởng rõ rệt đến đường kính sợi.
Độ nhớt cao thường dẫn đến đường kính sợi lớn. Các cấu trúc lỗ trên bề mặt sợi và hạt ít
có khả năng hình thành trong cấu trúc của sợi khi độ nhớt quá cao. Nếu độ nhớt thấp,
phản lực chất lỏng sẽ tách thành nhiều giọt, dẫn đến bắn tung tóe.

Nồng độ dung dịch cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành sợi. Ở
nồng độ thấp, hiện tượng electrospraying (phun điện như phun sương) xảy ra do độ nhớt
thấp và sức căng bề mặt của dung dịch cao. Nếu nồng độ cao hơn một chút, sợi được bao
quanh bởi các hạt và lỗ trên bề mặt sợi được hình thành . Tuy nhiên, nếu nồng độ thích
hợp, các sợi có bề mặt hoặc ko có lỗ trên bề mặt và đều đặn có thể được hình thành. Nồng
độ polyme thấp có thể khiến chuỗi polyme bị đứt trước khi đến bộ thu, trong khi nồng độ
polyme cao hơn có thể làm khô dung dịch ở đầu kim (Haider và cộng sự, 2018). Nói
chung, độ nhớt của dung dịch được điều chỉnh bằng cách điều chỉnh nồng độ dung dịch.
Các dung môi khác nhau có sức căng bề mặt khác nhau. Tuy nhiên, sức căng bề mặt thấp
thích hợp cho quay điện bởi vì độ dẫn điện cao có thể ảnh hưởng xấu đến lực tĩnh điện
trong việc hình thành các dung dịch cao phân tử để tiếp tục quay điện. Một dung môi có
sức căng bề mặt thấp cần ít trường tĩnh điện hơn để quay điện. Đường kính sợi chủ yếu
liên quan đến độ nhớt của dung dịch quay điện theo phương trình sau :

d= 19.49η^0,43

trong đó η là độ nhớt của dung dịch và d là đường kính của sợi (nm).

Độ dẫn điện của dung dịch cũng ảnh hưởng đến đường kính của sợi vi mô và sợi
nano. Polyme chủ yếu là dẫn điện, với một số ngoại lệ của vật liệu điện môi và các ion
29
tích điện trong dung dịch polyme có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành phản lực. Các ion
làm tăng khả năng mang điện của phản lực, do đó làm cho nó chịu lực căng cao hơn với
điện trường tác dụng. Nói chung, các sợi có đường kính nhỏ có thể được tạo ra bằng cách
sử dụng phương pháp dẫn điện cao. Độ dẫn điện của dung dịch phụ thuộc vào loại polyme
và cấu trúc dung môi. Nói chung, các polyme tự nhiên có bản chất là polyelectrolytic (các
polime mà các đơn vị lặp lại mang một nhóm chất điện li,Các nhóm này phân ly trong
dung dịch nước, làm cho các polyme mang điện tích.). Do đó, trong các polyme tự nhiên,
các ion làm tăng khả năng đốt cháy than đá của phản lực polyme trong một điện trường
chịu sức căng bề mặt cao, do đó dẫn đến sự hình thành sợi kém và trái ngược với các
polyme tổng hợp. Hơn nữa, độ dẫn điện của dung dịch polymer có thể tăng lên bằng cách
thêm axit, bazơ và muối ion loãng, chẳng hạn như NaCl, H2SO4,HCl, NaOH, KOH,
FeCl3 và KH2PO4 .

Tính bay hơi của dung môi:

Vì quay điện liên quan đến sự bay hơi nhanh chóng của dung môi và sự phân tách pha
do làm loãng tia, áp suất hơi dung môi quyết định rất nhiều đến tốc độ bay hơi và thời
gian làm khô. Sự bay hơi của dung môi đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành
cấu trúc nano bằng cách ảnh hưởng đến quá trình phân tách pha. Bognitzki và cộng sự.
nhận thấy rằng việc sử dụng các dung môi dễ bay hơi như dichloromethane đã tạo ra các
sợi PLLA với kích thước lỗ rộng 100 nm và dài 250 nm dọc theo trục sợi.[23] Lee và
cộng sự. đã đánh giá ảnh hưởng của tỷ lệ thể tích dung môi đến đường kính sợi và hình
thái của sợi PVC điện tử. [24]Đường kính sợi trung bình giảm khi lượng DMF (Dimethyl
Formamide) trong dung môi hỗn hợp THF / DMF tăng lên. Lee và cộng sự. nhận thấy bản
chất điện ly của dung môi là một thông số quan trọng trong quá trình quay điện.
[24]Megelski và cộng sự. nghiên cứu các đặc tính của sợi điện phân đối với các tính chất
vật lý của dung môi. Ảnh hưởng của áp suất hơi rõ ràng khi sợi PS quay với các kết hợp
THF / DMF khác nhau dẫn đến hình thái cấu trúc vi mô và cấu trúc nano ở độ bay hơi
dung môi cao hơn và cấu trúc vi mô giảm đi nhiều ở độ bay hơi dung môi thấp hơn[25].

Thông số quy trình:

Trong quay điện, điện áp đặt (quay) là một yếu tố quan trọng khác. Khi điện áp đặt
vào đạt đến giá trị ngưỡng của nó, một phản lực tích điện phát ra từ hình nón
Taylor.(electrospray được sử dụng cho một thiết bị sử dụng điện để phân tán chất lỏng
hoặc cho khí dung tốt từ quá trình này. Điện áp cao được đặt vào một chất lỏng được
cung cấp qua bộ phát (thường là mao quản bằng thủy tinh hoặc kim loại). Lý tưởng nhất
là chất lỏng chạm tới đỉnh đầu phát tạo thành hình nón Taylor, phát ra một tia chất lỏng
qua đỉnh của nó. Sóng biến đổi trên bề mặt phản lực chất lỏng dẫn đến sự hình thành các
giọt chất lỏng nhỏ và tích điện cao, bị phân tán triệt để do lực đẩy Coulomb.) Đường kính
30
phản lực chất lỏng ngày càng mỏng hơn khi nó tiến tới màn hình thu do dung môi bay hơi
và biến thành dạng dẻo dưới lực tĩnh điện. Đường kính sợi quang giảm khi điện áp đặt
vào tăng lên. Đường kính sợi có liên quan đến điện thế áp dụng (các tham số khác không
đổi) theo quan hệ sau :

d~V^-½
trong đó ‘‘ V ’’ là điện thế. Hendricks đã xác định mức tối thiểu tiềm năng như:
V=300 √20γπr
trong đó ‘‘ r ’’ là bán kính của hình nón và ‘‘ γ ’’ là sức căng bề mặt của dung dịch cao
phân tử. Taylor đã thiết lập một mối quan hệ tương tự đối với điện thế tới hạn như được
chỉ ra bên dưới :

trong đó '' Vc '' là điện áp tới hạn, '' H '' là khoảng cách giữa ống mao dẫn và mặt đất, '' L ''
là chiều dài của ống mao dẫn, '' R '' là bán kính của ống mao dẫn, và '' γ '' là sức căng bề
mặt của chất lỏng.

Tốc độ dòng chảy: Tốc độ dòng chảy của dung dịch polyme là một thông số quan
trọng khác trong điện quay vì nó ảnh hưởng đến vận tốc phản lực và tốc độ truyền vật
liệu. . Hình thái và đường kính của sợi phụ thuộc vào tốc độ dòng chảy. Khi tốc độ dòng
chảy cao, các sợi được bao quanh bởi các lỗ và hạt do thời gian làm khô ngắn hơn khi tiếp
cận màn hình thu và lực tĩnh điện kéo dài thấp. Nói chung, tốc độ dòng chảy thấp được
khuyến nghị để tạo ra các sợi mỏng hơn do thực tế là tia sẽ có đủ thời gian để phân cực và
kéo dài.

Khoảng cách giữa máy thu và ống mao dẫn: Khoảng cách giữa máy thu màn hình
và đầu mao mạch (spinneret) cũng ảnh hưởng đến hình thái và đường kính của sợi vì phụ
thuộc vào thời gian lắng đọng, tốc độ bay hơi và khoảng thời gian đánh bông hoặc mất ổn
định. Nếu khoảng cách quá ngắn, các sợi sẽ không có đủ thời gian để đông đặc và độ giãn
dẻo của tia sẽ bị hạn chế, dẫn đến các sợi có đường kính lớn. Tuy nhiên, nếu khoảng cách
quá dài, các cấu trúc cườm sẽ hình thành. Khoảng cách tối ưu thường được khuyến nghị
để tạo ra các sợi mịn không có lỗ và hạt và các giải pháp polyme dạng nước cần nhiều
khoảng cách hơn để hình thành sợi khô so với các hệ thống sử dụng dung môi hữu cơ dễ
bay hơi. Quá trình quay điện thường được thực hiện ở nhiệt độ phòng trong điều kiện khí
quyển bình thường. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc tăng nhiệt độ có lợi cho việc
giảm đường kính sợi. Một số nhà nghiên cứu sử dụng máy hút ẩm để kiểm soát độ ẩm và
sản xuất sợi ở kích thước nano. Luồng không khí trên cao sẽ làm tăng tốc độ bay hơi do
đối lưu nhiệt và sẽ giúp giảm đường kính sợi.

31
Thông số môi trường xung quanh

Ngoài giải pháp và các thông số xử lý, còn có các thông số môi trường xung quanh
bao gồm độ ẩm, nhiệt độ. Ảnh hưởng của nhiệt độ lên sợi polyamide-6 đã được nghiên
cứu từ 25 ° C đến 60 ° C và người ta đã chứng minh được rằng với sự gia tăng nhiệt độ,
sẽ có sản lượng sợi có đường kính sợi giảm, và họ cho rằng sự suy giảm đường kính này
đến sự giảm độ nhớt của dung dịch polyme ở nhiệt độ tăng.

Ảnh hưởng của độ ẩm đến sự hình thành sợi polystyrene đã được nghiên cứu bởi
Casper và cộng sự. Họ đã xác định rằng sự thay đổi độ ẩm trong khi kéo sợi các dung
dịch polystyrene đã chỉ ra rằng khi độ ẩm tăng lên sẽ xuất hiện các lỗ tròn nhỏ trên bề mặt
sợi; sự gia tăng độ ẩm hơn nữa dẫn đến sự kết tụ của các lỗ rỗng. Ở độ ẩm rất thấp, dung
môi bay hơi khô nhanh chóng vì sự bay hơi của dung môi nhanh hơn.

VI. TÍNH CHẤT CỦA SỢI NANO

Như đã thảo luận ngắn gọn trong phần giới thiệu của bài báo, một bước tiến lớn trong
nghiên cứu về sợi nano đã diễn ra gần đây nhất do diện tích bề mặt cao và hình thái bề
mặt cấu trúc nano cho phép vô số ứng dụng tiên tiến. Sợi nano đã được báo cáo là có sự
khác biệt rõ rệt về tính chất nhiệt và cơ học của chúng so với sợi thông thường và polyme
khối.

1. Tính chất nhiệt


Có một vài báo cáo đã được công bố về đặc tính nhiệt của vật liệu cấu trúc nano.
Phân tích nhiệt đã được thực hiện trên một số vật liệu polyme điện tử để hiểu mối quan hệ
giữa cấu trúc nano và các tính chất nhiệt. Các nghiên cứu của DSC (Differential Scanning
Calorimeter: Nhiệt lượng kế quét vi sai) đã chỉ ra rằng sợi PLLA(Poly-L-lactide) điện tử
có độ kết tinh, nhiệt độ chuyển thủy tinh (Tg) và nhiệt độ nóng chảy (Tm) thấp hơn so với
nhựa PLLA (Poly-L-lactide) bán tinh thể. [26]Zong và cộng sự. do sự giảm T g do tỷ lệ
bề mặt trên thể tích lớn của sợi nano với không khí làm chất dẻo. Tốc độ bay hơi cao tiếp
theo là sự đông đặc nhanh chóng ở giai đoạn cuối của quá trình quay điện được cho là
nguyên nhân dẫn đến độ kết tinh thấp. Tg và nhiệt độ kết tinh đỉnh (Tc) của polyethylene
terephthalate (PET) và polyethylen naphthalate (PEN) giảm đáng kể, trong khi nhiệt nóng
chảy của tinh thể tăng lên. [27] Sự giảm Tg và Tm, và sự gia tăng nhiệt nóng chảy là do
sự gia tăng độ linh động của phân đoạn. Nhiệt độ nóng chảy của các sợi điện tử PET và
PEN hầu như không đổi, không có bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào so với các dạng sợi
thông thường. Các sợi nano PEO (Polyethylene oxide) đã cho thấy nhiệt độ nóng chảy và
nhiệt của phản ứng tổng hợp thấp hơn so với bột PEO, điều này được cho là do độ kết tinh
kém của các sợi electrospun. [28]Sự kết tinh của các sợi PLLA được quan sát thấy là hoàn
toàn chậm phát triển bằng cách quay điện, và các mẫu WAXD của sợi PLLA điện phân

32
xác nhận các sợi có định hướng cao. [26] Sự giảm độ kết tinh này được cho là một hiện
tượng chung và đã được quan sát thấy ở poly ( meta -phenylene isophthalamide), poly
(glycolide) và polyacrylonitril. Deitzel và cộng sự. suy ra rằng sợi nano PEO vẫn giữ
nguyên cấu trúc tinh thể giống như bột PEO, trong khi có một dấu hiệu rõ ràng về sự
giảm trật tự tinh thể trong sợi nano. [28] Bognitzki và cộng sự. kết luận với sự trợ giúp
của biểu đồ nhiệt DSC rằng mức độ kết tinh của các sợi điện cực PLLA là 40%.[29]

Sự suy giảm nhiệt của PET và PEN trước và sau khi quay điện đã được Kim và Lee
phân tích bằng cách sử dụng biểu đồ nhiệt TGA, và họ nhận thấy rằng khi quay điện, độ
nhớt nội tại của cả PET và PEN đều giảm đáng kể. [27]Sự suy giảm nhiệt và do đó giảm
độ nhớt nội tại (tức là giảm khối lượng phân tử) được coi là nguyên nhân dẫn đến sự giảm
Tg và Tc do giảm vướng mắc.

2. Tính chất cơ học


Sợi Electrospun có hình thái bề mặt cấu trúc nano với các lỗ nhỏ li ti ảnh hưởng đến
các đặc tính cơ học như độ bền kéo, mô đun của Young, v.v. Gibson et al. đã phát hiện ra
rằng không có sự thay đổi đáng kể nào trong môđun Young của chất đàn hồi nhựa nhiệt
dẻo Pellethane electrospun. Khi so sánh với màng đúc, chất đàn hồi điện phân cho thấy
giảm 40% độ bền kéo đỉnh và giảm 60% độ giãn dài ở ứng suất tác dụng tối đa. [29]Sự
giảm độ bền kéo cũng đã được báo cáo bởi Buchko et al. với các sợi SLPF (Silk like
polymer with fibronectin functionality) . [30]Vật liệu tổng hợp polyme được gia cố bằng
sợi nano đã cho thấy các đặc tính cơ học được nâng cao hơn so với vật liệu tổng hợp
không được lấp đầy hoặc chứa đầy carbon / sợi thủy tinh. Mô đun của Young của một hỗn
hợp sợi nano đã được phát hiện là lớn hơn gấp 10 lần so với cao su Styrene-Butadien
nguyên chất. [12]Rõ ràng là có ít thông tin về các đặc tính cơ học của sợi nano và vật liệu
tổng hợp sợi nano. Nghiên cứu về các đặc tính cơ học của sợi nano và vật liệu tổng hợp
của chúng từ nhiều loại polyme là cần thiết để hiểu rõ hơn về những đóng góp của sợi
nano đối với các đặc tính liên quan đến cơ học và hiệu suất của vật liệu tổng hợp sợi
nano.ỏi các sợi nano electrospun ( Yang và cộng sự, 2019 ).

VII. ỨNG DỤNG

Sợi nano có thể được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp như chất bán dẫn, vật
liệu bảo vệ (mỹ phẩm kháng hóa chất và hấp thụ âm thanh), lọc nước, và các ứng dụng
năng lượng sạch. Các ứng dụng hứa hẹn nhất nằm trong lĩnh vực y sinh, bao gồm các chất
vận chuyển thuốc, kỹ thuật mô và băng vết thương. Vẫn còn những hạn chế nghiêm trọng
liên quan đến việc cải tiến các sợi nano chức năng và các quy trình quay điện tái tạo. Do
đó, ngày càng có nhiều sự quan tâm đến việc phát triển các công cụ quy trình quay điện
hiệu quả, ổn định và linh hoạt. Một số công ty đang hướng tới việc đáp ứng những yêu cầu

33
này bằng cách cung cấp thiết bị quay điện thân thiện với người dùng, độc đáo, đáng tin cậy
và thân thiện với môi trường.

1. Trong y sinh
1.1. Băng vết thương
Băng vết thương đại diện cho một vấn đề quan trọng cần được xử lý trong lĩnh vực y
sinh. Môi trường ấm áp, giàu dinh dưỡng và ẩm ướt do giường vết thương cung cấp là điều
kiện hoàn hảo cho sự phát triển của vi sinh vật. Băng gạc kháng khuẩn tuyệt vời phải thể
hiện đặc tính kháng khuẩn phổ rộng tốt, cung cấp môi trường ẩm, thấm khí và hiệu quả
chống lại vi khuẩn kháng kháng sinh để cải thiện quá trình chữa bệnh ( Hình 23 ). Do đó,
để tránh nhiễm vi sinh vật, mất nước xuyên biểu bì dẫn đến tăng tốc tái tạo vết thương và
chăm sóc vết thương da nhanh chóng là cần thiết. Do đó, phục hồi hàng rào bảo vệ da rất
hiệu quả để điều trị các tổn thương.

Hình 23 .Sơ đồ minh họa về các đặc tính mong muốn của
sản phẩm băng vết thương

Các báo cáo gần đây về các lĩnh vực công nghệ nano đã thảo luận về các quá trình
tổng hợp của các dây dẫn sợi nano thể hiện các đặc điểm cấu trúc và kiến trúc giống như
ECM (khối điều khiển động cơ) tự nhiên. Đối với cách tiếp cận này, ECM tự nhiên được
thay thế bằng các sợi nano cho đến khi các tế bào chủ có thể phát triển và ECM mới sẽ
được tạo ra. Thảm sợi nano có thể nhanh chóng bắt đầu con đường truyền tín hiệu và kéo

34
các nguyên bào sợi đến lớp hạ bì, nơi cung cấp nhiều cytokine và collagen. Sợi nano
polymer đã được sử dụng rộng rãi trong ứng dụng điều trị vết thương. Các sợi nano được
sử dụng có kích thước lỗ từ 500 nm đến 1 mm và diện tích bề mặt cao. Các sợi nano
polymer phân hủy sinh học điện tử có thể được phun lên vùng da bị tổn thương để tạo ra
một lớp băng dạng sợi để bảo vệ da khỏi sự lây nhiễm vi khuẩn thông qua các con đường
bắt giữ các hạt aerosol. Kỹ thuật này đã được sử dụng để điều trị các vấn đề về da như vết
thương và vết bỏng. Điều này sẽ giúp vết thương mau lành bằng cách hình thành sự phát
triển bình thường của da và giảm các mô sẹo có thể phát triển khác trong các phương
pháp điều trị thông thường. Các nhà nghiên cứu tập trung vào việc chế tạo băng vết
thương tăng cường từ các vật liệu tương thích sinh học. Các báo cáo hiện tại thảo luận về
việc sử dụng các vật liệu có nguồn gốc sinh học như chitin để tổng hợp các vết thương
nhanh chóng phục hồi.

Năm 2011, Jayakumar et al.đã xuất bản một bài báo đánh giá mô tả tầm quan trọng
của sợi nano chitin và chitun electrospun trong vai trò băng bó vết thương mới để chữa
lành. Người ta đã đề cập rằng electrospun chitin và các sợi nano dẫn xuất của nó cung cấp
các đặc tính độc đáo, giúp đẩy nhanh quá trình chữa lành vết thương như hấp thụ chất
lỏng, độ bền cao, độc tính thấp, hoạt tính kháng khuẩn và khả năng tương thích sinh học
tốt. Chilarski và cộng sự. Báo cáo rằng vật liệu dạng sợi làm bằng dibutyryl chitin (DBC)
được sử dụng cho các ứng dụng chữa lành vết thương. Sử dụng một nhóm nhiều bệnh
nhân, họ đã trình bày một dữ liệu thỏa đáng về khả năng chữa lành vết thương trong nhiều
mục đích sử dụng, đặc biệt là trong các vết thương sau phẫu thuật / sau chấn thương và
bỏng [19].

1.2. Liệu pháp điều trị ung thư


Hóa trị thông thường để điều trị ung thư luôn mang lại tác dụng phụ cho các cơ quan
bình thường khác vì chính quyền hệ thống.Kết quả là nhắm mục tiêu và đáp ứng các kích
thích DDS (hệ thống phân phối thuốc) chống ung thư đã nhận được sự chú ý ngày càng
cao đối với việc tăng xóa bỏ của các tế bào khối u và giảm tác dụng phụ toàn thân .
Thuốc có thể được chuyển chính xác đến vị trí khối u bằng hai phương pháp. Đầu tiên là
sử dụng các hạt nano có phối tử được nhắm mục tiêu để vận chuyển thuốc thông qua sự
công nhận cụ thể. Thứ hai là cấy thuốc- sử dụng hệ thống nạp hoặc đưa thuốc cục bộ vào
khối u thông qua điều chỉnh hành vi thoái hóa của polyme,, giải phóng cấu hình thuốc có
thể được kiểm soát. Ngoài ra, không cần phải loại bỏ DDS có thể cấy ghép bằng cách sử
dụng các polyme có thể phân hủy sinh học. Do đó, cục bộ DDS nổi tiếng với liệu pháp
điều trị ung thư.

35
Hình 24. Liệu pháp điều trị ung thư
Electrospun micro / nano có ứng dụng rộng rãi cho bệnh ung thư trị liệu vì các tính
năng cụ thể của chúng. Với diện tích bề mặt rộng rãi và độ xốp cao, sợi electrospun có thể
là nơi chứa nhiều loại thuốc và các tác nhân hoạt tính sinh học Ngoài ra, một số sợi nano
với tính linh hoạt của tế bào có thể được chế tạo thành các hình dạng khác nhau cho thuốc
địa phương vận chuyển trong các ứng dụng khác nhau.

Hơn nữa, bề mặt cao của chúng tỷ lệ âm lượng trên khối lượng (SVRs), hành vi
xuống cấp có thể điều chỉnh, và tính chất cơ học có thể thay đổi là những đặc điểm hấp
dẫn như DDS. Màng electrospun kết hợp với SMD (phân tử thuốc nhỏ) có thể được như
vậy như DOX (doxorubicin), paclitaxel (PTX), cisplatin (CDDP), 5-fluorouracil (5-Fu),
và các loại thuốc hóa trị liệu thường được sử dụng khác, DOX có hiệu quả để điều trị
nhiều loại ung thư trong phòng khám bằng cách-hibiting hoạt động của topoisomerase II
và ngăn chặn sự tổng hợp của DNA.Tuy nhiên, ngay cả khi DOX được đưa vào mục tiêu
khối u hạt nano trước khi điều trị, độc tính tim của nó không thể hoàn toàn tránh. Do đó,
điều trị DOX khẩn cấp kêu gọi an toàn hơn phương thức giao hàng

1.3. Kỹ thuật mô
Việc chế tạo ma trận / giá đỡ đầy hứa hẹn bắt chước chức năng sinh học và cấu trúc
của chất nền ngoại bào tự nhiên là một trong những cuộc thi thiết yếu trong nghiên cứu
vật liệu sinh học và kỹ thuật mô. Các tế bào nhỏ hơn của con người có thể gắn vào các sợi
có kích thước nhỏ hơn kích thước của tế bào người. Do đó, sợi nano có thể cung cấp một
cấu trúc đầy hứa hẹn cho các tế bào phát triển, di cư và tạo hạt. Sự phát triển của các sợi
nano để tăng sinh và kết dính tế bào là cần thiết cho quá trình tái tạo cơ quan và mô. Đối
với cách tiếp cận này, điều cần thiết là phải tái tạo và tạo ra một hỗn hợp tương thích sinh
học ba chiều để phát triển tế bào cho các quá trình thay thế và sửa chữa mô. Sự chú ý lớn
đã được dành cho việc thiết kế và phát triển các giàn giáo bằng polyme phân hủy sinh học
36
và / hoặc các sợi nano polymer sinh học tổng hợp. Nói chung, các chất tạo màng sinh học
dựa trên sợi nano là một ứng cử viên tuyệt vời để bắt chước các cấu trúc tự nhiên so với
các sợi có đường kính lớn, không bắt chước các đặc tính cấu trúc của các sợi tự nhiên.

1.3.1. Sợi nano cho kỹ thuật mô da


Kỹ thuật điện quay đã thúc đẩy rất nhanh sự phát triển của giàn ghép cải tiến cho da
TE. Đối với ứng dụng chữa lành vết thương, độ xốp cao của sợi nano electrospun có thể
cung cấp nhiều không gian cấu trúc hơn cho chỗ ở của các tế bào được ghép, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự tăng sinh và di chuyển của tế bào, đồng thời cải thiện quá trình trao đổi
oxy, phân phối chất dinh dưỡng và dịch đùn. Mặt khác, kích thước lỗ nhỏ của giá đỡ sợi
nano có thể hạn chế nhiễm trùng vết thương và mất nước trong quá trình chữa lành vết
thương. Ngoài ra, các đặc tính cơ học có thể điều chỉnh được của sợi nano electrospun có
thể giữ được tính toàn vẹn cơ học giữa mô ghép TE và mô vật chủ, đồng thời ngăn ngừa
sự co lại của vết thương trong quá trình cấy ghép.

Giá đỡ sợi nano cao phân tử có tiềm năng tương tác và điều chỉnh các sự kiện tái tạo
cụ thể ở cấp độ phân tử để phục hồi các mô bị tổn thương. Sợi nano có thể được chế tạo
bằng nhiều kỹ thuật khác nhau như kỹ thuật quay điện, tách pha, tự lắp ráp, v.v. Điện sợi
là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất để chế tạo sợi nano cho các ứng dụng trong kỹ
thuật mô. Các sợi siêu mịn điện tử có thể được điều chỉnh để thể hiện sự phân bố lỗ chân
lông mong muốn, tỷ lệ diện tích bề mặt trên thể tích cao, kết dính và tăng sinh tế bào do
cấu trúc của chúng giống với chất nền ngoại bào gốc. Sợi nano polymer Electrospun có
nhiều ưu điểm khác nhau như chất thay thế da vì chúng có thể ngăn chặn sự mất chất lỏng
và protein từ vùng vết thương, giúp loại bỏ dịch tiết, ức chế nhiễm trùng vi khuẩn, thể
hiện đặc tính chống bám dính tuyệt vời và hướng dẫn các tế bào nội sinh tăng sinh và tái
tạo. Giá đỡ sợi nano hiện đang được chế tạo kết hợp với các yếu tố tăng trưởng và / hoặc
tế bào để đẩy nhanh quá trình chữa lành vết thương được điều chỉnh. Việc sử dụng giàn
sợi nano điện tử cho kỹ thuật mô da được trình bày chi tiết trong bài đánh giá này. Hơn
nữa, những tiến bộ gần đây trong việc chế tạo giàn giáo sợi nano tổng hợp sinh học, cấy
ghép điện tử kết hợp với tế bào và tế bào gốc cho kỹ thuật mô da cũng được nhấn mạnh.

Hình 25. Sợi nano cho kỹ thuật mô thần kinh

37
1.3.2. Sợi nano cho kỹ thuật mô thần kinh
Ứng dụng thú vị khác của sợi nano electrospun là để tái tạo dây thần kinh. Mục đích
của kĩ thuật mô thần kinh là phát triển các ống dẫn hướng dẫn thần kinh hiệu quả để bắc
cầu các khoảng trống trong các nơron ngoại vi hoặc trung ương bị tổn thương, và chức
năng của giàn kỹ thuật mô thần kinh phải hướng sự nảy mầm theo trục và thúc đẩy sự
khuếch tán của các yếu tố dinh dưỡng thần kinh. Sợi nano Electrospun là vật liệu thích
hợp cho kỹ thuật mô thần kinh vì cấu trúc của chúng không chỉ bắt chước ECM ( ma trận
ngoại bào ) dạng sợi thần kinh mà còn cung cấp hướng dẫn địa hình nền để định hướng sự
phát triển của tế bào thần kinh.

Hình 26. Các góc nhìn đẳng áp của việc tái tạo 3D của dây thần kinh được tái tạo bên trong
(A) silicone - và (B) poly (ε-caprolactone) tương ứng với các ống dẫn hướng thần kinh dựa
trên sợi nano . Hình ảnh hiển vi ánh sáng của các mặt cắt của dây thần kinh tái tạo từ phần
giữa (bên trái) và phần xa (bên phải) của các ống dẫn dựa trên silicone (C, D) và (E, F) dựa
trên sợi nano

Các sợi nano electrospun có ý nghĩa quan trọng trong việc hiểu và kiểm soát sự phát
triển của neurite và để sử dụng trong quá trình tái tạo thần kinh. Tiềm năng sử dụng kỹ
thuật quay điện để chế tạo NGC (ống dẫn hướng dẫn thần kinh) có thể được tăng cường
đáng kể bằng cách kết hợp thảm điện quay với nhiều kỹ thuật đã được thiết lập tốt khác
(ví dụ, chức năng hóa của sợi và cấy tế bào). Tất cả các thành phần, hình thái và cấu trúc
của sợi đều có thể được điều chỉnh bằng cách sử dụng một số phương pháp vật lý và hóa
học. Sửa đổi bề mặt đã được khai thác để cung cấp một lộ trình đơn giản để thúc đẩy sự
phát triển của neurite, trong khi việc kiểm soát sự liên kết của sợi quang đã được sử dụng
38
để hướng dẫn sự kéo dài của neurite. Tất cả các hoạt động nghiên cứu này đã dẫn đến việc
khám phá các giá đỡ dựa trên sợi nano electrospun cho các ứng dụng trong kỹ thuật mô
thần kinh. Mặc dù sợi nano electrospun đã được chứng minh là có khả năng hướng dẫn và
thúc đẩy sự phát triển của neurite hoặc sợi trục trong ống nghiệm, nhưng cho đến nay chỉ
có một số nghiên cứu in vivo được thực hiện. Cần có nhiều nỗ lực hơn để thử nghiệm các
ống dẫn dựa trên sợi nano electrospun để sửa chữa chấn thương thần kinh ngoại vi in
vivo. Ngoài ra, có nhu cầu mạnh mẽ về việc cải thiện thiết kế ống dẫn ở các khía cạnh
sau: cấu hình suy thoái phù hợp, tối ưu hóa tổ chức sợi để hướng dẫn tốt hơn sự phát triển
sợi trục tái tạo và áp dụng các dấu hiệu bên ngoài để tăng cường hơn nữa sự kéo dài và
hướng dẫn của sợi trục.[19](Hình 26)

1.3.3. Sợi nano cho kỹ thuật mô tim


Bệnh tim là nguyên nhân hàng đầu của một số vấn đề nghiêm trọng, bao gồm cả nhồi
máu cơ tim, và nó vẫn là một thách thức lớn đối với cộng đồng trên toàn thế giới. Tim
người lớn không đủ năng lực để kích thích và bù đắp những tổn thương của các tế bào cơ
tim. Đổi mới chức năng tim bằng cách thay thế cơ tim không khỏe mạnh bằng các tế bào
cơ tim hiệu quả là một cách tiếp cận đầy hứa hẹn, vì nó cung cấp một liệu pháp tiềm năng
cho chứng nhồi máu cơ tim. Polyme với vật liệu sinh học được sản xuất ở kích thước
nanomet và bao gồm các đặc điểm cấu trúc, sinh hóa và cơ học của vật liệu cho các ứng
dụng kỹ thuật mô. Polymer cung cấp lợi thế về khả năng thay đổi tính chất kéo của chúng,
và vật liệu sinh học cung cấp các vị trí chấp nhận tế bào, điều cần thiết cho sự gắn kết và
tăng sinh của tế bào.

Mục tiêu của kỹ thuật mô tim là phát triển các giá đỡ có thể tạo ra hỗ trợ vật lý cho
trái tim bị tổn thương bằng cách thay thế một số vai trò nhất định của chất nền ngoại bào
bị suy giảm, và ức chế sự tái cấu trúc và rối loạn chức năng tim bất lợi sau nhồi máu cơ
tim. Giá đỡ sợi nano được chế tạo được sử dụng làm mô ghép tim, giá thể thực hiện như
một nền tảng để giải phóng có kiểm soát thuốc và các yếu tố tăng trưởng, ngăn ngừa các
vấn đề cơ học và hỗ trợ trong việc phục hồi tế bào. ( Hình 27) Chương này nghiên cứu
các ứng dụng của các polyme khác nhau được sử dụng làm mảnh ghép tim, cấu trúc 3D
cho kỹ thuật mô tim. Một mạng lưới cấu trúc nano mạnh mẽ với quan điểm hiệp đồng
phát triển các sợi nano có thể cải thiện thêm lĩnh vực tái tạo mô tim. Những cải tiến nhanh
chóng trong kỹ thuật mô sẽ mang lại những tầm nhìn khác nhau trong việc phát triển các
giàn giáo lý tưởng và các quy trình để tạo ra các mô ghép với các ký tự co bóp thích hợp
và tích hợp điện để thay thế cơ tim không khỏe mạnh.

39
Hình 27. Kỹ thuật mô, sủa chữa nội sinh
1.3.4. Sợi nano cho kỹ thuật mô xương
Không giống như các mô mềm trong cơ thể chúng ta, xương là một mô liên kết cứng,
cứng và mạnh về mặt vật lý, về mặt vi thể, có chứa một số lượng tương đối nhỏ các tế bào
trong ECM dồi dào ở dạng sợi nano collagen và chất nền vô cơ cứng lại, chẳng hạn như
hydroxyapatite (HAp). Do đó, ECM xương duy nhất là một hỗn hợp sợi nano vô cơ-hữu
cơ, trong đó các tế bào xương có thể thực hiện tốt các chức năng và vai trò sinh học.

Ghép xương kỹ thuật mô có thể điều trị các khuyết tật ở xương do chấn thương như
nhiễm trùng xương, gãy xương do mất xương hoặc u xương. Ghép xương được định
nghĩa là một mảnh xương nhỏ được di dời đến một khu vực khác của khung xương để
tăng cường sức mạnh và chức năng của khu vực đó. Ngoài ra, mảnh ghép xương được thu
thập từ một xác chết, nhưng thường thì nó được lấy từ cùng một người mà nó sẽ được
tuyển dụng.

Kỹ thuật mô xương liên quan đến vật liệu sinh học, tế bào và các yếu tố điều chỉnh để
tạo ra các mảnh ghép xương sinh tổng hợp với quá trình kháng hóa hiệu quả để tái tạo
xương bị gãy hoặc bị tổn thương. Trong số tất cả các kỹ thuật hiện có để chuẩn bị giàn
giáo, kỹ thuật quay điện được ưu tiên hơn cả vì nó có thể tạo ra các cấu trúc nano. Ngoài
ra, sợi nano electrospun có các đặc tính độc đáo như tỷ lệ diện tích bề mặt trên thể tích
cao, độ xốp, độ ổn định, tính thấm và hình thái tương tự như của ma trận tế bào phụ.
Chitosan (CS) có lợi thế đáng kể so với các vật liệu khác và là vật liệu ghép, CS có thể
được sử dụng một mình hoặc kết hợp với các vật liệu khác ở dạng sợi nano để cung cấp
các dấu hiệu cấu trúc và sinh hóa để tăng tốc tái tạo xương. Do đó, đánh giá này nhằm
cung cấp một nghiên cứu chi tiết có sẵn về CS và các vật liệu tổng hợp của nó được điều
chế dưới dạng sợi nano, và các đặc tính liên quan của chúng được tìm thấy phù hợp với
kỹ thuật mô xương.
40
Hình 28. Ghép xương kĩ thuật mô

1.4. Thiết bị thay thế trong y tế


Sợi Electrospun thể hiện tiềm năng cao trong các bộ phận giả được sử dụng trong các
hoạt động phẫu thuật. Kết cấu mềm mại và bản chất của các sợi đã được chế biến sẵn đã
khiến chúng trở thành những ứng cử viên xuất sắc được sử dụng làm lớp phủ cho các bộ
phận giả mô cứng. Tấm phủ với hình thái sợi này ngăn chặn sự hư hỏng của thiết bị bằng
cách giảm sự không phù hợp về độ cứng ở giữa mô / thiết bị bằng cách hoạt động như
giữa các pha giữa mô chủ và hệ thống thiết bị thay thế. Người ta cũng báo cáo rằng vật
liệu sợi nano đã được chọn làm ứng cử viên duy nhất trong một loạt các mô giả bao gồm
vú, mạch máu, mạch máu, v.v.. Người ta báo cáo rằng lớp phủ sợi nano ngăn ngừa nhiễm
trùng khớp giả. Ngoài ra, Popryadukhin et al. chế tạo bộ phận giả mạch máu dựa trên sợi
nano từ đồng trùng hợp ε – caprolactam và hexamethylendiaminadipate. Gần đây, đối với
kỹ thuật mô gan, Semnani et al. đã chế tạo giá đỡ dạng sợi nano từ polycaprolactone
(PCL) và chitosan (CS) bằng cách sử dụng bộ thu mới để cải thiện kích thước lỗ chân
lông và định hướng cho quá trình xâm nhập tế bào. [19] (Hình 29)

41
Hình 29. Sợi electrospun được dùng trong hoạt động phẫu thuật
1.5. Vận chuyển các loại thuốc
Hệ thống phân phối thuốc bằng sợi nano Electrospun đã được nghiên cứu bằng nhiều
kỹ thuật khác nhau. Ở đây, mô tả việc chế tạo sợi nano kết hợp thuốc. Thuốc, chẳng hạn
như protein, peptide, kháng thể và thuốc phân tử nhỏ, có thể được nạp bên trong hoặc trên
bề mặt của sợi nano tùy theo đặc tính của chúng. Thuốc kỵ nước được hòa tan trực tiếp
với polyme trong dung môi hữu cơ trước khi quay điện. Tuy nhiên, nó được ưu tiên để cố
định bề mặt các phân tử hoạt tính sinh học trên sợi nano bằng cách hấp thụ vật lý hoặc
liên hợp hóa học. Đặc biệt, các protein cố định bề mặt về mặt hóa học trên lưới sợi nano
kích thích sự phân hóa và tăng sinh tế bào. Sử dụng vòi phun quay điện kép để tạo ra các
lớp tấm sợi nano, được xếp chồng lên nhau, sự giải phóng chùm ban đầu bị giảm so với
sợi nano rắn do các lớp. Hơn nữa, lai giữa các sợi nano electrospun với các hạt nano, vi
cầu và hydrogel là phương pháp nạp thuốc gián tiếp vào các sợi nano. Nó cũng có thể sản
xuất các hệ thống phân phối nhiều loại thuốc với thời gian phát hành được lập trình.[19]
(Hình 30)

Hình 30. Giải phóng thuốc từ sợi nano electrospun

42
2. Trong môi trường
Màng sợi nano có thể tách các ion độc hại như ion kim loại nặng, photphat và các
chất hữu cơ gây ô nhiễm như chất nhuộm, thuốc trừ sâu... thông qua cơ chế hấp phụ vật
lý, hóa học hoặc tĩnh điện. Màng lọc không khí chế tạo bởi sợi nano polyacrylonitrile cho
phép không khí lưu thông tốt và có khả năng tách > 95% hạt bụi PM2,5. (Hình 31)

Hình 31. Màng lọc không khí


3. Trong năng lượng, xúc tác
Khi chế tạo bằng các thành phần thích hợp, sợi nano có thể làm tăng khả năng dẫn của
các electron và ion, mở ra cánh cửa mới trong lĩnh vực thu, chuyển hóa và dự trữ năng
lượng. Ví dụ đáng chú ý bao gồm sử dụng sợi nano làm điện cực hay màng cho chế tạo
pin năng lượng mặt trời, pin sạc, tụ điện và pin nhiên liệu. (Hình 32)

Hình 32. Vị trí của các sợi nano electrospun trong DSSC

43
KẾT LUẬN

Trong vài thập kỷ qua, các sợi nano polyme electrospun đã cho thấy những lợi thế
đáng kể với vai trò là phương tiện phân phối thuốc bao gồm: tỉ lệ diện tích/ thể tích
(SVRs) cao, cấu trúc giống chất nền ngoại bào (ECM ), hình thái đa dạng, dễ dàng kiểm
soát đặc tính cơ học và có thể điều chỉnh cấu hình giải phóng và phân hủy thuốc. Một loạt
các polyme tự nhiên, polyme tổng hợp và các hợp chất của chúng đã được phát triển
thành các sợi nano electrospun. Dựa trên đặc tính hóa lý của thuốc được nạp và các ứng
dụng cụ thể, các loại polyme khác nhau sẽ có các cách phân tách và kết hợp khác nhau để
tạo ra các đặc tính phân hủy và cấu hình giải phóng thuốc phù hợp. Ngoài ra, còn lựa
chọn dựa trên thông số về độ phân lớp (đường kính, độ xốp và sự liên kết của sợi) và các
kỹ thuật chất tải khác nhau cho các mục đích sử dụng khác nhau, tức là hấp thụ vật lý, pha
trộn điện quay, quay điện đồng trục, và cố định cộng hóa trị. Để có được chức năng như
mong muốn, ta cần xem xét các nguyên tắc riêng biệt để chế tạo sợi nhỏ / nano, chẳng hạn
như cơ chế nạp thuốc, cơ chế giải phóng thuốc, tính ưa nước của polyme, tính chất cơ
học, tốc độ phân hủy,... Đối với việc ứng dụng trong kĩ thuật tạo mô, cấu trúc sợi và vị trí
cấy ghép cũng là những vấn đề quan trọng cần tính đến.

Cho đến nay, những sợi electrospun này đã và đang là nền tảng phân phối thuốc có
thẩm quyền cho thuốc phân tử nhỏ (SMD) , protein và axit nucleic trong điều trị ung thư,
ngăn ngừa kết dính, kỹ thuật mô vết thương, tái tạo xương và thần kinh. Chúng được đưa
vào và ứng rộng ngày càng rộng rãi, góp phần không nhỏ cho sự phát triển cuả ngành Y
Dược nói riêng và những ngành nghề khác nói chung.

Tuy nhiên, dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong sợi điện phân để phân phối thuốc,
nhưng vẫn còn nhiều vấn đề khó khăn cần được giải quyết. Thứ nhất, hầu hết các nghiên
cứu về sợi siêu nhỏ / nano đều được thực hiện trong ống nghiệm, vì vậy cần có thêm
nhiều thí nghiệm trên động vật để thu được bằng chứng thuyết phục trên lâm sàng nhằm
đưa vào ứng dụng và sản xuất thương mại sau này. Để đảm bảo hiệu quả và an toàn trong
việc sử dụng micro / nano điện tử nạp thuốc, cần phải hiểu biết toàn diện về động học giải
phóng thuốc và dược động học trên thực tế, liều lượng thuốc thích hợp, phân bổ thuốc và
tác dụng phụ có thể xảy ra đối với cơ thể. Thứ hai, để phát triển sợi điện cực với độ nhất
quán và hiệu quả cao là một thách thức lớn khác. Nó vẫn là một trở ngại đáng kể để kiểm
soát chính xác đường kính sợi. Điều này là do việc loại bỏ dung môi có thể ảnh hưởng
đến nồng độ của dung dịch, từ đó tạo ra các sợi điện cực. Thứ ba, hiệu quả phân phối
thuốc của các sợi nano / micro electrospun chủ yếu bị ảnh hưởng bởi hình thái, các đặc
tính cơ lý hóa và các đặc tính phân hủy của chúng. Các thông số này cần được thiết kế và
kiểm soát tốt trong quá trình chế tạo. Thứ tư, người ta cho rằng các loại thuốc ưa nước rất
dễ hòa tan được trong môi trường nước và do đó có nhiều nguy cơ bị giải phóng nhiều và
ồ ạt. Vì vậy, các thiết kế tải thuốc cần được tối ưu hóa, chẳng hạn như các sợi có cấu trúc
44
vỏ lõi, có thể bao bọc thuốc trong lõi và tạo ra một rào cản để đạt được sự giải phóng
thuốc bền vững. Hơn nữa, các sợi electrospun có cấu trúc vỏ lõi cần được nghiên cứu
thêm để cho phép phân phối nhiều loại thuốc với các yêu cầu giải phóng khác nhau và
chứng minh khả năng bảo vệ của các loại thuốc có hoạt tính sinh học. Việc thăm dò trong
lĩnh vực này có ý nghĩa và quan trọng để cải thiện hiệu suất lâm sàng của sợi electrospun,
và cũng giúp nó có thể đạt được sản xuất quy mô công nghiệp.

Kĩ thuật sợi nano electrospun đến nay vẫn đang gặp nhiều hạn chế tuy nhiên đi
cùng với sự phát triển trong khoa học và công nghệ, chúng ta có quyền tin rằng những
hạn chế này sẽ sớm được phát hiện và khắc phục. Sự phát triển của sợi electrospun hứa
hẹn sẽ góp phần không nhỏ cho sự tiến bộ trong lĩnh vực Y Dược nói riêng và sự phát
triển to lớn trong các ngành nghề khác nói chung.

45
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] “Electrically driven jets,” Proceedings of the Royal Society of London. A.


Mathematical and Physical Sciences, vol. 313, no. 1515. pp. 453–475, 1969. doi:
10.1098/rspa.1969.0205.

[2] M. El-

[3] R. Asmatulu and W. S. Khan, “Historical background of the electrospinning


process,” Synthesis and Applications of Electrospun Nanofibers. pp. 17–39, 2019.
doi: 10.1016/b978-0-12-813914-1.00002-x.

[4] H. Soderlund, L. Kaariainen, and C. H. Von Bonsdorff, “Properties of Semliki


Forest virus nucleocapsid,” Medical Biology, vol. 53, no. 5. pp. 412–417, 1975. doi:
10.1016/0042-6822(72)90565-x.

[5] A. Formhals, “Artificial thread and method of producing same.” pp. 1–4, 1940.
[Online]. Available:
https://patentimages.storage.googleapis.com/b3/6a/12/86d57d0d9111ab/US218730
6.pdf

[6] P. K. Baumgarten, “Electrostatic spinning of acrylic microfibers,” Journal of


Colloid And Interface Science, vol. 36, no. 1. pp. 71–79, 1971. doi: 10.1016/0021-
9797(71)90241-4.

[7] D. H. Reneker, Y. Xin, H. Lee, Y. Lin, K. Liu, and Z. Zhong, “Properties of


electrospinning jets,” Materials Research Society Symposium Proceedings, vol.
1240. pp. 41–48, 2010. doi: 10.1557/proc-1240-ww09-14.

[8] H. Duan and J. Jiang, “Experimentation and finite element analysis of electric field
structure of electrospinning machine,” Adv. Intell. Soft Comput., vol. 105, pp. 283–
289, 2011, doi: 10.1007/978-3-642-23756-0_46.

[9] S. Liu et al., “Biomimetic sheath membrane via electrospinning for antiadhesion of
repaired tendon,” Biomacromolecules, vol. 13, no. 11, pp. 3611–3619, 2012, doi:
10.1021/bm301022p.

[10] J. Xue, J. Xie, W. Liu, and Y. Xia, “Electrospun Nanofibers: New Concepts,
Materials, and Applications,” Acc. Chem. Res., vol. 50, no. 8, pp. 1976–1987, 2017,
doi: 10.1021/acs.accounts.7b00218.

[11] F. E. Ahmed, B. S. Lalia, and R. Hashaikeh, “A review on electrospinning for


membrane fabrication: Challenges and applications,” Desalination, vol. 356, pp.
15–30, 2015, doi: 10.1016/j.desal.2014.09.033.

[12] T. Subbiah, G. S. Bhat, R. W. Tock, S. Parameswaran, and S. S. Ramkumar,


“Electrospinning of nanofibers,” J. Appl. Polym. Sci., vol. 96, no. 2, pp. 557–569,
46
2005, doi: 10.1002/app.21481.

[13] S. Ramakrishna et al., “Chapter 1 - Introduction,” Nanotechnology, vol. 7, no. 3,


pp. 1–21, 1996, [Online]. Available: http://stacks.iop.org/0957-
4484/7/i=3/a=009?key=crossref.b62a3c509c723c5a2561f1e345fc1706

[14] A. Thesis, “Electrospinning of Poly( ε -Caprolactone),” no. May, 2003.

[15] H. Nie, W. S. Beng, Y. C. Fu, and C. H. Wang, “Three-dimensional fibrous


PLGA/HAp composite scaffold for BMP-2 delivery,” Biotechnology and
Bioengineering, vol. 99, no. 1. pp. 223–234, 2008. doi: 10.1002/bit.21517.

[16] R. J. Colello et al., “The incorporation of growth factor and chondroitinase ABC
into an electrospun scaffold to promote axon regrowth following spinal cord
injury,” Journal of Tissue Engineering and Regenerative Medicine, vol. 10, no. 8.
pp. 656–668, 2016. doi: 10.1002/term.1805.

[17] E. R. Pavlova et al., “Poly(hydroxybutyrate-co-hydroxyvalerate) and bovine serum


albumin blend prepared by electrospinning,” Journal of Applied Polymer Science,
vol. 134, no. 29. 2017. doi: 10.1002/app.45090.

[18] B. S. Kim et al., “BSA-FITC-loaded microcapsules for in vivo delivery,”


Biomaterials, vol. 30, no. 5. pp. 902–909, 2009. doi:
10.1016/j.biomaterials.2008.10.030.

[19] C. Gandhimathi, P. Muthukumaran, and D. K. Srinivasan, “Nanofiber composites


in cardiac tissue engineering,” Nanofiber Composites for Biomedical Applications.
pp. 411–453, 2017. doi: 10.1016/B978-0-08-100173-8.00017-X.

[20] D. Carson, Y. Jiang, and K. A. Woodrow, “Tunable Release of Multiclass Anti-


HIV Drugs that are Water-Soluble and Loaded at High Drug Content in Polyester
Blended Electrospun Fibers,” Pharmaceutical Research, vol. 33, no. 1. pp. 125–
136, 2016. doi: 10.1007/s11095-015-1769-0.

[21] W. Li et al., “Electrospun nanofibers immobilized with collagen for neural stem
cells culture,” Journal of Materials Science: Materials in Medicine, vol. 19, no. 2.
pp. 847–854, 2008. doi: 10.1007/s10856-007-3087-5.

[22] L. Li, G. Zhou, Y. Wang, G. Yang, S. Ding, and S. Zhou, “Controlled dual delivery
of BMP-2 and dexamethasone by nanoparticle-embedded electrospun nanofibers
for the efficient repair of critical-sized rat calvarial defect,” Biomaterials, vol. 37.
pp. 218–229, 2015. doi: 10.1016/j.biomaterials.2014.10.015.

[23] A. V. Vakhrushev, A. V. Severyukhin, A. Y. Fedotov, M. A. Korepanov, O. Y.


Severyukhina, and S. A. Gruzd, “Short communications: Trends on technological
concepts,” Appl. Nanotechnol. Mater. Appl., no. 1, pp. 109–113, 2016, doi:
10.1201/9781315366333.
47
[24] K. H. Lee, H. Y. Kim, Y. M. La, D. R. Lee, and N. H. Sung, “Influence of a mixing
solvent with tetrahydrofuran and N,N-dimethylformamide on electrospun
poly(vinyl chloride) nonwoven mats,” J. Polym. Sci. Part B Polym. Phys., vol. 40,
no. 19, pp. 2259–2268, 2002, doi: 10.1002/polb.10293.

[25] S. Megelski, J. S. Stephens, D. Bruce Chase, and J. F. Rabolt, “Micro- and


nanostructured surface morphology on electrospun polymer fibers,”
Macromolecules, vol. 35, no. 22, pp. 8456–8466, 2002, doi: 10.1021/ma020444a.

[26] X. Zong, K. Kim, D. Fang, S. Ran, B. S. Hsiao, and B. Chu, “Structure and process
relationship of electrospun bioabsorbable nanofiber membranes,” Polymer, vol. 43,
no. 16. pp. 4403–4412, 2002. doi: 10.1016/S0032-3861(02)00275-6.

[27] J. S. Kim and D. S. Lee, “Thermal properties of electrospun polyesters,” Polymer


Journal, vol. 32, no. 7. pp. 616–618, 2000. doi: 10.1295/polymj.32.616.

[28] W. Zhang et al., “Preparation and study of PPV/PVA nanofibers via


electrospinning PPV precursor alcohol solution,” European Polymer Journal, vol.
43, no. 3. pp. 802–807, 2007. doi: 10.1016/j.eurpolymj.2006.11.015.

[29] M. Bogntizki et al., “Preparation of Fibers with nanoscaled morphologies - ES of


Polymer Blends (PLA).pdf,” Polymer Engineering and Science, vol. 41, no. 6. pp.
982–989, 2001.

[30] C. J. Buchko, L. C. Chen, Y. Shen, and D. C. Martin, “Processing and


microstructural characterization of porous biocompatible protein polymer thin
films,” Polymer, vol. 40, no. 26. pp. 7397–7407, 1999. doi: 10.1016/S0032-
3861(98)00866-0.

48

You might also like