Professional Documents
Culture Documents
A12-35-Phương Qu NH
A12-35-Phương Qu NH
ĐỀ BÀI: PHÂN TÍCH TÍNH THƠ MỘNG, TRỮ TÌNH CỦA SÔNG ĐÀ
TRONG TUỲ BÚT “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” CỦA NGUYỄN TUÂN
BÀI LÀM
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại . Mỗi tác phẩm của
ông là một bài ca về cái đẹp và cuộc sống . Và tùy bút “ Người lái đò sông Đà ” là một tùy bút
như vậy . Nổi bật lên trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách tiêu biểu ,
đó là hung bạo và trữ tình , thơ mộng . Với sự hiểu biết sâu , gắn bó máu thịt và niềm đam mê
cháy bỏng bừng vào trang văn , Nguyễn Tuân đã biến dòng sông của tự nhiên thành dòng sông
nghệ thuật , thành một sinh thể có tâm hồn tính cách , trước hết là những đẹp thơ mộng , trữ tình
được tái hiện qua ngòi bút của Nguyễn Tuân làm say mê bao trái tim bạn đọc .
Trước hết, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà được thể hiện qua dáng vẻ của dòng
sông. Dòng sông không chỉ nổi bật với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của những "dòng thác hùm beo
đang hồng hộc tế mạnh trên sông" mà còn để lại ấn tượng sâu sắc qua những nét vẽ thơ mộng,
trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng sông mang vẻ đẹp dịu dàng như một người đàn bà kiều
diễm: "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân". Một câu văn với nghệ thuật kết cấu trùng điệp và cách so sánh liên tưởng gần gũi, sông
Đà đã hiện lên như một cô thiếu nữ của mảnh đất Tây Bắc đẹp e lệ, dịu dàng. Cô gái ấy có mái
tóc tuôn dài, mềm mại. Mái tóc ấy lại được ẩn hiện trong mây trời của Tây Bắc, của khói sương
mờ ảo khi người dân đốt nương làm rẫy vào mùa xuân với những chùm hoa ban với sắc trắng,
sắc tím và màu đỏ tươi của hoa gạo tháng ba – phảng phất vị Đường thi. Nếu nhìn và cảm nhận,
con sông hiện lên hiền hòa và dịu dàng như một cô gái đang e lệ với mái tóc dài buông xõa, trên
mái tóc đen óng ả ấy cài điểm những bông hoa ban, hoa gạo sặc sỡ sắc màu, và cô thẹn thùng
che mặt bằng một tấm khăn voan mỏng manh màu trắng khi bước những bước chân ngập ngừng,
e ấp về nhà chồng. Còn gì đẹp, thơ mộng và trữ tình hơn khi ví dòng sông Đà với hình ảnh một
cô thiếu nữ đang thẹn thùng cất bước chân về nhà chồng. Ngòi bút của Nguyễn không chỉ thể
hiện sự tài hoa mà còn là sự tinh tế thông qua sự liên tưởng độc đáo và cách so sánh trùng điệp,
một cách so sánh tài hoa, đượm chất phong tình.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Ở
mỗi thời điểm khác nhau người ta lại thấy Sông Đà trong một dáng vẻ, màu sắc khác nhau. Mùa
xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm,
sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong
lành. Thật tài hoa và thật trữ tĩnh bởi đó gợi lên sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu,
nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ
ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da
mặt người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có ở một mình Nguyễn Tuân. Ông đã sử dụng phép so
sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng tưởng tượng
ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dòng sông.
Đắm đuối trước vẻ trữ tình thơ mộng của Đà giang trong phong thái của một khách lãng du,
mê đắm, thưởng ngoạn, Nguyễn Tuân đã khám phá ra bao vẻ nên thơ, nên họa của dòng sông.
Xuôi về hạ lưu, dòng sông lững lờ, êm trôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên
phía thượng nguồn Tây Bắc. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ, cổ kính, hoang sơ. Tưởng như từ đời
Lí, Trần, Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Con sông Đà dường như chỉ biết tồn
tại trong không gian mà không hề biết đến thời gian. Thời gian mải miết trôi, sông Đà vẫn mãi vẻ
đẹp nguyên sơ, hoang dại bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiêu như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Hai bên
bờ sông tịnh không một bóng người. Chỉ có những nương ngô mới nhú lên những là ngô non đầu
mùa, những đồi cỏ gianh đang ra n n búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm. Thỉnh thoảng, con hươu thơ thẩn ngẩng đầu khỏi ánh cỏ sương chăm chăm nhìn ông khách
sông Đà mà như muốn hỏi rằng: Có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương”. Vạn vật
như đang chìm vào c i mộng mơ. Dưới lòng sông, những đàn cá đầm xanh thi thoảng quẫy vọt
lên bụng trắng như bạc rơi thoi. Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như vần thơ mềm
mại, du dương, như nét vẽ thanh nhẹ, hư ảo. Dưới ngòi bút dạt dào, chất thơ, chất họa, vẻ đẹp
của dòng nước sông Đà hiện lên như một bức tranh kì thú như những thước phim huyền ảo.
Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào thế giới thần tiên cổ tích, thơ mộng, cảnh vừa hoang sơ, cổ
kính, vừa thơ mộng, trữ tình, vừa lặng tờ, êm ả, vừa ẩn chứa sức sống tươi non.
Với đôi mắt chan chứa, yêu thương trìu mến tự hào, Nguyễn Tuân đã phác họa thiên nhiên
sông Đà đẹp lộng lẫy hư ảo khiến nhà văn ví dòng sông lúc thì như một cố nhân, lúc lại đắm say
như một tình nhân trong thơ Tản Đà ở gần thì thương, đi xa thì nhớ, gặp lại thì vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng, như “gặp lại nắng giòn tan sau kì mưa dầm” có cảm giác đằm đằm, âm ấm
rất hạnh phúc. Tài hoa của Nguyễn Tuân đã truyền đến cho người đọc bao yêu thương trìu mến
để sông Đà mãi sống trong lòng người đọc.
Thành công xuất sắc của tùy bút “Người lái đò sông Đà” đó là bức tranh thiên nhiên rất thực
hòa quyện với cảm hứng mãnh liệt và niềm đam mê của Nguyễn Tuân. Những đặc sắc nghệ
thuật với rất nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú ngùn ngụt chất liệu sức sống
khiến dòng sông Đà của thiên nhiên vĩnh viễn trở thành dòng sông nghệ thuật.